Luận văn Rủi ro và các giải pháp hạn chế chế rủi ro trong thoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Rủi ro và các giải pháp hạn chế chế rủi ro trong thoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_rui_ro_va_cac_giai_phap_han_che_che_rui_ro_trong_th.pdf
Nội dung text: Luận văn Rủi ro và các giải pháp hạn chế chế rủi ro trong thoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam
- B3 Ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO T4B RƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG === ∗ ∗ ∗ === ĐINH NGỌC TUẤN RỦI RO VÀ CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHẾ CHẾ RỦI RO TRONG THOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM L0B UẬN VĂN THẠC SỸ H2B à nội – 2003
- B5 Ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO T6B RƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG === ∗ ∗ ∗ === ĐINH NGỌC TUẤN RỦI RO VÀ CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHẾ CHẾ RỦI RO TRONG THOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Mã số : 5.02.12 L1B UẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN NHƯ TIẾN Hà nội - 2004
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả, số liệu trong luận văn là trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng Tác giả Đinh Ngọc Tuấn
- CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT DN: Doanh nghiệp ICC: Phòng thương mại quốc tế L/C: Tín dụng thư TTQT: Thanh toán quốc tế UCP 500: Quy tắc thống nhất và thực hành về tín dụng chứng từ XK: Xuất Khẩu NK: Nhập Khẩu XNK: Xuất nhập khẩu
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ Số TT Tên bảng Trang 1 Bảng 1.1 Các tiêu thức đánh giá rủi ro chính trị của 12 Editch và H.G koeglmayr 2 Bảng 2.1 Kim ngạch XNK thời kỳ 1998-2003 25 3 Bảng 2.2 Tình hình nhập siêu của Việt Nam từ 25 1992 đến 2003 4 Bảng 2.3 Số vụ DN Việt Nam bị kiện bán phá giá 39 5 Bảng 2.4 Giá trị một số nhãn hiệu nổi tiếng 44 6 Sơ đồ 3.1: Định dạng và phân tích rủi ro 70
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Chính sách phát triển kinh tế Việt Nam hoà với xu thế phát triển chung là mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Là một lĩnh vực quan trọng đƣợc các nƣớc ƣu tiên trong quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động kinh doanh XNK nhƣ một thƣớc đo, cầu nối quan trọng. Hoạt động này đặc biệt có tiền đề phát triển mạnh mẽ khi xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá và tự do thƣơng mại trở thành một nhu cầu tất yếu của đời sống thƣơng mại toàn cầu với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ. Sau đại hội VI của Đảng, nhờ sự đổi mới mạnh mẽ trong tƣ duy kinh tế, giải phóng sức lao động, phƣơng thức quản lý kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK phát triển và tăng trƣởng hơn bao giờ hết. Sự tăng trƣởng kinh tế và thƣơng mại với tốc độ cao, đời sống nhân dân không ngừng đƣợc cải thiện là một minh chứng cho chủ trƣơng, đƣờng lối đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc ta. Tuy nhiên, hoạt động XNK không chỉ mang lại những lợi ích kinh tế mà còn làm phát sinh nguy cơ gây rủi ro, gây tổn thất, làm ảnh hƣởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới kết quả kinh doanh của DN, của ngành nghề, ảnh hƣởng đến bộ phận lao động hoặc nền kinh tế. Với sự hình thành của mạng thông tin toàn cầu và sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật, hoạt động kinh doanh XNK trở lên đa dạng hơn, hiệu quả hơn và phát sinh rủi ro cũng nhiều hơn, phức tạp hơn nhất là khi nảy sinh mâu thuẫn lợi ích chính trị và kinh tế giữa các quốc gia, các khu vực, các khối liên kết kinh tế. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này cần phải có biện pháp hạn chế những rủi ro mà VN đã gặp phải trong thời gian qua, chúng ta cần nghiên cứu rủi ro XNK một cách tổng quát nhất cả về mặt vi mô và vĩ mô nhằm đƣa ra các giải pháp nhằm hạn chế, giảm bớt nguy cơ, giảm nhẹ rủi ro,
- 2 tổn thất góp phần giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh và tạo lập môi trƣờng kinh doanh an toàn là một điều cần thiết. Với cách nhìn nhƣ vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Rủi ro - giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam” làm đề tài luận văn nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh XNK. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài: Trong thời gian qua, có nhiều đã có nhiều sách, báo, bài viết về rủi ro trong kinh doanh, mỗi bài viết nghiên cứu rủi ro ở một góc độ khác nhau. Đối với rủi ro trong hoạt động XNK chỉ có những bài nghiên cứu riêng về một khía cạnh vấn đề, hay một phƣơng thức, một loại rủi ro nào đó mà chƣa có một nghiên cứu đánh giá về các nhân tố tác động vĩ mô gây rủi ro trong hoạt động XNK. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK của Việt Nam, đề xuất các giải pháp để hạn chế những rủi ro từ đó cải thiện, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động XNK. 4. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận liên quan tới XNK và rủi ro trong kinh doanh XNK. Nghiên cứu những rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK của Việt Nam trong những năm đổi mới, từ đó làm cơ sở giải quyết từng vấn đề trong luận văn. 5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các biện pháp nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin để luận giải các
- 3 vấn đề liên quan, bên cạnh đó luận văn còn sử dụng phƣơng pháp thống kê, phân tích, so sánh 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng Chƣơng 1: Lý luận chung về rủi ro - rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Chƣơng 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK Việt Nam. Chƣơng 3: Giải pháp ngăn ngừa - hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo hƣớng dẫn PGS. TS Nguyễn Nhƣ Tiến, các thầy cô giáo, các bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
- 4 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO - RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK 1.1. KHÁI NIỆM VỀ RỦI RO 1.1.1. KHÁI NIỆM RỦI RO Trong kinh doanh, bản thân mỗi doanh nghiệp phải đƣa ra các quyết định quản lý, trong mỗi quyết định đó đã bao hàm sự rủi ro. Những rủi ro này có thể xuất phát ngay từ chính bản thân của mỗi doanh nghiệp, bản thân chính sách của một nƣớc, nƣớc đối tác và cũng có thể xuất phát từ những yếu tố khách quan, tồn tại độc lập, khách quan ngoài ý muốn của doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự bùng nổ và hỗ trợ đắc lực của cuộc cách mạng tin học, các phƣơng tiện thông tin hiện đại, vô số các cơ hội kinh doanh đang mở ra đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK của Việt Nam, tuy nhiên cần phải nhận thức rằng cơ hội mở ra càng nhiều thì rủi ro càng lớn, cùng với sự phát triển mạnh mẽ các loại hình kinh doanh quốc tế, tính chất của các loại rủi ro càng đa dạng và phức tạp. Vậy rủi ro là gì? Có rất nhiều khái niệm về rủi ro, theo Frank Knight, một nhà kinh tế học ngƣời Mỹ: “ Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lƣờng đƣợc”. Theo nhà kinh tế học Allan Wilett: “ Rủi ro là bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi”. Đối với Marilee Hurt Me Carty, một nhà nghiên cứu thuộc Viện khoa học kỹ thuật Georgea: “Rủi ro là một tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tƣơng lai có thể xác định đƣợc”. Khái niệm trên đề cập đặc điểm cơ bản của rủi ro đó là tính ngẫu nhiên của rủi ro song chƣa nêu đƣợc tác động, hậu quả của rủi ro. Theo nhà kinh tế học Irving Pfeffer “ Rủi ro là một tổng hợp sự ngẫu nhiên có thể đo lƣờng đƣợc bằng xác suất” hay “ rủi ro là những biến động
- 5 tiềm ẩn ở kết quả, là giá trị hay kết quả hiện thời chƣa biết đến”. “Rủi ro là những tai nạn sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, gây thiệt hại về ngƣời và tài sản “. Theo khái niệm rủi ro trong bảo hiểm thì “ Rủi ro là những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, hoặc những mối de doạ nguy hiểm khi xảy ra thì gây tổn thất cho đối tƣợng bảo hiểm”. Hai khái niệm về rủi ro này đề cập cụ thể hơn về rủi ro và hậu quả của nó đồng thời đề cập đến thiệt hại vật chất có thể đo lƣờng đƣợc, có thể làm phƣơng hại tới mọi hoạt động của con ngƣời. Trong hoạt động cuộc sống hàng ngày cũng nhƣ trong hoạt động kinh tế luôn hàm chứa rủi ro. Từ những quan niệm nêu trên, ta có thể nêu khái niệm rủi ro nhƣ sau [1]: Rủi ro là những tai hoạ, tai nạn, sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra, gây thiệt hại về người và tài sản trong cuộc sống hàng ngày và trong hoạt động kinh tế của con người. Khi đề cập đến rủi ro, chúng ta thƣờng đề cập tới những yếu tố tiêu cực, phiến diện gây ảnh hƣởng, hậu quả đối với con ngƣời. Do đó, nghiên cứu rủi ro và đề ra các biện pháp hạn chế là hoạt động cần thiết. 1.1.2. KHÁI NIỆM RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK Kinh doanh XNK là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro và mạo hiểm do đặc thù của hoạt động này bởi sự xa cách về mặt địa lý, sự khác biệt về môi trƣờng kinh doanh, chính trị và văn hoá Qua xem xét một số quan niệm về rủi ro cũng nhƣ xuất phát từ thực tế khách quan trong hoạt động xuất nhập khẩu, rủi ro XNK có thể đƣợc hiểu nhƣ sau:
- 6 Rủi ro xuất nhập khẩu là những biến cố không mong đợi, có thể xảy ra trong quá trình xuất nhập khẩu, làm giảm hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. 1.1.3. ĐẶC ĐIỂM Từ những khái niệm nêu trên, ta thấy rủi ro nói chung và rủi ro xuất nhập khẩu nói riêng đều có những đặc điểm sau: - Rủi ro tồn tại khách quan. Rủi ro tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con ngƣời, nó tồn tại độc lập với ý chí của doanh nghiệp và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Con ngƣời chỉ có thể nhận biết loại rủi rỏ này bằng tƣ duy, kinh nghiệm. - Rủi ro có tính bất định. Rủi ro xuất nhập khẩu mang tính bất định, ngƣời ta chỉ có thể lƣờng trƣớc đƣợc rủi ro nhƣng không thể đánh giá một cách chính xác về mức độ của rủi ro và khi nào rủi ro xảy ra. Do vậy, rủi ro là một sự không chắc chắn về những tổn thất có thể xảy ra trong tƣơng lai. - Rủi ro có tính khả năng. Khi nói đến rủi ro, ngƣời ta phải đề cập đến tính khả năng của rủi ro nghĩa là nó có thể trở thành hiện thực hoặc không, khả năng rủi ro có thể biến thành thế này hay thế khác, chỉ có thể dự đoán nó xảy ra hay không trong giới hạn thời gian và không gian, nó có khả năng xảy ra nhƣng cũng có thể không xảy ra. Nếu rủi ro không có tính khả năng thì bảo hiểm không ra đời và không ai phải lo sợ trƣớc rủi ro. - Rủi ro có tính tƣơng lai.
