Bài giảng môn Tổng quan du lịch

pdf 49 trang vanle 2290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Tổng quan du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_tong_quan_du_lich.pdf

Nội dung text: Bài giảng môn Tổng quan du lịch

  1. BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ DU LỊCH VŨNG TÀU BÀI GIẢNG MÔN: TỔNG QUAN DU LỊCH Người soạn: Phạm Trọng Lê Nghĩa Mail: phamtronglenghia@gmail.com Năm học 2009 - 2010 Phạm Trọng Lê Nghĩa 1
  2. Khi du lịch trở về, có lẽ người ta đã lớn lên Nhưng có một điều chắc chắn là trái đất phải nhỏ lại P.Morand PHẦN I: ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC I. GIỚI THIỆU MÔN HỌC Tổng Quan Du lịch là môn học lý thuyết dành cho sinh viên chuyên ngành Du lịch tại các trường Đại học, các trường cao đẳng, các trường cao đẳng nghề, các trường THNV. Môn học mang tính khái quát, cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về cấu trúc và sự vận hành của hệ thống ngành du lịch. Việc biên soạn bài giảng này này nhằm mục đích trang bị những kiến thức khái quát, cơ bản cho người học. Bằng lý thuyết và những tình huống thảo luận (case studies), học sinh được yêu cầu hiểu được toàn bộ cấu trúc của ngành du lịch, là cơ sở để sinh viên, học sinh tìm hiểu sâu hơn các lĩnh vực khác của ngành du lịch: Kinh doanh lữ hành, kinh doanh nhà hàng - khách sạn, quản lý, điều hành chương trình du lịch hướng dẫn du lịch. Nội dung của bài giảng bao gồm những vấn đề khái quát như: Các khái niệm niệm cơ bản về du lịch, lịch sử hình thành, phát triển của du lịch thế giới, du lịch Việt nam, điều kiện phát triển du lịch, loại hình và các lĩnh vực kinh doanh du lịch, sản phẩm du lịch. Đồng thời với những nội dung trên, bài giảng còn đề cập tới những vấn đề khác của hoạt động du lịch như lao động du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Những nội dung mà bài giảng đề cập tới chỉ mang tính khái quát, đại cương, làm chìa khoá để người học, người đọc đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu các môn chuyên nghành: Nghiệp vụ Nhà hàng, quản trị Nhà hàng, Nghiệp vụ Lễ tân Khách sạn, Nghiệp vụ Hướng dẫn - Lữ hành Để khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” cho cả thầy lẫn trò, tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ cũng như quan điểm của mình trải qua những năm tháng trực tiếp tham gia giảng dạy. Khối lượng kiến thức, phương pháp giảng dạy môn Tổng quan Du lịch không phải mang tính gò bó, áp đặt, Phạm Trọng Lê Nghĩa 2
  3. giáo điều mà là cách ứng xử “linh hoạt, thông minh” giữa thầy và trò để hòa nhập trong thế giới phương pháp học hiện đại hôm nay. Qua bài giảng này, tôi muốn trao đổi một cách hiểu, một hướng đi và trình bày để tham khảo, có thể áp dụng chứ tuyệt nhiên không xem đây là kiểu mẫu để áp đặt. Mong có sự trao đổi thêm của đồng nghiệp để sự nông cạn riêng của cá nhân đóng góp tiếng nói vào sự sâu rộng chung. Rất mong sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp. Trân trọng! II. MỤC TIÊU MÔN HỌC 1. Kiến thức: Sau khi học xong, học sinh có thể: - Mô tả được các khái niệm liên quan đến hoạt động du lịch; - Nhận thức được vai trò của ngành DL đối với nền KTQD; - Nhận biết được các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch; - Phân biệt khái niệm, đặc điểm lao động du lịch; CSVCKT DL; - Nhận biết và phân biệt được các loại hình DL; - Phân biệt khái niệm sản phẩm, sản phẩm dịch vụ DL; 2. Kỹ năng: Sau khi học xong, HS – SV có thể: - Kỹ năng thuyết trình; - Thu thập tài liệu phục vụ cho việc học môn Tổng quan Du lịch. 3. Thái độ: - Đối với giảng viên: Tinh thần nghiên cứu, cập nhật kiến thức, trau dồi kỹ năng thuyết trình, đảm bảo lượng nội dung, kiến thức “truyền tải” đến HS. - Đối với HS: Tập trung nghe giảng, có tinh thần xây dựng bài; có ý cập nhật kiến thức lên quan tới môn học qua các phương tiện thông tin truyền thông. Phạm Trọng Lê Nghĩa 3
  4. III. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC Thời gian (giờ) Số Tên bài học Tổng LT TH KT TT số 1 Bài 1: Khái quát về hoạt động du lịch 7 7 1.1 Các khái niệm cơ bản về Du lịch 2 2 1.2 Lịch sử hình thành phát triển du lịch thế giới 2 2 và Việt Nam 1.3 Vai trò của du lịch đối với nền kinh tế xã hội 2 2 2 Bài 2: Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển Du 8 8 lịch 2.1 Điều kiện chung 2 2 2.1.1 An ninh chính trị - an toàn xã hội 2.1.2 Kinh tế 2.1.3 Văn hóa 2.1.2 Đường lối, chính sách phát triển du lịch 2.2 Điều kiện riêng 6 6 2.2.1 Tài nguyên du lịch 2.2.2 Nhân lực du lịch 2.3.3 Cơ sở hạ tầng – CSVCKT Du lịch 2.5.2 Các sự kiện đặc biệt 3 KIỂM TRA GIỮA MÔN HỌC 1 4 Bài 3: Các loại hình Du lịch 5 5 3.1 Căn cứ theo môi trường tài nguyên 0.5 3.1.1 Du lịch văn hóa 3.1.2 Du lịch sinh thái 3.2 Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ 0.5 3.2.1 Du lịch nội địa 3.2.2 Du lịch quốc tế 3.3 Căn cứ theo vị trí địa l ý 0.5 3.3.1 Du lịch nông thôn 3.3.2 Du lịch thành thị 3.3.3 Du lịch biển Phạm Trọng Lê Nghĩa 4
  5. 3.3.4 Du lịch miền núi 3.4 Căn cứ theo hình thức tổ chức 0.5 3.4.1 Du lịch cá nhân 3.4.2 Du lịch theo đoàn 3.5 Căn cứ theo phương thức hợp đồng 0.5 3.5.1 Du lịch trọn gói 3.5.2 Du lịch từng phần 3.6 Căn cứ theo phương tiện vận chuyển 0.5 3.6.1 Du lịch đường bộ 3.3.2 Du lịch đường thủy 3.3.3 Du lịch đường không 3.7 Căn cứ theo mục đích chuyến đi 2 3.7.1 Theo mục đích chung 3.7.2 Theo mục đích riêng 3.7.2 Theo trách nhiệm 5 Bài 4: Các lĩnh vực kinh doanh & sản phẩm dịch 7 7 vụ của ngành du lịch 4.1 Các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch 3 3 4.1.1 Kinh doanh lữ hành 4.1.2 Kinh doanh lưu trú 4.1.3 Kinh doanh ăn uống 4.1.4 Kinh doanh vận chuyển 4.1.5 Kinh doanh dịch vụ bổ sung 4.2 Sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch 4 4 4.2.1 Khái niệm 4.2.2 Phân loại 4.2.3 Đặc điểm KIỂM TRA KẾT THÚC MÔN HỌC 2 2 30 27 3 Vũng Tàu, ngày / /2009 Vũng Tàu, ngày / /2009 TRƯỞNG KHOA Giáo viên Phạm Trọng Lê Nghĩa Phạm Trọng Lê Nghĩa 5
  6. PHẦN I: NỘI DUNG BÀI GIẢNG MÔN HỌC TỔNG QUAN DU LỊCH o0o Bài 1: Khái quát về hoạt động du lịch Sau khi kết thúc chương này, học sinh có thể: - Định nghĩa được các khái niệm cơ bản về du lịch. - Nhận biết được lịch sử hình thánh, phát triển du lịch thế giới, Việt Nam. - Nhận thức được vai trò của phát triển du lịch đối với nền kinh tế xã hội. 1.1 Các khái niệm cơ bản về du lịch 1.1.1 Du lịch Du 1ịch được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa. Ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông phát triển, nền kinh tế phát triển đời sống con người được nâng lên thì nhu cầu phát triển du lịch càng lớn. Tùy theo điều kiện kinh tế mỗi nước, con người đang nghĩ đến việc dành một phần thu nhập của mình hàng năm cho du lịch; trong số những nhu cầu của con người, nhu cầu về Du lịch chưa bao giờ được thỏa mãn, càng đi du lịch cuộc sông của con người càng được nâng cao. Du lịch càng phát triển thì khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch cơ cấu chi tiêu của con người đang tạo nên thị trường du lịch rộng lớn. không còn ở phạm vi một ngành kinh tế hay ở̉ một nước. Ngày nay những máy bay siêu âm loại lớn với đầy đủ tiện nghi, những tàu thủy có đủ điều kiện cho con người sống gần với biển cả, những đoàn xe lửa liên quốc gia, những xe ca chở khách kiểu mới đã tạo cho con người sự thoải mái trong việc di chuyển trên các tuyến đường du lịch. Bên cạnh có những Trung tâm Du lịch được hình thành với những hệ thống khách sạc tế đầy đủ tiện nghi, những cửa hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những cửa hàng lưu niệm với chất lượng cao, những sản phẩm mang tính đặc sản của một vùng, một địa phương theo thị hiếu quốc tế. Tuy vậy người đi du lịch không chỉ thỏa mãn những nhu cầu về vật chất mà còn Phạm Trọng Lê Nghĩa 6
  7. quan tâm đến cả nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Do đó, ở nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cải tạo các danh lam thắng cảnh, trùng tu và nâng cao tính thẩm mỹ của nhưng công trình văn hóa: xây dựng các di tích lịch sử để đáp ứng các yêucầu của khách du lịch. Rõ ràng du tịch đã trở thành một ngành kinh doanh tổng hợp. Hoạt động kinh doanh du lịch phát triền kéo theo những hoạt động sản xuất kinh doanh khác phát triển theo, hàng hóa sản xuất ra không chỉ để phục vụ cho các dịch vụ du lịch mà còn bán cho khách với Trung tâm du lịch đã trở thành những Trung tâm ngoại thương, xuất khẩu tại chỗ. Hoạt động kinh doanh Du lịch đã góp phần vào mở mang các ngành nghề sản xuất, giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động, chỉ tính riêng lưu lượng lao động trong ngành Du lịch nhiều nơi đã chiếm 50% dân số, nếu tính cả lao động dịch vụ thương mại ở̉ các Trung tâm du lịch thì tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều. Một yêu cầu khách quan khác là hoạt động Du lịch đã làm cho đời sống văn hóa của nhân dân ở các khu du lịch được nâng cao. Khách du lịch và cả người địa phương đều mang trong lòng ý niệm hành hương, một cảm xúc tốt đẹp. Tóm lại, nếu nói Du lịch là sự di chuyển của một cá nhân hay một tập thể từ vùng này đến vùng khác, từ nước này đến nước khác để thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần nhằm tạo cho cuộc sống tươi đẹp thêm thì phục vụ du lịch lại là một guồng máy sản xuất và cung ứng các dịch vụ từ công tác tuyên truyền quảng cáo, vận chuyển, hướng dẫn đến việc phục vụ ăn, ngủ, vui chơi giải trí, hoạt động xã hội đòi hỏi được tiến hành một cách đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và yêu cầu ngày một được cải tiến. nâng cao phù hợp với thị hiếu của khách du lịch. Đối với những người đi du lịch, điều mà họ quan tâm đầu tiên là cảm tưởng mới mà họ nhận được ở nơi họ đến du lịch, có thể nói ngành Du lịch là ngành xuất khẩu các cảm tưởng. Do vậy các dịch vụ du lịch phải làm sao tạo được cảm tưởng mới cho khách, gợi cho họ những cảm tưởng đẹp. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc có những cái đẹp đặc trưng khác nhau, ở nước này dân tộc này muốn tìm hiểu cái đẹp ở nước khác, dân tộc khác. Vì vậy trong các dịch vụ du lịch phải mang sắc thái của dân tộc, trong đó tính dân tộc độc đáo tiêu biểu phải được chọn lọc, nâng cao tạo được cảm xúc tốt đẹp cho khách. Đây là một yêu cầu lớn của những người làm công tác du lịch. Chính vì vậy mà Du lịch có thể xem như một dạng nghỉ ngơi tích cực của con người, đồng thời nó là một Phạm Trọng Lê Nghĩa 7
  8. thành phần không thể thiếu được trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người trong thời đại hiện nay. Du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường hiểu là một cuộc hành trình bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ nhũtng năm 30 của thế kỷ này có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt khác nhau của hiện tượng Du lịch để đưa ra 1 định nghĩa chính xác. Nhưng nhìn chung việc định nghĩa Du lịch gặp rất nhiều khó khăn vì : 1) Du lịch có 2 nghĩa. Một mặt khi nói đến Du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi ở thường xuyên của họ) để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các nhu câu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ Mặt khác Du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người, thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn uống, phục vụ hướng dẫn tham quan Tất cả những hoạt động nêu trên tạo nên ngành kinh doanh Du lịch. 2) Năm 1963 Hội nghị do Liên hiệp quốc tổ chức tại Rome (Ý) để thảo luận về Du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau (Khách du lịch là người công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên). Nhưng cũng quy định không công nhận những người ở nước ngoài quá 1 năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng lao động, hoặc tìm nơi cư trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống ở nước này sang làm việc ở nước khác. Phạm trù “khách Du lịch" phải xuất phát từ những đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng nước. Điều này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cơ sở lý luận cũng như vận dụng vào thực té sản xuất kinh doanh của Ngành. Ngày nay lên cạnh việc đi du lịch ở nước ngòai, con người cũng đặt ra một nhu cầu du lịch trong nước không kém phần phong phú và đa dạng. Như vậy khái niệm chung về Du lịch cần được nghiên cứu xuất phát từ đối tượng hoạt động của du lịch, đó là người du khách. Theo luật Du lịch Việt Nam: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Phạm Trọng Lê Nghĩa 8
