Luận văn Tự do hoá thương mại dịch vụ của trung quốc với tư cách là thành viên của wto và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

pdf 148 trang vanle 2640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tự do hoá thương mại dịch vụ của trung quốc với tư cách là thành viên của wto và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_tu_do_hoa_thuong_mai_dich_vu_cua_trung_quoc_voi_tu.pdf

Nội dung text: Luận văn Tự do hoá thương mại dịch vụ của trung quốc với tư cách là thành viên của wto và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ĐOÀN VIỆT THUỶ TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐC VỚI TƯ CÁCH LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Hà Nội - 2006
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ĐOÀN VIỆT THUỶ TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐC VỚI TƯ CÁCH LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế Mã số : 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Nguyễn Phúc Khanh Hà Nội - 2006
  3. LỜI CẢM ƠN Tác giả của bản luận văn xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Phúc Khanh, mặc dù rất bận với công tác chuyên môn, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2006. Tác giả Đoàn Việt Thuỷ
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng I: NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA WTO VỀ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ 4 1.1 Những vấn đề cơ bản về thƣơng mại dịch vụ 4 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm thương mại dịch vụ 4 1.1.2 Các hình thức cung cấp thương mại dịch vụ 12 1.1.3 Phân loại dịch vụ 13 1.2 Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ trong WTO 14 1.2.1 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) 14 1.2.2 Những vấn đề đặt ra đối với các nước trong quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ 24 Chƣơng II: TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐC VỚI TƢ CÁCH LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 31 2.1 Đánh giá thực trạng phát triển thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc trƣớc khi gia nhập WTO 31 2.1.1 Thực trạng phát triển của các ngành thương mại dịch vụ 31 2.1.2 Những cơ hội và thách thức đối với thương mại dịch vụ của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO 42 2.2 Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO 50 2.2.1 Những cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của Trung Quốc 50 2.2.2 Tình hình thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của
  5. Trung Quốc 64 Chƣơng III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM QUA NGHIÊN CỨU TỰ DO HÓA THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐC 69 3.1 Tình hình thƣơng mại dịch vụ ở Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO 69 3.1.1 Thực trạng thương mại dịch vụ ở Việt Nam 69 3.1.2 Những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO 74 3.2 Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc 80 3.2.1 Kinh nghiệm trong đàm phán gia nhập WTO 80 3.2.2 Kinh nghiệm sau khi gia nhập WTO và thực hiện các cam kết về thương mại dịch vụ 86 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Khu vực dịch vụ nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Sự phát triển các lĩnh vực dịch vụ có nhiều hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao cũng như sự liên kết chặt chẽ giữa dịch vụ với các ngành công nghiệp và nông nghiệp là một nhân tố quyết định đảm bảo khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế. Cũng như các ngành kinh tế khác, thương mại dịch vụ không thể đứng ngoài xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa thị trường dịch vụ tạo ra những cơ hội to lớn trong tiếp cận thị trường thế giới, thu hút đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý mới từ bên ngoài, song cũng đồng nghĩa với sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp trong nước. Cách thức mở cửa thị trường dịch vụ cũng có những điểm khác biệt so với mở cửa thị trường hàng hoá. Nhiều lĩnh vực dịch vụ còn thường được xem là “nhạy cảm” về mặt chính trị, văn hoá, xã hội. Lợi thế so sánh trong các lĩnh vực dịch vụ có nhiều hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao nghiêng hẳn về phía các nước phát triển. Chính vì vậy, mở cửa thị trường dịch vụ luôn là điểm nóng trên các bàn đàm phán về tự do hoá thương mại, nhất là giữa các nước phát triển và đang phát triển. Cam kết và thực hiện cam kết mở cửa các lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi phải có các luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng. Trung Quốc và Việt Nam là hai nền kinh tế khác biệt về qui mô, song có nhiều điểm tương đồng, nhất là về thể chế chính trị, kinh tế và xã hội. Trung Quốc đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) kể từ năm 2001. Việt Nam cũng đang thực hiện những bước đi cuối cùng để có thể gia nhập tổ chức này trong thời hạn sớm nhất. Việc nghiên cứu kinh nghiệm tự do hoá thương mại dịch vụ của Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có những bài học kinh nghiệm trong việc đàm phán gia nhập WTO và thực hiện các cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ. Chính vì vậy, vấn đề “Tự do hoá thương mại dịch vụ của Trung Quốc với tư cách là thành viên của WTO và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” đã được lựa chọn làm đề tài của luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế này.
  7. 2 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: Mục đích của luận văn: Nghiên cứu quá trình tự do hoá Thương mại dịch vụ của Trung Quốc với tư cách là thành viên của WTO đồng thời nêu bật những cơ hội và thách thức của quá trình này nhằm rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc tự do hoá Thương mại dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO của Việt Nam. Nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của tự do hoá thương mại dịch vụ. - Nghiên cứu quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO. - Rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc tự do hoá thương mại dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam tích cực đàm phán để chủ động gia nhập Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) từ đó gia nhập WTO. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những mối quan hệ liên quan đến xu hướng tự do hoá thương mại dịch vụ của thế giới nói chung và của Trung Quốc nói riêng. Đối tượng nghiên cứu còn bao gồm cả những quy định, những nguyên tắc pháp lý của GATS/WTO về thương mại dịch vụ. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lê nin về duy vật biện chứng và duy vật lich sử. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như thống kê, phân tích định tính, so sánh và sử dụng số liệu minh hoạ. Ngoài ra, luận văn cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia kinh tế trong và
  8. 3 ngoài nước cũng như tham khảo và tổng hợp các ý kiến rộng rãi của giới nghiên cứu thông qua các hội thảo, hội nghị quốc tế. 5. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục các bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau: Chƣơng I: Những qui định của WTO về thƣơng mại dịch vụ và tự do hoá thƣơng mại dịch vụ Chƣơng II: Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc với tƣ cách là thành viên của WTO Chƣơng III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ việc nghiên cứu tự do hóa thƣơng mại dịch vụ ở Trung Quốc
  9. 4 Chƣơng I: NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA WTO VỀ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ 1.1 Những vấn đề cơ bản về thƣơng mại dịch vụ 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm thƣơng mại dịch vụ 1.1.1.1 Khái niệm thƣơng mại dịch vụ: a. Khái niệm dịch vụ: * Khái niệm: Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần có các sản phẩm vật chất cụ thể mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Tổng thu nhập quốc dân của một quốc gia cũng như doanh thu của một doanh nghiệp không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ. Vậy dịch vụ là gì? Các Mác cho rằng: dịch vụ là con đẻ của nền sản xuất hàng hoá. Khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển. Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ. Từ lý luận của Các Mác đã xuất hiện rất nhiều cách hiểu khác nhau về dịch vụ mà điển hình là hai cách hiểu sau: Cách hiểu thứ nhất : - Theo nghĩa rộng thì dịch vụ được coi là một ngành kinh tế thứ ba. Theo cách hiểu này thì các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp được coi là thuộc ngành dịch vụ. - Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ là phần mềm của sản phẩm hỗ trợ cho khách hàng trước, trong và sau khi bán. Cách hiểu thứ hai: - Theo nghĩa rộng thì dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng không tồn tại dưới dạng vật chất. - Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ là một công việc mà hiệu quả của nó là đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng các hoạt động tiếp xúc giữa người cung cấp với khách hàng, và các hoạt động nội bộ của người cung cấp.
  10. 5 Như vậy có thể định nghĩa một cách chung nhất là: dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm không tồn tại dưới hình thức vật chất mà việc cung cấp và tiêu thụ không thể tách rời nhau nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. * Đặc điểm: Để hiểu rõ khái niệm dịch vụ, có thể nghiên cứu một số đặc điểm nổi bật và khác biệt của dịch vụ so với hàng hoá như sau: - Tính vô hình và phi vật chất Tính vô hình thể hiện ở chỗ dịch vụ "là những thứ mà khi đem bán không thể rơi vào chân bạn" (Liberalizing International Transactions in Services, tr1.). Quá trình sản xuất hàng hoá tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hoá học, nhất định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hoá. Khác với hàng hoá, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những vật phẩm cụ thể, không nhìn thấy được và do đó không thể xác định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hoá. Người tiêu dùng chỉ có thể tìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ cung ứng như: thương hiệu, danh tiếng người cung ứng, biểu tượng, giá cả hay qua sự mô tả về dịch vụ đó của các khách hàng khác đã tiêu dùng dịch vụ hoặc qua thông tin quảng cáo. - Quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất hàng hoá tách khỏi lưu thông và tiêu dùng hàng hoá. Khác với hàng hoá, quá trình cung ứng dịch vụ gắn liền với tiêu dùng dịch vụ. Thí dụ với dịch vụ tư vấn đầu tư, khi chuyên gia về đầu tư tư vấn cho khách hàng cũng là lúc khách hàng tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn do chuyên gia này cung ứng. - Tính không thể lưu trữ được của dịch vụ Sự khác biệt này là do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng.
  11. 6 Khác với thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ không tách ra khỏi quá trình sản xuất (cung ứng) và tiêu dùng dịch vụ. Thương mại hàng hoá thực hiện chức năng tiếp tục quá trình sản xuất hàng hoá trong khâu lưu thông, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Nhưng do đối tượng của thương mại dịch vụ là sản phẩm dịch vụ nên quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ diễn ra đồng thời với trao đổi và tiêu dùng dịch vụ. Bởi sản phẩm dịch vụ không thể được sản xuất (cung ứng) từ trước rồi sau đó mới đem đi trao đổi trên thị trường. - Tính đồng nhất và khó xác định chất lượng Chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rộng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ như người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng. Ví dụ, một ca phẫu thuật thẩm mỹ có thể thành công với khách hàng này nhưng lại không thành công với khách hàng khác bởi mức độ thành công của nó không chỉ phụ thuộc vào tay nghề của những người thực hiện ca phẫu thuật, các phương tiện kỹ thuật trợ giúp mà còn phụ thuộc vào tâm trạng và các yếu tố tâm lý của họ. Sự không ổn định chất lượng là lý do giải thích tại sao người mua dịch vụ thường hỏi ý kiến người đã tiêu dùng trước trong khi lựa chọn người cung cấp dịch vụ. - Tính không hư hỏng Dịch vụ sản xuất ra được tiêu dùng ngay nên không thể lưu trữ được do đó khả năng hư hỏng là không có. - Tính không có sự di chuyển hoàn toàn quyền sở hữu Người sở hữu dịch vụ thường dưới dạng tay nghề hay kinh nghiệm hoặc trình độ nhất định nên không thể vì ý thích hay vì lý do gì khác mà chuyển quyền chiếm hữu và định đoạt nó cho người khác được. Khi cung cấp dịch vụ người này chỉ chuyển quyền sử dụng dịch vụ đó cho người tiêu dùng dịch vụ. Do vậy, trong việc cung cấp dịch vụ không có sự di chuyển hoàn toàn quyền sở hữu. b. Khái niệm thƣơng mại dịch vụ Cùng với sự phát triển của thương mại, dịch vụ đã ngày càng tỏ rõ vị trí quan trọng của nó, làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế. Lúc này dịch vụ không vòng tồn
  12. 7 tại với tính chất là một ngành bổ trợ, là dẫn xuất trong thương mại nữa mà trở thành đối tượng của thương mại, từ đó mà hình thành khái niệm về thương mại dịch vụ. Vấn đề quan trọng nhất không phải là bản thân định nghĩa thế nào là dịch vụ hay hàng hoá mà lại là tính chất thương mại của chúng. Thương mại hàng hoá là thương mại các sản phẩm hữu hình, còn thương mại dịch vụ về cơ bản là thương mại các sản phẩm vô hình. Nếu như thương mại hàng hoá là việc trao đổi những cái cụ thể và nhìn thấy được, thì thương mại dịch vụ về cơ bản là trao đổi những “sản phẩm” không thể nhìn thấy, cầm nắm hay tích trữ được. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại dịch vụ đều có thể trao đổi hay mua bán đặc biệt là trong trao đổi quốc tế, ví dụ như các dịch vụ công cộng, dịch vụ thuộc chức năng quản lý của Nhà nước Xu hướng thương mại hoá dịch vụ là một trong những vấn đề đặc biệt quan tâm của WTO. Trong điều 1 của Hiệp định GATS, thương mại dịch vụ được định nghĩa như là việc cung cấp một dịch vụ: - Từ lãnh thổ của một nước thành viên sang lãnh thổ của một nước thành viên khác (cung cấp qua biên giới) - Trong lãnh thổ một nước thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của một nước thành viên khác (tiêu dùng ở nước ngoài) - Bởi một người cung cấp dịch vụ của một nước thành viên thông qua hiện diện thương mại trong lãnh thổ của một nước thành viên khác (hiện diện thương mại) - Bởi một người cung cấp dịch vụ của một nước thành viên thông qua sự hiện diện của thể nhân của một nước thành viên trong lãnh thổ của bất cứ thành viên nào khác (hiện diện của thể nhân) 1.1.1.2 Đặc điểm của thƣơng mại dịch vụ hiện nay * Gia tăng thương mại dịch vụ có sự di chuyển các yếu tố như con người, vốn, tri thức và công nghệ qua biên giới Đây là một đặc điểm quan trọng của thương mại dịch vụ. Nếu như việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đòi hỏi sản phẩm phải có sự vượt ra khỏi biên giới tự nhiên của nước xuất khẩu để vào được lãnh thổ hải quan của nước nhập khẩu thì việc trao đổi dịch vụ gần như không cần phải có sự di chuyển của bản thân sản