- 7 Rủi ro có tính tƣơng lai vì khi bàn đến rủi ro nghĩa là nó chƣa xảy ra, con ngƣời chỉ dự đoán, đo lƣờng trƣớc trong tƣơng lai, ở thời điểm ta dự báo rủi ro chƣa xảy ra. Căn cứ vào tính khả năng và tính tƣơng lai của rủi ro, ngƣời ta có thể “kinh doanh rủi ro”- bảo hiểm. - Rủi ro có tính lịch sử. Rủi ro mang tính lịch sử, ứng với mỗi giai đoạn nhất định, mỗi chủ thể doanh nghiệp cụ thể, rủi ro mang tính riêng biệt. Hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, với sự tham gia của nhiều nền kinh tế khác nhau trên thế giới. Do đó, rủi ro xuất nhập khẩu mang tính lịch sử. Đặc trƣng của những rủi ro này luôn thay đổi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, ví dụ nhƣ khi nền khoa học kỹ thuật, công nghệ càng phát triển, kỹ thuật đóng tầu hiện đại hơn với những con tàu an toàn hơn, khắc phục nhiều hơn yếu tố rủi ro thiên tai đối với vận tải biển, song đồng thời cũng mở ra nhiều hình thức thƣơng mại mới, thanh toán mới và nảy sinh những loại rủi ro mới. Ngoài những đặc điểm chung nói trên, rủi ro trong hoạt động XNK so với rủi ro kinh doanh nói chung có một số điểm chú ý sau: Một là vì hoạt động XNK vƣợt ra ngoài biên giới quốc gia nên các doanh nghiệp chịu nhiều nguy cơ rủi ro cả trong và ngoài nƣớc, gồm nhiều nhân tố khách quan và chủ quan vì vậy rủi ro XNK có tần xuất lớn hơn. Hai là rủi ro trong hoạt động XNK gắn liền, trực tiếp với sự biến động của các nhân tố toàn cầu nhƣ khủng hoảng, suy thoái kinh tế khu vực và thế giới, phạm vi mức độ cạnh tranh quốc tế. Ba là kinh doanh XNK là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố nhƣ chủ thể kinh doanh, ngôn ngữ, luật áp dụng, tập quán thƣơng mại, sự dịch
- 8 chuyển hàng hoá, chứng từ, tiền tệ thanh toán quốc tế Do vậy, các loại rủi ro xảy ra trong hoạt động này rất đa dạng và phức tạp. 1.2. PHÂN LOẠI Rủi ro trên thực tế tồn tại rất đa dạng. ở mỗi lĩnh vực khác nhau, ngoài những rủi ro do tác động chung còn gặp phải những rủi ro riêng. Trong hoạt động kinh doanh cũng nhƣ trong đời sống kinh tế xã hội, việc phân loại rủi ro là hết sức cần thiết để hiểu và nắm bắt đƣợc nó, từ đó tìm kiếm giải pháp nhằm tránh, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của rủi ro. Rủi ro đƣợc phân biệt theo nhiều loại tuỳ theo các tiêu thức khác nhau: 1.2.1. CĂN CỨ VÀO TÍNH CHẤT CỦA RỦI RO Theo căn cứ này rủi ro nói chung đƣợc chia làm 2 loại. Đó là rủi ro thuần tuý và rủi ro suy đoán. Rủi ro thuần tuý là những rủi ro mang lại những thiệt hại, mất mát mà không ai có khả năng đƣợc lợi. Rủi ro suy đoán là rủi ro mang tính may rủi, nghĩa là nó vừa có khả năng dẫn đến tổn thất vừa có khả năng sinh lời. Có thể nói, rủi ro thuần tuý chỉ có viễn cảnh là tổn thất hoặc không còn rủi ro suy đoán viễn cảnh hứa hẹn việc kinh doanh sẽ sinh lời hoặc thua lỗ. 1.2.2. CĂN CỨ VÀO PHẠM VI ẢNH HƢỞNG CỦA RỦI RO Theo căn cứ này ta có thể chia rủi ro làm hai nhóm là rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt: - Rủi ro cơ bản là rủi ro có ảnh hƣởng đến toàn bộ nhóm ngƣời nào đó trong xã hội. Phần lớn rủi ro này xuất phát từ sự tác động tƣơng hỗ về kinh tế, chính trị, xã hội mặc dù có thể xuất phát từ những nguyên nhân thuần tuý có tính vật chất nhƣ thất nghiệp, lạm phát.
- 9 - Rủi ro riêng biệt là rủi ro mà hậu quả của nó chỉ ảnh hƣởng đến một số cá nhân, tổ chức mà không ảnh hƣởng đến toàn bộ xã hội. Ví dụ nhƣ đắm tàu, cƣớp ngân hàng, hay cháy một nhà máy Tuy nhiên, cách phân loại trên chỉ mang tính tƣơng đối, tuỳ thuộc vào quan niệm của cộng đồng, xã hội ở mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau, rủi ro riêng biệt có thể chuyển thành rủi ro cơ bản và ngƣợc lại. 1.2.3. CĂN CỨ VÀO KHẢ NĂNG BẢO HIỂM Theo căn cứ này, rủi ro đƣợc chia làm hai loại. Đó là rủi ro có thể bảo hiểm và rủi ro không thể bảo hiểm. - Rủi ro có thể bảo hiểm: Cách phân loại rủi ro có thể bảo hiểm đứng trên góc độ ngƣời kinh doanh dựa vào đặc điểm “tính khả năng và tính tƣơng lai của rủi ro”. Khi xem xét rủi ro có thể bảo hiểm hay không ngƣời bảo hiểm phải xác định rủi ro dựa trên hai cơ sở sau: Một là chỉ bảo hiểm cho rủi ro hoàn toàn ngẫu nhiên, rủi ro cố ý gây ra phải bị loại trừ. Hai là rủi ro có thể lƣợng hoá, tức là hậu quả của rủi ro đó quy thành tổn thất vật chất. - Rủi ro không thể bảo hiểm: là những rủi ro không đáp ứng hai tiêu chí trên. 1.2.4. CĂN CỨ VÀO NGUYÊN NHÂN SINH RA RỦI RO Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, ta có thể chia rủi ro làm các loại sau:
- 10 - Rủi ro do thiên tai, thiên tai là những hiện tƣợng tự nhiên mà con ngƣời không chi phối đƣợc nhƣ: biển động, gió lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần, núi lửa, tai hoạ biển - Rủi ro do các tai nạn bất ngờ là những thiệt hại không phải do thiên tai gây ra mà do tác động ngẫu nhiên bên ngoài gây ra trên biển, trên không, trên bộ, trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ, giao nhận, lƣu kho, bảo hiểm, ký kết thực hiện hợp đồng - Rủi ro do sự biến động của chu kỳ kinh tế, do các hiện tƣợng chính trị xã hội gây nên nhƣ rủi ro chiến tranh, đình công, nổi loạn và các hành động khủng bố. - Rủi ro do hành động riêng lẻ của con ngƣời gây nên nhƣ đào bới lòng đất gây biến động địa chấn, chặt phá rừng, gây ô nhiễm môi trƣờng sống, trộm cắp, cƣớp phá, sơ xuất trong nghiệp vụ tác nghiệp 1.2.5. CĂN CỨ VÀO MÔI TRƢỜNG Nhóm rủi ro này do các yếu tố thuộc môi trƣờng tự nhiên, môi trƣờng kinh doanh quốc tế, môi trƣờng kinh tế vĩ mô, môi trƣờng tác nghiệp gây ra. Sự thiếu ổn định các yếu tố này có thể dẫn đến rủi ro cho các doanh nghiệp. Bởi không giống nhƣ các doanh nghiệp chỉ kinh doanh trong nƣớc, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoạt động trên phạm vi rộng, đa quốc gia, các nƣớc có điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, luật pháp, chính trị khác nhau Do vậy, những rủi ro phát sinh từ môi trƣờng bên ngoài ngày càng lớn. Rủi ro điều kiện tự nhiên Là rủi ro do thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh tác động xấu đến quá trình sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Những hậu quả này thƣờng rất nghiêm trọng và có ảnh hƣởng lớn tới doanh nghiệp, nhất là đối với một nƣớc
- 11 đang phát triển nhƣ Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể phòng ngừa và hạn chế đƣợc những rủi ro này. Rủi ro về chính trị, pháp luật Là rủi ro do chính sách mà chính phủ áp dụng nhằm điều tiết hoạt động kinh doanh XNK làm hạn chế, ảnh hƣởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, các nhà đầu tƣ. Cụ thể hơn đó có thể là khả năng mà các cơ quan chức năng của chính phủ có thể tạo nên sự thay đổi, xáo trộn môi trƣờng kinh doanh của quốc gia tác động đến lợi nhuận và những mục tiêu khác của doanh nghiệp. Đây là rủi ro mà các nhà xuất khẩu cần phải chú ý vì trƣớc khi xây dựng chiến lƣợc xuất khẩu hay quyết định ký kết một hợp đồng kinh tế, các doanh nghiệp xuất khẩu phải dựa vào tình hình kinh tế xã hội, dựa trên văn bản quy phạm pháp luật của đối tác. Biến động về chính trị, pháp luật xảy ra sẽ làm đảo lộn mọi dự đoán của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh XNK, rủi ro chính trị, pháp lý là loại rủi ro khó lƣờng. Một số loại rủi ro chính trị nhƣ: - Chính sách quản lý ngoại hối, thuế, hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thƣơng mại khác thay đổi làm thay đổi khoản thu nhập cũng nhƣ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. - Chính sách tuyển dụng lao động: sự thay đổi những quy định về quản lý và tuyển dụng lao động, ví dụ nhƣ thay đổi tiền lƣơng tối thiểu, lao động nữ hoặc hạn chế lao động nƣớc ngoài. - Lãi suất: Chính phủ có thể đƣa ra nhiều biện pháp sử dụng lãi suất để quản lý và kiểm soát lạm phát. Vấn đề có thể nảy sinh theo thời gian tác động đến tiền tệ của quốc gia - Giấy phép độc quyền, chính sách tài trợ hoặc bảo trợ một ngành nào đó, quyền phát triển hoặc khai thác nguồn tài nguyên hay cơ hội kinh doanh.