  9. 1.1.2 Khách du lịch Đây là khái niệm có nhiều quan niệm đưa ra. Khách du lịch là đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn du lịch của hướng dẫn viên, là đối tượng của các đơn vi phục vụ và kinh doanh du lich. Nói đến du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người đến nơi khác nhằm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu về nghỉ dưỡng, chữa bệnh, văn hoá, nghệ thuật, thể thao.v.v Đối với hoạt động du lịch, con người với vai trò là một du khách có nhu cầu du lịch, rời khỏi nơi cư trú để thực hiện tour du lich. Điều này có nghĩa để trở thành một khách du lịch, con người phải hội tụ các điều kiện sau: - Có thời gian rỗi - Có khả năng thanh toán - Có nhu cầu cần đươc thoã mãn. Nhà kinh tế học người Ao, Lozep Stander định nghĩa: Khách du lịch là hành khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế. Kripendort đưa ra cách nhìn nhận chủ quan phiến diện của mình về du khách như sau: là nhũng kẻ nực cười, ngốc nghếch ít học, những nhà giàu có, quen thói bóc lột và vô cảm với môi trường. Năm 1963, Hội nghị do liên hiệp quốc tổ chức tại Rôma (Ý) để thảo luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau: Khách du lịch là công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên, nhưng cũng không công nhận những người nước ngoài ở quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng, hoặc tìm nơi lưu trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống nước này sang làm việc nước khác. Theo luật Du lịch Việt Nam: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Phạm Trọng Lê Nghĩa 9
  10. 7 lời khuyên cho người sắp đi du lịch Không ít người đã phải đi nghỉ để lấy lại sức khoẻ sau một chuyến du lịch! Nguyên nhân là họ đã không có sự chuẩn bị tốt về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất là đã không lường trước được những điều nên tránh trong một chuyến đi xa. Sau đây là một số kinh nghiệm mà các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch thế giới đưa ra cho những người đang khăn gói chuẩn bị lên đường trong những dịp nghỉ lễ, quốc khánh dài ngày. Các kinh nghiệm này được chuyên gia du lịch Joel Widzer tổng kết trong cuốn cẩm nang "Tấm hộ chiếu rẻ tiền cho những nơi đắt tiền" mới xuất bản. 1. Tránh những điểm nóng Cứ mỗi mùa du lịch hay trước mỗi dịp lễ dài ngày, các công ty du lịch không tiếc tiền quảng cáo về những "điểm đến nóng nhất", những "nơi không thể không tới dù chỉ một lần" hay đại loại như vậy. Theo các chuyên gia, đây chính là những điểm nên tránh. Tránh tới đó không chỉ vì tránh được đám đông chen lấn mà du khách sẽ tránh được những mức giá cao ngất, dù là đi trọn gói hay đi tự túc. Nếu không phải trả nặng tiền cho nhà tổ chức thì bạn cũng không thể mua rẻ từ những người buôn bán biết cách trục lợi từ những chỗ đông người, cung ít hơn cầu. Giải pháp tốt nhất là chọn những nơi đưa ra các đề nghị giảm giá, các chính sách khuyến mãi bằng những sản phẩm giá trị gia tăng. Đặc biệt nên đến những địa danh lịch sử hoặc văn hoá, những nơi giá cả ít khi biến động theo mùa và ít hoạt động phiền nhiễu du khách hơn các nơi ồn ào khác. 2. Không so sánh tị nạnh Có những người không bao giờ cảm thấy thoải mái trong các kỳ nghỉ. Từ khi xuất phát cho tới khi quay về, họ không ngớt để mắt nhìn xung quanh và tự tị nạnh với người khác. Du khách bên cạnh ngồi ghế máy bay hạng sang hơn, thuê phòng tiện nghi hơn, ăn uống nhiều sơn hào hải vị hơn hay thậm chí mặc cả giỏi hơn nên vớ được món hời hơn Tất cả những thứ tưởng chừng lặt vặt như vậy đã không buông tha đầu óc bạn bất cứ giây phút nào và ngấm ngầm phá hỏng hương vị thư thái của chuyến đi. Do đó, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cần thoải mái với những gì mình có và chỉ tập trung vào những gì mình có thể hưởng thụ thay vì so sánh với bất cứ ai. Trong vô vàn những thứ có thể hưởng thụ trong các chuyến đi, chỉ nên tập trung vào những gì bạn thấy quan trọng, vào những cái không thể thiếu. Chẳng hạn, bạn có thể đi vé bình dân nhưng lại thuê phòng ngủ đắt tiền nếu thấy như vậy là hợp lý. 3. Tránh nổi nóng Nhiều người không kìm được các cơn nóng giận trong mỗi chuyến đi dài, khi những thứ không mong đợi vẫn thường xuyên xảy ra. Nổi giận với hướng dẫn viên du lịch vì tội nói nhiều, cáu gắt vì xe chạy không kịp giờ hay cãi cọ với nhà hàng về cách phục vụ tồi chẳng làm lợi điều gì cho bạn ngoài những rắc rối. Không ít người phải vào đồn cảnh sát, thậm chí hầu toà vì những xung đột không đáng có do nổi nóng nơi xa lạ. Phạm Trọng Lê Nghĩa 10
  11. Nếu gặp phải tình huống không mong đợi, tốt nhất là quên nó ngay sau khi phải trả giá. Nếu ai đó không làm bạn vừa lòng, hãy chuyển sang người khác, sử dụng dịch vụ khác, thậm chí đi tới địa điểm khác ngay lập tức thay vì cố nán lại vì tiếc một chút tiền của hay thời gian. Đây được gọi là chiến thuật "con ong" - chỉ dừng lại nếu nếm thấy mật ngọt và bỏ đi ngay nếu dây vào lọ dấm! 4. Đừng quá lợi dụng các hãng du lịch Thông thường, du khách thường mặc cả quyết liệt với các hãng du lịch trước khi đăng ký đi. Du khách lo sẽ bị lừa, bị hớ một khi ký vào hợp đồng nên đã đặt ra vô số các điều kiện, nhiều khi khó thể chấp nhận. Thế nhưng, để giữ được khách, không ít hãng du lịch đã gật bừa, đồng ý vô tội vạ. Thế là, một khi du khách đã đồng ý khởi hành, các hãng du lịch, dù muốn dù không, phải ra sức tiết kiệm hoặc tìm cách vòi vĩnh, thu thêm để đủ bù vào các thoả thuận mặc cả nhún nhường trước đó. Đó là nguyên nhân của những hành động khó chịu như dồn đống khách vào một chỗ, đi lại bằng phương tiện tồi tàn và kém an toàn, đi tắt hoặc bỏ qua nhiều điểm quan trọng trong tuyến đi Do vậy, hãy đến với các hãng du lịch với tư cách là đối tác làm ăn theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Đó chỉ là nguyên tắc cơ bản của làm ăn kinh tế, của mỗi vụ ký kết hợp đồng và bạn cũng không nên quên, thoả thuận du lịch cũng đơn thuần là một hợp đồng kinh tế và nó yêu cầu được đối xử như mọi hợp đồng khác. 5. Tránh buồn rầu, thất vọng Khi mọi thứ không diễn ra đúng ý muốn (nhiều khi là kỳ vọng khó đạt), đừng nên ngậm đắng nuốt cay hay than thân trách phận. Thay vào đó, hãy nghĩ cách giải quyết như đang làm việc thường ngày. Nhiều người luôn cho rằng mình đi nghỉ, đầu óc cũng phải được nghỉ ngơi tối đa, do đó rất lười suy nghĩ và không chịu tìm giải pháp cho mỗi tình huống khó khăn trong chuyến đi. Tốt nhất, để tránh thất vọng trước mỗi chuyến du lịch, bạn nên tự tìm hiểu và nếu được, hãy kiểm tra trước những điểm bạn sẽ tới thay vì giao phó hoàn toàn việc đó cho hãng du lịch. Có quá nhiều kênh để bạn làm điều đó một cách nhanh chóng, từ điện thoại, internet, bạn bè, người quen ở địa phương mình sắp tới Một lần nữa cần nhắc lại, hãy coi hãng du lịch là đối tác làm ăn vì lợi ích chung là một chuyến đi an toàn và bổ ích. Như vậy, cả hai cùng bắt tay chuẩn bị thật tốt cho chuyến đi thay vì phó mặc cho một bên, dù bạn được phép làm như vậy. 6. Tuyệt đối không làm gì thái quá Trong chuyến du lịch, không nên làm cái gì đó một cách thái quá, dù là điều hay, điều thú vị đến mấy. Hãy xác định một khoảng thời gian nghỉ ngơi nhất định, một khoản tiền có hạn và những hoạt động vừa phải trong mỗi chuyến đi thay vì cứ làm điều gì đó cho đến chán mới thôi. Nhiều du khách đã phát ốm chỉ vì những chuyện không đáng: bị cảm vì quá mê mẩn một bãi tắm trong xanh, đau bụng vì ăn quá nhiều một món ăn lạ miệng, và thường xuyên hơn, bị những thành viên khác trong đoàn phiền lòng vì làm mất thời gian chung vào những khu vực thuộc sở thích đặc biệt của riêng mình. Phạm Trọng Lê Nghĩa 11
  12. Thông thường, sự thái quá trong các chuyến đi sẽ khiến bạn phải nỗ lực rất nhiều, hao tiền tốn công rất nhiều sau đó để chuộc lại lỗi lầm chỉ để đưa cuộc sống quay về mức bình thường. 7. Không đi nếu chưa sẵn sàng Không nên đi du lịch chỉ vì nghe một người bạn kể về những điều thú vị của họ trong chuyến đi mới đây. Những điều đó có thể không thuộc sở thích hay điều kiện của bạn. Không đi chỉ vì đó là một kỳ nghỉ và bạn chưa có gì để làm. Thà không được hưởng niềm vui mới còn hơn gánh chịu nỗi thất vọng vì lý do cũ kỹ là chưa sẵn sàng. Cũng như trước mọi công việc khác, hãy thực hiện một chuyến đi theo phong cách thật chuyên nghiệp. Tức là bạn phải chuẩn bị sẵn sàng tất cả các bước: lập kế hoạch khả thi - xin tư vấn - huy động các nguồn lực trong đó có tài chính - kêu gọi đối tác nếu cần - thực hiện theo các bước Có như vậy, bạn mới có thể hưởng một kỳ nghỉ mãn nguyện. Rõ ràng, để có một kỳ nghỉ thú vị cũng không hề là chuyện đơn giản. Theo Nhật Vy (Tổng hợp) – VietNamNet Phạm Trọng Lê Nghĩa 12
  13. 1.1.3 Tài nguyên du lịch Theo luật Du lịch Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử, văn hoá, công trình lao động sáng tạo của ocn người và các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch 1.1.4 Điểm và khu du lịch Đối với quốc gia, vùng, miền và các nhà làm du lịch thì điểm và khu du lịch được xem là nguồn lực, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần cạnh tranh, khai thác nguồn khách và đem lại nguồn thu cho mình. Tuy nhiên giữa điểm du lịch và khu du lịch có những điểm khác biệt cần phải nhận thức giúp các nhà quản l ý và các doanh nghiệp du lịch có chiến lược xây dựng, khai thác, phát triển, marketing phù hợp. Vì vậy chúng ta có thể phân biệt điểm du lịch và khu du lịch dựa trên các cơ sở sau:  Giống nhau: - Gắn liền với nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn - Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch - Tạo điều kiện công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương - Đem lại nguồn thu và quảng bá cho cho đất nước và cộng đồng địa phương.  Khác nhau: TT Cơ sở phân biệt Điểm du lịch Khu du lịch Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp 1 Khái niệm dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lịch. (Điều 4 – Luật Du lịch) lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường. (Điều 4 – Luật Du lịch) 2 Phân loạt Có 2 loại: Có 2 loại: - Điểm du lịch quốc gia - Khu du lịch quốc gia - Điểm du lịch địa phương - Khu du lịch địa phương 3 Sự đáp ứng nhu Đáp ứng nhu cầu tham quan của khách du lịch cầu của khách Đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch là chủ yếu du lịch 4 Quy mô và sức - Đối với điểm du lịch quốc gia: Bảo đảm - Đối với khu du lịch quốc gia: Có diện tích Phạm Trọng Lê Nghĩa 13
  14. chứa du khách phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách tối thiểu một nghìn héc ta; bảo đảm phục vụ ít tối thiểu tham quan một năm. nhất một triệu lượt khách du lịch một năm. - Đối với điểm du lịch địa phương: Bảo đảm - Đối với khu du lịch địa phương: Có diện tích phục vụ ít nhất mười nghìn lượt khách tham tối thiểu hai trăm héc ta; bảo đảm phục vụ ít quan một năm. nhất một trăm nghìn lượt khách du lịch một (Điều 24 – Luật Du lịch) năm. (Điều 23 – Luật Du lịch) Kinh doanh tại điểm và khu du lịch bao gồm nhiều nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này xuất phát từ nhu cầu và đỏi hỏi chính đáng từ khách du lịch. Các sản phẩm, dịch vụ tại điểm và khu du lịch càng phong phú, độc đáo, chất lượng, giá cả hợp l ý thì càng chiếm được cảm tình, tiêu dùng và quay lại của du khách. Điều này đỏi hỏi những nhà quản l ý, người kinh doanh tại điểm, khu du lịch cần có chính sách về sản phẩm cũng như giá hợp l ý để “kích thích” khả năng tiêu dùng của khách du lịch. Nhìn chung các lĩnh vực kinh doanh tại điểm và khu du lịch gắn liền với việc đầu tư, bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp, phát triển và bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng bền vững. 1.1.5 Tuyến du lịch Đây là khái niệm liên quan đến kinh doanh du lịch lữ hành. Từ những điểm, khu du lịch có sẵn tại các vùng, địa phương, quốc gia khác nhau khách du lịch hoặc thông qua các công ty lữ hành vạch ra cho mình những tuyến du lịch nhăm thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, và hiểu biết của mình. Có thể chia tuyến du lịch thành: - Tuyến du lịch quốc tế - Tuyến du lịch nội địa - Tuyến du lịch ngắn ngày - Tuyến du lịch dài ngày - Tuyến du lịch văn hoá - Tuyến du lịch danh lam thắng cảnh Tuy có sự phân chia nhưng nhìn chung trong các tuyến du lịch đều có sự thống nhất và xen kẽ giữa các yếu tố. Ví dụ khi tham quan tuyến du lịch: Vũng Tàu – TP Hồ Chí Minh – Cần Thơ (3 ngày 2 đêm), là một tuyến du lịch ngắn ngày, du khách vừa tham quan vừa tham quan các di tích lịch sử văn hoá, vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa vui chơi giải trí Phạm Trọng Lê Nghĩa 14