  13. 8 phẩm mà thay vào đó là sự di chuyển của chính nhà cung cấp dịch vụ hay nhà tiêu thụ dịch vụ. Từ năm 1985, việc cung cấp dịch vụ quốc tế được chia theo bốn phương thức: i) cung cấp qua biên giới, ii) tiêu dùng ở nước ngoài, iii) hiện diện thương mại và iv) di chuyển của thể nhân [46]. Sự di chuyển của vốn, tri thức và công nghệ trong hai phương thức đầu tiên là không đáng kể. Hai phương thức cuối cùng đều là sự di chuyển qua biên giới của nhà cung cấp dịch vụ gia tăng. Theo phương thức iii, một phương thức cung cấp dịch vụ chiếm tỷ trọng cao, người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ tại nước ngoài thông qua hiện diện thương mại của mình như các công ty, chi nhánh, văn phòng đại diện Thành lập hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài tức là các nhà cung cấp dịch vụ đã đầu tư trực tiếp vào nước của người tiêu dùng dịch vụ. Khi đó nước của người tiêu dùng dịch vụ sẽ nhận được vốn đầu tư, tri thức cũng như công nghệ tiên tiến của người cung cấp dịch vụ nước ngoài. Trong phương thức iv, cùng với sự di chuyển qua biên giới của các cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ với trình độ và chuyên môn của mình là sự di chuyển của vốn, tri thức và công nghệ vào nước của người tiêu dùng. * Thương mại dịch vụ ngày càng chịu ảnh hưởng của các quy định trong nước của một quốc gia Do việc tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời với việc cung cấp trên lãnh thổ của một quốc gia nên Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động thương mại dịch vụ thông qua việc làm cản trở khả năng cung cấp của người cung cấp dịch vụ hoặc khả năng tiêu dùng của người tiêu dùng dịch vụ. Giao dịch về dịch vụ trong thương mại quốc tế được thực hiện thông qua 4 phương thức cung cấp dịch vụ do đó các quy định trong nước của một quốc gia cũng ảnh hưởng khác nhau theo 4 phương thức đó: Trong phương thức i) thì các quy định trong nước chỉ ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của bản thân người tiêu dùng dịch vụ của nước mình. Nhà nước có thể ra các quy định giám sát và ngăn chặn các loại dịch vụ bất hợp pháp như dịch vụ sử dụng dịch vụ viễn thông không qua hệ thống truyền dẫn trong nước, dịch
  14. 9 vụ cung cấp các thông tin có nội dung xấu. Nhà nước có thể thừa nhận hoặc không thừa nhận một giao dịch là hợp pháp để ra các quy định cho phép hoặc không cho phép thực hiện thanh toán quốc tế để từ đó hạn chế sự phát triển của một số loại dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích Trong phương thức ii) thì các quy định trong nước chỉ ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của bản thân người tiêu dùng dịch vụ của nước mình. Nhà nước có thể can thiệp sự tiêu dùng của người tiêu dùng dịch vụ của nước mình bằng các quy định hạn chế việc sử dụng ngoại tệ đối với người tiêu dùng nước mình tại nước ngoài hay ngược lại là khuyến khích người nước ngoài phát triển tiêu dùng tại nước mình. Trong phương thức iii) và iv): Đây là phương thức quan trọng nhất để dịch vụ có thể được sản xuất và tiêu dùng có hiệu quả. Do đó, các quy định trong nước có thể ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cung cấp và khả năng tiêu dùng dịch vụ. Trong phương thức iii), Nhà nước có thể hạn chế khả năng cung cấp của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thông qua các quy định về hình thức hiện diện thương mại, về địa lý, về phạm vi kinh doanh và giấy phép của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Các nước đều hạn chế rất lớn đối với hình thức cung cấp dịch vụ theo phương thức iv) do sức ép thất nghiệp trong nước. Do đó, nước của người tiêu dùng dịch vụ có thể khuyến khích hay hạn chế khả năng cung cấp dịch vủa của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bằng các quy định về nhập cảnh, quá cảnh với các thể nhân người nước ngoài. Từ việc ảnh hưởng đến khả năng cung cấp của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, Nhà nước có thể điều tiết được khả năng tiêu dùng dịch vụ của người tiêu dùng trong nước. * Các hoạt động dịch vụ ngày càng được thương mại hoá Cho đến thập kỷ 70, các nhà kinh tế học vẫn cho rằng ngành dịch vụ là tập hợp chủ yếu của những hoạt động phi thương mại. Nhận định này được phát triển dựa trên đặc điểm cơ bản của các lĩnh vực dịch vụ là tính chất vô định hình và sự chi phối chặt chẽ của tính chất đó tới khả năng cung cấp và tiêu dùng dịch vụ. Quá
  15. 10 trình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm dịch vụ hầu như diễn ra đồng thời và cần thiết phải gắn liền với một khu vực địa lý nơi mà nhà cung cấp dịch vụ yêu cầu phải có sự hiện diện thực tế. Việc cung cấp dịch vụ có thể coi là bị giới hạn trong điều kiện nhất định vì về cơ bản dịch vụ cần có sự tiếp xúc cần thiết của người tiêu dùng và người cung cấp dịch vụ; Việc cung cấp dịch vụ phải được pháp luật tại nơi diễn ra các hoạt động cung cấp dịch vụ cho phép. Điều kiện như vậy chỉ có thể đạt được tối đa khi hoạt động cung cấp dịch vụ trong phạm vi một quốc gia, một vùng lãnh thổ nơi mà những hạn chế và quy định đối với việc cung cấp dịch vụ là tương đối thuần nhất. Điều này thể hiện rõ nét tính chất khó thương mại hoá của dịch vụ. Cùng với xu thế phát triển, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ thì khả năng thương mại hoá của các ngành dịch vụ cũng không ngừng được cải thiện. Từ những năm đầu thập kỷ 80 và đặc biệt là cuối thế kỷ 19, các ngành dịch vụ đã phát triển vượt bậc khiến nhiều lĩnh vực dịch vụ hoàn toàn có thể được thương mại hoá với hiệu quả cao. Năm 1982, kim ngạch dịch vụ chỉ đạt 400 tỷ USD thì năm 1992 đã đạt đến 1000 tỷ USD và đến năm 2004 đạt 2100 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại hàng năm của các ngành dịch vụ luôn cao hơn (7,7%/năm) so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch hàng hoá (3-4%/năm). * Tính đa dạng của các hình thức thương mại dich vụ Đối tượng của thương mại hàng hoá là hàng hoá cụ thể được trao đổi. Trái lại, thương mại dịch vụ hay thương mại các hàng hoá vô hình không được thể hiện một cách đơn giản là sự trao đổi đơn thuần mà là việc trao đổi đó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. GATS đã đưa ra 4 hình thức cung cấp dịch vụ, theo đó mô tả các khả năng cung cấp của nhà cung cấp dịch vụ. Các hình thức này đều được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới. * Vai trò của doanh nghiệp độc quyền trong ngành dich vụ Trong lĩnh vực dịch vụ, nhiều ngành dịch vụ có mức tập trung tư bản cao, sử dụng công nghệ hiện đại và quy mô lớn. Do vậy, nhiều ngành dịch vụ đã hình thành độc quyền tự nhiên của Nhà nước hoặc chịu sự chi phối của một số doanh nghiệp độc quyền như ngân hàng, viễn thông, hàng không, vận tải biển. Tại hầu
  16. 11 hết các quốc gia, những doanh nghiệp dịch vụ lớn nhất trong những ngành này là do một hoặc một số doanh nghiệp chủ đạo nắm giữ. Tính chất độc quyền trong hoạt động thương mại dịch vụ là cần thiết và khách quan. Sự phát triển của dịch vụ nhờ đó mới có những thành tựu đáng kể trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ một cách rộng rãi, với qui mô và chất lượng ngày một tăng. Một trong những yêu cầu quan trọng của hoạt động cung ứng dịch vụ là việc đảm bảo một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt cho nền kinh tế, trong đó nhiều loại nhu cầu mang tính chất xã hội mà Nhà nước bắt buộc phải thực hiện qua hệ thống độc quyền mới đảm bảo hiệu quả. Ví dụ, việc xây dựng các bến cảng, sân bay, hệ thống viễn thông, trạm xá, bệnh viện đều là những loại dịch vụ cần có sự phân bổ trực tiếp của Nhà nước mà thông thường tính độc quyền mới có thể thực hiện được. Một ví dụ khác là những nhu cầu dịch vụ đối với vùng sâu, vùng xa, khó khăn mà lợi ích kinh tế từ hoạt động cung cấp dịch vụ là rất thấp, trong khi đó do nhu cầu về chính sách xã hội, Nhà nước không thể không cung cấp. Điều này chỉ có thể được thực hiện khi Nhà nước phải có sự hoán đổi giữa nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm đó với quyền được cung cấp dịch vụ một cách độc quyền. Mặc dù vậy, trong nhiều trường hợp khác, độc quyền lại có tác dụng ngược lại tức là sự suy giảm về chất lượng và khả năng trục lợi tự nhiên của các doanh nghiệp độc quyền này. Điều đó có nghĩa, tự thân độc quyền trong những ngành dịch vụ không phải là một khái niệm xấu, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ mà vấn đề là việc tạo dựng động lực cạnh tranh và tự hoàn thiện của doanh nghiệp độc quyền đó. Trong xu thế toàn cầu hoá ngày nay, việc thực hiện tự do hoá thương mại dịch vụ bao hàm cả vấn đề tạo lập môi trường cạnh tranh trong điều kiện có độc quyền. * Sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật trong các ngành dịch vụ Các ngành dịch vụ hiện nay được sử dụng và cung cấp dựa trên nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật mà người cung cấp hoặc tiêu dùng đặt ra. Đặc biệt là trong những ngành áp dung kỹ thuật cao như viễn thông, phần mềm, phim ảnh, các dịch vụ hỗ trợ vận tải hàng không và những ngành đòi hỏi tính chất có chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp và quản lý dữ liệu cao như dịch vụ pháp lý, kiến trúc, tư vấn kỹ thuật.
  17. 12 Hạn chế này trong nhiều trường hợp, không cho phép việc cung cấp dịch vụ nếu như không gắn với sự hiện diện thương mại hay việc tiếp xúc thực tế cần thiết giữa nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ, nhưng điều này sẽ làm nảy sinh chi phí cao trong quá trình kinh doanh. Xu hướng chuẩn hoá các sản phẩm dịch vụ bao gồm: (1) Thống nhất hay tạo ra sự tương thích lẫn nhau về các tiêu chuẩn về kỹ thuật trong các ngành như tài chính, viễn thông, phần mềm. Cần lưu ý rằng những tiêu chuẩn kỹ thuật này thường do các nước phát triển (các quốc gia nắm công nghệ nguồn) qui định hoặc có ảnh hưởng chủ yếu. Do vậy, vấn đề này hầu như không gây ra cản trở đáng kể nào. (2) Sự công nhận bằng cấp lẫn nhau đối với các ngành nghề chuyên môn, điều này khá phức tạp ở các nước đang phát triển và cả đối với các nước phát triển. Hầu hết các cam kết của các nước đều có quy định rất chặt chẽ về vấn đề công nhận bằng cấp đối với việc sản xuất và cung cấp dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ thương mại. Đây là vấn đề không dễ giải quyết. Cho đến nay, vấn đề này được xúc tiến trong các Hiệp định khu vực, ở các tổ chức quốc tế và cả ở phạm vi toàn cầu [48]. * Thống kê giá trị thương mại dịch vụ gặp nhiều khó khăn Các nhà nghiên cứu đều cho rằng các số liệu về thương mại dịch vụ hiện nay vẫn chưa phản ánh được đúng qui mô trao đổi dịch vụ trên thế giới. Các giao dịch dịch vụ được ghi nhận trong tài khoản cán cân thanh toán của các nước theo những nhóm rất rộng và theo những cách tính khác nhau như giá trị ròng và giá trị gộp. Những cách tính này có xu hướng giảm giá trị dịch vụ trao đổi trong Tổng kết cán cân thanh toán của IMF. Trong tài liệu này, dịch vụ chỉ được tách thành ba nhóm: vận tải, đi lại và các dịch vụ khác. Cách tính này đã gộp rất nhiều dịch vụ đa dạng vào một nhóm duy nhất, làm cho việc đánh giá các số liệu gặp rất nhiều khó khăn.
  18. 13 1.1.2. Các hình thức cung cấp thƣơng mại dịch vụ Phương thức ( 1 ): cung cấp qua biên giới (Cross border) Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào lãnh thổ của một nước thành viên khác. Dịch vụ di chuyển qua biên giới độc lập với nhà cung cấp và người tiêu dùng, có nghĩa là khi giao dịch diễn ra từ lãnh thổ một nước thành viên sang lãnh thổ một nước thành viên khác, chỉ có bản thân dịch vụ di chuyển qua biên giới mà không có sự di chuyển của con người ví dụ như dịch vụ tư vấn qua fax, email, điện thoại, chữa bệnh từ xa Nhà cung cấp không thiết lập bất cứ một hiện diện nào trên lãnh thổ nước thành viên. Phương thức ( 2 ): tiêu dùng ở nước ngoài (Comsumption abroad) Phương thức này đề cập đến những dịch vụ được cung cấp trong lãnh thổ của một nước thành viên cho công dân của bất kỳ nước thành viên nào khác. Nói cách khác, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ mà người tiêu dùng đó cư trú thường xuyên. Ví dụ như dịch vụ khách sạn, nhà hàng cho người nước ngoài, dịch vụ đào tạo cho sinh viên nước ngoài Việc di chuyển tài sản của người tiêu dùng cũng thuộc phương thức này (ví dụ gửi một con tàu hoặc các thiết bị khác ra nước ngoài để sửa chữa). Phương thức (3): hiện diện thương mại (Commercial presence) Người cung cấp dịch vụ di chuyển qua biên giới để thành lập hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài như công ty con, văn phòng đại diện, chi nhánh nhằm tiến hành cung cấp dịch vụ thông qua các hiện diện này. Phương thức (4): hiện diện của thể nhân (Presence of natural persons) Dịch vụ được cung cấp qua sự hiện diện của các tự nhiên nhân của một nước thành viên ở một nước thành viên khác. Phương thức này chỉ áp dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ độc lập (tư vấn gia, nhân viên y tế ) hoặc những người làm công của họ khi họ cư trú tạm thời tại một nước thành viên. Đơn giản hơn ta có thể hiểu là dịch vụ được cung cấp bởi cá nhân của một nước thành viên tại lãnh thổ của bất cứ một nước thành viên nào khác.