- 12 - Môi trƣờng, sức khoẻ và an toàn, những quy định liên quan đến kiểm soát chất thải, quy định về bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Bảng 1.1 Các tiêu thức đánh giá rủi ro chính trị của Editch và H.G Koeglmayr [17] Yếu tố Tiêu thức Điểm chính Thấp Cao nhất nhất Môi trƣờng 1. Sự ổn định của hệ thống kinh tế chính trị kinh tế 2. Sự xung đột nội bộ sắp xảy ra chính trị 3. Đe doạ từ bên ngoài 4. Mức độ kiểm soát hệ thống kinh tế 5. Sự tin cậy của một quốc gia nhƣ một đối tác kinh doanh 6. Sự đảm bảo hiến pháp 7. Hiệu quả của quản lý hành chính 8. Những mối quan hệ về lao động Hoàn cảnh 9. Mức dân số kinh tế 10. Phần trăm thu nhập trong nƣớc 11. Tốc độ phát triển kinh tế 5 năm gần nhất 12. Tốc độ phát triển 2 năm tiếp theo 13. Lạm phát qua hai năm 14. Khả năng của thị trƣờng vốn nội địa 15. Lực lƣợng lao động chất lƣợng cao 16. Khả năng thuê nhân công nƣớc ngoài 17. Nguồn năng lƣợng sẵn có 18. Những tiêu chuẩn về ô nhiễm môi trƣờng 19. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống vận tải và thông tin truyền thông Những mối 20. Những hàng rào nhập khẩu quan hệ 21. Những hàng rào xuất khẩu kinh tế với 22. Những rào cản về đầu tƣ nƣớc ngoài nƣớc ngoài 23. Sự tự do trong thiết lập hay cam kết về hình thức công ty 24. Sự bảo vệ của luật pháp đối với nhãn hiệu và sản phẩm 25. Sự hạn chế trong chuyển tiền 26. Sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái 27. Tình hình cán cân thanh toán 28. Dòng chảy vốn nƣớc ngoài qua việc nhập khẩu dầu và năng lƣợng 29. Vị trí tài chính quốc tế 30. Những hạn chế trong chuyển đổi từ đồng nội tệ sang ngoại tệ
- 13 (Nguån: Editch vµ H.G Koeglmayr, “Country Risk Ratings” Management Internations Review- Sè ®iÓm cµng cao th× rñi ro chÝnh trÞ cµng lín). Rñi ro do l¹m ph¸t C¸c nhµ xuÊt nhËp khÈu lu«n gÆp ph¶i nh÷ng rñi ro biÕn ®éng vÒ mÆt kinh tÕ. Khi l¹m ph¸t x¶y ra ë møc cao th× mét hîp ®ång sinh lîi sÏ kh«ng cßn ý nghÜa. H¬n n÷a, do ®Æc ®iÓm cña qu¸ tr×nh kinh doanh xuÊt nhËp khÈu, thêi gian thùc hiÖn mét hîp ®ång t•¬ng ®èi dµi, trung b×nh tõ 30 ®Õn 45 ngµy. Do ®ã, x¸c suÊt x¶y ra rñi ro l¹m ph¸t kh«ng ph¶i lµ rñi ro th•êng trùc, tÊt yÕu. Rñi ro hèi ®o¸i Rñi ro hèi ®o¸i lµ sù kh«ng ch¾c ch¾n vÒ gi¸ trÞ cña mét kho¶n thu nhËp hay chi tr¶ cho sù biÕn ®éng tû gi¸ g©y ra, cã thÓ lµm tæn thÊt ®Õn gi¸ trÞ dù kiÕn cña hîp ®ång. Trong ho¹t ®éng xuÊt nhËp khÈu, rñi ro hèi ®o¸i th•êng x¶y ra khi ngo¹i tÖ mµ nhµ xuÊt nhËp khÈu sÏ nhËn trong t•¬ng lai gi¶m gi¸ hay t¨ng gi¸ so víi ®ång b¶n tÖ. Rñi ro hèi ®o¸i x¶y ra khi tû gi¸ hèi ®o¸i vµo kú ®¸o h¹n t¨ng hoÆc gi¶m so víi tû gi¸ lóc ký kÕt hîp ®ång th•¬ng m¹i. Nãi c¸ch kh¸c, sù thay ®æi tû gi¸ lµm thay ®æi gi¸ trÞ kú väng cña c¸c kho¶n thu hoÆc chi ngo¹i tÖ trong t•¬ng lai lµm kÕt qu¶ ho¹t ®éng kinh doanh xuÊt nhËp khÈu bÞ ¶nh h•ëng ®¸ng kÓ vµ nghiªm träng h¬n cã thÓ lµm ®¶o lén kÕt qu¶ kinh doanh. Rñi ro do sù kh¸c biÖt vÒ v¨n ho¸ Sù kh¸c biÖt vÒ v¨n ho¸ cã thÓ g©y nh÷ng hiÓu nhÇm ®¸ng tiÕc, cã thÓ dÉn ®Õn viÖc c«ng ty mÊt thÞ phÇn hay kh¶ n¨ng th©m nhËp vµo thÞ tr•êng môc tiªu. Rñi ro vÒ v¨n ho¸ th•êng lµ do: Kh«ng am hiÓu vÒ phong tôc tËp qu¸n ®Þa ph•¬ng.
- 14 Kh«ng am hiÓu vÒ lèi sèng, ng«n ng÷ cña quèc gia ®ã. Khai th¸c h×nh ¶nh qu¶ng c¸o ®Ó kÝch thÝch sù quan t©m cña ng•êi tiªu dïng nh•ng l¹i thÓ hiÖn mét c¸ch qu¸ møc g©y t¸c ®éng ng•îc. 1.2.5. CĂN CỨ VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK Rủi ro trong quá trình chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu, chuẩn bị hàng xuất khẩu qua nhiều công đoạn, các sản phẩm hàng hoá thƣờng qua giai đoạn sản xuất, chế biến hoặc gom hàng từ nhiều nguồn. Do đó, quá trình này thƣờng ảnh hƣởng bởi điều kiện môi trƣờng tự nhiên, hoặc các yếu tố đầu vào không ổn định và biến động tuỳ thuộc vào mỗi loại hình và quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Rủi ro trong đàm phán Các phƣơng tiện đàm phán chủ yếu trong thƣơng mại quốc tế thƣờng là: đàm phán bằng thƣ tín, đàm phán qua điện thoại hoặc đàm phán giao dịch trực tiếp. Tuỳ thuộc vào hình thức đàm phán các doanh nghiệp có thể gặp những rủi ro khác nhau: Hình thức giao dịch gián tiếp (đàm phán qua thƣ từ): Rủi ro có thể xảy ra khi ta chuẩn bị kém về hình thức và nội dung hoặc sự nhầm lẫn về ngôn từ làm đối tác hiểu nhầm, hiểu sai nội dung mà ta hoặc đối tác muốn chuyển tải. Giao dịch qua điện thoại: Rủi ro có thể xảy ra nếu không thông thạo ngôn ngữ quy ƣớc hai bên dùng để giao dịch, thƣờng không dùng tiếng Việt. Do vậy, nếu sử dụng không thông thạo, tinh tế và linh hoạt sẽ dễ bị đối tác hiểu nhầm, từ chối hợp tác doanh nghiệp có thể mất đi những hợp đồng có giá trị.