  15. Theo Luật Du lịch Việt Nam: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không 1.1.6 Xúc tiến du lịch Theo Luật Du lịch Việt Nam: Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch. 1.1.7 Du lịch bền vững Theo Luật Du lịch Việt Nam:Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai. 1.2 Lịch sử hình thành, phát triển du lịch thế giới và Việt Nam 1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển du lịch thế giới Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật sản xuất, ngành du lịch được hình thành sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Lịch sử du lịch có nhiều bước thăng trầm, cả sự thành công lẫn thất bại. Nhìn chung, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp đề có ảnh hưởng tích cực đến du lịch. Chiến tranh, thiên tai, đói kém là những lí do cơ bản kìm hãm sự phát triển của du lịch. Những hiểu biết về lịch sử hình thành và phát triển du lịch trong quá khứ sẽ rất bổ ích cho người là du lịch hôm nay. Lịch sử sẽ cung cấp nhiều bài học quý báu cho các hoạt động và chính sách du lịch hiện tại. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu về lịch sử du lịch cho rằng sự hình thành và phát triển ngành du lịch từ khi xã hội loài người bước vào quá trình phân công lao động, khi nghề thủ công được tách khỏi sản xuất nông nghiệp, khi xã hội bắt đầu có sự phân công giai cấp. Khả năng tích lũy lương thực là một yếu tố rất quan trọng cho việc tạo ra nhu cầu du lịch theo nghĩa sơ đẳng nhất. Thời cổ đại: Trong giai đoạn này có những phát minh quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc đi lại. Đó là phát minh ra thuyền buồm của người Ai Cập vào khoảng thiên niên kỷ thứ tư trước công lịch. Cũng thời gian này súc vật được thuần hóa không những là nguồn thức ăn dự trữ mà còn được sử dụng để chuyên chở lương thực, vũ khí và chính con người. Phát minh ra bánh xe của người Sumeri vào khoảng 3500 t.CN là một sự kiện có ý nghĩa vô cúng to lớn đối với việc đi lại của loài người. Phạm Trọng Lê Nghĩa 15
  16. Vào khoảng 3000 năm trước công nguyên, Ai cập là một điểm thu hút khách du lịch trên thế giới. Họ đến để chiêm ngưỡng các kim tự tháp và các kỳ quan khác của đất nước văn minh, thịnh vượng này. Ngoài các nhà hoạt động chính trị, các thương gia, giới quý tộc thường xuyên phải đi lại trong nước và ra nước ngoài, còn hầu hết những người có nhu cầu đi lại là những người tín ngưỡng sùng bái tôn giáo. Trong những ngày lễ, hàng ngàn người đã hành hương đến các nhà thờ, tu viện để cầu nguyện và cúng bái. Cuộc hành trình của họ kéo dài từ ngày này sang ngày khác, có khi tới hàng tháng. Trong thời gian này, khi chưa có hoạt động kinh doanh ăn, nghỉ, thì những người này thường phải ăn nghỉ nhờ những người quen. Dần dần dọc theo những con đường dẫn đến các khu Thánh địa, các nhà trọ, quán ăn đã được xây dựng để phục vụ khách bộ hành ăn nghỉ và bắt đầu hình thành hoạt động kinh doanh trong du lịch tôn giáo. Từ thế kỷ IV trước công nguyên, Hy lạp đã phát triển cường thịnh, giai cấp chủ nô đã đi đến các vùng đất ở Địa Trung Hải để thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh và nhằm mục đích nghỉ dưỡng, chữa bệnh ở một số nguồn chất khoáng. Phương tiện đi lại chủ yếu là cưỡi la, đi xe bò, người giàu thì đi bằng xe ngựa, bằng kiệu. Du lịch công vụ cũng rất phát triển trong thời kỳ Hy lạp cổ đại, các chính khách, thương gia thường xuyên phải đi để thực thi các nhiệm vụ đặc biệt. Họ được cung cấp đầy đủ các dịch vụ về ăn uống, nghỉ ngơi, thậm chí có cả người dẫn đường, bào vệ. Năm 776 trước công nguyên, đại hội thể thao Olimpic đầu tiên tổ chức ở Hy lạp thu hút nhiều người tham dự. Xung quanh những khu vực thi đấu người ta xây dựng nhiều cơ sở để phục vụ ăn nghỉ, vui chơi cho các vận động viên và khán giả. Và loại hình du lịch thể thao đã xuất hiện ở bán đảo này. Các quan lại giàu có người châu Á lại thích đi du lịch bằng kiệu hoa trang trí lộng lẫy có cửa chớp hoặc rèn che bao quanh, giá nâng được đặt trên vai của các phu khiêng kiệu. Bên cạnh đó là hàng đàn lạc đà đưa các du khách đi theo dọc con đường tơ lụa của Trung Quốc, nối dài từ Bagdad tới AdenSamarkand và Timbukfu. Kinh coran đề nghị các chuyến đi nên bắt đầu vào thứ 6, sau buổi cầu kinh trưa nhưng phần lớn các đoàn lữ hành đều đi từ sáng sớm đến chiều tối để có thể đi được 25 dặm một ngày. Họ nghỉ trưa ở các trạm và ngủ đêm trong các căn lều tự dựng bên đường hay các trạm nghỉ. Trong số những chuyến đi biển đầu tiên, những chuyến đi của cư dân vùng Đông Nam Á đến các khu vực ở châu Đại Dương thật đáng ngạc nhiên. Phạm Trọng Lê Nghĩa 16
  17. Bằng thuền độc mộc nhỏ, dài chừng 3 – 4m, họ đã vượt hàng trăm km đến tận các đảo Marquessas, Toumotu, Society Thời Trung Cổ: Sự suy tàn của các quốc gia cổ đại trong đó có đế quốc La Mã từ thế kỷ thứ IV và từ khi đế quốc Tây La Mã diệt vong (476) đã làm cho hoạt động du lịch bị ảnh hưởng sâu sắc. Nhiều kiệt tác kiến trúc, nghệ thuật, xã hội, văn học bị vứt bỏ, hủy hoại. Phương tiện đi lại trên bộ duy nhất là xe ngựa và các xe ngựa kéo. Cho tới tận thế kỷ thứ X, du lịch không còn an toàn, tiện nghi và thoải mái như trước đó. Chiến tranh liên miên, biên giới biến động làm cho việc đi lại trở nên khó khăn. Đường xá trở thành các rảnh bẩn thỉu và đầy ngập bọn trộm cướp. Vì vậy những chuyến đi du lịch cũng ít ỏi và khá mạo hiểm. Thời kỳ này, đạo Thiên Chúa đã trở thành một lực lượng lớn mạnh ở châu Au. Nó hậu thuẫn mạnh mẽ cho các cuộc chiến tranh nên đã thay thế và trở thành tư tưởng thống soái. Du lịch tôn giáo là loại hình chủ yếu trong giai đoạn này. Những cuộc thập tự chinh tôn giáo, hành hương về thánh địa, nhà thờ diễn ra một cách rầm rộ. Các quán trọ hai bên đường mọc lên để phục vụ mọi người không phải vì mục đích kinh tế mà đa phần chỉ như dấu hiệu về sự đóng góp của con chiên cho sự sáng danh Đức Chúa Trời. Xuất hiện những người chuyên hướng dẫn cho khách đi lại, cách hành lễ Thời kỳ này dã xuất hiện những chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của loài người với những tìm tòi khám phá mới đã phá vỡ tầm hiểu biết hạn hẹp của các cộng đồng Trung cổ và khơi dậy tính hiếu động, tò mò của con người. Con người đã có những chuyến đi dài ngày nhằm mở rộng “cánh cửa nhận thức” để được khám phá những vùng đất mới, những nền văn minh nhân loại. Năm1275, một thanh niên tên là Marco Polo theo cha và chú sang Trung Quốc trong một chuyến buôn. Tại đây, Marco Polo được gặp Hốt Tất Liệt. Bị cuốn hút bởi uy thế của Hoàng đế và một thế giới bí ẩn, khác lạ ở phương Đông, ông đã ở lại đây 17 năm. Khi về nước ông đã viết cuốn: “Marco Polo phiêu lưu kí” kể về những gì mắt thấy tai nghe ở xứ Trung Hoa kì bí. Có thể coi đây là một trong những tài liệu hướng dẫn du lịch đầu tiên trên thế giới. Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI những hiểu biết về địa lý, thiên văn, hải dương và kỷ thuật đi biển đã giúp con người có những phát kiến địa lý lớn. Từ năm 1492 đến 1504, Chistofe Colombo đã tiến hành bốn cuộc hành trình thám hiểm sang một lục địa mới mà sau này gọi là Châu Mỹ. Những chuyến đi này Phạm Trọng Lê Nghĩa 17
  18. không phải vì mục đích du lịch, nhưng trên ý nghĩa nhất định, đã mở hướng cho hoạt động lữ hành quốc tế trên biển. Năm 1548, Vasco de Gama đã cùng thủy thủ đoàn đi dọc theo bờ biển Tây Phi xuống phía Nam. Khi gần đến mũi cực Nam châu Phi, đoàn thuyền của ông bị bão thổi dạt sang bờ đông của Nam Mỹ. Lúc đó ông không hề biết rằng đây là một lục địa mới. Ông cho thuyền quay về phía Đông hướng tới Hảo Vọng Giác. Vượt qua nhiều ngày lênh đênh trên biển đoàn thuyền của ông đã đến được An Độ, Thành công của ông đã mở ra một chân trời mói trong sự thông thương buôn bán Đông Tây bằng đường biển. Thời Cân Đại Cuộc cách mạng tư sản, bắt đầu bằng cuộc cách mạng ở Netherland (1564 – 1609), đến cách mạng tư sản Anh (1642 – 1660), cách mạng tư sản Mỹ (1776 – 1783), cách mạng tư sản Pháp (1776 – 1883) đã mở ra cho con người sự giao lưu mới với thiết chế tự do tư sản. Vào năm 1784, James Watt đã chế tạo ra động cơ hơi nước liên tục đầu tiên. Phát minh này châm ngòi nổ cho cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, mở ra chân trời mới cho ngành vận chuyển và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triể du lịch loài người. Năm 1885, một kỹ sư người Đức là Benz đã sáng chế ra chiếc ôtô đầu tiên. Do tính tiện ích của nó, ngay năm sau, công nghiệp ôtô đã ra đời đã góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du khách đi du lịch. Về phương tiện thông tin liên lạc, thời kì này con người đã phát minh ra các phương tiện truyền tin không gian nhu điện tín (1876), điện thoại (1884), radio (1895) Nhu cầu tích tụ tư bản thúc đẩy giai cấp tư sản cho xây dựng mạng lưới giao thông lớn cùng với các phương tiện vận chuyển ngày càng hiện đại và mở rộng các dịch vụ ở nhiều nơi trên thế giới. Những cơ sở hạ tầng đó về khách quan cũng tạo thuận lợi cho các tuyến lữ hành xuyên quốc gia. Nếu trước kia, người ta chú ý tới các kỳ quan thế giới như kim tự tháp (Ai Cập), vườn treo Babilon, đền thờ Nữ thần Artemis ở Ephese.v.v thì nay đã mở ra nhiều nơi khác với rừng, bờ biển đẹp và suối khoáng.v.v Du lịch quốc tế có xu hướng tăng trong thế kỷ XIII. Đó là chuyến du lịch của các sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp đã đến các nước để kiểm chứng thực tế trong 2-3 năm trở về áp dụng trong các Công ty, xí nghiệp của mình. Phạm Trọng Lê Nghĩa 18
  19. Cuộc hành trình du lịch tập thể đầu tiên ở Anh do Thomas Cook tổ chức năm 1841 cho 570 người đi bằng tàu hỏa từ Leicester đến dự hội nghị của những người chống nghiện rượu tại Laoughborough, cách 12 dặm đánh dấu một bước ngoặc mới trong ngành kinh doanh du lịch. Một năm sau ông thành lập Văn phòng du lịch đầu tiên ở Anh nhằm tổ chức cho người Anh đi du lịch trong nước và ra nước ngoài. Ông bắt đầu có những chuyến du hành trong phạm vi hẹp ở nước Anh phục vụ cho học sinh, phụ huynh, các cặp vợ chồng. tới những nơ mà họ chưa có dịp tới. Nắn bắt nhu cầu muốn đi nghỉ hè và tham quan du lịch ở pháp, năm 1854, hãng Thomas Cook và các con đã bắt đầu tổ chức các tuyến du lịch sang châu Au. Thành công của Thomas Cook đạt được là do khả năng thông hiểu nhu cầu về du lịch ở thời đại ông. Ông nắm bắt được những đòi hỏi, mong muốn và những yếu tố thúc đẩy du lịch để triển khai trong các tour của mình. Năm 1876, Thomas Cook cho ra mắt một loại hoá đơn đặc biệt gọi là “Phiếu thanh toán”, tiền thân của sec du lịch hiện nay. Nhờ có hoá đơn này du khách có thể thanh toán tại hàng trăm khách sạn trong danh mục của Cook. Công ty lữ hành Thomas Cook trong thời gian 1850 tới 1900 là điềm báo cho một thời đại du lịch thựch sự dành cho số đông dân chúng. Và Thomas Cook đã được nhân loại suy tôn là ông tổ của ngành lữ hành. Thời kỳ hiện đại: Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật trong ngành giao thông vận tải đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển du lịch. Số lượng người đi đông hơn, nhanh hơn, tiết kiệm được thời gian nên hành trình xa hơn, đến nhiều nơi hơn. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, du lịch quốc tế đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nhưng trong những năm chiến tranh, du lịch quốc tế hầu như tê liệt. Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới các khu du lịch nghỉ biển lại được phục hồi và phát triển nhanh chóng, đặc biệt là Pháp, Ytalia, Anh, HyLap, Đức Ở những nước này đã thành lập cơ quan Nhà nước về du lịch, một vài nước đã thành lập Bộ du lịch. Và năm 1925 thì “Liên minh Quốc tế của các tổ chức du lịch được hình thành lập”. Trong chiến tranh thế giới thứ II, các hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế hầu như bị đình tuệ. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch phần bị phá huỷ, phần thì biến thành cơ sở phục vụ chiến tranh. Phạm Trọng Lê Nghĩa 19
  20. Trong những năm đầu sau chiến tranh, du lịch quốc tế được phục hồi rất chậm, bởi vì lúc này các nước bị tàn phá trong chiến tranh đang bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục nền kinh tế đất nước. Trong ba thập kỷ (từ những năm 50 đến những năm 80) sau chiến tranh thế giới thế II, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, nó thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển thật sự . Sự tăng trưởng trung bình năm của du lịch quốc tế thập kỷ 1950 – 1960 khoảng 10,98%, 1960 –1970 là 8,3%, thập kỷ 1970 – 1980 là 6%, thập kỷ 1980 – 1990 khoảng 5%, trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng trưởng lại nâng lên 7,5 – 9%. Cùng với sự tăng trưởng về số lượng, sự thay đổi về cơ cấu của khách du lịch, cùng với sự gia tăng của tổng doanh thu trong ngành du lịch, đã ra đời và phát triển nhiều loại hình du lịch. Vận chuyển khách bằng đường bộ và đường không đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong ngành du lịch quốc tế. Các Công ty khách sạn, lữ hành, Công tuy môi giới lần lượt ra đời đã làm nảy sinh cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch quốc tế. Kể từ khi hình thành và thoát thai để trở thành một ngành kinh tế độc lập, có chổ đứng trong thương trường, ngành du lịch đã có những biến đổi thăng trầm. Người ta ví ngành du lịch quốc tế như là “một con ngựa đua đường trường, có lúc chạy nhanh, lúc mỏi mệt thì nghỉ lại để rồi dồn sức tạo sự đột phá mang theo sứ mệnh chuyển cái Đẹp tới cho con người”. Xu hướng phát triển của du lịch thế giới Ngày nay, mặc dù một sồ khu vực trên thế giới còn những bất đồng về chính trị, sắc tộc và tệ nạn khủng bố song xu hướng chung của nhân loại là hoà bình, hữu nghị hợp tác và phát triển. Các quốc gia tranh thủ thời cơ để mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Nhiều hiệp hội, tổ chức đã ra đời như ASEM, ASIAN, OPEC, EU v.v Các quốc gia đã có sự tìm hiểu lẫn nhau về văn hoá, xã hội để mở ra hướng đầu tư thích hợp cho mình. Du lịch có xu hướng gia tăng theo số lượng: số lương khách, thành phần khách, loại hình, sản phẩm du lịch các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Theo ước tính thì hiện nay có hơn 5% dân cư thế giới tham gia vào du lịch quốc tế. Những yếu tố được coi là nguyên nhân chính ảnh hưởng tới sự tăng trưởng này là mức sống của người dân, giá cả các dịch vụ hạ hơn trong khi mức thu nhập của họ tăng dần. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ cấu thành phần du khách có nhiều thay đổi hay còn gọi là xã hội hóa thành phần du khách. Du lịch không còn là Phạm Trọng Lê Nghĩa 20