  19. 14 1.1.3 Phân loại dịch vụ Danh mục dịch vụ do GATS điều chỉnh rất rộng, bao gồm 11 ngành lớn và 155 tiểu ngành: - Dịch vụ kinh doanh bao gồm các dịch vụ nghề nghiệp như dịch vụ pháp lý, dịch vụ kiểm toán, thiết kế; các dịch vụ nghiên cứu và triển khai; dịch vụ máy tính; dịch vụ liên quan đến bất động sản và các dịch vụ kinh doanh khác. - Dịch vụ thông tin liên lạc bao gồm: bưu điện, chuyển phát nhanh, viễn thông, nghe nhìn - Dịch vụ xây dựng và thi công bao gồm: xây dựng nhà cửa, xây dựng công chính, lắp đặt máy móc, hoàn thiện công trình - Dịch vụ phân phối bao gồm: đại lý hoa hồng, đại lý độc quyền, bán buôn, bán lẻ - Dịch vụ đào tạo bao gồm: tiểu học, trung học, đại học, cao học, chuyên sâu - Dịch vụ môi trường bao gồm: thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh - Dịch vụ tài chính bao gồm: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán - Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ bao gồm: chữa bệnh, bệnh viện - Dịch vụ du lịch và lữ hành bao gồm: khách sạn và nhà hàng, đại lý và điều hành du lịch, hướng dẫn viên du lịch - Dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao bao gồm: giải trí (nhà hát, rạp chiếu phim, xiếc), thư viện, bảo tàng, thể thao - Dịch vụ vận tải bao gồm: vận tải đường biển, vận tải thuỷ nội địa, vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải ô tô, vận tải đường ống, vận tải vũ trụ, các dịch vụ phụ trợ liên quan - Các dịch vụ khác
  20. 15 1.2 Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ trong WTO 1.2.1 Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ (GATS) 1.2.1.1 Sự ra đời của GATS: Vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán thương mại mang tính lịch sử, nó không chỉ đề cập tới tự do hoá hơn nữa về thương mại hàng hoá mà còn đề cập tới việc thiết lập khuôn khổ cho tự do hoá về thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư và sở hữu trí tuệ. Khi vòng đàm phán được khởi sự tại Punta del Este (Uruguay) vào 9-1986, các cuộc thảo luận đều cho rằng kết quả của vòng đàm phán phải là sự mở rộng của khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Khi vòng đàm phán kết thúc vào tháng 4-1994 tại Marrakesh (Ma rốc), WTO mới ra đời với việc sửa đổi hiệp định GATT (về thương mại hàng hoá) và bổ sung hai hiệp định mới: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Thành công của 50 năm đàm phán thương mại hàng hoá trong khuôn khổ GATT đã đưa ra một minh chứng đầy sức thuyết phục đối với các Chính phủ. Việc liên tục giảm thuế quan đã thúc đẩy thương mại hàng hoá thế giới tăng mạnh, cao hơn cả mức tăng của thu nhập thế giới. Thuế quan trung bình trên phạm vi toàn thế giới đã giảm từ mức 35% sau chiến tranh thế giới lần thứ hai xuống còn 4% ngày nay và mức tăng trưởng bình quân của thương mại đã vượt mức tăng trưởng kinh tế thế giới là hơn 2%/ năm. Thêm vào đó, sự phát triển của các luật lệ thương mại quốc tế trong GATT đã tăng thêm khả năng dự báo chế độ thương mại hàng hoá thế giới. Chính vì những thành công của GATT đối với thương mại hàng hoá mà Chính phủ các nước nhận thấy cần thiết phải có một quy chế mang tính toàn cầu để điều chỉnh thương mại dịch vụ. Tuy nhiên thoả thuận để bắt đầu các cuộc đàm phán về thương mại dịch vụ đã gặp phải những trở ngại. Đầu tiên phải kể đến là việc định nghĩa về “thương mại dịch vụ”. Xem xét trường hợp của dịch vụ du lịch, trong đó một khách hàng đi du lịch tới một nước cung cấp dịch vụ, thì ngay lập tức nó đã gặp phải những hạn chế trong định nghĩa về thương mại qua biên giới truyền thống của GATT. Thêm vào
  21. 16 đó, thương mại dịch vụ từ trước cho tới khi Hiệp định GATS ra đời, đã bị xem nhẹ và bị coi là phụ thuộc vào sản xuất và thương mại hàng hoá. Nhiều dịch vụ được điều tiết rất chặt chẽ để bảo vệ cả người tiêu dùng lẫn nền kinh tế trong nước, và một số ngành dịch vụ lại thuộc độc quyền Nhà nước như dịch vụ vận tải, viễn thông, bưu chính, ngân hàng, bảo hiểm và tái bảo hiểm, y tế và giáo dục. Do vậy một số nước coi việc đề cập tới các quy định quốc gia về hạn chế thương mại và tiến hành các cuộc đàm phán quốc tế là đe dọa đến chủ quyền quốc gia. Mặc dù vậy, vào giữa những năm 1980, rất nhiều nước phải đối mặt với những lo ngại về suy thoái toàn cầu, lạm phát kéo dài và nạn thất nghiệp gia tăng. Các nước ngày càng phải lưu ý hơn đến tầm quan trọng của thương mại dịch vụ quốc tế, vì đến thời điểm này những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy khả năng thương mại hoá các hoạt động dịch vụ. Các nước đi đến kết luận, việc xoá bỏ các rào cản đối với thương mại dịch vụ quốc tế và tạo cho các nhà xuất khẩu dịch vụ khả năng dự doán được tình hình thương mại, đầu tư quốc tế sẽ tạo ra những động lực xuất khẩu dịch vụ, đồng thời sẽ hỗ trợ cho sự phát triển mà không gây ra lạm phát trong nước và giải quyết vấn đề điều chỉnh cơ cấu kinh tế để bước vào kỷ nguyên của xã hội thông tin và chuyển sang nền kinh tế có yếu tố trí tuệ ngày càng cao. Mục tiêu lúc này rõ ràng là cần thiết phải có một thoả thuận riêng biệt về thương mại dịch vụ chứ không nên đưa ra những sửa đổi bổ sung đơn giản trong Hiệp định GATT. Hiệp định đó cần phải đề cập tới tất cả các biện pháp ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ. Chính vì thế khi khởi xướng vòng đàm phán Uruguay năm 1986, các nước đã nhất trí đưa thương mại dịch vụ vào đàm phán với tư cách một bộ phận trong cam kết trọn gói và tin rằng điều đó sẽ cải thiện toàn bộ hệ thống thương mại thế giới. Với những ý tưởng và quan niệm như vậy, các cuộc đàm phán tại vòng Uruguay trở nên tham vọng và phức tạp. Trên thực tiễn, năm 1986 các Bộ trưởng đã đồng ý thảo luận một loạt các vấn đề có tác động đến thương mại thế giới. Vòng đàm phán này đã đặt ra mục tiêu giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan đối với
  22. 17 hàng hoá, mở rộng các quy tắc đa phương trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng như trong dệt may. Vòng đàm phán này cũng đề ra mục tiêu xây dựng một chế độ thương mại tự do hơn cho thương mại dịch vụ thông qua việc hình thành một khuôn khổ các nguyên tắc và quy định thương mại. Việc đưa thương mại dịch vụ vào phạm vi đàm phán đã khắc phục được một khiếm khuyết nghiêm trọng của các quy tắc thương mại đa biên. Kết quả của những nỗ lực đó là việc ra đời của GATS. Tóm lại, GATS ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển thương mại quốc tế. Nó đã xây dựng nên những quy tắc đầu tiên về tự do thương mại dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới. 1.2.1.2 Nội dung của Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ (GATS) GATS là hiệp định đầu tiên mang tính đa biên điều chỉnh thương mại dịch vụ. Hiệp định này bao gồm 29 điều khoản chủ yếu, đồng thời có các phụ lục đi kèm tạo thành một bộ phận không thể tách rời và Hiệp định được chia thành 3 phần chính như sau: Phần I: là phần hiệp định khung về các nguyên tắc và nghĩa vụ chung bao gồm các điều khoản sau: + Điều 1: Phạm vi và định nghĩa + Điều 2: Đối xử tối huệ quốc + Điều 3: Sự minh bạch + Điều 3 bis: Sự tiết lộ các thông tin bí mật + Điều 4: Sự gia nhập ngày càng tăng của các nước đang phát triển + Điều 5: Liên kết kinh tế + Điều 5 bis: Các hiệp định về liên kết thị trường lao động + Điều 6: Quy định trong nước + Điều 7: Sự thừa nhận bằng cấp + Điều 8: Độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền + Điều 9: Thông lệ kinh doanh + Điều 10: Các biện pháp tự vệ khẩn cấp + Điều 11: Các khoản thanh toán và chuyển tiền
  23. 18 + Điều 12: Các hạn chế nhằm bảo hộ cán cân thanh toán + Điều 13: Mua sắm của Chính phủ + Điều 14: Các loại trừ chung + Điều 15: Trợ cấp Phần II: là các cam kết cụ thể bao gồm các điều khoản sau + Điều 16: Tiếp cận thị trường + Điều 17: Đối xử quốc gia + Điều 18: Các cam kết bổ sung + Điều 19: Đàm phán các cam kết cụ thể + Điều 20: Lịch trình thực hiện các cam kết cụ thể + Điều 21: Sửa đổi lịch trình + Điều 22: Tham vấn + Điều23: Giải quyết tranh chấp và thi hành + Điều 24: Hội đồng thương mại dịch vụ + Điều 25: Hợp tác kỹ thuật + Điều 26: Quan hệ với các tổ chức quốc tế khác + Điều 27: Từ chối các lợi ích + Điều 28: Các định nghĩa Phần III: là các phụ lục về một số loại hình dịch vụ bao gồm các phụ lục thuộc điều 29 như sau: + Phụ lục về các miễn trừ đối với điều 2 + Phụ lục về sự di chuyển của các tự nhiên nhân cung cấp dịch vụ theo hiệp định + Phụ lục về dịch vụ vận tải hàng không + Phụ lục về dịch vụ tài chính + Phụ lục thứ hai về dịch vụ tài chính + Phụ lục về các đàm phán về dịch vụ vận tải biển + Phụ lục về dịch vụ viễn thông + Phụ lục về các đàm phán về dịch vụ viễn thông cơ bản
  24. 19 GATS là một thoả thuận liên Chính phủ “thành lập nên một khuôn khổ đa phương các nguyên tắc và quy định về thương mại dịch vụ với mục tiêu mở rộng thương mại theo các điều kiện minh bạch hoá và tự do hoá hơn nữa”. Các nước thành viên thông qua đàm phán để đưa ra các cam kết của mình trên cơ sở điều chỉnh luật lệ và các quy định của quốc gia. Việc điều chỉnh luật lệ sẽ được tiến hành từng bước, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn mọi hạn chế đối với dịch vụ nhập khẩu cũng như nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài khi tiến hành cung cấp dịch vụ theo những phương thức khác nhau. Hiệp định GATS được WTO quản lý cùng với các hiệp định khác của vòng đàm phán Uruguay. Cơ quan chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của Hiệp định GATS là Hội đồng thương mại dịch vụ. Theo điều 24 của Hiệp định GATS, Hội đồng này có quyền hạn rất lớn: có thể tiến hành bất cứ hoạt động nào phục vụ cho việc thực thi hiệp định và các mục tiêu xa hơn. Hội đồng có thể thành lập các cơ quan trực thuộc trong trường hợp cần thiết và những cơ quan này cũng có quyền thiết lập những quy định về thủ tục làm việc riêng sau khi được sự phê chuẩn của Hội đồng. 1.2.1.3 Phạm vi áp dụng của GATS Các quy tắc của GATS được áp dụng cho tất cả các loại hình dịch vụ ở cả hiện tại và tương lai. Tuy nhiên mức độ mở cửa thị trường của từng nước không được quy định một cách tự động mà được xác định thông qua đàm phán. Một số điều khoản của GATS như nghĩa vụ MFN và minh bạch hoá được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ, nhưng các điều khoản liên quan tới tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia cho tới nay chỉ được áp dụng trong những lĩnh vực cụ thể mà các nước có đưa ra cam kết. Mức độ cam kết của các nước thành viên khác nhau rất xa và chưa có thành viên nào đưa ra cam kết trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ. Quy tắc của GATS cũng được áp dụng đối với mọi biện pháp của các nước thành viên có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ. “Biện pháp” ở đây được hiểu rất rộng, đó là bao gồm “bất kỳ biện pháp nào của một nước thành viên, cho dù dưới hình thức một luật lệ, một quy định, một quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động
  25. 20 quản lý hành chính hay bất kỳ một hình thức nào khác ”. Các biện pháp có thể “do Chính phủ, các cơ quan trung ương, vùng hay địa phương áp dụng” hoặc “do các cơ quan phi Chính phủ áp dụng khi thực hiện các quyền hạn mà các cơ quan Chính phủ, trung ương, vùng hay địa phương giao cho”. Mặc dù phạm vi của GATS rất rộng, đề cập đến tất cả các biện pháp có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, song một số vấn đề quan trọng có ảnh hưởng lớn đến các nhà cung cấp dịch vụ vẫn nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của GATS như: - Các quy định về nhập cảnh - Các dịch vụ được cung cấp theo thẩm quyền của các cơ quan Chính phủ - Các chính sách tài chính và các biện pháp thuế - Quản lý tỷ giá ngoại hối - Các vấn đề về tư nhân hoá 1.2.1.4 Các nguyên tắc cơ bản của GATS GATS tuân thủ các nguyên tắc của thương mại truyền thống trong lĩnh vực hàng hoá để điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ. Mục tiêu của các nguyên tắc này là nhằm đảm bảo sự đối xử công bằng thuận lợi cho mọi nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Cụ thể là: * Minh bạch hoá chính sách Đây là nguyên tắc và nghĩa vụ vô điều kiện của GATS đối với các nước thành viên. Nó cũng là nguyên tắc cốt yếu để tiến tới tự do hoá đa phương. Nguyên tắc này giúp các thành viên và các doanh nghiệp xác định được những hạn chế và bảo hộ từ đó đề ra các chính sách, chiến lược phù hợp. Các nghĩa vụ cơ bản của nguyên tắc này là việc xuất bản và thông báo nhanh chóng các thay đổi pháp luật, duy trì các điểm hỏi đáp và tiến hành rà soát pháp lý một cách công bằng. “Tất cả các biện pháp được áp dụng một cách rộng rãi có liên quan hay ảnh hưởng đến việc thực hiện GATS” phải được công bố nhanh chóng và “chậm nhất là vào thời điểm các biện pháp này có hiệu lực”. Kể cả ở những lĩnh vực của một Chính phủ thuộc “các Hiệp định quốc tế có liên quan hay có tác động đến thương mại dịch vụ ” thì Chính phủ đó vẫn phải có nghĩa vụ thông báo. Việc công bố các
  26. 21 quy định này có thể diễn ra ở bất kỳ địa điểm nào, bằng bất cứ biện pháp nào, và được áp dụng cho cả những biện pháp do chính quyền địa phương hay cấp vùng đưa ra. Ngoài nghĩa vụ công bố tất cả các biện pháp liên quan, các thành viên còn có nghĩa vụ thông báo nhanh chóng, ít nhất là mỗi năm một lần cho Hội đồng thương mại dịch vụ về việc ban hành mới hay thay đổi các luật lệ, quy định hay hướng dẫn hành chính trong các ngành và các tiểu ngành đã có cam kết cụ thể. Khi đưa ra các quyết định hành chính có tác động đến thương mại dịch vụ, các Chính phủ cũng phải đưa ra các công cụ mang tính khách quan (trọng tài, toà án) để giám sát các quyết định đó Các Chính phủ cam kết thành lập nhiều đầu mối giải đáp thông tin để trả lời ngay lập tức các thông tin chi tiết liên quan đến thương mại dịch vụ mà các nước thành viên khác yêu cầu trong vòng 2 năm kể từ ngày GATS có hiệu lực. Ngoài ra Chính phủ các nước phát triển phải thành lập các diễn đàn tương trợ để cung cấp thông tin đặc biệt cho các nhà cung cấp dịch vụ của các nước đang phát triển. Nguyên tắc minh bạch hoá không yêu cầu một nước thành viên phải cung cấp các thông tin bí mật, làm cản trở công tác thi hành pháp luật, trái với lợi ích công cộng. * Bình đẳng, không phân biệt đối xử Sự bình đẳng và không phân biệt đối xử được thể hiện ở hai nguyên tắc dưới đây: Đối xử tối huệ quốc (MFN) Một nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế, vốn là nền tảng của GATT là nguyên tắc MFN. Nguyên tắc này yêu cầu một nước thành viên phải dành cho tất cả các nước thành viên WTO còn lại sự đối xử ưu đãi nhất đã dành cho bất cứ nước thành viên WTO nào là đối tác thương mại của mình ngay lập tức và vô điều kiện. Sự phân biệt đối xử với các nước thứ ba bị cấm hoàn toàn. Hơn 40 năm qua nguyên tắc này đã tạo nền tảng cho tự do hoá thương mại hàng hoá trên khắp thế giới với một tốc độ không thể ngờ được. GATS cũng chứa đựng nguyên tắc này: “Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi hiệp định này, mỗi nước thành viên sẽ phải dành cho dịch vụ và các nhà