- 15 Hình thức giao dịch trực tiếp: Rủi ro có thể xảy ra nếu trƣớc khi gặp gỡ đối tác, doanh nghiệp không có sự chuẩn bị những tài liệu liên quan hoặc không hiểu biết cặn kẽ về đối tác, không đủ kỹ năng và nghệ thuật đàm phán. Rủi ro khi soạn thảo hợp đồng Quá trình soạn thảo hợp đồng là khâu quan trọng, thực hiện tốt khâu này sẽ giúp doanh nghiệp có thể phòng ngừa và hạn chế nhiều rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. Rủi ro trong soạn thảo hợp đồng là thiếu dẫn chiếu các văn bản pháp luật, tập quán quốc tế liên quan hoặc thiếu những điều khoản cần thiết về một hợp đồng, nhất là các điều khoản bảo vệ doanh nghiệp mình khi xảy ra tranh chấp thƣơng mại. Đồng thời khi soạn thảo hợp đồng, DN cần chú ý tới thời gian thực hiện hợp đồng tƣơng quan với giá cả của hàng hoá, điều khoản giao – nhận hàng, thanh toán, trọng tài Rủi ro khi ký kết hợp đồng Nếu các doanh nghiệp trƣớc khi ký kết không kiểm tra lại các điều khoản của hợp đồng, không đối chiếu các điều khoản ghi trong hợp đồng với sự thoả thuận qua hình thức khác trƣớc đó đã đạt đƣợc có thể gây ra những rủi ro và tổn thất không đáng có cho doanh nghiệp. Rủi ro trong quá trình vận chuyển Do hành trình hàng hoá từ tay ngƣời bán đến tay ngƣời mua thƣờng xa nhau, thời gian vận chuyển lâu, đa phần hàng hoá hữu hình thƣờng vận chuyển bằng đƣờng biển, nhƣng dù đƣợc vận chuyển bằng phƣơng tiện khác thì cũng khó tránh khỏi các trƣờng hợp tự nhiên bất khả kháng. Tuy nhiên, theo từng loại hợp đồng với mỗi điều kiện cơ sở giao hàng khác nhau thì mức độ rủi ro và thiệt hại cũng khác nhau. ICC đã ban hành “Các điều kiện thƣơng mại quốc tế” để các bên lựa chọn. Ngƣời nhập khẩu thƣờng chọn những điều
- 16 kiện với chi phí nhập hàng càng thấp càng tốt, đối với ngƣời xuất khẩu thì ngƣợc lại vì vậy họ ít khi coi trọng đến hậu quả rủi ro có thể xảy ra. Rủi ro trong quá trình giao nhận Rủi ro trong quá trình này thƣờng xảy ra đối với doanh nghiệp do một số nguyên nhân chính sau: Thiếu thông tin về hãng tầu, lịch trình, địa điểm, chi nhánh, chuyển tải, không chủ động trong việc chuẩn bị giao hoặc nhận hàng. Không nắm vững các khái niệm về thời gian xếp dỡ, thời gian tàu đến cảng xếp, dỡ hàng, do đó không chủ động giao nhận Không nắm vững các kỹ thuật bố trí giao nhận hàng trên phƣơng tiện vận tải để đảm bảo số lƣợng và chất lƣợng đƣợc giao, không sử dụng điều kiện dung sai. Chƣa thông thạo các thủ tục hải quan, không chuẩn bị đầy đủ chứng từ cần thiết để tiến hành kiểm hoá, thông quan. Không thông báo đã giao hàng cho bạn hàng biết theo quy định của hợp đồng. Không chủ động trong việc thuê tàu, nên các doanh nghiệp Việt Nam thƣờng gặp rủi ro trong quá trình giao nhận vì các doanh nghiệp Việt Nam thƣờng mua CIF, bán FOB. Rủi ro trong quá trình giao nhận ảnh hƣởng lớn tới việc thực hiện hoàn chỉnh một hợp đồng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Bởi giao nhận là một trong những điều kiện để giúp doanh nghiệp có những chứng từ cần thiết để thanh toán tiền hàng, trong đó vận tải đơn là một chứng từ chứng minh việc giao hàng của doanh nghiệp.
- 17 Rủi ro trong quá trình mua bảo hiểm Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đều xuất khẩu hàng hoá với giá FOB, thực tế rất ít doanh nghiệp gặp rủi ro trong quá trình này. Rủi ro trong quá trình mua bảo hiểm thƣờng xảy ra khi: Chứng từ tín dụng đƣợc xuất trình không đúng nhƣ yêu cầu của tín dụng thƣ, ví dụ nhƣ trong L/C yêu cầu xuất trình đơn bảo hiểm nhƣng lại xuất trình giấy chứng nhận bảo hiểm. Các rủi ro bảo hiểm không phải là loại quy ƣớc trong tín dụng thƣ. Đồng tiền bảo hiểm không đúng với quy định trong tín dụng thƣ (trừ trƣờng hợp có điều khoản liên quan quy định trong tín dụng thƣ). Số tiền bảo hiểm thấp hơn yêu cầu trong tín dụng thƣ. Hiệu lực hợp đồng bảo hiểm không bắt đầu vào đúng ngày trên chứng từ vận tải hoặc trƣớc ngày ghi trên chứng từ vận tải. Không đánh giá đúng mức độ của rủi ro đối với hàng hoá dẫn đến việc mua bán không đúng loại bảo hiểm cần thiết. Rủi ro trong thanh toán Rủi ro trong thanh toán là những mất mát thiệt hại xảy ra do không thu hồi đƣợc vốn một cách đầy đủ và đúng hạn hoặc phải chịu các chi phí phát sinh không đáng có. Ngày nay, cùng với sự phát triển của thƣơng mại quốc tế, sự phát triển của hệ thống ngân hàng với sự hỗ trợ tích cực của các thành tựu khoa học kỹ thuật và cách mạng tin học, các phƣơng tiện thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, với mỗi phƣơng thức thanh toán lựa chọn, các doanh nghiệp vẫn có thể gặp những rủi ro.
- 18 - Rủi ro thường gặp trong phương thức nhờ thu Phƣơng thức nhờ thu là phƣơng thức thanh toán trong đó ngƣời bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng, uỷ thác ngân hàng phục vụ thu hộ mình số tiền thanh toán từ ngƣời mua trên cơ sở hối phiếu lập ra. Có hai loại nhờ thu là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ [9 ]: Nhờ thu trơn là phƣơng thức trong đó ngƣời bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở ngƣời mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho ngƣời mua không thông qua ngân hàng. Phƣơng thức nhờ thu trơn rất ít đƣợc sử dụng trong thanh toán quốc tế, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, vì nó không đảm bảo quyền lợi cho ngƣời bán, việc nhận hàng của ngƣời mua tách rời khâu thanh toán do đó tiềm ẩn rủi ro rất cao đối với ngƣời bán. Đó là việc ngƣời mua có thể đã nhận hàng nhƣng không thanh toán hoặc chậm thanh toán. Đối với ngƣời mua, nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ, ngƣời mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của ngƣời bán có đúng hợp đồng hay không. Phƣơng thức nhờ thu kèm chứng từ là phƣơng thức trong đó ngƣời bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở ngƣời mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện là nếu ngƣời mua chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ cho ngƣời mua để nhận hàng. Nhờ thu kèm chứng từ có hai loại, một là D/P (Documents Against Payment - thanh toán đổi chứng từ - nhờ thu trả ngay), ngƣời mua phải trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ cho họ. Hai là phƣơng thức D/A ( Documents Against Acceptance - thanh toán đổi chứng từ - nhờ thu trả chậm), thay vì hành động trả tiền bằng hành động chấp
- 19 nhận trả tiền của ngƣời mua. Trƣờng hợp này dùng cho việc bán chịu ngắn ngày của ngƣời bán cho ngƣời mua. Các rủi ro thƣờng gặp trong phƣơng thức nhờ thu: Ngƣời mua từ chối không nhận hàng, không nhận chứng từ, không thanh toán. Khi tranh chấp hoặc có rủi ro xảy ra, ngƣời bán không có cơ sở pháp lý để khiếu nại ngƣời mua khi ngƣời mua từ chối nhận hàng và thanh toán vì ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian khống chế chứng từ. Ngƣời bán gánh chịu chi phí khi hàng chuyển về nƣớc. - Rủi ro đối với phương tiện chuyển tiền T/T Có hai loại điện chuyển tiền là điện tiền trả trƣớc và điện tiền trả ngay hoặc trả sau. Điện tiền trả trƣớc là hình thức ngƣời nhập khẩu trả tiền trƣớc cho ngƣời xuất khẩu rồi sau đó ngƣời xuất khẩu mới tiến hành giao hàng. Do vậy, rủi ro gần nhƣ không có đối với ngƣời xuất khẩu nhƣng lại rất mạo hiểm đối với ngƣời nhập khẩu. Ngƣời nhập khẩu có thể không nhận đƣợc hàng, nhận thiếu số lƣợng hàng, hàng có chất lƣợng kém ) Điện chuyển tiền trả ngay hoặc trả sau: phƣơng thức này đòi hỏi ngƣời xuất khẩu phải giao hàng cho ngƣời nhập khẩu trƣớc, sau đó ngƣời nhập khẩu mới chuyển tiền để thanh toán. Do vậy, rủi ro đối với các nhà xuất khẩu là rất lớn, thƣờng là các rủi ro nhƣ hàng đã đƣợc giao nhƣng không nhận đƣợc tiền thanh toán khi nhà nhập khẩu mất khả năng chi trả hoặc cố tình không thanh toán hoặc thanh toán không đúng thời hạn quy định trong hợp đồng do ngƣời nhập khẩu trì hoãn hoặc gặp khó khăn về tài chính. Ngƣời nhập khẩu từ chối
- 20 nhận hàng khi giá cả thị trƣờng đang giảm và vì thế sẽ không thực hiện việc thanh toán. - Rủi ro đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ( L/C). Phƣơng thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng mở thƣ tín dụng theo yêu cầu của ngƣời mua (ngƣời xin mở thƣ tín dụng) cam kết trả một số tiền nhất định cho ngƣời thứ ba (ngƣời hƣởng lợi số tiền của thƣ tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do ngƣời thứ ba ký phát trong phạm vi số tiền đó khi ngƣời này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định trong thƣ tín dụng [9]. Chứng từ là vấn đề cơ bản trong phƣơng thức thanh toán bằng tín dụng. Ngân hàng chỉ liên quan đến chứng từ và không liên quan đến xác nhận hàng hoá đƣợc giao, ngân hàng không chịu trách nhiệm xác minh tính chân thực của chứng từ và không chịu trách nhiệm về số lƣợng và chất lƣợng hàng đƣợc giao. Phƣơng thức thanh toán tín dụng chứng từ là phƣơng thức thanh toán đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu cao nhất so với các phƣơng thức thanh toán khác đã đề cập. Tuy nhiên, L/C không phải là phƣơng thức tuyệt đối an toàn cho cả ngƣời xuất khẩu và ngƣời nhập khẩu: Rủi ro đối với người nhập khẩu Ngân hàng tiến hành trả tiền cho ngƣời hƣởng lợi dựa trên các chứng từ xuất trình mà không dựa vào việc kiểm tra hàng hoá. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về tính xác thực của các chứng từ, không chịu trách nhiệm về số lƣợng và chất lƣợng hàng đƣợc giao. Do vậy, nếu có sự giả mạo trong việc xuất trình chứng từ giả để nhận đƣợc thanh toán thì ngƣời mua phải bồi hoàn lại số tiền cho ngân hàng phát hành thƣ tín dụng đã trả cho ngƣời hƣởng lợi.