  21. đặc quyền của tầng lớp quý tộc, tầng lớp trên của xã hội nữa. Xu thế quần chúng hoá thành phần du khách trở nên phổ biến ở nhiều nước. Lý do của hiện tượng này cũng la mức sống của người dân được nâng lên cao, giá cả dịch vụ hàng hoá không đắt, các phương tiện giao thông vận tải, lưu trú phong phú và thuận tiện. Nhưng điều quan trọng là chính sách của địa phương có điểm du lịch. Ở nhiều nơi, nhà nước có chính sách khuyến khích người dân đi du lịch do thấy được ý nghĩa của hiện tượng này đối với sức khoẻ cộng đồng. Nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là ngành công nghiệp ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay siêu tốc và sự bùng nổ của công nghệ thông tin mà địa bàn du lich ngày càng mở rộng, cự li ngày càng dài ra. Với vị trí đặc biệt của mình, sư phát triển cao về lực lượng sản xuất và có nhiều di tích lịch sử, văn hoá mà Châu Au có ngành du lịch quốc tế phát triển sớm mạnh và là châu lục có nhiều người đi và đến du lịch nhất. Hiện nay du lịch quốc tế đang có xu hướng phát triển nhanh ở châu Á, châu Phi, Châu Đại Dương, tuy nhiên khu vực Trung Cận Đông và châu Phi mới chỉ ở mức triển vọng vì hiện tại đang có nhiều bất ổn về kinh tế và chính trị. Căn cứ vào số khách nước ngoài tới du lịch và số người đi du lịch ra nước ngoài của từng nước, số ngoại tệ thu được của du khách cùng cán câu thanh toán du lịch, có thể phân ra 3 loại nước khác nhau trong sự phát triển du lịch quốc tế: 1. Các nước chủ yếu là du lịch bị động: Hoa kỳ, Nhật Bản, Anh, Uc, Balan, CH Séc, Slovakia, NiuDilan. 2. Các nước phát triển du lịch chủ động: Tây Ban Nha, Ý, Thuỵ Sĩ, Bồ Đào Nha, Ai Cập. 3. Các nước có sự phát triển cân bằng du lịch quốc tế chủ động, bị động: Pháp, Hunggary, Ixraen, Thổ Nhĩ Kỳ, một số nước Nam Mỹ và các nước châu Á. Do đời sống ngày càng cải thiện cải thiện, nhu cầu tích luỹ tăng không ngừng nên trong các chuyến du lịch, khả năng chi trả của con người là rất cao. Nhu cầu mà con người hướng tới, bên cạnh nhu cầu ăn uống là phục hồi, duy trì sức khỏe, vui chơi giải trí, tìm hiểu, khám phá thế gới, tìm hiểu, khai thác thị trường và một nhu cầu đặc biệt khác là bay vào vũ trụ. Trên phạm vi thế giới, số khách du lịch lớn nhất là khách đi nghỉ ở bờ biển. Trong tương lai, tỷ lệ du lịch biển sẽ giảm đi do phát triển của du lịch trên núi.Một đặc điểm nữa có ý nghĩa lớn đối với phân bố là tính chất giải trí là tính Phạm Trọng Lê Nghĩa 21
  22. chất giải trí đối lập, tức người đi du lịch thường tìm đến môi trường đối lập với nơi họ sinh sống (Vùng núi - Vùng biển; Thành phố – Nông thôn ). Các Tổ chức quốc tế về du lịch  Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organisation - WTO; Organisation Mondiale du Tourism - OLVLT): Là 1 tổ chức quốc tế đứng đầu và được tín nhiệm rộng rãi nhất về lĩnh vực du lịch và lữ hành. Tổ chức này gồm 139 thành viên thuộc 139 quốc gia và hơn 350 thành viên chi nhánh đại diện cho chính phủ quốc gia, hiệp hội du lịch, các viện giáo dục, các công ty tư nhân gồm hàng không, khách sạn và các nhà tổ chức tour. Trụ sở của WTO đặt tại Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Ngôn ngữ chính thức của WTO là tiếng Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha. WTO là một tổ chức liên chính phủ về xúc tiến và phát triển du lịch do Liên hiệp quốc giao phó. Thông qua du lịch, mục tiêu của WTO là kích thích phát triển kinh tế và tạo ra công ăn việc làm, đẩy mạnh gìn giữ và bảo vệ môi trường và di sản cũng như tăng cường thúc đẩy hoà bình và hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới, tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo. Ban đầu WTO được thành lập vào năm 1 925 tại Hague với tên gọi là Liên minh quốc tế các tổ chức quảng bá du lịch chính thức. Sau thế chiến thứ 2, nó được chuyển đến Geneva và đổi tên là Liên minh quốc tế các tổ chức du lịch chính thức (International Union for Official Tourism Organisations) viết tắt là IUOTO. Tháng 5 năm 1975 cuộc họp tòan thể đầu tiên của tổ chức này diễn ra tại Madrid. Năm 1976, WTO trở thành tổ chức điều hành của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) Năm 1977 một hiệp định hợp tác chính thức đượcký kết với Liên hiệp quốc. Ngày 17 tháng 9 năm 1981, tại Hội nghị Đại hội đồng của WTO lần thứ 4 tại Ý, Việt Nam đã được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức này. WTO có nhiệm vụ chính là truyền tải sự hiểu biết về du lịch đến các nước đang phát triển. Cụ thể hơn là WTO cung cấp nhiều kinh nghiệm về du lịch cho những mục tiêu phát triển của các quốc gia trên thế giới. WTO nổi tiếng về thống kê và nghiên cứu thị trường. Việc nghiên cứu là một trong những đóng góp quan trọng trong khuôn khổ ngành du lịch; phân chia Phạm Trọng Lê Nghĩa 22
  23. tác động của du lịch về kinh tế quốc gia, dự đóan trước, khảo sát những xu hướng và công bố kết quả sẵn có. Mục tiêu khác của WTO là phát triển nguồn nhân lực. WTO tạo ra tiêu chuẩn cho ngành giáo dục du lịch. WTO tổ chức những cuộc hội thảo, những khóa học từ xa và những buổi ngọai khóa cho các nhân viên du lịch thuộc các nước thành viên. WTO cũng nổ lực tạo điều kiện thuận lợi cho ngành lữ hành thế giới thông qua việc lọai bỏ hoặc giảm các phương sách cũng như tiêu chuẩn hóa các yêu cầu về hộ chiếu, thị thực v.v WTO củng cố chất lượng du lịch thông qua sự mở rộng tự do mua bán, tiếp cận, thăm dò khách du lịch bị tàn tật, an tòan, an ninh và những tiêu chuẩn về kỹ thuật.  Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới (World Travel and Tourism Council - WTTC) Là một liên minh tòan cầu gồm 100 viên chức đứng đầu ở tất cả các khu vực ngành công nghiệp : lưu trú, ăn uống, du lịch biển, giải trí, vận chuyển và lữ hành. WTTC thành lập năm 1990 do một Hội đồng gồm 15 thành viên dẫn dắt, triệu tập 1 năm 2 lần va 2báo cáo cho cuộc họp hàng năm. Những họat động hàng ngày được điều hành bởi chủ tịch và nhóm nhân viên đặt tại Anh. Mục tiêu đó là làm việc với các chính phủ để tạo cho du lịch một chiến lược phát triển kinh tế và ưu tiên công ăn việc làm nhằm tiến đến mở cửa và cạnh tranh thị trường, xoá bỏ những rào cản phát triển để công nhận tiềm năng kinh tế của ngành du lịch và khả năng phát sinh công việc; phát triển nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật, kết nối cơ sở hạ tầng với nhu cầu khách hàng.  Hiệp hội khách sạn quốc tế (International hotel Association - LHA) Được thành lập năm 1969 thay thế cho hiệp hội các nhà kinh doanh khách sạn và Liên hiệp khách sạn quốc tế. Mục tiêu hành động của một tổ chức quốc tế về ngành công nghiệp nhà hàng và khách sạn nói chung thực thi các chức năng của một hiệp hội thương mại ở mức độ quốc tế. Hiệp hội có 4.300 hội viên ở̉ 145 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trụ sở của Hiệp hội đặt tại Paris - thủ đô Cộng hoà Pháp.  Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (International Air Transport Assoeiation - IATA): Phạm Trọng Lê Nghĩa 23
  24. Là một tổ chức toàn cầu về hàng không quốc tế. Chức năng chính của IATA là tạo sự an toàn trong việc vận chuyển hành khách và hàng hoá từ mọi nơi ở̉ mạng lưới hàng không thế giới đến bất cứ nơi khác bằng sự kết nối cáctuyến đường bay. Nhiệm vụ của IATA là đại diện và phục vụ cho ngành công nghiệp hàng không thế giới : phục vụ 4 nhóm theo sự vận hành suôn sẻ của hệ thống vận chuyển hàng không thế giới: hành không; công chúng; các chính quyền; nhóm thứ 3 như nhà cung cấp, nhân viên du lịch và nhân viên vận chuyển hàng hoá. IATA hoạt động mật thiết với tổ chức hàng không dân dụng quốc tế. Văn phòng chính của IATA đặt tại Montreal, Canada. Cơ quan điều hành đặt ở Geneva, Thuỵ Sỹ̃, ngoài ra còn có các văn phòng đại diện cho các khu vực trên thế giới. Các Tổ chức trong khu vực:  Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương (Pacific Asia Travel Association - PATA): Đại diện cho những quốc gia ở̉ Thái Bình Dương và Châu Á hợp nhất lại để đạt được mục tiêu chung, đó là, vượt trội về phát triển du lịch và lữ hành trong khu vực rộng lớn này. Công việc của Hiệ̣p hội là phát triển du lịch thông qua các chương trình nghiên cứu, phát triển, giáo dục và tiếp thị. PATA đã hòan thành xuất sắc và tạo được tiếng vang trong số các tổ chức thế giới. PATA được thành lập năm 1951 tại Hawaii với tên gọi là Hiệp hội lữ hành khu vực Thái Bình Dương (Pacific Area Travel Association), tổ chức này có mục đích thúc đẩy sự phát triển hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa các nước, các cơ quan du lịch của các nước trong khu vực. Các thành viên PATA bao gồm các chính quyền, các công ty hàng không, hàng hải, các khách sạn, các công ty du lịch Là 1 thành viên của PATA, chi hội PATA Việt Nam được thành lập ngày 04/01/1994 Hàng năm PATA tổ chứ chội nghị thường niên lần lượt tại các nước thành viên nhằm trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ hợp tác về du lịch giữa các nước trong khu vực. Cơ quan quyền lực tối cao của PATA là hội nghị thường niên, Ủy ban điều hành, Ủy ban thường trực và Ban thư ký Hội nghị thường niên của PATA xem xét các họat động của Hội trong năm, có thẩm quyền sửa đổi Điều lệ, nguyên tắc họat động và bộ máy tổ chức Phạm Trọng Lê Nghĩa 24
  25. thông qua các vấn đề ngân sách, xác định địa điểm của kỳ họp kế tiếp và thông qua dự thảo nghị quyết của Hội nghị. Tạp chí PATA, bản tin PATA là những ấn phẩm du lịch có uy tín trên thế giới nhờ vào những thông tin rất thời sự và tin cậy. PATA còn tổ chức hội chợ du lịch Thái Bình Dương nhằm hỗ trợ cho việc xúc tiến hợp tác kinh doanh du lịch.  Hiệp hội Du lịch Châu Âu (European Travel Commission - ETC) Là một khối liên minh chiến lược cộng tác giữa 31 tổ chức du lịch quốc gia Châu Âu. ETC là một tổ chức du lịch phi lợi nhuận, được thành lập năm 1948, trụ sở chính đặt tại Brussels, Bỉ. Mục tiêu của ETC là : - Hỗ trợ về hợp tác du lịch quốc tế ở các nước Châu Âu - Trao đổi các thông tin về các dự án phát triển du lịch và kỹ thuật tiếp thị - Cam kết triển khai các họat động nghiên cứu về du lịch - Xúc tiến họat động du lịch đến các nước ở Châu Âu, đặc biệt từ Bắc Mỹ và Nhật Bản Hiện tại chiến lược của Hiệp hội này tập trung vào các họat động sau : - Cải tiến chất lượng dịch vụ ở Châu Âu - Kích cầu ở các nước lân cận bằng cách bỏ Visa, đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập cảnh - Cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp du lịch - Thúc đẩy phát triển du lịch bền vững. Phạm Trọng Lê Nghĩa 25
  26. Từ 1980 đến nay, ngày 27-9 là ngày mà ngành công nghiệp không khói của nhiều nước trên thế giới đón mừng Ngày du lịch thế giới (WTD). Mỗi năm, ngày này được đón mừng theo một đề tài đã được nhất trí chọn trước đó bởi Đại hội đồng Tổ chức Du lịch thế giới (WTO, trụ sở chính đặt tại Madrid, Tây Ban Nha). Chủ đề Ngày Du lịch Thế giới Từ năm 1980, ngày 27/9 được chọn làm ngày kỷ niệm của Du lịch Thế giới. Mục đích của ngày kỷ niệm này là làm cho mọi người nhận thức được rằng Du lịch rất cần cho cộng đồng quốc tế và thấy được ảnh hưởng rộng lớn của nó với nền kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Mỗi năm, kỷ niệm ngày Du lịch Thế giới lại có một chủ đề mới và nước chủ nhà là hội viên của UNWTO được chọn để tổ chức kỷ niệm ngày này bởi Hội đồng Chung của Du lịch Thế giới. Ngày 27/9 là một ngày quan trọng kể từ cuối năm 1969, quy chế của UNWTO được chấp thuận. Sự chấp thuận của các quy chế được coi là một mốc quan trọng trong du lịch toàn cầu. Năm Tên chủ đề 1980 Du lịch góp phần gìn giữ các di sản văn hoá; gìn giữ hoà bình và tăng cường hiểu biết lẫn nhau 1981 Du lịch là phẩm chất cao quí của cuộc sống 1982 Niềm tự hào khi đi du lịch, khách tốt và chủ tốt 1983 Du lịch là nghỉ ngơi, là quyền lợi và cũng là trách nhiệm của mọi người 1984 Du lịch là yếu tố tăng cường sự hiểu biết, hoà bình và sự hợp tác quốc tế 1985 Du lịch tuổi trẻ, di sản văn hóa và lịch sử phục vụ cho hoà bình và hữu nghị 1986 Du lịch, một sức sống hoà bình thế giới 1987 Du lịch phục vụ sự phát triển 1988 Du lịch là giáo dục cho tất cả mọi người 1989 Sự tự do đi lại của khách du lịch đang tạo ra một thế giới mới 1990 Một ngành công nghiệp chưa được biết tới, một ngành dịch vụ cần được biết đến 1991 Thông tin liên lạc và giáo dục, những yếu tố thúc đẩy sự phát triển du lịch 1992 Du lịch, nhân tố của tình đoàn kết ngày càng tăng giữa các xã hội, các nền kinh tế của cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc 1993 Phát triển du lịch và bảo vệ môi trường nhằm vươn tới sự hài hoà lâu dài 1994 Chất lượng phục vụ, chất lượng du lịch 1995 Tổ chức Du lịch Thế giới phục vụ du lịch thế giới trong 20 năm 1996 Du lịch: một nhân tố của khoan dung và hoà bình 1997 Du lịch: một hoạt động của thế kỷ 21 vì sự sáng tạo của công việc và bảo vệ môi trường 1998 Sự cộng tác giữa công – tư: chìa khoá để phát triển, xúc tiến và quảng bá du lịch 1999 Du lịch: gìn giữ di sản thế giới cho thiên niên kỷ mới 2000 Công nghệ và tự nhiên: hai vấn đề thách thức sự phát triển du lịch trong thế kỷ 21 2001 Du lịch: cầu nối hòa bình và sự đối thoại giữa các nền văn minh 2002 Du lịch sinh thái, chìa khóa để phát triển bền vững 2003 Du lịch: động lực xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm và hài hoà xã hội 2004 Thể thao và du lịch: động lực quan trọng thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, văn hoá và phát triển xã hội 2005 Lữ hành và giao thông, từ trí tưởng tượng của Jules Verne tới hiện thực ở thế kỷ 21 2006 Du lịch – Công cụ quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống 2007 Du lịch tạo nhiều cơ hội cho phụ nữ (Nguồn: Tổ chức Du lịch thế giới – UNWTO) Phạm Trọng Lê Nghĩa 26