  27. 22 cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước thành viên nào sự đối xử không kém ưu đãi hơn mức đã dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ tương tự của một nước thành viên bất kỳ một cách ngay lập tức và vô điều kiện” (điều 2). Nghĩa vụ này được áp dụng đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, ở tất cả các ngành, cho dù đã có cam kết cụ thể hay chưa. Tuy vậy, khi áp dụng quy chế tối huệ quốc trong GATS các thành viên có thể được hưởng một số ngoại lệ với điều kiện các ngoại lệ đó phải do các thành viên đưa ra và đáp ứng được các điều kiện của Phụ lục về các trường hợp ngoại lệ của điều 2. Các trường hợp ngoại lệ này sẽ được Hội đồng thương mại dịch vụ xem xét lại sau 5 năm kể từ ngày GATS có hiệu lực. Nói chung, các ngoại lệ này không được kéo dài quá 10 năm kể từ ngày GATS có hiệu lực (không quá 2004) và phụ thuộc vào các vòng đàm phán về tự do hoá thương mại dịch vụ sau này. Ngoài các ngoại lệ được một nước thành viên đưa vào danh sách miễn trừ, nếu thành viên này đã tham gia vào một hiệp định thương mại dịch vụ khu vực thì được tạm thời chưa phải thực hiện nguyên tắc MFN với điều kiện hiệp định đó phải bao trùm những lĩnh vực quan trọng, xoá bỏ những biện pháp phân biệt đối xử đối với người cung cấp dịch vụ của các nước khác tham gia vào hiệp định và cấm áp dụng những biện pháp phân biệt đối xử mới. Nguyên tắc MFN nhằm mục tiêu đạt được mức độ tự do hoá dịch vụ cao như đối với thương mại hàng hoá, thông qua việc áp dụng nguyên tắc này đối với càng nhiều nước càng tốt và trên tất cả các ngành dịch vụ. Các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi thương mại không phải dựa trên các đánh giá hẹp theo từng ngành mà dựa trên cơ sở lợi ích thương mại tổng thể trên các ngành và cho tất cả các nước. Do vậy nguyên tắc MFN là một công cụ hữu hiệu trong thúc đẩy tự do hoá thương mại. Đối xử quốc gia (NT): Trong phạm vi một thị trường, đãi ngộ quốc gia trong GATS chủ yếu hàm chứa ý nghĩa không phân biệt đối xử giữa người nước ngoài với người trong nước. So với nghĩa vụ này trong thương mại hàng hoá theo GATT, hình thức đãi ngộ
  28. 23 quốc gia của GATS còn sâu rộng hơn vì nó bao trùm cả vấn đề người cung cấp dịch vụ, tuy rằng nó chỉ có hiệu lực đối với những lĩnh vực mà một nước thành viên cam kết thực hiện chứ không có giá trị hiệu lực đối với những lĩnh vực mà nước đó chưa cam kết. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia chỉ ra rằng: “mỗi nước thành viên sẽ dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ một nước thành viên nào khác sự đối xử trong tất cả các biện pháp có ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ không kém ưu đãi hơn mức dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của nước mình” (điều 17). Có ba mức xem xét, kiểm tra để đảm bảo không có sự phân biệt đối xử. Đó là: Thứ nhất, các bên thừa nhận rằng không thể dành cho người nước ngoài sự đối xử giống hệt như mức dành cho công dân nước đó, nhưng điều này phải là thông lệ. Thứ hai, sự đối xử giống về mặt hình thức hay sự đối xử khác biệt về mặt hình thức “đều được chấp nhận với điều kiện là không tạo ra sự đối xử kém thuận lợi hơn”. Thứ ba, sự đối xử sẽ bị coi là kém ưu đãi hơn nếu nó làm thay đổi các điều kiện cạnh tranh theo hướng có lợi cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của nước thành viên đó so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất cứ thành viên nào khác. Đãi ngộ quốc gia trong dịch vụ có vai trò quan trọng hơn so với trong hàng hoá, vì trọng tâm của đãi ngộ quốc gia đối với hàng hoá trong GATT là giảm thuế, cấm hạn chế số lượng nhập khẩu và bất kỳ loại thuế hay sự phân biệt đối xử nào khác sau khi đã nộp thuế hải quan. Thương mại hàng hoá có xu hướng bị hạn chế tại biên giới, trong khi đó, dịch vụ lại phụ thuộc nhiều vào các quy định trong nước có tác động tới việc cung cấp dịch vụ tại thị trường nội địa.
  29. 24 * Thương mại dịch vụ ngày càng tự do, cởi mở hơn Mục đích của GATS là làm cho thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng tự do, thông thoáng, gạt bỏ các rào cản thương mại thông qua các vòng đàm phán thương mại dịch vụ đa biên. * Thương mại dịch vụ có thể dự đoán được Hệ thống thương mại đa biên là một nỗ lực của các Chính phủ nhằm tạo nên một môi ttrường kinh doanh ổn định và có thể dự đoán được. Khi các nước đồng ý mở cửa thị trường dịch vụ, các nước phải ràng buộc lẫn nhau bằng các cam kết. Một nước chỉ có thể thay đổi các ràng buộc khi đã đàm phán với các nước khác. Đồng thời các luật lệ, chính sách về thương mại phải rõ ràng, minh bạch nghĩa là mọi thay đổi về chính sách luật lệ phải được thông báo trước để các nhà đầu tư và các thương nhân biết. * Thúc đẩy cạnh tranh công bằng GATS là một hệ thống các quy tắc đảm bảo các điều kiện cạnh tranh được rộng mở, công bằng và không bị sai lệch. Các quy định về đối xử tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, minh bạch hoá chính sách luật lệ đều nhằm tạo điều kiện canh tranh công bằng giữa dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ trong nước; giữa các dịch vụ, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài với nhau. Tóm lại, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS là một trong ba nền tảng cơ bản của Tổ chức Thương mại Thế giới. Sự ra đời của nó là một yêu cầu tất yếu và khách quan trong điều kiện vai trò của dịch vụ và thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng trở nên to lớn trong nền kinh tế thế giới. Nó là hiệp định đa phương đầu tiên có hiệu lực pháp lý để điều chỉnh lĩnh vực thương mại và đầu tư dịch vụ. GATS đã tạo ra một khuôn khổ các quy tắc rõ ràng dễ dự đoán để tiến hành hoạt động thương mại dịch vụ và khởi xướng tiến trình tự do hoá. Mục tiêu của GATS là chấm dứt tình trạng can thiệp bằng các luật lệ một cách tuỳ tiện và đảm bảo luật pháp có tính dự báo nhằm phát triển thương mại và đầu tư, vì các thành viên của
  30. 25 GATS đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ và cam kết của mình thông qua một cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu lực cao trong khuôn khổ WTO. Một khi thành viên đã đưa ra cam kết đối với một ngành dịch vụ cụ thể thì thành viên đó không thể rút lại cam kết này nếu không có sự bù đắp cho các nước thành viên khác. GATS hãy còn là một hiệp định mới mẻ. Mặc dù tồn tại chưa lâu nhưng GATS đã chứng tỏ là một công cụ hữu hiệu để đạt mục tiêu thúc đẩy thương mại phát triển. Tuy nhiên các nước đều hy vọng rằng GATS sẽ tiếp tục cải thiện mức độ mở cửa thị trường dịch vụ, vì vẫn còn nhiều lĩnh vực chưa nằm trong phạm vi điều chỉnh của GATS và còn tồn tại nhiều hàng rào thương mại gây cản trở rất lớn do các quốc gia thành viên không có nghĩa vụ phải đưa ra các cam kết mở cửa thị trường cho tất cả các ngành dịch vụ hay cam kết ràng buộc đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến cung cấp dịch vụ. 1.2.2 Những vấn đề đặt ra đối với các nƣớc trong quá trình tự do hoá thƣơng mại dịch vụ 1.2.2.1 Các cam kết cụ thể về tự do hoá thƣơng mại dịch vụ theo các quy định của GATS Các cam kết cụ thể về tự do hoá thương mại dịch vụ của các nước thành viên theo quy định của GATS bao gồm các cam kết sau: * Cam kết về mở cửa thị trường: Điều 16 của GATS về tiếp cận thị trường quy định: “ đối với việc tiếp cận thị trường thông qua các phương thức cung cấp quy định trong điều 1, mỗi thành viên sẽ dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất cứ một nước thành viên nào khác sự đối xử không kém ưu đãi hơn mức đã quy định trong các điều khoản, các điều kiện và các hạn chế đã nhất trí và ghi rõ trong danh mục cam kết của mình”. Quy định này ngăn chặn những trở ngại đối với việc tiếp cận thị trường và đảm bảo rằng những điều kiện giống nhau được áp dụng cho tất cả các dịch vụ và nhà cung cấp. Nguyên tắc này cho phép các công ty nước ngoài cung cấp các dịch vụ qua biên giới lãnh thổ của một nước khác mà không cần lập cơ sở ở nước đó, họ cũng có thể
  31. 26 lập hiện diện thương mại và gửi các cán bộ chủ chốt đến các cơ sở tại nước ngoài của mình, và cũng có thể cung cấp dịch vụ ở nước mình cho những khách hàng không phải là công dân nước mình mà đến từ các nước khác. Yêu cầu về việc mở cửa hoàn toàn thị trường dịch vụ (không duy trì bất kỳ một biện pháp nào hạn chế việc cung cấp dịch vụ theo 4 phương thức cung cấp dịch vụ của GATS) không phải là bắt buộc đối với các nước thành viên. Việc tiếp cận thị trường theo một cách thức nào đó sẽ tuỳ thuộc vào các cam kết cụ thể của từng quốc gia trong danh mục cam kết của nước đó. Trong trường hợp này, một nước thành viên có quyền đặt ra một số hạn chế về tiếp cận thị trường. Đó là các hạn chế về: - Số lượng người cung cấp dịch vụ - Tổng giá trị của giao dịch dịch vụ hay tài sản - Tổng số các hoạt động dịch vụ - Tổng sản lượng dịch vụ đầu ra - Số người có thể được tuyển dụng trong một số lĩnh vực dịch vụ cụ thể - Phần trăm góp vốn của nước ngoài - Loại hình doanh nghiệp Một cam kết về tiếp cận thị trường của một nước thành viên đang có hiệu lực sẽ là một cam kết cố định và nước này không có quyền thay đổi các luật lệ của mình vì có thể dẫn đến hậu quả là việc tiếp cận trở nên khó khăn hơn hoặc không thể thực hiện được. Do sự phức tạp về những quy định, chính sách thương mại của các nước thành viên, nên GATS hướng tới mục tiêu là giảm dần các hạn chế đối với thương mại dịch vụ căn cứ vào khả năng thực tế của nước thành viên. * Cam kết về đối xử quốc gia Đây là cam kết của các thành viên về việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia trong thương mại dịch vụ được quy định trong điều 17 của GATS. Các thành viên phải đưa ra danh mục các lĩnh vực dịch vụ có thể áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia cùng với những điều kiện hay hạn chế nếu có. Nguyên tắc đối xử quốc gia chỉ áp dụng cho những lĩnh vực dịch vụ có trong danh mục cam kết của các thành
  32. 27 viên. Cụ thể các nước thành viên có thể liệt kê các giới hạn hoặc những trường hợp cụ thể chưa thể thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia theo từng phương thức cung cấp dịch vụ. * Các cam kết bổ sung Điều 18 của GATS có quy định về các cam kết bổ sung. Đây là những cam kết về những biện pháp có ảnh hưởng dến thương mại dịch vụ không nằm trong phạm vi hai hình thức cam kết nêu trên. Ví dụ các nước thành viên có thể đàm phán các cam kết về năng lực chuyên môn, tiêu chuẩn hoặc những vấn đề liên quan đến thủ tục cấp giấy phép chứ không phải là những giới hạn. Các cam kết của các nước thành viên trong danh mục các cam kết thường bao gồm hai phần: các cam kết nền chung (horizontal committments) và các cam kết cụ thể (Specific committments). Các cam kết nền chung áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ đưa ra và tập trung vào các vấn đề như: chính sách, luật lệ về thuế quan, sự di chuyển của thể nhân Các cam kết cụ thể áp dụng cho các khu vực dịch vụ cụ thể trong đó liệt kê các khu vực dịch vụ cụ thể và hạn chế có thể có. Trong những cam kết này của các nước thành viên thường có mục: “các điều kiện và hạn chế về tiếp cận thị trường ”. Nếu mục này được ghi: “none bound” nghĩa là không hạn chế (không áp dụng bất kỳ một biện pháp nào để giới hạn việc thâm nhập thị trường); “unbound except for the following” có nghĩa là không cam kết trừ (cam kết có giới hạn, có điều kiện); “unbound” có nghĩa là không cam kết (chưa đưa ra một cam kết nào trong khu vực dịch vụ cụ thể đó). 1.2.2.2 Vị thế của các nƣớc phát triển và các nƣớc đang phát triển trong quá trình tự do hoá thƣơng mại dịch vụ trong khuôn khổ GATS Thực tế cho thấy, mọi hoạt động trong đàm phán dưới khuôn khổ của GATS đang được các nước phát triển dàn xếp một cách khéo léo, chủ yếu có thể kể đến vai trò của Hoa Kỳ và EU. Vai trò đó thể hiện đặc biệt rõ nét trong quá trình đàm phán các dịch vụ tài chính và viễn thông cơ bản. Hoa Kỳ luôn là kẻ chủ động trong các quá trình đàm phán, họ dẫn dắt và phân đoạn các mục tiêu để từng bước thực hiện được điều họ mong muốn. Hoa kỳ luôn chủ động đưa ra các cam