- 21 Rủi ro xảy ra trong trƣờng hợp ngƣời bán xuất trình các chứng từ phù hợp với quy định của L/C và nhận đƣợc thanh toán từ ngân hàng nhƣng hàng hoá không đƣợc giao đúng hợp đồng, vì ngân hàng không liên quan đến việc kiểm tra hàng hoá. Khi cần thiết có sự thay đổi về các điều khoản trong hợp đồng, ngƣời mua phải sửa đổi các điều khoản trong L/C. Nhƣ vậy, thời gian giao hàng có thể bị chậm trễ hơn, không đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngƣời mua kịp thời và phải chịu chi phí do sửa đổi L/C. Trong một số trƣờng hợp, hàng đã giao đến nơi đến nhƣng ngƣời mua vẫn chƣa nhận đƣợc chứng từ thanh toán, nhƣ vậy họ cũng không nhận hàng đƣợc. Rủi ro đối với người xuất khẩu Rủi ro do tín dụng giả, không kiểm tra thƣ tín dụng cẩn thận. Ngƣời mua cố tình mở thƣ tín dụng khác với nội dung thoả thuận hoặc đƣa thêm vào các điều khoản mà chƣa thoả thuận trƣớc nhƣ quy định thời gian giao hàng quá gấp không thể đáp ứng đƣợc. Các chứng từ quy định phải xuất trình quá khó khăn hoặc không thể thực hiện đƣợc. Quy định số cƣớc vận tải ngƣời xuất khẩu không thể chấp nhận đƣợc. Thời hạn hiệu lực L/C quá ngắn không đủ cho ngƣời xuất khẩu tập hợp đủ chứng từ để xuất trình. Loại thƣ tín dụng không đúng nhƣ thoả thuận. Chứng từ không phù hợp với hợp đồng hoặc tín dụng thƣ yêu cầu.
- 22 Ngân hàng phát hành L/C không thực hiện đúng cam kết của mình trong thanh toán đối với ngƣời bán. 1.2.6. RỦI RO KHÁC Rủi ro do thiếu vốn Đây là rủi ro thƣờng gặp ở các doanh nghiệp Việt Nam. Để tham gia một cách tích cực và có hiệu quả vào thƣơng mại quốc tế, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến nâng cao chất lƣợng sản phẩm nhƣng do thiếu vốn, doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất tối ƣu, không đủ sức cạnh tranh, chiếm giữ thị trƣờng dẫn tới thị phần của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Việc thiếu vốn còn làm cho quá trình thực hiện các hợp đồng xuất khập khẩu không đảm bảo. Rủi ro do thiếu thông tin Trong thời đại bùng nổ của khoa học công nghệ, sự lên ngôi của công nghệ tin học, cách mạng thông tin và mở ra thƣơng mại điện tử đã góp phần không nhỏ vào sự thành công của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp không chủ động thu thập và xử lý cũng nhƣ đánh giá và tận dụng thông tin thì sẽ gây khó khăn trong việc ra quyết định kinh doanh và có thể gây ra những tổn thất rất lớn. Rủi ro do thiếu thông tin thƣờng xảy ra dƣới các hình thức nhƣ sau: - Thiếu thông tin về đối tác, dẫn đến bị lừa trong quan hệ kinh doanh. - Thiếu thông tin về thị trƣờng, các biến động của thị trƣờng. - Thiếu thông tin về công nghệ sản xuất các sản phẩm trên thị trƣờng thế giới. - Thiếu kiến thức về thị trƣờng mà doanh nghiệp tác nghiệp.
- 23 Rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ Rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ là rủi ro hình thành do những sai sót mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ trong các khâu của hoạt động xuất nhập khẩu. Phân loại và định dạng rủi ro là bƣớc rất quan trọng để giúp doanh nghiệp lựa chọn đúng các biện pháp phòng tránh, hạn chế rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả hơn trong kinh doanh. 1.3. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động XNK nói riêng, rủi ro là nguy cơ thƣờng trực và khách quan, thƣờng xuyên đe doạ làm tổn hại đến hiệu quả kinh doanh. Mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận song an toàn trong kinh doanh là tiêu thức để họ hƣớng tới trong mỗi thƣơng vụ. Muốn vậy, doanh nghiệp chỉ có cách là phải tìm hiểu về rủi ro mà mình phải đối mặt và đƣa ra hƣớng giải quyết một cách chủ động nhất. Để tối đa hoá lợi nhuận, DN phải xem xét tất cả mọi yếu tố từ khâu sản xuất đến khâu lƣu thông phân phối hàng hoá. Trong thƣơng mại quốc tế quá trình đó vƣợt ra ngoài ranh giới một quốc gia. Do vậy, tất cả các yếu tố ảnh hƣởng tới chi phí trong quá trình đó trở nên phức tạp hơn, nguy cơ dự đoán sai nhiều hơn. Mặt khác, hiệu quả của hoạt động kinh doanh không chỉ đơn thuần là so sánh kết quả và chi phí mà còn phải cân nhắc tới mọi vấn đề khác. Nhƣ vậy, họ cần phải giảm thiểu đƣợc rủi ro cũng nhƣ những tác động tiêu cực của nó tới cá nhân, công ty, vì vậy phải định dạng rủi ro đồng thời đƣa ra các biện pháp hạn chế, phòng trừ.
- 24 Khi rủi ro xảy ra, giải quyết hậu quả của nó đối với các bên ảnh hƣởng trong quá trình thƣơng lƣợng, mua bán không chỉ dừng ở khía cạnh kinh tế mà còn phải tính đến cả khía cạnh pháp lý, trách nhiệm pháp lý gắn liền với sự tồn tại, uy tín của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các biện pháp hạn chế rủi ro là cần thiết để chứng minh chủ thể tránh đƣợc trách nhiệm dân sự. Trong xu thế mở cửa và hội nhập, các doanh nghiệp đều có xu hƣớng phát triển là vƣơn ra thị trƣờng khu vực và quốc tế. Nếu quá trình này không gắn liền với nghiên cứu rủi ro trong quá trình đó mà chỉ tiến hành một cách tự phát thì đồng nghĩa với thất bại. Tóm lại, rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK là một yếu tố tất yếu trong kinh doanh, DN nào cũng phải đối diện với những rủi ro đó. Tuy nhiên, mỗi ngành hàng khác nhau thì rủi ro tập trung ở các khâu sẽ khác nhau. Nắm vững mọi thành tố và những khâu mà khả năng có thể là nguyên nhân gây tổn thất trong hoạt động XNK là cần thiết. Điều này không chỉ góp phần để cá nhân, DN đó hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, mà còn góp phần đẩy mức nhận thức và lý luận của tổng thể các doanh nghiệp, các hiệp hội trong xu thế phát triển kinh tế, mở cửa và hội nhập.