  27. 1.2.2 Lịch sử hình thành và phát triển du lịch Việt Nam Dân tộc Việt Nam với “rừng vàng biển bạc” là cái nôi tạo nên bức tranh “sơn thuỷ hữu tình” lôi cuốn bao người muốn khám phá cái Đẹp. Chúng ta có thể khẳng định rằng hoạt động du lịch ở nước ta đã có từ lâu đời. Việc mở mang bờ cõi của nhà nước phong kiến Việt Nam chắc chắn có liên quan chặt chẽ với các chuyến đi du lịch của vua quan và các học giả. Những thi sĩ như Trương Hán Siêu, Hồ Xuân Hương, với tâm hồn tự do, ưa phóng khoáng luôn có những cuộc “dã ngoại” tìm đến thiên nhiên để tìm cảm hứng cho những cảm hứng sáng tác của mình. Bà huyện Thanh Quan đã từng có cuộc hành trình dài ngày từ xứ Bắc vào kinh đô Huế để nhận chức Cung trung giáo tập. Các dấu tích trên đá của Nguyễn Nghiễm ở Bích Động (1973), của chúa Trịnh Sâm ở Hương Tích và nhiều vua quan, nhà nho khác là những bằng chứng về chuyến du ngoạn của họ. Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, việc khai thác tài nguyên phục vụ mục đích du lịch và nghỉ dưỡng càng trở nên rõ nét hơn. Hàng loạt nhà nghỉ, biệt thự được xây dựng ven các bãi biển, vùng hồ hay vùng núi, nơi có khí hậu dễ chịu như Đồ Sơn, Đà Lạt, Vũng Tàu, Ba vì, Tam Đảo Giai đoạn này chứng kiến tầng lớp quan lại, vua chúa sang “mẩu quốc ” để tuyên truyền cái gọi là “khai sáng văn minh”. Bên cạch đó chúng ta còn chứng kiến nhiều du học sinh sang các nước Pháp, Nhật, Trung Quốc theo những tổ chức khác nhau tìm đường giải phóng đất nước. Tuy vậy sự đi lại đó chỉ mang tính chính trị nhiều hơn là đi du lịch Trước năm 1945, du lịch Việt Nam chưa tạo cho mình một nét đặt trưng hay nói cách khác chưa có động lực để phát triển. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), đất nước tạm thời chia thành 2 miền. Việc khai thác du lịch đi theo 2 hướng khác nhau. Ở miền Bắc, mặc dù điều kiện kinh tế còn hết sức khó khăn song thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên thường tổ chức các chuyến đi tham quan, cắm trại và tham gia các hoạt động vui chơi ngoài trời. Ở miền Nam, một số khách sạn lớn đã được xây dựng để đáp ứng nhu cầu một số ít người thuộc tấng lớp trên của xã hội và binh lính, sĩ quan nước ngoài.  Ngày 9/7/1960 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 26 CP thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương, đánh dấu sự ra đời của ngành Du lịch Việt Nam.  Ngày 16/3/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT- TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty Du lịch Việt Nam. Phạm Trọng Lê Nghĩa 27
  28.  Ngày 18/8/1969 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 145 CP chuyển giao Công ty Du lịch Việt Nam sang cho Phủ Thủ tướng quản lý.  Ngày 27/6/1978 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quyết nghị số 262 NQ/QHK6 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam trực thuộc Hội đồng Chính phủ.  Ngày 23/1/1979 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 32-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch Việt Nam.  Ngày 15/8/1987 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 120- HĐBT về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.  Ngày 9/4/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 119- HĐBT thành lập Tổng công ty Du lịch Việt Nam.  Ngày 31/12/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 447- HĐBT về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch.  Ngày 26/10/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 05-CP thành lập Tổng cục Du lịch.  Ngày 27/12/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 20-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.  Ngày 7/8/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 53/CP về cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch.  Ngày 25/12/2002 Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 18/2002/QĐ- BNV về việc cho phép thành lập Hiệp hội Du lịch Việt Nam.  Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam là một bộ thuộc Chính phủ Việt Nam. Ngày 31 tháng 7 năm 2007, Quốc hội khóa 12 ra Nghị quyết quyết định thành lập Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam trên cơ sở sáp nhập Ủy ban Thể dục Thể thao, Tổng cục Du lịch và mảng văn hóa của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam. Việc hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh trong những năm qua, thể hiện rõ nhất trong việc tăng cường các hoạt động hợp tác song phương và đa phương, tham gia tích cực vào diễn đàn khu vực và châu lục. Du lịch Việt Nam tích cực tham gia và khai thác những lợi thế và quyền lợi của mình trong việc trong việc tham gia các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực (Tổ chức Du lịch Thế giới WTO, Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương PATA), các diễn đàn du lịchnhư Diễn đàn du lịch ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch châu Á – Phạm Trọng Lê Nghĩa 28
  29. Thái Bình Dương, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC tại Chi lê. Ngoài ra, Du lịch Việt Nam còn tranh thủ sự gúp đỡ, tư vấn của các tổ chức quốc tế như WTO, Tổ chuức Phát triển bền vững Hà Lan (SNV) trong việc xây dựng dự thảo Luật Du lịch. Sử dụng hiệu qủa nguồn vốn ODA của các nước cho phát triển nguồn nhân lực du lịch như nguồn vốn do Luxembourg và Liên minh châu Au (EU) tài trợ. Trong những năm gần đây, thế giới đã nhìn nhận Việt Nam như là một điểm đến an toàn đối với du khách. Bằng chứng là năm 2000, Thủ đô Hà Nội được trao danh hiệu “Thủ đô vì hoà bình”, du khách đến với Việt Nam mà không phải lo lắng bởi xung đột, tiếng bom, tiếng súng. Các nhà doanh nghiệp, nhà đầu tư có môi trường kinh doanh thuậ lợi. Chính điều này đã tạo nên môi trường đầu tư du lịch lí tưởng. Năm 2004, đã có 15 dự án FDI đầu tư vào du lịch được cấp phép với số vốn hơn 110 triệu USD. Hiện nay, chương trình hành động quốc gia về du lịch tiếp tục được tập trung triển khai thực hiện. Nhiều sự kiện, lễ hội văn hóa du lịch đã được tổ chức như: Fesival Huế, Lễ hội Văn hóa du lịch biển Đà Nẵng, Năm Du lịch Điện Biên Phủ, Lễ hội 100 năm du lịch Sa pa, Lễ hội Văn hóa du lịch “Nhịp cầu xuyên Á”, Tháng du lịch “Hội An – Cảm xúc mùa hè”, Hội thảo “Du lịch Quảng Trị với con đường Di sản Miền Trung”, Lễ hội Văn hóa du lịch Việt – Nhật tại TP. Hồ Chí Minh . Du lịch việt Nam cũng đã chủ trì hoặc tham gia tổ chức các sự kiện quốc tế lớn như Hội nghị Bộ trưởng châu Á – Thái Bình Dương về Du lịch văn hóa gắn với xóa đói, giảm nghèo tại Huế, Hội nghị Thưởng đỉnh về hợp tác Á –Âu (ASEM 5) tại Hà Nội.Việc tổ chức các sự kiện trên đã tạo nên một khí thế mới cho Du lịch Việt Nam, thu hút số lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch mới, đặc trưng mà Việt Nam có thế mạnh. Theo dự báo của tờ báo điện tử Hospitality Net, Việt Nam – một đất nước giàu di sản văn hoá và có bề dày lịch sử sẽ tiép tcj thu hút khách từ nhiều nơi trên thế giới. Tờ báo viết: Theo cuộc khảo sát do HotelBenchmark thực hiện thì từ tháng 9/2004, sự tăng trưởng về doanh thu phòng khách sạn tại thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn bất cứ quốc gia Đông Nam Á nào khác. Theo Tổng cục Du lich Việt Nam(VNAT), trong 9 tháng đầu năm số du khách tăng 30,5%, đạt 2,1 triệu người so với cùng thời kì năm 2003. Nguồn du khách chủ lực là Trung Quốc, đóng góp hơn 27% lương du khách; tiếp theo là Đài Phạm Trọng Lê Nghĩa 29
  30. Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Du lịch trong nước cũng tăng trưởng khá khi thu nhập của người dân tăng nhanh và việc đi lai dễ dàng, thuận tiện hơn. Tính đến cuối năm 2004, cả nước đón được khoảng 2,9 triệu lượt khách quốc tế, vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra (2,8 triệu) và tănh gần 20% so với năm 2003; khách du lịch nội địa đạt 14 triệu lượt; thu nhập du lịch đạt khoảng 28 ngàn tỷ đồng. Các thị trường trọng điểm quốc tế vẫn tiếp tục được duy trì và tăng trưởng. Hầu hết khách quốc tế từ các thị trường truyền thống của Du lịch Việt Nam đều đạt mức tăng trưởng hai con số: khách Nhật tâng khoảng 30%, Hàn Quốc tăng 80%, Sinhgapo tăng hơn 40%, Thái Lan tăng 39%, Malaysia: 26%, Mỹ: 28%, Canađa tăng hơn 40%, Uc: 40%. Hoạt động du lịch sôi động, tăng diện và quy mô, nhưng vẫn đản bảo được an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Tuy đạt được những kết quả nêu trên, nhưng các chỉ tiêu chủ yếu về lượng khách, thu nhập đạt được so với một số quốc gia có du lịch phát triển trong khu vực vẫn còn có khoảng cách khá lớn; tổ chức bộ máy, nhân sự của ngành chưa tương xứng với vai trò, vị trí và mục đích chính trị của một ngành kinh tế mà Đảng ta xác định là mũi nhọn. Bước sang năm 2005, trong bối cảnh có nhiều sự kiện trọng đại của đất nước và của ngành du lịch: 60 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, 75 năm thành lập Đảng, 30 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, 45 năm ngày thành lập Ngành Du lịch v.v , Du lịch Việt Nam phải vươn lên mạnh mẽ trên các mặt để phấn đấu. Chỉ tiêu đặt ra là đón trên 18 triệu lượt khách du lịch (3 triệu lượt khách du lịch quốc tế tăng 14% so với năm 2004) và hơn15 triệu lượt khách nội địa, tăng 6,5% so với năm 2004). Theo Tổng cục Thống kê, trong tháng 8/2009 ước tính tổng số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 314.915 lượt người, tăng 16% so với tháng 7 năm 2009 và giảm 8% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính tổng số khách quốc tế đến Việt Nam 8 tháng đầu năm 2009 đạt 2.479.939 lượt người, giảm 17,7% so với cùng kỳ năm 2008; trong đó, lượng khách đến du lịch, nghỉ dưỡng là 1.460.709 lượt người, giảm 20,7%; khách đến vì công việc là 464.605 lượt người, giảm 20,7%; khách đến thăm thân là 387.141 lượt người, tăng 1,2%; khách đến vì các mục đích khác là 167.487 lượt người, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm 2008. Trong 8 tháng đầu năm 2009, lượng khách đến từ các nước đều giảm nhưng tốc độ giảm đã chậm lại so với tháng trước: Trung Quốc giảm 35%, Hàn Quốc giảm 21,6%, Đài Loan giảm 17,5%, Thái Lan giảm 16,8%, Đài Loan giảm 15,4%; Australia giảm 11,8%, Nhật Bản giảm 11,4%, malaysia giảm 4,4%, Mỹ giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2008. Theo: www.tongcucdulich.com.vn Phạm Trọng Lê Nghĩa 30
  31. Ngành Du lịch đã đề ra Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010 và định hướng tới 2020 với các mặt sau:  Định hướng thị trường: Tiếp tục phát triển các thị trường Đông Á – TBD (Nhật, Trung Quốc, ASEAN), châu Au (Đức, Pháp, Anh), Bắc Mỹ (Mỹ). Chú trọng thị trường bắc Au, Uc, New zealand và các thị trường truyền thống, các nước SNG, Đông Au).  Sản phẩm du lịch: Phát triển du lịch sinh thái và văn hóa.  Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá: Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá, thiết lập đại diện du lịch.  Đầu tư phát triển: Các khu du lịch quốc gia, các sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh, tôn tạo và nâng cấp các điểm du lịch, cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng du lịch, tăng đầu tư ngân sách nhà nước lên 3 – 4% và tổng đầu tư các ngành sản xuất dịch vụ.  Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ, hệ thống đào tạo, nghiên cứu khoa học vá công nghệ.  Hợp tác quốc tế: Song phương, khu vực, các tổ chức quốc tế. Phạm Trọng Lê Nghĩa 31