  33. 28 kết đủ rộng rãi để các nước trên cơ sở đó thực hiện các nhân nhượng trong quá trình cam kết của mình. Thị trường của Hoa Kỳ trở thành miếng mồi hấp dẫn để các nước phát triển khác nhượng bộ và phản ứng đó dây chuyền tạo nên sự thành công của các cam kết. Sự hiện diện hoặc thoái lui của Hoa Kỳ trong đàm phán về dịch vụ tài chính và viễn thông chứng tỏ vai trò quyết định trong đàm phán đa phương. Trong khi đó, vai trò của EU lại là đối trọng cơ bản nếu không nói là duy nhất để dung hoà quan điểm của Hoa Kỳ với các nước phát triển và trong chừng mực nào đó, với cả các nước đang phát triển. Nếu như mục tiêu của Hoa Kỳ là nhanh chóng đạt được các thoả thuận có các nhân nhượng đáng kể, bằng mọi cách gây sức ép kể cả việc đe doạ từ bỏ đàm phán thì EU lại ôn hoà hơn trong việc duy trì các kết quả đàm phán và từng bước cải thiện các cam kết dần dần. Cho nên mặc dù các lợi ích cơ bản của EU và Hoa Kỳ là như nhau nhưng vị trí của EU và Hoa Kỳ đã tạo cho quá trình tự do hoá dịch vụ diễn ra thuận lợi hơn. Ngược lại, vị thế của các nước đang phát triển, chiếm đại đa số trong WTO, lại tỏ ra rất hạn chế, bởi hai nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, lợi ích của các nước đang phát triển rất thấp trong quá trình tự do hoá. Các nước đang phát triển chủ yếu là các nước nhập khẩu ròng các snr phẩm dịch vụ từ các nước phát triển, khả năng thâm nhập thọi trường của các nước đang phát triển là gần như không có. Trong phần lớn các trường hợp (loại trừ dịch vụ tài chính và viễn thông cơ bản) các cam kết của họ chỉ dừng và thấp hơn thực tế hiện trạng, tình hình này cho thấy quá trình tự do hoá ít ảnh hưởng tới họ. Mặt khác các cam kết của các nước phát triển là cơ sở để phát triển thương mại dịch vụ giữa các nước đó, thực chất là phân chia lại các lợi ích của các nước này trong mối quan hệ đa phương, trong đó thị phần thị trường của các nước phát triển chiếm ưu thế. Do đó tự do hoá thương mại dịch vụ chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến các nước này. Thứ hai, kinh nghiệm trong các ngành dịch vụ của các nước đang phát triển thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Phần lớn các ngành dịch vụ của các nước đang phát triển chỉ là sơ khởi của các ngành đã phát triển cao và lâu dài tại các nước phát triển như tài chính, kế toán, ngân hàng, viễn thông, y tế, đào tạo, vận
  34. 29 tải. Việc mở rộng sự cạnh tranh qúa mức của các nước phát triển trong thị trường của các nước đang phát triển chắc chắn sẽ mang lại nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế của nước sở tại. Như vậy, các nước đang phát triển thường tỏ ra kém mặn mà hơn trong việc mở cửa thị trường dịch vụ. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận một thực tế là tự do hoá thương mại dịch vụ sẽ phát triển đầy đủ năng lực của một nền kinh tế, vì thế các nước đang phát triển thường chấp nhận mở cửa thị trường một cách thận trọng có lộ trình. 1.2.2.3 Các nƣớc đang phát triển và cam kết tự do hoá thƣơng mại dịch vụ trong khuôn khổ GATS Tự do hoá thương mại dịch vụ là yêu cầu khách quan từ các nhân tố bên trong nền kinh tế và giữa các nền kinh tế trên thế giới. Dịch vụ bản thân là một ngành kinh tế quan trọng và sự phát triển của nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của mọi quá trình từ đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đi lại đến nghỉ ngơi hay ăn uống Những số liệu nghiên cứu ban đầu của WTO cho thấy dịch vụ thông thường có chiếm tỷ trọng 40-70% trong GDP của nền kinh tế mỗi quốc gia. Tỷ trọng này có xu hướng tăng lên cao từ các nước chậm và đang phát triển đến các nước phát triển hơn. Thực tế đó minh chứng một vấn đề là khi một nền kinh tế phát triển thì tỷ trọng các ngành dịch vụ sẽ trở nên quan trọng hơn. Có thể giải thích vấn đề này là do sự mở rộng thương mại dịch vụ tạo ra cạnh tranh nội bộ giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế và cạnh tranh giữa các chủ thể trong thị trường quốc tế bao gồm các công ty và Chính phủ nhằm thu hút lợi ích nhiều nhất từ thị trường. Quá trình này tất nhiên sẽ tạo ra nhiều dịch vụ chất lượng cao giá thành rẻ. Điều đó có lợi cho người tiêu dùng và đặc biệt là các doanh nghiệp tiêu dùng các dịch vụ như một đầu vào cho sản xuất và kinh doanh như các dịch vụ tài chính, viễn thông, phân phối, dịch vụ nghề nghiệp, dịch vụ giao thông vận tải Nhờ công nghệ phát triển lâu đời và khả năng tài chính lớn, các nước phát triển thường có thế mạnh cạnh tranh "tuyệt đối" trong các ngành dịch vụ nói trên. Trong quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ, các ngành dịch vụ nói trên là các
  35. 30 ngành đi đầu và chi phối của các nước phát triển cụ thể là Hoa Kỳ và EU. Ngược lại, các nước đang phát triển tỏ ra hết sức dè dặt vì họ luôn chịu sức ép phải tiếp tục tự do hoá. Thừa nhận thực tế bất lợi của các nước đang phát triển, GATS qui định một số nhân nhượng đối với các nước đang phát triển dù không hoàn toàn cụ thể. Trong GATS có hẳn Điều khoản IV quy định về tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển. Trong điều khoản này GATS đề ra mục tiêu tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển thông qua các cam kết cụ thể đạt được thông qua đàm phán giữa các nước liên quan đến: - Tăng cường năng lực, hiệu quả và tính cạnh tranh của các ngành dịch vụ trong nước, trong đó có việc tiếp cận công nghệ trên cơ sở thương mại - Nâng cao khả năng tiếp cận các kênh phân phối và hệ thống thông tin - Tự do hoá tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực và phương thức cung cấp gắn liền với mối quan tâm xuất khẩu của họ Các nước phát triển sẽ thành lập những điểm liên lạc bên cạnh trách nhiệm thành lập điểm tư vấn (thuộc trách nhiệm chung của mọi thành viên) trong thời gian hai năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực để tạo điều kiện tiếp cận thông tin, liên quan tới thị trường của mình cho những người cung cấp dịch vụ của các nước đang phát triển về các khía cạnh thương mại và kỹ thuật của việc cung cấp dịch vụ; đăng ký, công nhận và tiếp thu các tiêu chuẩn chuyên môn và sẵn sàng cung cấp công nghệ dịch vụ. Đặc điểm quan trọng phân biệt giữa điểm liên lạc và điểm tư vấn là các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có thể tiếp cận các thông tin trực tiếp từ các kênh của điểm liên lạc và được đáp ứng ngay lập tức, trong khi đó việc tiếp cận các thông tin từ điểm tư vấn của các doanh nghiệp phải thông qua kênh chính thức mang tính Chính phủ vì vậy mất nhiều thời gian hơn để tiếp cận được các thông tin. Nhân nhượng này còn được đề cập lần nữa trong Điều khoản XIX "Sự linh hoạt thích đáng cho các nước đang phát triển trong việc mở cửa thị trường với ít lĩnh vực hơn, tự do hoá ít loại hình giao dịch hơn, dần dần mở rộng việc tiếp cận
  36. 31 thị trường phù hợp với tình hình phát triển, và khi mở cửa thị trường cho những người cung cấp dịch vụ nước ngoài, đi kèm với các điều kiện để tiếp cận thị trường trên" Các quy định trên có một hạn chế lớn do thiếu các tiêu chuẩn cụ thể và sự linh hoạt phù hợp, về mục tiêu của chính sách cho nên trên thực tế các qui định này chỉ mang tính hình thức, đôi khi được các nước đang phát triển viện dẫn tuỳ trường hợp trong quá trình đàm phán cam kết. Thực tế qua quá trình gia nhập GATS của các nước đang phát triển, khó có thể có được một ví dụ xác đáng nào về việc các nước đang phát triển được hưởng những linh hoạt cần thiết khi đàm phán. Họ đã phải mở cửa hầu hết những ngành dịch vụ của mình. Quá trình tự do hoá dịch vụ trên thế giới đang có những bước chuyển biến từng phần và tích cực. Quá trình đó đang được các nước thành viên của WTO từng bước tiếp cận đến tự do hoá một cách có hệ thống. Vai trò của các nước phát triển được thể hiện rõ trong toàn bộ quá trình, tuy nhiên những tác động tích cực đối với các nước đang phát triển trong quá trình tham gia vào tự do hoá thương mại dịch vụ cũng là điều không thể phủ nhận. Đàm phán trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thực sự rất khó khăn và phức tạp, các nội dung trong từng ngành cụ thể không dễ dàng đạt được sự thống nhất trong quá trình đàm phán. Do vậy, tự do hoá thương mại dịch vụ sẽ còn gặp nhiều trở ngại mà các đàm phán liên tục còn cần nhiều thời gian nữa mới đạt được.
  37. 32 Chƣơng II: TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐCVỚI TƢ CÁCH LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 2.1 Đánh giá thực trạng phát triển thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc trƣớc khi gia nhập WTO 2.1.1 Thực trạng phát triển của các ngành thƣơng mại dịch vụ 2.1.1.1 Nhận xét chung Các nhà kinh tế học gọi dịch vụ là loại hoạt động sử dụng hình thức lao động sống để thoả mãn nhu cầu nào đó của người khác và được nhận thù lao. Đó là một loại giá trị sử dụng đặc biệt; giá trị sử dụng của dịch vụ không biểu hiện bằng vật thể mà biểu hiện bằng hoạt động. Do tính chất phức tạp và đa dạng của các dịch vụ nên trên thế giới chưa có sự nhất trí về định nghĩa cụ thể và các phân loại đối với lĩnh vực này. Từ khi có hiệp định GATS ra đời, lĩnh vực dịch vụ đã được phân loại bao gồm 11 ngành lớn và hơn 155 phân ngành nhỏ. Cách phân loại này đã được các nước thành viên của WTO thừa nhận và đưa vào thực tiễn. Trước khi gia nhập WTO, cách phân loại của Trung Quốc hơi khác cách phân loại của GATS, theo đó ngành dịch vụ không khác lắm với khu vực ngành nghề thứ ba, nghĩa là không bao gồm ngành xây dựng và các dịch vụ công trình liên quan đến xây dựng, ví dụ như đấu thầu. Do đó, ngành dịch vụ ở Trung Quốc bao gồm ba nội dung lớn: (1) Bộ môn lưu thông, gồm các ngành: giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, nội thương, ngoại thương, ăn uống công cộng, cung cấp vật tư, bảo quản kho; (2) Bộ môn phục vụ sản xuất bao gồm: các ngành tiền tệ, bảo hiểm, thăm dò địa chất, nhà đất, sự nghiệp công cộng, dịch vụ xã hội, du lịch, tư vấn thông tin, dịch vụ kỹ thuật tổng hợp, dịch vụ thuỷ lợi nông nghiệp; (3) Bộ môn phục vụ nhằm nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, giáo dục, và tố chất dân cư, gồm các ngành giáo dục, văn hoá nghệ thuật, phát thanh truyền hình, điện ảnh, nghiên cứu khoa học, y tế, thể dục thể thao, phúc lợi xã hội. Cùng với quá trình cải cách và mở cửa nền kinh tế, ngành dịch vụ của Trung Quốc đã phát triển mạnh: trong thời kỳ 1970-2000, tỷ trọng của ngành này
  38. 33 trong tổng thu nhập quốc nội đã tăng từ mức 13% lên đến 33%; tỷ trọng lao động tham gia trong ngành cũng đã tăng từ mức 9% lên đến 28%. Nói cách khác, dịch vụ đang ngày càng trở thành ngành kinh tế phát triển nhanh và quan trọng trong ngành kinh tế quốc dân Trung Quốc, phản ánh quy luật phát triển chung của nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Đồng thời, sự phát triển này còn có những tác động lan toả mạnh mẽ tới các ngành kinh tế khác, đặc biệt là trong vấn đề tạo việc làm: đây là ngành góp phần thu hút lực lượng lao động dôi ra từ công cuộc cải cách và hiện đại hoá khu vực công nghiệp cũng như nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên, nếu xét trên khía cạnh tiềm năng cũng như chuẩn mực phát triển quốc tế, cho tới thời điểm gia nhập WTO, dịch vụ lại là ngành kém phát triển ở Trung Quốc (chất lượng dịch vụ thấp, không công bằng và với giá cả cao). Sự yếu kém đó biểu hiện ở những phương diện sau: Thứ nhất, cơ sở của ngành dịch vụ còn mỏng, phát triển trì trệ. Tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ trong GDP còn tương đối thấp, không chỉ thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển mà còn thấp hơn cả mức trung bình của các nước đang phát triển. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, giá trị của lĩnh vực dịch vụ ở các quốc gia phát triển thường chiếm trên 60% GDP; ở các nước có thu nhập trung bình, con số này cũng là khoảng 50%, trong khi đó, ở Trung Quốc, năm 2000 chỉ là 33,2%, gần bằng mức trung bình ở các quốc gia có thu nhập thấp. Ngoài ra, sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ Trung Quốc chủ yếu tập trung vào những ngành truyền thống, đòi hỏi nhiều sức lao động như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải đường biển và ở những ngành có ưu thế lớn về tài nguyên, trong khi những ngành dịch vụ tập trung vốn, kỹ thuật và trí tuệ như tài chính - tiền tệ, bảo hiểm, tư vấn, bưu chính viễn thông đang rất phát triển trên toàn thế giới thì ở Trung Quốc lại mới phát triển bước đầu, là một khâu yếu kém, chưa thể đáp ứng đòi hỏi của các ngành khác. Thứ hai, trình độ phát triển chung của xuất nhập khẩu dịch vụ còn tương đối thấp, cơ cấu xuất khẩu còn chưa hợp lý. Kim ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ của
  39. 34 Trung Quốc năm 1998 chỉ chiếm 1,8% kim ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ của toàn thế giới, hơn nữa, cơ cấu của xuất nhập khẩu dịch vụ cũng chỉ nghiêng về những sản phẩm truyền thống là chính. Thứ ba, trình độ phát triển của hệ thống thị trường dịch vụ thấp, trình độ xã hội hoá, thương phẩm hoá, ngành nghề hoá của dịch vụ còn chưa cao, trình độ phát triển giữa các khu vực không đồng đều. Nhìn chung, nông thôn lạc hậu hơn thành phố, nội địa lạc hậu hơn duyên hải, những tỉnh, thành phố có nguồn lao động dồi dào như Quảng Đông, Tứ Xuyên, Thượng Hải, Hà Nam, Bắc Kinh các ngành dịch vụ tương đối phát triển. Thứ tư, hệ thống pháp luật, pháp quy đối với các ngành dịch vụ còn chưa kiện toàn. Những năm gần đây, Trung Quốc đã lần lượt ban hành những pháp luật, pháp quy quan trọng liên quan đến lĩnh vực dịch vụ như Luật mậu dịch đối ngoại, Luật doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật bảo hiểm, Luật ngân hàng thương mại, Điều lệ quản lý tổ chức tài chính vốn nước ngoài , nhưng lại thiếu một bộ luật thương mại dịch vụ cơ bản, thống nhất, chưa có hệ thống pháp luật hoặc pháp luật chưa hoàn chỉnh với một số lĩnh vực dịch vụ quan trọng như du lịch, phóng vệ tinh Ngoài ra, có những pháp luật, pháp quy còn trừu tượng, khó thực hiện; quy định đối với các nhà cung cấp dịch vụ của nước ngoài tại Trung Quốc còn ít hoặc chưa có quy định. Có những quy định còn chưa phù hợp với các quy tắc thương mại quốc tế [20]. Tất cả những điều đó cùng với những chính sách hạn chế việc thâm nhập cũng như điều tiết mạnh giá cả dịch vụ đã làm cản trở việc sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực cũng như qúa trình đổi mới và cải tiến sản phẩm. Những chính sách đó thậm chí còn gây ra những tác động tiêu cực, làm xói mòn những kết quả mang tính xã hội đối với một số ngành như ngân hàng, bảo hiểm và y tế. Thêm vào đó, tỷ lệ đô thị hoá thấp cũng như thị trường kém linh hoạt và kỹ năng lao động không cao cũng là những nhân tố khiến cho khu vực này kém phát triển. Với những đặc trưng cơ bản như vậy, việc Trung Quốc gia nhập WTO và thực hiện những cam kết về tự do hoá sẽ có những tác động mạnh tới ngành dịch vụ.