- 25 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK VIỆT NAM 2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Từ đại hội Đảng VI năm 1986, nhà nƣớc ta đã thực hiện chủ chƣơng phát triển kinh tế đối ngoại theo xu thế mở cửa nền kinh tế, chiến lƣợc phát triển kinh tế hƣớng về xuất khẩu là phù hợp với xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, phù hợp với xu hƣớng hội nhập khu vực và quốc tế. Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế đối ngoại, Đảng chủ trƣơng hƣớng về xuất khẩu, mở cửa thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, tạo điều kiện và khuyến khích đầu tƣ trong nƣớc dƣới mọi hình thức. Đặc biệt trong thời gian qua, các chính sách ƣu tiên xuất nhập khẩu của chính phủ đƣợc thực thi bằng nhiều biện pháp nhƣ giảm thuế quan, hỗ trợ lãi suất sau đầu tƣ, ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, hƣớng dẫn thực hiện luật thuế quan mới, thực hiện giảm thuế theo lộ trình các hiệp ƣớc tự do thƣơng mại cam kết trong khu vực, ban hành danh mục hàng hoá ƣu tiên xuất nhập khẩu Với chủ trƣơng và đƣờng lối đúng đắn trong khôi phục và mở rộng quan hệ theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi và không can thiệp nội bộ, nƣớc ta đã khôi phục và mở rộng quan hệ với các nƣớc lớn nhƣ Mỹ, Trung Quốc, Liên Bang Nga, các nƣớc thuộc Liên minh Châu Âu, phát triển quan hệ với các nƣớc trong cùng tổ chức ASEAN Đến nay, nƣớc ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nƣớc, có quan hệ buôn bán với hơn 100 nƣớc. Nhờ định hƣớng phát triển đúng đắn đó, hoạt động XNK đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, chính sách độc quyền về ngoại thƣơng đƣợc bãi bỏ, nhà nƣớc ta chủ trƣơng khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất và kinh doanh hàng hoá, cải cách hành chính để hạn chế các thủ tục
- 26 phiền hà liên quan tới hoạt động XNK, giảm quản lý theo hạn ngạch, khuyến khích đầu tƣ sản xuất xuất khẩu, khuyến khích các công ty đổi mới công nghệ, ban hành nhiều văn bản pháp luật hoặc sửa đổi nhiều luật liên quan đến XNK theo hƣớng tiến bộ Kết quả là chúng ta đã thu đƣợc những thành tựu vƣợt bậc trong hoạt động XNK, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng đều và mạnh qua từng năm [14] (xem bảng 2.1). Bảng 2.1 Kim ngạch XNK thời kỳ 1998-2003 (Đơn vị: Triệu USD). Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 T.kim ngạch XNK 20888 23162 30090 31189 36439 44845 Xuất khẩu 9361 11540 14455 15027 16706 19870 Nhập khẩu 11527 11622 15635 16162 19733 24945 (Tæng hîp b¸o c¸o kim ng¹ch XNK theo khu vùc vµ thÞ tr•êng, Bé Th•¬ng M¹i - 2003). Tæng kim ng¹ch XNK ®¹t trªn 30 tû USD t¨ng gÊp 5 lÇn trong vßng 10 n¨m qua. N¨m 2001 ®¹t h¬n 31,1 tû. N¨m 2002 t¨ng 36,4 tû. §Õn n¨m 2003, kim ng¹ch XNK ®· ®¹t 44,85 tû, t¨ng h¬n 8,5 lÇn so víi n¨m 1990. B¶ng 2.2 T×nh h×nh nhËp siªu cña ViÖt Nam tõ 1999 ®Õn 2003 Năm Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập siêu Tỷ lệ NS (%) 1999 11622,0 11540,0 -82,0 -0,7 2000 15635,0 14455,0 -1180,0 -8,2 2001 16162,0 15027,0 -1135,0 -7,6 2002 19733,0 16706,0 -3027,0 -18,1 2003 24945,0 19870,0 -5075,0 -25,5 (Báo cáo kim ngạch XNK theo khu vực và thị trƣờng, Bộ Thƣơng Mại - 2003)
- 27 Bên cạnh những thành công trên, hoạt động XNK Việt Nam cũng gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, để đánh giá một cách toàn diện về hậu quả của những rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK hiện nay là rất khó. Bởi hệ thống thống kê kinh tế Việt Nam còn yếu kém, đặc biệt là đối với những vấn đề nhạy cảm này, không một doanh nghiệp nào muốn tiết lộ thông tin về những rủi ro mình phải gánh chịu trong kinh doanh quốc tế, vì họ cho rằng điều này sẽ ảnh hƣởng trực tiếp tới uy tín của doanh nghiệp. Do đó, trong phạm vi đề tài nghiên cứu này chỉ đề cập tới những rủi ro đã, đang và có khả năng xảy ra trong tƣơng lai làm hạn chế hiệu quả của hoạt động kinh doanh XNK. Trong hoạt động kinh doanh XNK có nhiều rủi ro, nhƣng trong phạm vi luận văn chỉ nghiên cứu những nhóm rủi ro chính thƣờng gặp trong hoạt động kinh doanh XNK trong những năm gần đây. 2.2 THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK 2.2.1. RỦI RO KÝ KẾT, THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG Trong quá trình thƣơng lƣợng, ký kết và thực hiện hợp đồng, các doanh nghiệp XNK Việt Nam thƣờng gặp một số rủi ro sau: đối tác không có tƣ cách pháp nhân để thực hiện hợp đồng, hoặc không thực hiện hợp đồng do bất khả kháng, hoặc không có khả năng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của hợp đồng (liên quan đến từng điều khoản trong hợp đồng mua bán). Rủi ro do không xác định tên hàng cụ thể, tên hàng đƣợc ghi sai một cách cố tình hoặc vô tình dẫn đến rủi ro gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Công ty dệt may xuất khẩu X ở thành phố Hồ Chí Minh tiến hành giao dịch mua chỉ thêu của một công ty Đài Loan. Trong lần giao dịch đầu tiên, hai bên đã thống nhất quy định về chất lƣợng hàng căn cứ theo tiêu chuẩn của ngƣời bán là nhà sản xuất quy định và đƣợc ngƣời mua - phía Việt Nam chấp
- 28 nhận, nên trong hợp đồng không đề cập chi tiết về chất lƣợng mà chỉ ghi theo lần giao dịch trƣớc. Do sự đồng ý và tin cậy giữa các bên nên khi mẫu hàng giao cho bên Việt Nam kiểm tra thì đạt chất lƣợng, ngƣời bán phía Đài Loan tiến hành giao hàng nhƣng không lƣu lại mẫu và không giữ lại chứng từ quy định tiêu chuẩn chất lƣợng đã đƣợc hai bên đồng ý. Hai bên thực hiện nhiều thƣơng vụ mua bán với nhau, ngƣời mua phía Việt Nam tin tƣởng vào chất lƣợng hàng hoá các giao dịch lần trƣớc và mọi giao dịch tiến hành bình thƣờng. Nhƣng khi ngƣời bán thay đổi trƣởng bộ phận sản xuất, vì không lƣu lại chứng từ quy định tiêu chuẩn chất lƣợng đã ký kết, do vậy sản phẩm sản xuất ra khác chất lƣợng đã đặt hàng, công ty bên Việt Nam vẫn nhập chỉ thêu này và đƣa vào sản xuất bình thƣờng, sản phẩm của công ty bị đổi màu sau khi giặt do màu của chỉ thêu bị lem sang. Khách hàng của công ty Việt Nam bị khiếu nại về chất lƣợng sản phẩm, dẫn đến công ty mất uy tín với khách hàng[4]. Trong trƣờng hợp trên, rõ ràng đối tác vô tình chứ không cố ý giao hàng sai chất lƣợng, nhƣng vì công ty tin tƣởng đối tác, giao dịch nhiều lần tạo thói quen bỏ qua khâu kiểm tra chất lƣợng lô hàng theo tiêu chuẩn hai bên đã quy ƣớc nên đã gặp rủi ro. Bên cạnh đó, công ty lại không có những tiêu chuẩn chất lƣợng cụ thể để giải thích với khách hàng, và trong hợp đồng ký kết mua chỉ thêu lại không có điều khoản phạt. Rủi ro do lựa chọn đơn vị đo lƣờng có dung sai, nhƣng doanh nghiệp không lựa chọn mức dung sai hợp lý. Trong trƣờng hợp mặt hàng có đơn vị đo lƣờng đƣợc phép dung sai nếu doanh nghiệp không lựa chọn mức dung sai hợp lý thì khi giá thị trƣờng biến động, tăng hoặc giảm, ngƣời bán sẽ chọn dung sai trừ (-) khi giá thị trƣờng vào lúc giao hàng cao hơn so với giá hợp đồng và chọn dung sai (+) khi giá
- 29 thị trƣờng thấp hơn giá hợp đồng. Rủi ro này đã xảy ra đối với một doanh nghiệp sản xuất dƣợc phẩm của Việt Nam Doanh nghiệp sản xuất dƣợc của Việt Nam ký kết hợp đồng mua nguyên liệu của một công ty Pháp. Trong điều khoản số lƣợng quy định 10.000 tấn, dung sai +/- 5% do ngƣời bán chọn. Giá USD 50/MT CIF Saigon Port, Incoterm 2000. Thời hạn giao hàng 01 tháng sau khi hợp đồng đƣợc ký. Khi đến thời điểm giao hàng, giá nguyên liệu sản xuất dƣợc trên thị trƣờng tăng USD 65/MT CIF Saigon port. Ngƣời bán Pháp giao hàng với khối lƣợng 9500 tấn, do vậy phía ngƣời nhập khẩu Việt Nam bị thiệt 25000 USD[4]. Rủi ro đối với ngƣời bán trong thƣơng lƣợng và ký kết hợp đồng, ngƣời mua từ chối nhận hàng khi giá thị trƣờng giảm vào thời điểm giao hàng và lấy lý do hàng kém chất lƣợng. Một công ty chuyên sản xuất hàng nông sản Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu lạc nhân với số lƣợng 20000 tấn cho một công ty của Đài Loan. Điều khoản thanh toán trong hợp đồng theo phƣơng thức nhờ thu kèm chứng từ, D/A (Documents against Acceptance), trả chậm sau 60 ngày tính từ ngày giao hàng. Hàng đƣợc xuất khẩu theo điều kiện CIF giao tại cảng đến Kaohsung, Taiwan. Khi hàng đƣợc đƣa tới cảng đến giá thị trƣờng giảm 30% với giá quy định trong hợp đồng, vì vậy ngƣời mua đƣa lý do hàng không đúng chất lƣợng và từ chối nhận hàng. Nhƣng ngƣời bán lại không thể kiện ngƣời mua vì trong hợp đồng đã ký thì điều kiện chất lƣợng chỉ ghi là: “Đậu phộng nhân loại một đƣợc sự đồng ý của 2 bên”. Rõ ràng trong câu này không quy định rõ chi tiết về hàng hoá, do vậy thiệt hại thuộc về phía Việt Nam [4]. Rủi ro do quy cách phẩm chất, chất lƣợng hàng hoá không rõ ràng, chung chung, không nắm vững đặc tính của hàng hoá nên gây ra khiếu kiện, thiệt hại cho ngƣời xuất khẩu.