  32. BÁO CÁO TÓM TẮT THÀNH TÍCH 45 năm xây dựng và trưởng thành của Ngành Du lịch Việt Nam I. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, ngành Du lịch luôn được Đảng và Nhà Nước quan tâm ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của Du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu cách mạng. Giai đoạn đất nước còn tạm thời bị chia cắt, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, từ năm 1960 đến 1975, Du lịch ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ các đoàn khách của Đảng và Nhà nước, khách Du lịch vào nước ta theo các Nghị định thư. Để thực hiện mục tiêu này, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số 26/CP, ngày 09/07/1960, thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương. Quản lý nhà nước về Du lịch thuộc chức năng của Bộ Ngoại thương với một Phòng chuyên trách 4 người; năm 1969 chức năng này chuyển về Phủ Thủ tướng; sau đó chuyển sang Bộ Công an. Trong điều kiện rất khó khăn của chiến tranh và qua nhiều cơ quan quản lý, ngành Du lịch đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi thử thách, từng bước mở rộng nhiều cơ sở Du lịch ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Tam Đảo, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An Ngành Du lịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, phục vụ an toàn, có chất lượng; một lượng lớn khách của Đảng và Nhà nước, các đoàn chuyên gia các nước Xã hội chủ nghĩa anh em vào giúp Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ là xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước; đồng thời đón tiếp phục vụ, đáp ứng nhu cầu du lịch, tham quan nghỉ mát của cán bộ, bộ đội và nhân dân. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giả phóng, đất nước thống nhất, hoạt động Du lịch dần trải rộng ra các miền Tổ quốc. Ngành Du lịch bước vào xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ lao động, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện chuyển dần sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, ngành Du lịch hoạt động trong điều kiện đất nước vừa phải qua cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài, phải tập trung sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và phá thế bao vây cấm vận của Mỹ; đồng thời lại phải tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía Bắc và Tây Nam. Từ năm 1975 đến 1990, hoà vào khí thế chung của đất nước đã được thống nhất, ngành Du lịch đã làm tốt nhiệm vụ tiếp quan, bảo toàn và phát triển các cơ sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa giải phóng; lần lượt mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới từ Huế, Đà Nẵng, Bình Định đến Nha Trang, Lâm Đông, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ từng bước thành lập các doanh nghiệp du lịch nhà nước trực thuộc Tổng cục Du lịch và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Du lịch . Trong giai đoạn này, ngành Du lịch đã phấn đấu vượt qua những khó khăn, thử thách mới, tổ chức đón tiếp và phục vụ khách du lịch quốc tế từ các nước Xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác trên thế giới đến Việt Nam. Du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du lịch giao lưu hai miền Nam - Bắc, thiết thực góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. Thông qua du lịch, thế giới hiểu rõ thêm quan điểm, nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam sau chiến tranh muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, góp phần phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Về mặt kinh tế - xã hội, ngành Du lịch đã phát triển thêm một bước, hoạt động có kết quả tốt, đặt nền móng cho ngành Du lịch bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn từ 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước ngành Du lịch đã khởi sắc, vươn lên đôi mới quản lý và phát triển, đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất luợng, dần khẳng định vai trò, vị trí của mình. Chỉ thị 46/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII tháng 10 năm 1994 đã khẳng định Phạm Trọng Lê Nghĩa 32
  33. “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nuớc”. Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bước được hình thành, thể chế hoá bằng văn bản quy phạm phát luật, tạo môi trường cho du lịch phát triển, nâng cao hiểu lực quản lý. Sau 2 năm sáp nhập vào Bộ Văn hoá – Thông tin, rồi vào Bộ Thương mại, tháng 11 năm 1992 Tổng cục Du lịch được thành lập lại, là cơ quan thuộc Chính phủ. Tổng cục Du lịch đã nhanh chóng củng cố, ổn định tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, khắc phục khó khăn, vươn lên về mọi mặt để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố. Trong quá trình cải cách hành chính, đến nay bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương có Tổng cục Du lịch, ở địa phương có 15 sở Du lịch , 2 sở Du lịch – Thương mại, 46 sở Thương mại - Du lịch và 01 sở Ngoại vụ - Du lịch. 45 năm hình thành và phát triển, được Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành, các cấp phối hợp, giúp đỡ, nhân dân hưởng ứng, bạn bè quốc tế ủng hộ, cùng với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ, công nhân viên toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc chuẩn bị hành trang để vững bước tiến vào thế kỷ 21 với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC Trải qua hơn 45 năm phát triển, một quãng thời gian không dài đối với sự nghiệp phát triẻn của một ngành, song cũng có thể thấy được những bứoc chuyển biến mạnh mẽ cả về số lưọng và chất của Du lịch Việt nam, là một trong những ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tinh liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, có tốc độ tăng trưởng khá trong thời gian vừa qua, kể cả trong điều kiện khủng hoảng kinh tế tại Châu Á, thiên tai, dịch bệnh diện rộng, toàn cầu và chiến tranh xung đột cục bộ và khủng bố ở nhiều nơi trên thế hiới những năm gần đây 1. Đổi mới, nâng cao nhận thức quan điểm về du lịch: Toàn Ngành đã chú trọng huy động công sức và trí tuệ nhiên cứu lý luận và khảo nghiệm, tổng kế thực tiễn phát triển du lịch trong nước và quốc tế, hình thành, đề xuất và hoàn chỉnh dần hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển du lịch với Đảng và Nhà nước. Những chủ trưong, chính sách phát triển du lịch và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thể hiện trong các Nghị quyết Đại hôi đảng toàn quốc, trong Chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994, của Ban Bí thư trung ương, Thông báo số 179 TB/TW, ngày 11/11/1998, của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 45/CP, ngày 22/6/1993, của Chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành Du lịch đã được Ngành quán triệt, triển khai thực hiện đưa nhanh vào cuộc sống. Ngành Du lịch đã phối hộ với các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương và vácc cơ quan thông tin đại chúng tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, các cuộc thi tìm hiểu, tuyên truyền du lịch sâu rộng trong các cấp, các ngành và trong nhân dân. Ngành Du lịch được Đảng và Nhà nước xác định là “Một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” với mục tiêu: “Phát triển mạnh du lịch, từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực” Quan điểm đó được kiểm nghiệm trong thực tiễn phát triển du lịch Việt Nam trong suốt nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và đến nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX được nâng lên: “Phát triển nhanh du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010) xác định: Phát triển du lịch, một ngành kinh tế mũi nhọn”; phấn đấu sau năm 2010, Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch vụ du lịch chất lượng để góp phần tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ. Nhiều tỉnh, thành phố, tỉnh uỷ, thành uỷ đã có kế hoạch và nghị quyết về phát triển du lịch, xác định vai trò, vị trí của du lịch trong cơ cấu kinh tế, đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển du lịch trong cơ cấu kinh tế, đề ra giải pháp và chỉ đạo Phạm Trọng Lê Nghĩa 33
  34. thực hiện kế hoạch phát triển du lịch của địa phương mình. Các địa phương trong cả nước đã có sự chuyển biến nhận thức về vai trò, vị trí và hiệu quả của sự phát triển du lịch, đã quan tâm, chú trọng đến phát triển du lịch, coi du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế động lực, một hướng quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác của địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy văn hoá, tăng cường giao lưu với các địa phương trong nước và quốc tế, tạo việc làm cho các tầng lớp dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo và là một phương thức làm giàu ngành và toàn xã hội về vai trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của du lịch và trách nhiệm phát triển du lịch. Việc nâng cao nhận thức về du lịch và phát triển dulịch đã chuyển hoá thành hành động cụ thể, để huy động ngày càng tăng các nguồn lực khai thác tiềm năng và lợi thế du lịch của đất nước cho sự nghiệp phát triển du lịch nước nhà theo hướng bền vững. 2. Bộ máy và năng lực quản lý nhà nước về du lịch, hệ thống kinh doanh du lịch được kiện toàn, hoạt động thích nghi dần với cơ chế mới: Nhìn chung, giai đoạn từ tháng 10 năm 1992 trở về trước, hệ thống tổ chức bộ máy ngành Du lịch chưa thực sự định hình và thiếu tính thống nhất về mô hình tổ chức ở các địa phương. 32 năm (1960 - 1992) đã có 6 lần chuyển đổi tổ chức bộ máy ngành Du lịch. Vì vậy sự chỉ đạo trực tiếp của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương xuống các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp mất tính liên tục và kế thừa dẫn đến quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp lỏng lẻo, hạn chế hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch, hiệu quả kinh doanh không cao và ngành Du lịch tụt hậu so với du lịch các nước có điều kiện tương đồng. Tổ chức bộ máy chưa ngang tầm với vị trí, vai trò yêu cầu phát triển của ngành Du lịch; cán bộ phân tán, mất đi tính thừa kế. Trước tình trạng đó, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, ngày 17/10/1992, Chính phủ đã có Nghị đinh số 05/CP thành lập lại Tổng cục Du lịch; tiếp đó có Nghị định số 20-CP, ngày 27/12/1992 và Nghị định số 53-CP, ngày 07/8/1995, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Theo đó Tổng cục Du lịch có 5 vụ, Thanh tra, Văn phòng Tổng cục Du lịch; 4 đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp trực thuộc. Nhờ ổn định và từng bước được kiện toàn về tổ chức, du lịch nước ta mới khởi sắc và phát triển. Ngày 18/9/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2003NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch . Theo Nghị định này, Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn lý nhà nước về du lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong du lịch; và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp trực thuộc. Từ chức năng đó, Tổng cục Du lịch có 20 nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức gồm 6 Vụ, Thanh tra, Cục Xúc tiến, Văn phòng Tổng cục, 8 đơn vị sự nghiệp và 15 doanh nghiệp trực thuộc. Cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về Du lịch từ năm 1993 đến nay đã từng bước được quan tâm thành lập, củng cố và phát triển. Trước tiên là việc thành lập 14 Sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố là trung tâm Du lịch và nơi có nhiều tiềm năng du lịch; các tỉnh khác thành lập phòng Du lịch nằm trong cơ sở Thương mại – Du lịch. Một số địa phương ở cấp quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh đã thành lập phòng quản lý Du lịch hoặc giao chức năng quản lý Du lịch cho phòng kinh tế. Đến nay bộ máy quản lý nhà nuớc về Du lịch ở Trung ương có Tổng cục Du lịch, ở địa phương có 15 sở Du lịch, 2 sở Du lịch-Thương mại, 46 sở Thương mại-Du lịch và 01 sở Ngoại vụ - Du lịch, hình thành một hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về Du lịch từ Trung ương đến địa phương, đang vươn lên thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Du lịch trên phạm vi cả nước và từng địa phương, hoàn thành nhiệm vụ như vai trò của một Bộ. Các cơ chế chính sách phát triển Du lịch được bổ sung, tạo môi trường cho du lịch phát triển. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010 đã được Thủ Phạm Trọng Lê Nghĩa 34