  40. 35 2.1.1.2 Thực trạng phát triển của một số ngành thƣơng mại dịch vụ * Ngân hàng Cho tới trước khi gia nhập WTO, đặc biệt là trong thập kỷ 1990, hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc đã được cải cách theo hướng xây dựng một hệ thống ngân hàng 2 cấp bao gồm ngân hàng Trung ương (với các chức năng quản lý, giám sát tiền tệ, thống kê điều tra phân tích, giám sát ngân sách Nhà nước, phát hành tiền mặt, quản lý ngoại hối và thanh toán với các ngân hàng có liên quan) ; hệ thống các ngân hàng thương mại (hoạt động trên cơ sở thương mại, tự hạch toán) và các ngân hàng chính sách (các ngân hàng chính sách chỉ có ở Trung Quốc và việc tách các ngân hàng chính sách với chức năng thực hiện các khoản cho vay chính sách, không lấy kết quả hoạt động kinh doanh làm mục đích, ra khỏi hệ thống các ngân hàng thương mại đã được thực hiện ở Trung Quốc từ năm 1994). Trong đó, ngân hàng Trung ương có chức năng kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động của các ngân hàng tỉnh nhằm giảm bớt rủi ro trong việc cho vay và tăng hiệu quả các khoản vay. Đồng thời, tính độc lập, tính giám sát và tính chuyên môn trong việc quản lý tiền tệ của ngân hàng trung ương cũng được tăng cường bằng các biện pháp cụ thể như giảm bớt các chi nhánh ngân hàng cấp tỉnh; phân loại các ngân hàng yếu kém; giải thể các tổ chức tài chính phi pháp; chống tham nhũng. Bảng 2.1: Một số chỉ số của hệ thống ngân hàng Trung Quốc năm 2001 Quy mô (nghìn tỷ NDT) Tỷ trọng (%) Loại hình Tài sản Cho vay Tiền gửi Tài sản Cho vay Tiền gửi Các ngân hàng 15 10,7 13,1 100 100 100 thƣơng mại Ngân hàng 10,1 7,2 8,7 67,3 67,3 66,4 quốc doanh Ngân hàng 1,9 1,2 1,6 12,7 11,2 12,2 khác
  41. 36 Ngân hàng vốn 0,4 0,2 0,01 2,7 1,9 0,1 nước ngoài Hợp tác xã tín 0,8 0,6 0,8 5,3 5,6 6,1 dụng đô thị Hợp tác xã tín 1,6 1,3 1,7 10,7 12,1 1,3 dụng nông thôn Công ty tài 0,2 0,2 0,3 1,3 1,9 2,2 chính Các định chế 1,1 1,4 0,2 - - - tiền gửi khác Nguồn: Bản tin thống kê hàng quý của PBC (2002-2003). Almanac Ngân hàng và Tài chính Trung Quốc (2002). Niên giám bảo hiểm Trung Quốc (2002). Trích lại từ: Deepak Bhattasali. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu thị trường tài chính ở Trung Quốc. Ngân hàng thế giới, 1/12/2002, tr.5. Cùng với việc cải cách hoạt động của ngân hàng Trung ương, hoạt động của các ngân hàng thương mại cũng được cải cách theo hướng độc lập trong hoạt động. Nói cách khác, những ngân hàng này không còn phải cho vay theo chỉ đạo. Ngoài ra, các ngân hàng còn tiến hành việc lành mạnh hoá bảng cân đối tài sản của mình bằng cách xử lý nợ khó đòi, cải cách việc quản lý nợ dựa trên đánh giá mức độ rủi ro; tăng cường khả năng tự giám sát nội bộ; tinh giảm biên chế Bốn ngân hàng quốc doanh lớn nhất đã được chuyển đổi thành các ngân hàng đa năng và tạo thành nền tảng của hệ thống tài chính với 67% tài sản tiền gửi ngân hàng và 56% tổng tài sản tài chính. Hệ thống ngân hàng Trung Quốc vẫn là nguồn thu hút vốn quan trọng nhất trên thị trường tài chính của nước này với việc thu hút gần 77% tiết kiệm tài chính hàng năm của các hộ gia đình ở nước này trong thời kỳ 1998-2001. Tổng tiền gửi ngân hàng đạt mức kỷ lục 150% GDP năm 2000. Mặc dù mỗi ngân hàng trong 4 ngân hàng quốc doanh của Trung Quốc đều rất lớn-với quy mô tài sản trung bình hơn 400 tỷ USD, số nhân viên trung bình hơn
  42. 37 415.000 người và số chi nhánh khoảng từ 15.000 đến 58.000 và có đủ khả năng cạnh tranh ngang bằng với các ngân hàng nước ngoài, thậm chí ngay cả với những công ty tài chính quốc tế lớn được hình thành trên cơ sở sáp nhập và thôn tính trong những năm gần đây, thế nhưng so với những yêu cầu của thực tiễn cũng như so với chuẩn mực quốc tế, trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều nhà kinh tế còn cho rằng, những vấn đề này đang là những vấn đề gay cấn nhất của nền kinh tế Trung Quốc và mức độ giải quyết những vấn đề đó sẽ có những ảnh hưởng mạnh tới toàn bộ nền kinh tế cũng như khả năng thực hiện tốt các cam kết với WTO của nước này. Thứ nhất, phương thức quản lý phân ngành tài chính không còn thích hợp với nhu cầu phát triển và bối cảnh phát triển mới. Ví dụ, theo luật ngân hàng thương mại của Trung Quốc, các ngân hàng thương mại không được phép kinh doanh nghiệp vụ đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính nhưng điều này đã khiến cho hoạt động của các ngân hàng thương mại bị giới hạn trong một phạm vi hẹp và các ngân hàng này chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp Nhà nước. Trong bối cảnh nền kinh tế đang ngày càng phát triển và mức độ mở cửa ngày càng gia tăng, với phạm vi hoạt động bị giới hạn như vậy các ngân hàng thương mại sẽ khó cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài, đồng thời độ rủi ro trong hoạt động cũng sẽ gia tăng. Thứ hai, mặc dù đã có nhiều cải cách nhằm tăng cường tính tự chủ của các ngân hàng thương mại nhưng hoạt động của hệ thống này vẫn còn bị hạn chế về nhiều mặt như về chính sách sử dụng nhân viên; chính sách phát triển vùng; chính sách phát triển ngành nghề Nói cách khác, nhiều ngân hàng thương mại vẫn chưa thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường và vẫn bị ảnh hưởng nhiều của cơ chế xin-cho. Thứ ba, cơ cấu tài sản của các ngân hàng thương mại Trung Quốc chưa hợp lý. Tỷ lệ cho vay kém hiệu quả (NPL) cao. Theo số liệu ước tính của Chính phủ, năm 2001, các khoản cho vay kém hiệu quả của 4 ngân hàng quốc doanh lớn chiếm tới 27% tổng dư nợ của các ngân hàng này, không kể các khoản NPL đã
  43. 38 chuyển giao cho 4 công ty quản lý tài sản trong năm 2000 (chiếm gần 20% dư nợ của 4 ngân hàng này vào thời điểm đó). Theo số liệu ước tính không chính thức, các khoản NPL còn lại của các ngân hàng quốc doanh ở mức khoảng từ 40-50% tổng dư nợ. Thứ tư, hệ thống kiểm tra và giám sát hoạt động yếu kém, tính minh bạch không cao khiến cho hệ thống ngân hàng hoạt động với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro hệ thống. Hơn thế nữa, việc Nhà nước vẫn tiếp tục tài trợ và bù lỗ cho các ngân hàng kinh doanh kém hiệu quả khiến cho các ngân hàng này không được cải cách và đổi mới một cách triệt để nhằm nâng cao sự cạnh tranh của mình. Thứ năm, trình độ kinh doanh của các ngân hàng không cao: các nghiệp vụ kinh doanh không đa dạng; hỗ trợ kỹ thuật đối với các sản phẩm kém Ngoài ra, các ngân hàng thương mại của Trung Quốc còn nằm trong vị thế cạnh tranh không công bằng so với các ngân hàng nước ngoài về thuế: trong khi mức độ chịu thuế của hệ thống ngân hàng nội địa khoảng 70% thì các ngân hàng chỉ chịu mức thuế 30%. Thứ sáu, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không cao. Ngoài sự thống trị của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh chủ yếu, các ngân hàng nước ngoài ở Trung Quốc buộc phải hoạt động trong một môi trường khác biệt so với các ngân hàng trong nước với những hạn chế nặng nề về đầu tư, sản phẩm, địa điểm hoạt động và với một hệ thống kiểm soát rất khác biệt. Đặc biệt, có rất ít sự liên kết giữa các ngân hàng nước ngoài và trong nước. Do vậy, cho tới trước khi gia nhập WTO tỷ phần của các ngân hàng nước ngoài là không đáng kể, mặc dù các ngân hàng này đều tăng trưởng mạnh về tài sản. Bảng 2.2: Sự hiện diện của các ngân hàng nƣớc ngoài ở Trung Quốc thời kỳ 1991-2000 Năm Số lƣợng các thể chế Tài sản tài chính nƣớc ngoài Tỷ NDT % trong tổng giá trị * tài sản tài chính ở TQ 1991 41/45 22,8 - 1992 73/79 30,5 - 1993 74/87 43,7 -
  44. 39 1994 92/99 102,1 0,9 1995 120/135 159,8 1,2 1996 131/147 248,6 1,6 1997 142/161 314,0 1,9 1998 142/173 283,0 1,7 1999 154/177 263,1 1,5 2000 154/177 287,3 1,5 * Số trước là số lượng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và số sau là số liệu bao gồm cả những thể chế tài chính được nước ngoài tài trợ, các ngân hàng liên doanh và các công ty tài chính liên doanh. Nguồn: Nicolars R.Lady, Intergrating China Into The Global Economy, Brooking Institution Press, Washington, D.C, 2002, tr.115 Những đặc trưng trên khiến cho ngành ngân hàng là một trong những ngành chịu tác động mạnh nhất khi Trung Quốc gia nhập WTO. * Bảo hiểm Trong 20 năm cải cách và mở cửa ngành bảo hiểm của Trung Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ về quy mô (tổng thu nhập từ phí bảo hiểm của Trung Quốc đã tăng từ mức 34,388 tỷ NDT năm 1992 lên đến 126,155 tỷ NDT năm 1998, kể cả các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài; riêng năm 1998, thu nhập từ phí bảo hiểm nhân thọ đạt 75,024 tỷ NDT); phương thức kinh doanh, hình thức quản lý và giám sát cũng đang được thực hiện theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, cho đến thời điểm trước khi gia nhập WTO, trong ngành bảo hiểm vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Thứ nhất, những năm 1990 trở lại đây số lượng rủi ro mà các chủ thể kinh tế Trung Quốc gặp phải đang ngày càng tăng lên. Thứ hai, sản phẩm bảo hiểm đơn điệu, thiếu sự đa dạng: các công ty bảo hiểm chủ yếu tập trung vào một số dạng bảo hiểm như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trẻ em, bảo hiểm xe cộ, bảo hiểm vận tải hàng hoá trong khi những hình thức bảo hiểm khác như bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm y tế lại rất không phổ biến. Điều này gây ra tình trạng cạnh tranh quá mức giữa các công ty bảo hiểm với hậu quả là hiệu quả kinh doanh không cao và chất lượng dịch vụ thấp.