- 30 Ngày 20/01/1992 công ty Vietintim ký hợp đồng xuất ớt bột với công ty Czimex Tiệp Khắc. Vì không quy định gì về hàm lƣợng độc tố aflatoxin của ớt bột và quy định của nƣớc đối tác, do vậy đối tác căn cứ vào lƣợng độc tố của ớt bột mà công ty xuất có hàm lƣợng aflatoxin cao để kiện Vietintim dẫn đến thiệt hại cho công ty này. Trong điều khoản chất lƣợng, nếu DN Việt Nam không quy định kết quả giám định ở cảng đi hay cảng đến có giá trị cuối cùng thì khi xảy ra tranh chấp, phía Việt Nam sẽ gặp rủi ro bởi các bên khi giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến điều khoản chất lƣợng, quy định này đƣợc xem nhƣ là một cơ sở để xét lỗi. Công ty A&J Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu lạc nhân với Liên đoàn xuất nhập khẩu Selsko Nga với số lƣợng là 1200 MT lạc nhân (FOB Hải Phòng, thanh toán bằng phƣơng thức nhờ thu). Trong điều khoản chất lƣợng không ghi rõ kết quả giám định phẩm chất ở cảng đi có giá trị cuối cùng vì vậy khi hàng cập cảng Vladivostok, Selsko giám định thấy lạc thiếu trọng lƣợng và bị mốc 40%. Căn cứ vào giám định này Selsko bắt lỗi ngƣời xuất khẩu Việt Nam và phía Việt Nam bị thiệt. 2.2.2. RỦI RO TRONG LỰA CHỌN PHƢƠNG THỨC THANH TOÁN Phƣơng thức thanh toán L/C là phƣơng thức thanh toán phức tạp nhƣng có độ an toàn nhất trong 3 phƣơng thức thanh toán quốc tế, vì vậy đa số các doanh nghiệp kinh doanh XNK lựa chọn phƣơng thức này trong thanh toán XNK. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê, phƣơng thức này chiếm 85% tổng giá trị thanh toán hàng hoá XNK ở NHNT. Tuy nhiên, phƣơng thức thanh toán này cũng tồn tại nhiều rủi ro, nảy sinh từ những khâu mang tính “kỹ thuật” của phƣơng thức này.
- 31 - Căn cứ trả tiền duy nhất trong thanh toán L/C là bộ chứng từ gửi hàng (chứng từ hoàn hảo), nhƣng thế nào là một bộ chứng từ hoàn hảo để các ngân hàng chấp nhận thanh toán thì không thống nhất giữa họ [6] . Có thể cùng một bộ chứng từ nhƣng ngân hàng này cho là hợp lệ còn ngân hàng khác thì lại không. Sự yếu kém của nghiệp vụ của cán bộ, các yếu tố thuộc pháp quy đôi khi dẫn đến hậu quả là các doanh nghiệp XNK Việt Nam bị khiếu kiện và phải bồi hoàn các chi phí phát sinh hoặc gây thiệt hại về vật chất và uy tín không những của doanh nghiệp mà còn của cả ngân hàng Việt Nam. Có thể kể đến một thƣơng vụ điển hình bắt đầu ngày 17/02/2000, hợp đồng ngoại thƣơng (số 611/171/20) đƣợc ký kết giữa bên bán là công ty Helm Dungenmittel Gmbh, Hamburg - Đức (gọi tắt là công ty Helm) và bên mua là công ty XNK tổng hợp III - chi nhánh Hà Nội (gọi tắt là Công ty Centrimex- Hà nội). Theo hợp đồng, công ty Helm bán cho công ty Centrimex - Hà nội 10.000 tấn phân urê Trung Quốc, trị giá hợp đồng là 1.451.937,75 USD, thanh toán theo phƣơng thức L/C. BHF là ngân hàng bên bán, Sở giao dịch I - Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn là ngân hàng phát hành L/C. Sau khi nhận đƣợc bộ chứng từ do BHF gửi tới, sở giao dịch I phát hiện thấy sai sót [2]: + Vận đơn đƣờng biển (B/L) không ghi chú ngày bốc hàng lên tầu. + Số tiền bằng chữ ghi sai trên hối phiếu. Số tiền bằng số: 1.451.937,75USD đƣợc ghi bằng chữ trên hối phiếu là “ Một-bốn-năm-một- chín-ba-năm-75/100 USD”. +Trên hối phiếu không ghi Ngân hàng trả tiền. Vì ba lý do trên, Công ty Centrimex yêu cầu SGD I từ chối thanh toán trả tiền. Về phía BHF, do không chấp nhận những lỗi của bộ chứng từ do phía Việt Nam đƣa ra, sau khi thƣơng thảo nhiều lần đã ghi nợ 1,45 triệu USD
- 32 Tuy nhiên, theo các chuyên gia hàng hải quốc tế và một số công ty Luật nƣớc ngoài thì: + Ngày gửi hàng đã nêu trong “ Vận đơn hợp đồng thuê tàu” theo quy định quốc tế “ ngày cấp vận đơn đƣợc xem nhƣ ngày bốc hàng lên tàu và ngày gửi hàng”. + Theo điều 13 a - UCP 500, các chứng từ không đƣợc quy định trong thƣ tín dụng sẽ không đƣợc các Ngân hàng kiểm tra [10][18]. Trong trƣờng hợp trên, do trong L/C không quy định BHF phải có hối phiếu đi kèm để đòi tiền Centrimex - Hà Nội vì thế, hối phiếu đó không đƣợc coi là một chứng từ thanh toán. + Cũng theo lập luận trên thì việc số tiền ghi trên hối phiếu không phải là lý do sai để từ chối thanh toán. Trƣờng hợp trên cho thấy lựa chọn và thực hiện hình thức thanh toán L/C đòi hỏi nghiệp vụ cao, gồm cả nghiệp vụ về thanh toán, vận tải, bảo hiểm đòi hỏi quy trình thực hiện chính xác tuyệt đối mà không phải lúc nào các bên tham gia cũng có khả năng thực hiện. Mặt khác, do nghiệp vụ thanh toán L/C chỉ căn cứ trên chứng từ chứ không căn cứ vào thực trạng hàng hoá nên đã tạo khe hở để các tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo. - Trong các hoạt động giao dịch L/C ở hầu hết các quốc gia đều đƣợc điều chỉnh bởi UCP 500. Tuy nhiên, môi trƣờng pháp luật ở các quốc gia khác nhau, tức là hệ thống pháp luật riêng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong L/C dẫn đến rủi ro[9],[18]. Trƣờng hợp công ty Lƣơng thực Cần Thơ xuất khẩu gạo cho một khách hàng Đức, thanh toán bằng L/C do một Ngân hàng Đức phát hành. Khi nhận đƣợc bộ chứng từ hoàn hảo thì Ngân Hàng Đức đã đƣợc lệnh của Toà án là giữ toàn bộ số tiền của L/C (725.500USD) để giải quyết nợ cũ của công ty
- 33 lƣơng thực. Ngân hàng Công Thƣơng Việt Nam đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình theo đúng L/C (L/C này cho phép ngƣời bán chiết khấu chứng từ theo uỷ quyền của Ngân hàng phát hành). Chi nhánh NHCT Cần Thơ đã chiết khấu chứng từ theo uỷ quyền của Ngân hàng Đức đó, nhƣng số tiền 725500 USD không đòi đƣợc do phía Ngân hàng Đức trả lời là bị toà án phong toả, công ty Lƣơng thực Cần Thơ vừa không thu đƣợc tiền lại vừa phải trả tiền cho NHCT chi nhánh Cần Thơ theo cam kết chiết khấu truy đòi. - Trình độ nghiệp vụ TTQT của nhiều doanh nghiệp còn kém, kiểm tra L/C chƣa kỹ, nội dung L/C mập mờ, có những điều khoản mà mình không thực hiện đƣợc, hoặc sẽ gây ảnh hƣởng rủi ro trong quá trình thanh toán[11]. Trong trƣờng hợp Artexport Hà nội ký hợp đồng bán hàng cho Pierluigi E.C.SNG, Italy. Hai L/C liên quan số 575CIM6646 quy định: “B/L issued by SM Logistics Gruppo Serra Mrzario S.P.A”- “ Vận đơn do công ty SM ký phát” nhƣng thực tế ở Việt Nam không có hãng tàu này, nên việc giao hàng đƣợc thực hiện qua hãng M&S Shipping Lines (công ty con của SM), dẫn đến Ngân hàng nƣớc ngoài bắt lỗi chứng từ vì B/L phát hành không đúng quy định của L/C. - Trong quá trình thực hiện L/C, nội dung L/C có thể quá dài, nhiều sửa đổi, nhiều điều kiện nên lúc thực hiện khả năng rủi ro cao do doanh nghiệp bỏ sót một số yêu cầu nên bị từ chối hoặc khó khăn trong thanh toán. Trong trƣờng hợp thƣ tín dụng L/C của Kookmin Bank mở cho Viglaceglass quy định: + Giấy xác nhận của ngƣời hƣởng lợi chứng tỏ bộ chứng từ hàng hoá không có giá trị thanh toán gửi đến ngƣời nhập khẩu trong vòng 05 ngày sau ngày giao hàng.