  35. tướng Chính phủ phê duyệt; quy hoạch các vùng Du lịch và các trọng điểm Du lịch đã được xây dựng; trên 50 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương và một số điểm Du lịch, khu Du lịch đã có quy hoạch Du lịch, tạo điều kiện để đẩy mạnh quản lý du lịch và xây dựng các dự án đầu tư. Hàng trăm dự án quy hoạch chi tiết du lịch và hàng chục dự án quy hoạch Du lịch khách đang được khẩn trương thực hiện, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần quản lý, khai thác tài nguyên Du lịch ngày một hiệu quản. Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 7/2002. Chương trình hành động quốc gia về Du lịch được phê duyệt thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn 2001-2005 và Chương trình hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2006-2010 đang trình Chính phủ phê duyệt. Chính sách, thể chế tạo nền tảng thúc đẩy Du lịch phát triển đã được hình thành và đổi mới phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát triển Du lịch thế giới và trong nước. Pháp lệnh Du lịch ra đời năm 1999 là khung pháp lý cao nhất, là bước ngoặt quan trọng khẳng định vai trò của Ngành và thể chế hoá đường lối phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; tạo điều kiện cho hoạt động Du lịch phát triển đi vào nề nếp và có định hướng mục tiêu rõ ràng. Các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Du lịch về các lĩnh vực quản lý chi nhánh, văn phòng đại diện Du lịch ở trong và ngoài nước; lữ hành, hướng dẫn du lịch; lưu trú; thanh tra Du lịch; xử phạt hành chính; quản lý môi trường Du lịch đã được ban hành và thực hiện có hiệu quả. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Du lịch để điều chỉnh các quan hệ Du lịch ở tầm cao hơn; khẳng định một lần nữa vị thế của ngành Du lịch ngay từ trong đường lối, chính sách và thể chế. 5 Nghị định và 1 Quyết định hướng dẫn Luật Du lịch đang được khẩn trương dự thảo và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành, sẽ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Du lịch như Pháp lệnh xuất, nhập cảnh, cư trú, di lại cho người Việt Nam; cho người nước ngoài và các văn bản liên quan khác được bổ sung; thủ tục nhập, xuất cảnh, cư trú, đi lại, hải quan liên tục được cải tiến thuận tiện hơn cho khách cho khách và các nhà đầu tư. Việc áp dụng miễn thị thực song phương cho công dân một số nước, miễn thị thực đơn phương cho công dân Nhật Bản, Hàn Quốc và 4 nước Bắc Âu và đang triển khai miễn thị thực cho một số nước khác là giải pháp chủ động, tích cực và khá mạnh bạo trong bối cảnh an ninh hiện nay để thu hút du khách vào nước ta tăng nhanh. Lực lượng kinh doanh du lịch phát triển mạnh, thích nghi dần cơ chế mới, từng bước làm ăn có hiệu quả: Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của cả 6 thành phần kinh tế (nhà nuớc; tập thể; cá thể, tiểu chủ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước; 100% vốn nước ngoài). Trước Đại hội Đảng lần thứ IX, trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành chỉ có doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được phép hoạt động, nay mở rộng cho cả doanh nghiệp tư nhân. Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 6.000 cơ sở kinh doanh lưu trú; 399 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 203 doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, 124 doanh nghiệp nhà nước, 63 doanh nghiệp cổ phần, 8 liên doanh và 2 doanh nghiệp tư nhân. Các địa phương có số doanh nghiệp lữ hành quốc tế nhiều nhất là Hà Nội (148 DN), Thành phố Hồ Chí Minh (144), Quảng Ninh (17), Đà Nẵng (14) và Hải Phòng (8); hơn 10 nghìn doanh nghiệp lữ hành nội địa. Số lượng cơ sở kinh doanh vận chuyển du lịch (tư nhân, cổ phần và hợp tác xã chiếm tỷ trọng lớn) chưa có số liệu thống kê, nhưng xu hướng phát triển rất mạnh. Ngoài ra còn có khoảng hàng nghìn hộ tư nhân kinh doanh du lịch hoạt động ở hầu hết các địa phương cả nước. Việc sắp xếp, đôi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Du lịch nhà nước được địa phương và Tổng cục Du lịch quan tâm. Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã có chị thị, nghị quyết và đề án sắp xếp doanh nghiệp Du lịch nhà nước. Tổng công ty Du lịch Sài Gòn (Saigon Tourist), Tổng công ty Bến Thành và một số công ty du lịch đã phát huy vai trò chủ đạo trong hoạt động lữ hành, quảng bá, phát triển thị trường, xây Phạm Trọng Lê Nghĩa 35
  36. dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Du lịch. Hà Nội đã thành lập Công ty mẹ - Công ty con trong du lịch. Đề án sắp xếp lại doanh nghiệp trực thuộc Tổng cục Du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đang tổ chức triển khai trong năm 2003 – 2005, theo hướng để lại 4 doanh nghiệp mạnh ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu; hình thành “Công ty mẹ - Công ty con” trên cơ sở 8 công ty; cổ phần hoá các công ty hiện có. Cả nước đã cổ phần hoá được trên 100 doanh nghiệp, nhìn chung sau khi cổ phần hoá hoạt động hiệu quả hơn, trước mắt đời sống người lao động được nâng lên. 3. Huy động ngày một nhiều nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất luợng và đa dạng hoá sản phẩm Du lịch: Toàn Ngành và các địa phương, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. 5 năm vừa qua, Chính phủ đã cấp 2.146 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch ở các khu du lịch trọng điểm. Đã phối hợp với các ngành và địa phương chỉ đạo phát triển các trọng điểm du lịch, các vùng du lịch mà Nghị quyết Đại hội Đàng lần thứ IX đã xác định; khai thác và phát huy lợi thế về hạ tầng và điều kiện kinh tế - xã hội của các khu kinh tế mở và vùng kinh tế trọng điểm để phát triển du lịch; gắn kết hoạt động du lịch với hoạt động của các khu kinh tế mở, các vùng kinh tế trọng điểm. Bảng 1. Vốn ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch Năm 2001 2002 2003 2004 20051 Tổng số Lượng vốn (tỷ đồng) 266 380 450 500 550 2.146 Số dự án 23 73 167 122 - 3852 (1) Năm 2005 vốn đầu tư hạ tầng du lịch được ghi cho 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, không ghi cho dự án (2) Không tính năm 2005 Nguồn: Tổng cục Du lịch Vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách nhà nước đã khuyến khích các địa phương, các thành phần kinh tế đầu tư hàng nghìn tỷ đồng đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Cùng với đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế trong nước, ngành Du lịch đã thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến nay cả nước có 190 dự án với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 4,64 tỷ USD, ở 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các địa phương thu hút được nhiều dự án và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Khánh Hoà. Bảng 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời kỳ 1995 – 2004 Thời kỳ Năm 1995 2000 2001 2002 2003 2004 1995- 2004 Số dự án 24 02 04 25 13 15 83 Vốn (Triệu USD) 1.381,23 22,8 10,3 174,2 239 111,17 1.938,67 Phạm Trọng Lê Nghĩa 36
  37. (3) Tính đến năm 1995 Nguồn: Tổng cục Du lịch Việc tăng cường mở rộng hợp tác, thu hút vốn đầu tư, tài trợ củ quốc tế đã đạt được những thành quả đáng kích lệ. Đặc biệt ngành Du lịch đã tranh thủ được nhiều tổ chức quốc tế các chính phủ và tổ chức phi chính phủ tài trợ cho phát triển du lịch như về các lĩnh vực quy hoạch phát triển du lịch, phát triển nguồn nhân lực, du lịch, cải cách hành chính, xây dựng văn bản quy phạm phát luật du lich. Tổng cục Du lịch cũng đã chỉ đạo toàn Ngành tích cực tìm kiếm, khai thác nguồn đầu tư quốc tế. Nhiều Hội nghị xúc tiến đầu tư của các địa phương được tổ chức ở trong và ngoài ngước đã dành ưu tiên đặc biệt cho kêu gọi đầu tư phát triển du lịch. Cùng với dự án phát triển nguồn nhân lực do Luxenbourg với số vốn trên 10 triệu Euro và dự án EU tài trợ với số vốn khoảng 12 triệu EURO, Tổng cục Du lịch đã tiếp nhận và điều hành dự án “Phát triển du lịch Mekong” do ADB tài trợ, với khoản kinh phí 12,2 triệu USD (có 8,47 triệu USD vốn vay ưu đãi) tập trung chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạn tầng du lịch tại đồng bằng sông Cửu Long. Từ năm 1998 đến 2004 đã có 190 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực du lịch với tổng số vốn là 4.635.357.029 USD, nâng tổng số dự án tới nay là 239 dự án với tổng số vốn là 6,112 tỷ USD. Đầu tư ra nước ngoài, tuy còn mới đối với Du lịch Việt Nam, song bước đầu cũng được thực hiện với chủ trương dựa vào lợi thế so sánh trong khai thác giá trị văn hoá, ẩm thực, nguyên liệu, lao động rẻ Các dự án đầu tư ra nước ngoài được thực hiện dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, với các hình thức kinh doanh ăn uống tại một số nước láng giềng và các nước Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ. Tuy các dự án đầu tư ra nước ngoài chưa nhiều (5 dự án), quy mô nhỏ, nhưng đây là hướng đi đúng, đạt hiệu quả và phù hợp với xu hướng chung của hội nhập kinh tế thế giới. Trong thời gian hơn 10 năm qua, cả nước đã nâng cấp, xây mới 50.000 phòng khách sạn (tăng gấp trên 2 lần của hơn 30 năm trước). Đến nay, cả nước có khoảng 6.000 cơ sở lưu trú, với 130.00 buồng trong đó 2.575 cơ sở được xếp hạng tự đạt tiêu chuẩn đến 5 sao với tổng số 72.458 buồng (18 Khách sạn 5 sao với 5.251 buồng; 48 khách sạn 4 sao với 5.797 buồng; 119 Khách sạn 3 sao với 8.724 buồng; 449 Khách sạn 2 sao với 18.447 buồng; 434 Kháh sạn 1 sao với 10.757 buồng và 923 Khách sạn đạt tiêu chuẩn tối thiểu với 23.482 buồng). Phương tiện vận chuyển khách du lịch phát triển đa dạng cả đường ô tô, đường sắt, đường thuỷ và dần được hiện đại hoá. Một số khu du lịch nghỉ dưỡng, sân golff, công viên chủ đề và cơ sở giải trí được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và nhân dân. Năng lực vận chuyển khách du lịch tăng, chất lượng được nâng lên. Phương tiện vận chuyển khách du lịch chuyên ngành với hàng nghìn xe ô tô, tàu thuyền các loại, chất lượng phương tiện được tăng cường đổi mới thường xuyên; nhiều đội xe taxi ở các điểm du lịch được thành lập, đáp ứng phục vụ kịp thời nhu cầu đi lại của khách du lịch; nhiều tuyến du lịch đường biển, đường sông như Hải Phòng - Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ đã sử dụng tàu cao tốc với trang thiết bị hiện đại. Với cơ sở vật chất kỹ thuật như hiện nay, ngành Du lịch nước ta đã đảm bảo phục vụ hàng chục triệu lượt khách quốc tế và nội địa, tổ chức được các sự kiện, hội nghị quốc tế lớn. Toàn ngành đã chú trọng xây dựng phát triển nhiều loại hình du lịch, các tuyến du lịch mới cả đường bộ, đường sông, đường biển, nối các điểm du lịch, khu du lịch ở cả miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng ven biển và hải đảo. Hình thành các loại hình du lịch mới, đặc thù như đi bộ, leo núi, lặn biển, hang động du lịch đường bộ xuyên Việt bằng xe đạp, mô tô, ô tô du lịch đồng quên, du lịch trở về cội nguồn, du lịch sinh thái, du lịch hang động, Phạm Trọng Lê Nghĩa 37
  38. du lịch sông nước, lặn biển, du lịch giải trí thể thao. Chú trọng khai thác giá trị nhân văn giầu bản sắc văn hóa dân tộc, tổ chức nhiều hội thi nấu ăn dân tộc, thi hướng dẫn viên du lịch để tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn, được du khách ưa chuộng. Mỗi năm đều có chủ đề về du lịch, bám vào các sự kiện lớn của đất nước, các lễ hội để tổ chức các hoạt động du lịch với nhiều sự kiện du lịch độc đáo, hấp dẫn. Những sản phẩm du lịch mới được nghiên cứu xây dựng có sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. 4. Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được tăng cường: Những năm qua, Ngành Du lịch đã chú trọng xúc tiến quảng bá du lịch ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Công tác xúc tiến quảng bá được chú trọng hơn: Đã thành lập Cục Xúc tiến Du lịch; đã có chương trình xúc tiến cho thời gian 5 năm; tính chuyên nghiệp được nâng dần; chất lượng tổ chức các sự kiện tốt hơn. Tổng cục Du lịch đã chủ động phối hợp với Hàng không Việt Nam, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Văn hóa – Thông tin, các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh truyền hình, tổ chức nhiều sự kiện xúc tiến du lịch ở nước ngoài: Hàng năm tham gia Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) tổ chức ở các nước trong khu vực ASEAN; các hội chợ Báo Nhân đạo, Top Resa tại Pháp, ITB tại Đức; các hội chợ du lịch tại Malaysia, Thái Lan; Hội chợ JATA tại Nhật Bản, WTM tại Anh; Tuần Việt Nam tại Nhật Bản; các buổi giới thiệu du lịch Việt Nam tại các nước Thuỵ Điển, Đức, Anh, Pháp, Mỹ, Singapore, Thái Lan và Úc. Triển khai các Chương trình Roadshow giới thiệu điểm đến du lịch Việt nam tại các thị trường Đức, Pháp, Anh, Nhật Bản, Bắc Âu, Hồng Kông, Thái Lan, Úc Các đơn vị trong ngành Du lịch đã tích cực tham gia nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế để quảng bá thu hút khách du lịch và vốn đầu tư. Tổng cục Du lịch đã liên tục xuất bản sách hướng dẫn, sản xuất băng video và đĩa CD-ROM giới thiệu về Đất nước, Con người và Du lịch Việt Nam đến các nước trên thế giới. Các thông tin được cập nhật trên Internet ngày càng nhiều, bám sát tình hình hoạt động thời sự của các đơn vị trong Ngành và đáp ứng nhu cầu của các đối tượng trong lĩnh vực du lịch và những lĩnh vực liên quan. Số người truy cập những website ngày càng nhiều, chỉ riêng website vietnamtourism.com đã có gần 9 triệu lượt người truy cập, góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá du lịch, thu hút khách du lịch đến Việt Nam. Tăng cường thông tin đối ngoại, thông tin du lịch trên phương tiện thông tin đại chúng trong nước như phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, các báo lớn và ở nước ngoài như CNN, Canal+, NHK nhằm thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế, 13 doanh nghiệp lữ hành quốc tế của ngành Du lịch đã đặt 23 văn phòng đại diện ở 12 nước trên thế giới. Đầu tư cho tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch thông qua Chương trình hành động quốc gia về du lịch được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã đầu tư ngân sách cho Chương trình hành động quốc gia về du lịch với tổng số 112 tỷ đồng. Các doanh nghiệp du lịch và hàng không Việt Nam, các doanh nghiệp và cơ quan ngoại giao, thông tấn báo chí, các cơ quan tuyên truyền đối ngoại đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho tuyên truyền quảng bá đất nước, con người và sản phẩm Việt Nam và quảng cáo sản phẩm của bản thân doanh nghiệp ra nước ngoài. Ngoài ra còn phải kể đến việc huy động các tổ chức quốc tế, các hãng du lịch, hàng không nước ngoài đưa khách vào Việt Nam đầu tư hàng chục triệu USD cho tuyên truyền, quảng bá du lịch Việt Nam. Kết quả của việc đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch ở cả trong và ngoài nước thành những chiến dịch xúc tiến mạnh mẽ và thường xuyên hơn đã góp phần đưa Du lịch Việt Nam vượt qua khủng hoảng, khó khăn, đồng thời quảng bá được hình ảnh Du lịch Việt Nam giàu tiềm năng, mở rộng được thị trường và mở ra triển vọng phát triển mới, góp phần đẩy mạnh thông tin đối ngoại của đất nước. 5. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch: Phạm Trọng Lê Nghĩa 38