  45. 40 Thứ ba, tồn tại mức độc quyền cao của các công ty bảo hiểm Nhà nước trên thị trường bảo hiểm Trung Quốc. Ba công ty bảo hiểm như Công ty bảo hiểm nhân dân Trung Quốc, Công ty bảo hiểm Thái Bình Dương và Công ty bảo hiểm Bình An chiếm tới 90% thị phần trên thị trường bảo hiểm tài sản. Sự thâm nhập của các công ty bảo hiểm nước ngoài bị hạn chế nghiêm ngặt. Hoạt động của những công ty bảo hiểm nước ngoài đã đầu tư vào Trung Quốc bị hạn chế về mặt địa lý (chỉ được hoạt động ở một số thành phố lớn); về nghiệp vụ kinh doanh (chủ yếu cho các doanh nghiệp có vấn đầu tư nước ngoài và bảo hiểm nhân thọ) và có quyền cổ đông. Do đó, cho tới năm 1999 tài sản của các công ty bảo hiểm nước ngoài chỉ chiếm ít hơn 2% giá trị tài sản của tất cả các công ty bảo hiểm và lợi nhuận của các công ty này cũng chỉ chiếm 1,3% tổng lợi nhuận thu được của các công ty bảo hiểm. Thứ tư, thị trường bảo hiểm Trung Quốc hoạt động kém hiệu quả do chịu sự can thiệp từ nhiều phía, đặc biệt là từ phía các tổ chức hành chính; thiếu các quy tắc hoạt động hoặc các quy tắc này đã không còn phù hợp với tình hình mới; chế độ bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm thiếu hoàn thiện và không rõ ràng nên hay xảy ra tranh chấp; tỷ lệ phí thị trường không được xác định theo quy luật cung cầu và ít liên quan đến chất lượng dịch vụ. Thứ năm, ngành bảo hiểm Trung Quốc thiếu những nhà chuyên môn giỏi do hoạt động lâu năm trong môi trường kế hoạch tập trung và quan liêu, bao cấp. Do đó, kỹ thuật và trình độ nghiệp vụ bảo hiểm thấp và thua xa so với các công ty bảo hiểm nước ngoài. * Chứng khoán So với các nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoán Trung Quốc còn rất non trẻ và đang ở trong giai đoạn đầu phát triển. Tuy vậy, đây là thị trường chứng khoán lớn thứ hai Châu Á với 1.189 công ty niêm yết, khoảng 60 triệu tài khoản giao dịch và mức độ vốn hoá thị trường đạt 45% GDP. Thị trường chứng khoán đang ngày càng trở thành một bộ phận quan trọng không thể tách rời của hệ thống kinh tế Trung Quốc.
  46. 41 Bảng 2.3: Một số chỉ số thị trƣờng chứng khoán Trung Quốc năm 2001 Thị Quy mô trƣờng cổ Giá trị thị trƣờng Doanh thu Khối lƣợng giao dịch phiếu (nghìn tỷ NDT) (nghìn tỷ NDT) (nghìn cổ phiếu) 4,4 3,8 31,5 Thị Quy mô (nghìn tỷ NDT) Tỷ trọng (%) trƣờng Kho bạc Tài chính Công ty Kho bạc Tài chính Công ty trái phiếu 1,95 0,69 0,03 73,2 25,7 1,1 Nguồn: Bản tin thống kê hàng quý của PBC (2002-2003). Almanac Ngân hàng và Tài chính Trung Quốc (2002). Niên giám bảo hiểm Trung Quốc (2002). Trích lại từ: Deepak Bhattasali. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu thị trường tài chính ở Trung Quốc. Ngân hàng thế giới, 1/12/2002, tr.5. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế cũng như với các thị trường chứng khoán đã phát triển trên thế giới, cho tới trước khi gia nhập WTO, thị trường chứng khoán Trung Quốc vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Thứ nhất, đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, chế độ kế toán và chế độ đánh giá tài sản không thống nhất với chuẩn mực quốc tế; độ minh bạch thấp. Trình độ quản trị doanh nghiệp của nhiều công ty khá yếu kém (rủi ro đạo đức và vi phạm quy định pháp luật nhiều; người trong nội bộ công ty cũng chính là người kiểm soát trên thị trường chứng khoán; giám sát nội bộ mất cân bằng; các công ty niêm yết uy tín thấp với các nhà đầu tư; quyền cổ đông thường bị coi thường; có sự câu kết giữa các tổ chức trung gian và các công ty niêm yết ). Nhiều công ty niêm yết chỉ coi việc niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán như một hình thức thu hút vốn rẻ và ít quan tâm đến việc cải tổ và phát triển doanh nghiệp để tạo dựng hình ảnh và tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thứ hai, mặc dù là thị trường chứng khoán thứ hai Châu Á nhưng quy mô của thị trường chứng khoán Trung Quốc là khá nhỏ bé. Năm 2001, mức độ vốn hoá của thị trường Trung Quốc chỉ mới chiếm có 45% GDP, thấp hơn rất nhiều so
  47. 42 với mức độ vốn hoá của các thị trường chứng khoán phát triển khác năm 1997 như Mỹ (139%); Anh (163%); Hồng Kông (240%); Đài Loan (115%); thậm chí còn thấp hơn cả mức độ vốn hoá của một số thị trường đang phát triển năm 1996 như Ấn Độ (93%); Braxin (67%); Thái Lan (114%). Thứ ba, thị trường chứng khoán Trung Quốc hoạt động thiếu hiệu quả với chi phí giao dịch cao, giá cả chứng khoán không phản ánh kịp thời và chính xác những thông tin về diễn biến của nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng. Thứ tư, cơ chế quản lý hoạt động của thị trường chưa thực sự hợp lý. Điều này thể hiện ở chỗ thị trường còn bị can thiệp bằng những biện pháp hành chính, kế hoạch, tập trung như trong việc lựa chọn doanh nghiệp được niêm yết, xác định số vốn niêm yết và giá cả phát hành cổ phiếu Thứ năm, quy mô của các công ty chứng khoán Trung Quốc đều rất nhỏ (tính đến cuối năm 1998, Trung Quốc có 90 công ty chứng khoán, trong đó chỉ có 16 công ty có vốn đăng ký trên 500 triệu NDT; 35 công ty có vốn đăng ký từ 100- 500 triệu NDT; 39 công ty có vốn đăng ký dưới 100 triệu NDT. Tổng tài sản của các công ty chứng khoán lớn nhất Trung Quốc cũng chỉ đạt mức gần 20 tỷ NDT. Tổng tài sản của bất kỳ một công ty chứng khoán lớn nào trên thế giới cũng đều lớn hơn tổng số tài sản của các công ty chứng khoán Trung Quốc cộng lại); cơ cấu nghiệp vụ khá trùng lắp (chủ yếu tập trung vào nghiệp vụ đảm bảo tiêu thụ ở thị trường cấp I và môi giới, tự kinh doanh ở thị trường cấp II) và đơn điệu (không có các nghiệp vụ như mua lại doanh nghiệp, chứng khoán hoá tài sản, cố vấn tài chính ); cơ chế quản lý lỏng lẻo và thường gây ra nhiều rủi ro. * Viễn thông Sau 20 năm cải cách và mở cửa, ngành dịch vụ viễn thông Trung Quốc đã có những bước phát triển vượt bậc về tốc độ và quy mô. Số lượng thuê bao điện thoại cố định đã tăng từ 40 triệu năm 1995 lên tới 87,4 triệu năm 1998 (trung bình tăng 40% mỗi năm) và trở thành mạng điện thoại cố định lớn thứ hai trên thế giới; số lượng thuê bao điện thoại di động cũng tăng mạnh, từ 3,6 triệu năm 1995 lên
  48. 43 43,3 triệu năm 1998 và 120,6 triệu vào tháng 7/2001, vượt qua Mỹ, nước có 120,1 triệu thuê bao và tăng nhanh hơn rất nhiều so với điện thoại cố định; số lượng sử dụng Internet tại Trung Quốc cũng đã tăng gấp đôi cứ sau 5-6 tháng với 26,5 triệu (7/2001), bao gồm 4,54 triệu được kết nối thông qua cổng truyền thuê, 17,93 triệu là người sử dụng trực tiếp và 4,03 triệu người sử dụng cả hai dạng. Ngoài số người sử dụng máy tính còn khoảng 1,07 triệu người tiếp cận Internet thông qua cổng di động và thiết bị thông tin điện. Đến đầu năm 2001, Trung Quốc đã có khoảng 8,92 triệu máy chủ, với 1,41 triệu được kết nối thông qua cổng thuê và 7,51 triệu được kết nối trực tiếp. Ngoài ra, nhằm tăng cường cạnh tranh trên thị trường dịch vụ viễn thông và hướng tới việc gia nhập WTO, nhiều cải cách về pháp luật đã được thực hiện từ năm 1994 và đặc biệt mạnh mẽ từ năm 1998 với việc xoá bỏ sự độc quyền trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông (trước năm 1998 China Telecom luôn nắm vị trí độc quyền). Kết quả là trên thị trường viễn thông Trung Quốc đã xuất hiện 7 công ty: China Telecom, China Mobile Telecommunications Corporation, China Satellite (ChinaSat), Unicom, ChinaNetCom, Jitong và China Railway Communications. Đồng thời, phí dịch vụ viễn thông cũng được liên tục cắt giảm từ năm 1999 (một phần để giải quyết những phàn nàn của người sử dụng, một phần để tăng khả năng tiếp cận dịch vụ của người sử dụng đối với công nghệ tiên tiến và hợp lý hoá cơ cấu phí cho phù hợp với thông lệ quốc tế và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO cũng như thực hiện chiến lược cung cấp dịch vụ phổ cập). Tuy nhiên, cho tới trước khi gia nhập WTO, do tiềm năng phát triển cũng như do ngành viễn thông được coi là một trong những ngành chủ chốt quốc gia của Trung Quốc (điều này được phản ánh qua mức độ căng thẳng của đàm phán về lĩnh vực này khi Trung Quốc gia nhập WTO: tất cả các nước Mỹ, EU, Nhật Bản đều coi việc mở cửa dịch vụ viễn thông là vấn đề tranh cãi chính trong quá trình đàm phán song phương với Trung Quốc) nên thị trường dịch vụ viễn thông là một trong những thị trường "đóng nhất", được bảo hộ và quản lý chặt nhất ở Trung Quốc so với ở phần lớn các nước đang phát triển vì các nhà đầu tư nước ngoài
  49. 44 không được tham gia vào thị trường này và chỉ có thể cung cấp các thiết bị viễn thông. Hơn thế nữa, cơ chế pháp luật trong lĩnh vực này lại thiếu rõ ràng, thiếu tính độc lập, không nhất quán, không liên tục, ít có hiệu lực và thậm chí không có tính hiện thực. Thêm vào đó, mặc dù tính độc quyền trên thị trường đã bị phá vỡ nhưng thị trường chủ yếu do các công ty Nhà nước thống trị nên thiếu sự cạnh tranh và kết quả là dịch vụ được cung cấp với chất lượng không cao trong khi giá cả lại cao [11]. 2.1.2 Những cơ hội và thách thức đối với thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO Lĩnh vực dịch vụ và thương mại dịch vụ bao gồm rất nhiều ngành, trong khuôn khổ luận văn này không thể liệt kê hết. Có thể nói, Trung Quốc gia nhập WTO đã mở cửa lĩnh vực dịch vụ mạnh mẽ chưa từng có. Vì vậy ảnh hưởng đến ngành dịch vụ rất lớn. Điều kiện cam kết mở cửa trong các ngành dịch vụ của Trung Quốc khi gia nhập WTO cao hơn so với các nước đang phát triển khác, nằm giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, tương đương với đòi hỏi đối với các nước phát triển trung bình mới nổi lên. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với Trung Quốc. 2.1.2.1 Cơ hội (1) Tạo điều kiện cho các ngành dịch vụ của Trung Quốc thu hút đầu tư nước ngoài: Cam kết gia nhập WTO của Trung Quốc là sự cải thiện mạnh mẽ nhất, nhiều nhất môi trường đầu tư và điều kiện ngoại thương, chắc chắn sẽ tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Trung Quốc, có lợi cho đầu tư nước ngoài chảy mạnh vào các ngành dịch vụ của Trung Quốc. Ví dụ, trong ngành ngân hàng, đến cuối năm 1999, số dư nợ cho vay của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc là 21,8 tỷ USD, trong đó 87% là vốn cho vay trong nước, 70% số tiền cho vay này được cung cấp từ nguồn vốn của ngân hàng mẹ ở nước ngoài. Có thể thấy, ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã trở thành một kênh thu hút đầu tư quan trọng của nước này. Sau khi gia nhập
  50. 45 WTO, những hạn chế về nghiệp vụ ngoại hối và nghiệp vụ đồng NDT đối với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài được xoá bỏ, nhu cầu vay vốn ngoại tệ ở ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tăng mạnh, thông qua kênh này chắc chắn sẽ thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài hơn. (2) Có lợi cho tiến trình quốc tế hoá các ngành dịch vụ của Trung Quốc Trung Quốc gia nhập WTO không những thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài hơn mà còn khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, tận dụng nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia của WTO, tham gia vào cạnh tranh công bằng trên thương trường quốc tế, hưởng những lợi ích từ toàn cầu hoá và tự do hoá ngành dịch vụ. Đến cuối năm 1999, các tổ chức ngân hàng của Trung Quốc đã đặt 472 chi nhánh kinh doanh tại nước ngoài, tài sản của các chi nhánh này là 144,3 tỷ USD. Sau khi gia nhập WTO, quan hệ kinh tế đối ngoại của Trung Quốc sẽ tiếp tục được mở rộng, điều này sẽ có lợi cho tiến trình quốc tế hoá của các hệ thống tài chính tiền tệ Trung Quốc và sự phát triển lớn mạnh của hệ thống này trên thế giới. (3) Thúc đẩy cải cách các ngành dịch vụ của Trung Quốc, nâng cao trình độ cạnh tranh Sau khi gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài chảy mạnh vào các ngành dịch vụ, chắc chắn sẽ tăng cường cạnh tranh, tạo ra một sức ép nhất định đối với các doanh nghiệp trong nước. Sức ép này là động lực giúp các công ty trong nước tăng cường ý thức về rủi ro, thậm chí là khảo nghiệm về sự tồn vong, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cải cách mạnh. Các doanh nghiệp nước ngoài vào Trung Quốc chắc chắn sẽ mang theo những kinh nghiệm thành công, phương thức quản lý kinh doanh và thể chế quản lý tiên tiến, Trung Quốc có thể học tập và ứng dụng vào quá trình cải cách. 2.1.2.2 Thách thức (1) Những thách thức đối với thể chế quản lý và cơ chế kinh doanh Các ngành dịch vụ của Trung Quốc, chủ yếu là tài chính, bảo hiểm, viễn thông, ngoại thương, văn hoá giáo dục và y tế trong một thời gian dài trước đây do
  51. 46 Chính phủ độc quyền, không có cơ chế và thể chế thị trường. Hơn 20 năm thực hiện cải cách, cho đến nay, cải cách trong những ngành này diễn ra chậm chạp, gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hạn chế. Vì vậy, hiện nay vẫn không có thể chế và cơ chế thị trường theo đúng nghĩa. Trong khi đó WTO lại đòi hỏi thể chế thị trường và cơ chế thị trường. Các nước phát triển phương Tây đều có cơ chế và thể chế thị trường hoàn thiện, tình hình này tạo nên sự chênh lệch lớn đối với hiện thực Trung Quốc. Chênh lệch chính là thách thức. Chênh lệch lớn tức là thách thức lớn. (2) Những thách thức đối với hệ thống và năng lực giám sát quản lý vĩ mô của Nhà nước Trật tự thị trường hiện nay tương đối hỗn loạn, đâu đâu cũng thấy hàng nhái, hàng kém chất lượng; trật tự tài chính cũng có vô vàn vấn đề, tỷ lệ tài sản xấu tương đối cao, độ tin cậy giảm; con số thua lỗ của các doanh nghiệp quốc hữu đã một thời gian giảm xuống nhưng gần đây lại tăng lên; những vấn đề như sản xuất, xây dựng chồng chéo mặc dù đã giải quyết nhiều lần nhưng vẫn đang phát triển và lan tràn. Những vấn đề cũ này chưa được giải quyết, sau khi gia nhập WTO nhiều công ty nước ngoài vào Trung Quốc hơn, sẽ nảy sinh những vấn đề mới. Điều này chắc chắn sẽ làm tăng khó khăn trong điều tiết vĩ mô, cũng là thách thức đối với năng lực điều tiết vĩ mô của Nhà nước Trung Quốc. (3) Thách thức trong việc giành lấy nhân tài quản lý cao cấp Cạnh tranh về con người là cạnh tranh cơ bản nhất trong các cuộc canh tranh. Trung Quốc vốn thiếu những chuyên gia quản lý cao cấp, nhất là những chuyên gia tài năng trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông. Sau khi gia nhập WTO, hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc đều thực hiện chiến lược nhân tài tại chỗ, tuyển dụng những chuyên gia cao cấp của nước tiếp nhận đầu tư với mức độ đãi ngộ cao. Như vậy, chắc chắn sẽ nổ ra cuộc cạnh tranh giành chuyên gia tài năng. Hiện nay các doanh nghiệp Trung Quốc khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài về mức đãi ngộ, chắc chắn sẽ bị mất đi một số nhân tài ưu tú.