  39. Trong sự nghiệp đổi mới phát triển du lịch thời gian vừa qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được chú trọng và đạt được những tiến bọ đáng ghi nhận: Công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã có những cố gắng trong hình thành đội ngũ cán bộ, quản lý, tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường kiểm tra chuyên ngành và liên ngành đối với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; quy mô tuyển sinh ngày càng tăng, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế; mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng (với khoảng gần 40 trường), trunghọc chuyên nghiệp, dạy nghề (trên 30 trường) và nhiều trung tâm dạy nghề được hình thành và phát triển nhanh, đang được định hướng, quy hoạch và điều chỉnh hợp lý; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch được nâng cấp, xây dựng mới, trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại; đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên, nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch, tăng nhanh về số lượng, nâng dần về kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ và có trách nhiệm với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng, từng bước được chuẩn hóa; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên một bước, lực lượng lao động có tay nghề cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế đã được hình thành; nguồn lực trong nước đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được tăng cường; nguồn lực bên ngoài được thu hút ngày một tăng, đến nay đã thu hút được trên 30 triệu USD cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch và sử dụng ngày một hiệu quả, thông qua hợp tác quốc tế về đạo tạo đã hỗ trợ đáng kể về tài chính, kinh nghiệm, công nghệ phục vụ đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân lực du lịch. Những tiến bộ và cố gắng nêu trên của công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đội ngũ lao động của Ngành. Năm 1990 toàn Ngành mới có hơn 17.000 lao động trực tiếp, đến nay đã có trên 23 vạn lao động trực tiếp (tăng gần 10 lần so với 30 năm trước, phần đông từ các ngành khác chuyển sang) và trên 50 vạn lao động gián tiếp, chiếm 2,5% lao động toàn quốc, phần lớn là ở độ tuổi dưới 30 (60%); phân bổ trên phạm vi cả nước (miền Bắc 40%, miền Trung 10%, miền Nam 50%). Lao động quản lý chiếm tỷ trọng khá cao (25%); lao động phục vụ trực tiếp ở các ngành nghề chuyên sâu chiếm 75%, trong đó lễ tân là 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ ăn uống (bàn, bar) là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%, nhân viên lữ hành và hướng dẫn viên là 4,9%, nhân viên lái xe, tàu du lịch là 10,6% và 36,5% còn lại là các lao động làm các nghề khác. Đã có 56,86 lao động được đào tạo (0,21% cán bộ đạt trình độ sau đại học; 12,75% đại học và cao đẳng; 25,8% trung cấp và 18,1% sơ cấp (nghề). Có 32% lao động phục vụ trực tiếp biết tiếng Anh; 3,2% biết tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau; các ngoại ngữ khác cũng đã được quan tâm đào tạo, nhưng số lượng người thông thạo không nhiều. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức ngành Du lịch mặc dù với biên chế rất hạn hẹp (Cơ quan Tổng cục Du lịch hiện có 135 biên chế; các Sở Du lịch khoảng 15 biên chế; Sở Du lịch-Thương mại và sở Thương mại-Du lịch biên chế khoảng 3-5 người), đã nỗ lực vượt bậc, hoàn thành được chức năng quản lý nhà nước về du lịch ở cả tầm chiến lược và tác nghiệp cụ thể. Chủ trương xã hội hóa trong đào tạo du lịch, có sự kết hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp, người học để xây dựng đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có kỹ năng nghiệp vụ, phẩm chất và trách nhiệm, đổi mới công nghệ, tăng cường quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh. 6. Sự phối hợp liên ngành và địa phương có nhiều tiến bộ: Sau khi Bộ Chính trị có Kết luận 179-CT/TW về phát triển du lịch trong tình hình mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX trong lĩnh vực du lịch, chủ trương phát triển du lịch được quán triệt sâu rộng trong cả nước; cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn dần được làm rõ; các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tổng cục Du lịch phối hợp với các bộ, ngành trung ương, tăng cường làm việc với cấp uỷ và chính quyền địa phương các cấp để quán triệt và thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy tỉnh Phạm Trọng Lê Nghĩa 39
  40. uỷ, thành uỷ nhiều địa phương đã có nghị quyết hoặc chỉ thị về phát triển du lịch; các địa phương đã tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch. Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch được thành lập, do Phó Thủ tướng làm Trưởng ban, các thành viên là đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan trực tiếp đến du lịch. Ở địa phương, đã có 51 tỉnh, thành phố thành lập Ban Chỉ đạo phát triển du lịch của địa phương. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đã đi vào cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức và hành động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và toàn xã hội, huy động được nhiều nguồn lực cho sự nghiệp phát triển du lịch. Các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng quy hoạch phát triển du lịch địa phương mình. Chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương trình hành động quốc gia về du lịch trong 5 năm qua đạt hiệu quả, làm cho hoạt động du lịch sôi động cả trong và ngoài nước. Các tiềm năng, thế mạnh về du lịch của đất nước đã được khai thác tốt hơn để đa dạng hóa và nâng dần chất lượng sản phẩm, tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh. Đã phối hợp liên ngành và địa phương khôi phục và tổ chức thành công hàng chục lễ hội truyền thống, tạo sự chú ý của công chúng và du khách trong và ngoài nước, từng bước khai thác thế mạnh văn hóa, lịch sử và sinh thái của đất nước để phát triển du lịch. Cùng với việc chú trọng đẩy mạnh phối hợp liên ngành và thực hiện xã hội hóa hoạt động du lịch, 5 năm gần đây Tổng cục Du lịch đã chú trọng phối hợp các địa phương để nâng cao tính liên ngành của hoạt động du lịch. Nét nổi bật trong quản lý nhà nước về du lịch mấy năm gần đây là sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ của các địa phương, các ngành trong hoạt động du lịch bằng việc ký kết các thỏa thuận hợp tác để đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch, phát huy tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng các chương trình du lịch, phát huy tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng các chương trình du lịch theo các tuyến liên vùng; phối hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ du lịch. Trên cơ sở các văn bản thỏa thuận hợp tác, Lãnh đạo địa phương chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp triển khai các chương trình hợp tác với đối tác trong địa phương kết nghĩa. Các Sở quản lý du lịch đã hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị thực hiện các dự án xây dựng sản phẩm du lịch, liên doanh, lập dự án đầu tư nhằm tăng cường mối liên kết, mở rộng phạm vi các chương trình, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Du lịch Hà Nội đã phát huy lợi thế là trung tâm du lịch đầu tầu của Du lịch cả nước làm tốt công tác hợp tác và là hạt nhân liên kết trong quản lý phát triển du lịch: Sở Du lịch Hà Nội đã có văn bản thỏa thuận hợp tác với 10 Sở; Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã ký thỏa thuận hợp tác với 8 Sở; phối hợp chặt chẽ với các Sở tại địa phương liên quan triển khai có kết quả các nội dung thỏa thuận hợp tác. Các liên kết khu vực giữa các địa phương được hình thành dưới nhiều hình thức như: Chương trình hợp tác du lịch Phú Thọ - Yên Bái – Lào Cai; Chương trình du lịch “Theo dấu chân Bác Hồ” của Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên; Chương trình “Con đường Di sản miền Trung” của các Sở quản lý nhà nước về du lịch miền Trung; Chương trình phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long; Các sự kiện du lịch được tổ chức tại một địa phương đã được các địa phương khác hưởng ứng và tham gia tích cực nên đã tạo ra chuỗi sự kiện đều khắp cả nước, thể hiện rõ tính liên vùng. Hoạt động kinh doanh du lịch nhờ thế có điều kiện thuận lợi để phát triển, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập của du lịch mỗi địa phương và cả nước. 7. Công tác hợp tác quốc tế được mở rộng, khai thác tốt tiềm lực bên ngoài: Với nỗ lực mở rộng hợp tác quốc tế, Du lịch Việt Nam đã ký và thực hiện tốt 26 hiệp định hợp tác du lịch song phương với các nước là thị trường du lịch trọng điểm và trung tâm giao lưu quốc tế, tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác. Ký Hiệp định hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; thiết lập và tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác; tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch Tiểu vùng Mêkông mở rộng, hợp tác hành lang Đông- Tây, hợp tác sông Mêkông-sông Hằng, hợp tác ASEAN, APEC, ASEM, hợp tác trong Hiệp hội Phạm Trọng Lê Nghĩa 40
  41. du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA), trong Tổ chức Du lịch thế giới (WTO) ; có quan hệ bạn hàng với 1.000 hãng của 60 nước và vùng lãnh thổ. Nhờ thế đã tranh thủ được vốn, kinh nghiệm, công nghệ, nguồn khách, đẩy mạnh xúc tiến du lịch và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động gắn kết hoạt động du lịch Việt Nam với du lịch khu vực và thế giới. Một số chính phủ và tổ chức quốc tế như Luxembourg, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Hà Lan, Cu Ba, cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp, EU, WTO cam kết và viện trợ không hoàn lại gần 40 triệu USD về đào tạo nhân lực và hỗ trợ kỹ thuật cho Du lịch Việt Nam; thu hút 6,112 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào 239 dự án (chiếm 20% tổng số vốn FDI cả nước – không tính số dự án đầu tư vào văn phòng và căn hộ cho thuê). Ngành Du lịch đã thực hiện chủ trương dựa vào lợi thế so sánh (như văn hóa, ẩm thực, nguyên liệu, lao động ) đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, chủ yếu là kinh doanh ăn uống ở các nước láng giềng, Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ. Kết quả hoạt động hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế đa phương và song phương trong du lịch; việc đón tiếp gần 3 triệu khách du lịch quốc tế mỗi năm và đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch ra nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền về đất nước, con người và du lịch Việt Nam, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, tăng cường ngoại giao nhân dân, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước. 8. Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả kinh tế-xã hội ngày càng lớn và toàn diện: Về khách du lịch: Lượng khách năm 1994 đạt một triệu, đã về trước kế hoạch 1 năm và vượt dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới 6 năm. Từ 1990 đến nay lượng khách du lịch luôn duy trì được mức tăng trưởng cao 2 con số (trung bình năm trên 20%). Khách du lịch quốc tế tăng 11 lần từ 250.000 lượt (năm 1990) lên xấp xỉ 3 triệu lượt (năm 2004). Khách du lịch nội địa tăng 14,5 lần, từ 1 triệu lượt (năm 1990) lên 14,5 triệu lượt (năm 2004). Số lượng người Việt Nam đi du lịch nước ngoài ngày càng tăng, hàng năm trên 1 vạn người. Bảng 3: Số lượng khách du lịch hàng năm Chỉ tiêu 1990 1995 2000 2001 2002 20034 2004 Khách quốc tế 0,25 1,35 2,14 2,33 2,62 2,43 2,93 (triệu lượt) Khách nội địa 1,0 6,9 11,2 11,7 13,0 13,5 14,5 (triệu lượt) (4) Năm 2003, do ảnh hưởng của dịch SARS nên các chỉ tiêu du lịch giảm so với năm 2002. Năm 2004 chỉ tiêu tăng trưởng du lịch đã phục hồi và vượt mức trước SARS Nguồn: Tổng cục Thống kê Về thu nhập xã hội từ Du lịch: Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập có thể thấy rõ là năm 1990 thu nhập xã hội từ du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2004, con số đó đã là 26.000 tỷ đồng, gấp 20 lần. Phạm Trọng Lê Nghĩa 41