  52. 47 (4) Thị phần bị thu hẹp Với chất lượng thấp, giá thành cao, hiệu quả thấp, cung cách làm việc rườm rà, quan liêu, thái độ nhân viên lề mề, thậm chí hống hách nhiều ngành dịch vụ của Trung Quốc như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, y tế đang phải chịu "chào thua" dịch vụ nước ngoài, nhường khách hàng và thị phần cho các công ty, tuy đến sau nhưng lại đầy kinh nghiệm về phong cách phục vụ chu đáo, kỹ thuật phục vụ cao, chất lượng tốt [21] Những cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO tác động đến hàng chục ngành nghề, hàng trăm hạng mục trong lĩnh vực dịch vụ của Trung Quốc. Tác động đối với mỗi ngành nghề là khác nhau, do trình độ mở cửa, sức cạnh tranh cũng như trình độ tập trung lao động, kỹ thuật, vốn không giống nhau. Sau đây chỉ xem xét một số ngành nghề chủ yếu: * Ngân hàng Tác động đầu tiên đối với ngành ngân hàng Trung Quốc khi nước này gia nhập WTO là sức ép cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài. Sức ép này sẽ rất mạnh vì các ngân hàng nước ngoài có một loạt các ưu thế về quy mô (vốn lớn, chất lượng tài sản tốt, cơ chế quản lý kinh doanh linh hoạt, thiết bị tiên tiến, trình độ kỹ thuật cao ); về kinh nghiệm hoạt động trong môi trường cạnh tranh và theo chuẩn mực quốc tế; về nghiệp vụ tài chính (các nghiệp vụ đa dạng với công nghệ cao ); về thiết bị phần cứng với công nghệ cao Sức ép cạnh tranh này sẽ diễn ra theo nhiều hướng: i) cạnh tranh trong nghiệp vụ kinh doanh (đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế vì các ngân hàng nước ngoài có vốn lớn, hệ thống thông tin hiện đại và kinh nghiệm lâu dài hoạt động trong lĩnh vực này); ii) cạnh tranh trong việc giành giật khách hàng (do có những ưu thế như đã trình bày ở trên, các ngân hàng nước ngoài sẽ cung cấp dịch vụ ngân hàng với chi phí rẻ hơn, thuận tiện hơn cho khách hàng so với các ngân hàng nội địa nên họ sẽ cạnh tranh rất mạnh với các ngân hàng này trong lĩnh vực lôi kéo những doanh nghiệp lớn và đang kinh doanh hiệu quả về phía mình ); iii) cạnh tranh trong việc thu hút nguồn nhân lực có kỹ
  53. 48 năng cao do có khả năng chi trả lương cao hơn và môi trường làm việc tốt hơn so với các ngân hàng nội địa. Tuy nhiên, sức ép cạnh tranh đó không chỉ chèn ép hoạt động của các ngân hàng nội địa mà còn gây áp lực khiến cho các ngân hàng này phải đổi mới và cải tổ lại theo hướng nâng cao sức cạnh tranh của ngành bằng cách đổi mới công nghệ và phương thức kinh doanh; áp dụng những nguyên tắc, tiêu chuẩn hoạt động và giám sát tài chính theo chuẩn mực quốc tế; mở rộng được nghiệp vụ ở nước ngoài; đào tạo được nguồn nhân lực với kỹ năng cao Mặc dù đang đối đầu với nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng hệ thống ngân hàng Trung Quốc lại có được lợi thế riêng của mình như được sự hỗ trợ về uy tín của Nhà nước, có mạng lưới chi nhánh rộng khắp trong cả nước và có quá trình hoạt động lâu dài trên lãnh thổ Trung Quốc (50 năm). Hơn thế nữa, do những giới hạn về lượng nợ nội tệ so với lượng nợ ngoại tệ (không được vượt quá 50%) các ngân hàng nước ngoài sẽ không thể huy động được lượng tiền gửi nội tệ một cách tự do và kết quả là 5 năm sau khi gia nhập WTO, tỷ trọng tài sản của các ngân hàng nước ngoài trong tổng số tài sản tài chính ở Trung Quốc chỉ có thể tăng lên 2- 3% thậm chí thấp hơn. Thậm chí ngay cả khi hệ thống ngân hàng được tự do hoá hoàn toàn thì sự bành trướng của các ngân hàng nước ngoài cũng vẫn bị giới hạn bởi hai nhân tố: i) sự bành trướng của các ngân hàng nước ngoài sẽ phụ thuộc vào khả năng xác định được những người vay đáng mong muốn. Một số ngân hàng sẽ phát triển hệ thống chi nhánh của mình và tập trung vào việc cho ngành ô tô vay cũng như cho vay cầm cố và những ngành thường có độ rủi ro thấp tương đối ở các thị trường Châu Á; ii) các ngân hàng nước ngoài sẽ phải chịu sự điều tiết thận trọng, đặc biệt là những đòi hỏi về vốn tối thiểu giống như các ngân hàng nội địa. Như vậy, mặc dù phải đương đầu với cạnh tranh quyết liệt từ phía các ngân hàng nước ngoài, nhưng việc gia nhập WTO cũng sẽ khiến cho hệ thống ngân hàng thương mại của Trung Quốc có thêm động lực mới để cải cách và phát triển phù hợp với nhịp độ phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, trong dài hạn, việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ có những tác động tích cực đến ngành
  54. 49 ngân hàng là chính, những tác động tiêu cực sẽ chỉ phát huy tác dụng trong ngắn hạn nhưng cũng không vượt quá được lợi ích từ việc gia nhập. * Bảo hiểm Việc Trung Quốc gia nhập WTO, một mặt sẽ khiến cho thị phần của các công ty bảo hiểm nội địa suy giảm dưới sức ép cạnh tranh của các công ty nước ngoài với những ưu thế cao hơn hẳn về quy mô, vốn, trình độ quản lý và kỹ thuật nghiệp vụ nhưng mặt khác, sự hiện diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng sẽ làm xuất hiện một loạt các hiệu ứng tích cực đối với ngành này. Hiệu ứng cạnh tranh. Sự hiện diện của các công ty nước ngoài sẽ phá vỡ tính độc quyền của thị trường bảo hiểm cũng như khiến cho ngành này phải cải cách lại nhằm khắc phục những điểm yếu của mình và nâng cao sức cạnh tranh của toàn ngành. Hiệu ứng mẫu. Sự hiện diện và phát triển của các công ty bảo hiểm nước ngoài trên thị trường bảo hiểm nội địa sẽ khiến cho các công ty bảo hiểm nội địa tiếp thu và học tập được những công nghệ, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh tiên tiến và trên cơ sở đó thực hiện việc đổi mới kinh doanh và sản phẩm nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, sau khi ngành bảo hiểm Trung Quốc mở cửa vào năm 1992, các công ty bảo hiểm nước ngoài đã nhanh chóng tăng thị phần của mình trên thị trường bảo hiểm Trung Quốc dựa trên cơ sở kỹ thuật quản lý và kinh doanh bảo hiểm tiên tiến, chủng loại bảo hiểm đa dạng. Cuối năm 1992 các công ty này đã chiếm tới 20% thị phần bảo hiểm Trung Quốc. Tuy nhiên, cùng với quá trình học tập, đổi mới, các công ty bảo hiểm nội địa đã dần giành lại được thị phần của mình. Thị phần của các công ty bảo hiểm nước ngoài đã giảm xuống còn 7% năm 1997 và dưới 5% năm 2000. Hiệu ứng mở rộng thị trường. Sự thâm nhập của các công ty bảo hiểm nước ngoài cùng với sự cải cách và đổi mới của các công ty bảo hiểm nội địa sẽ khiến cho chủng loại sản phẩm bảo hiểm trở nên đa dạng hơn với chất lượng cao hơn và kết quả là tổng lượng thị trường bảo hiểm sẽ nhanh chóng được mở rộng. Thực tế cho thấy, sau 6 năm mở cửa thị trường bảo hiểm ở Thượng Hải, sự gia tăng về số
  55. 50 lượng và cạnh tranh của các công ty bảo hiểm nước ngoài đã khiến cho các công ty bảo hiểm nội địa hoạt động linh hoạt hơn và có hiệu quả hơn so với các công ty bảo hiểm ở các thành phố khác. Tóm lại, những tác động của việc gia nhập WTO đối với ngành bảo hiểm Trung Quốc mang tính tích cực là chính nhưng việc hấp thụ được những tác động tích cực này lại phần nhiều phụ thuộc vào khả năng tự đổi mới thể chế, cơ chế kinh doanh, kỹ thuật và công nghệ kinh doanh, trình độ quản lý của bản thân ngành bảo hiểm cũng như các công ty bảo hiểm Trung Quốc. * Chứng khoán Tầm quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế quốc dân cũng như tính dễ tổn thương và dễ khủng hoảng của thị trường này đã khiến cho các cam kết về tự do hoá thị trường chứng khoán trong khuôn khổ WTO của Trung Quốc mang tính tuần tự với một khoảng thời gian chuyển tiếp nhất định. Tuy nhiên, quá trình tự do hoá đó cùng với những vấn đề tồn tại đang cần giải quyết sẽ có những tác động nhiều chiều đến ngành chứng khoán của Trung Quốc. Đó là sức ép cạnh tranh từ bên ngoài. Sức ép cạnh tranh này, một mặt, sẽ khiến cho các công ty chứng khoán của Trung Quốc hoạt động khó khăn hơn nhưng đồng thời nó cũng buộc các công ty này phải mở rộng về quy mô (tăng vốn) và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc cải tiến cơ chế quản lý, đào tạo nguồn nhân lực với kỹ năng cao, áp dụng những nghiệp vụ kinh doanh hiện đại và tiên tiến Đồng thời, cơ sở pháp lý, cơ chế giám sát thị trường, cơ chế quản lý kinh doanh theo nguyên tắc của WTO sẽ được hoàn thiện. Đối với các công ty niêm yết, sức ép của cạnh tranh sẽ khiến cho các công ty này tự thanh lọc và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Việc gia nhập WTO sẽ khiến cho các doanh nghiệp này có được môi trường hoạt động bình đẳng theo chuẩn mực quốc tế để từ đó làm cơ sở vươn ra thị trường quốc tế và toàn cầu. Chính vì thế mà mặc dù ngành khá nhạy cảm nhưng việc gia nhập WTO đối với ngành chứng khoán của Trung Quốc là lợi nhiều hơn hại: việc gia nhập này sẽ giúp cho ngành chứng khoán của Trung Quốc
  56. 51 không những giải quyết được những vấn đề đang tồn tại mà còn nâng cao được hiệu quả hoạt động của thị trường. * Viễn thông Trung Quốc gia nhập WTO đồng nghĩa với việc nước này đã cam kết thực hiện "Hiệp định về dịch vụ bưu chính viễn thông" với nội dung chính là các nước thành viên mở cửa thị trường viễn thông của mình đối với các công ty nước ngoài, chấm dứt hành vi độc quyền trong thị trường bưu chính viễn thông trong nước (bao gồm các loại dịch vụ như bưu chính viễn thông, điện thoại, truyền dẫn số liệu, fax, điện báo, điện thoại di động, truyền dẫn số liệu di động ). Do đó, những cam kết về tự do hoá lĩnh vực viễn thông của Trung Quốc được coi là khá cấp tiến: lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Quốc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài cung cấp các dịch vụ viễn thông, bao gồm cả nội dung Internet lẫn cung cấp dịch vụ Internet. Tuy nhiên, việc thực hiện những cam kết kể trên sẽ không dẫn tới việc các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt thâm nhập lĩnh vực viễn thông vì những lý do về pháp luật và cơ chế còn khá chặt chẽ của Trung Quốc mặc dù tỷ trọng sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như những hạn chế về mặt địa lý sẽ được xoá bỏ một cách từ từ. Theo các nhà chính trị và doanh nghiệp Trung Quốc, trong ngắn hạn, thị phần của các công ty viễn thông Trung Quốc sẽ bị thu hẹp nhưng xét về dài hạn những tác động tích cực vẫn là chính. Dưới sức ép của cạnh tranh và nhu cầu phát triển trong nước ngành viễn thông không những sẽ khắc phục được những tồn tại của mình mà còn sẽ tiếp thu được những kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý và kinh doanh tiên tiến nhất của thế giới; ngành này sẽ được phát triển theo hướng đa nguyên hoá và vươn ra cả thị trường nước ngoài. Đồng thời, cơ chế pháp luật đối với ngành này cũng sẽ được cải cách lại cho phù hợp với nhu cầu của thực tiễn cũng như phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Kết quả là chất lượng dịch vụ sẽ được nâng cao, giá cả dịch vụ sẽ rẻ đi với những tác động lan toả tích cực tới các ngành kinh tế khác cũng như tới việc giảm và xoá bỏ sự phát triển mất cân đối giữa các vùng ở Trung Quốc [11].