- 34 + Giấy xác nhận của ngƣời hƣởng lợi chứng tỏ họ đã Fax nội dung chi tiết việc gửi hàng cho ngƣời nhập khẩu. + Giấy xác nhận của ngƣời hƣởng lợi chứng tỏ Giấy chứng nhận xuất sứ C/O và giấy chứng nhận kiểm nghiệm đã đƣợc gửi cùng hàng hoá. Nhƣ vậy, L/C này yêu cầu 3 chứng từ khác kèm theo. Sau khi gửi hàng đị NHNT nhận đƣợc điện từ chối thanh toán của Kookmin Bank vì lý do chỉ nhận đƣợc một giấy chứng nhận của ngƣời bán. Qua những trƣờng hợp trên, ta thấy những rủi ro đã nêu xuất phát từ lựa chọn phƣơng thức thanh toán, dù là phƣơng thức có độ an toàn rất cao nhƣ L/C. Nguyên nhân của tình trạng này chính là sự yếu kém về nghiệp vụ cũng nhƣ sự thiếu thông tin về đối tác của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam, dẫn đến các doanh nghiệp này chấp nhận những L/C có các điều khoản bất lợi cho mình trong quá trình thực hiện những quy định đó. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp không lập đƣợc một bộ chứng từ hoàn hảo để đòi tiền. Ngân hàng buộc phải thanh toán cho ngƣời xuất khẩu, còn những phát sinh trong quá trình thực hiện các điều khoản khác của hợp đồng nhƣ hàng giao không đúng số lƣợng, chủng loại, chất lƣợng thì hai bên phải giải quyết theo điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng. Phía nhập khẩu chỉ có thể kiện phía xuất khẩu trên cơ sở hợp đồng thƣơng mại chứ không thể từ chối thanh toán. Những tranh chấp giữa ngƣời mua và ngƣời bán dẫn đến những tranh chấp giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng chiết khấu 2.2.3. RỦI RO TRONG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ Rủi ro trong phƣơng thức vận chuyển hàng hoá thƣờng xảy ra do hàng hoá phải chuyển từ nƣớc này sang nƣớc khác, các yếu tố tự nhiên nhƣ thiên tai lũ lụt là một ẩn số đối với sự an toàn của các phƣơng thức vận chuyển, dù là bằng đƣờng thuỷ, đƣờng không hay đƣờng bộ. Thông thƣờng đối với
- 35 những loại rủi ro này, chủ hàng thƣờng sử dụng biện pháp là mua bảo hiểm cho hàng hoá để hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trong giới hạn, luận văn trình bày rủi ro trong phƣơng thức vận tải đƣờng biển, vì trong giai đoạn hiện nay, hàng hoá hữu hình vận tải bằng đƣờng biển là chủ yếu (vận tải đƣờng biển đảm nhận trên 80% khối lƣợng hàng hoá trên thị trƣờng thế giới). Trong vận tải đƣờng biển, ngoài những rủi ro do các yếu tố thiên tai, tai nạn bất ngờ còn do yếu tố chủ quan, nhất là trong sử dụng vận đơn đƣờng biển B/L và quy ƣớc các điều kiện trong vận đơn đƣờng biển. Vận đơn đƣờng biển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với buôn bán quốc tế. B/L chính là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở đã ký kết, là biên lai xác nhận quyền sở hữu hàng hoá đồng thời liên quan tới nhiều lĩnh vực nhƣ vận tải, giao nhận, thanh toán, bảo hiểm, khiếu nại Những lỗi thƣờng gặp khi sử dụng B/L là [8]: - Tiêu đề của vận đơn và cảng xếp hàng không xác định cụ thể trên vận đơn. - Tranh chấp về cách thể hiện vận đơn đƣờng biển gốc và copy. - Tranh chấp về chuyển quyền sở hữu và rủi ro hàng hoá. - Tranh chấp về thanh toán và giao hàng không xuất trình vận đơn đƣờng biển gốc. - Tranh chấp về điều khoản cƣớc đã trả. - Tranh chấp về cảng xếp hàng, cảng dỡ hàng ghi trên vận đơn. - Tranh chấp liên quan đến ngày ký vận đơn. - Tranh chấp về ngƣời ký vận đơn và ngƣời chịu trách nhiệm về hàng hoá. Ngoài ra rủi ro trong vận tải đƣờng biển xảy ra do một số nguyên nhân nhƣ:
- 36 - Chủ tàu vô trách nhiệm, ngƣời điều khiển tàu chủ quan, thiếu mẫn cán, không chấp hành các quy định an toàn hàng hải gây tai nạn làm hƣ hỏng, mất mát hàng hoá. - Tàu cũ, tàu già, trang thiết bị lạc hậu không đảm bảo yêu cầu chở hàng. - Các phƣơng tiện hỗ trợ tại các cảng đi, cảng đến, cảng trung chuyển không đảm bảo điều kiện an toàn về kỹ thuật. Tóm lại rủi ro trong quá trình vận tải, một mặt do những nhân tố bất khả kháng nhƣ các yếu tố thời tiết, thiên tai mặt khác cũng giống rủi ro trong lựa chọn phƣơng thức thanh toán đó là rủi ro liên quan đến vấn đề nghiệp vụ. Các doanh nghiệp Việt Nam thƣờng xuất FOB và nhập CIF nên thuê tàu và mua bảo hiểm ít xảy ra. Tuy nhiên, vẫn xảy ra nhiều trƣờng hợp đáng tiếc. Ví dụ ngày 24/08/2000 công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà nội (TOCONTAP) mua 10.000 tấn bột mì trị giá 1.755.840 USD (FOB Bombay- Ấn Độ), TOCONTAP thuê tàu Romashka của Katsan Shipping Company (Hồng Công) để chở hàng về với giá chở 25USD/tấn. Tàu Romaska thực chất đóng tại Balan, hạ thuỷ năm 1970. Khi ký hợp đồng thuê tàu, ngƣời nhân danh chủ tàu cam kết “Tàu Romashka đƣợc xếp hạng cao nhất của LLoyds (đăng ký tại Anh Quốc) hoặc tƣơng đƣơng”. Tàu còn đƣợc Hội bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tầu UK London trả lời bằng văn bản xác nhận tàu đã đƣợc Hội nhập bảo hiểm trách nhiệm. Trong khi tàu bốc xong hàng và neo ở cảng Bombay chuẩn bị hành trình về Hải Phòng thì gặp trận gió mùa cực mạnh, tàu bị đứt dây neo và trôi dạt vào bờ cảng Worki, bị mắc cạn, nƣớc biển ngập hầm hàng và làm ƣớt toàn bộ 9.125 tấn bột mỳ đóng bao cùng 224 tấn dầu FO, gây ô nhiễm vùng biển. Thuỷ thủ tàu đƣợc Hải quân Ấn Độ cứu vào bờ, chủ tàu bị truy cứu trách
- 37 nhiệm trƣớc toà án Ấn Độ và tàu bị phong toả, TOCONTAP mất cơ hội kinh doanh và phƣơng án nhập bột mỳ không thực hiện đƣợc. Trong một số trƣờng hợp các doanh nghiệp Việt Nam xuất FOB nhƣng sau khi giao hàng vẫn tiếp tục tham gia giúp đỡ chuyển tải hàng hóa nên cũng gặp rủi ro. Ngày 28/07/1995, công ty A của Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu 10.000MT +/-5% gạo, 10% tấm với giá 310USD/ tấn FOB Hải Phòng với đối tác nƣớc ngoài và họ uỷ nhiệm cho công ty giao nhận B đứng ra thuê tàu chở hàng hoá. Theo chỉ định của công ty A, ngƣời bán B giao hàng lên tàu FUGODEN và vận đơn hoàn hảo do thuyền trƣởng tàu này ký, nhƣng sau đó tàu FUGODEN bị tạm giữ theo lệnh của Toà án thành phố Hồ Chí Minh. Ngƣời mua yêu cầu chuyển tải sang tàu TAIYAN và đề nghị đổi lại 50% lô gạo có thể bị hƣ hỏng (4.871 MT). Công ty B đã chuyển gạo với tổng chi phí là 6585,450USD và 414.266.000VND, nhƣng khi đòi ngƣời mua chi phí này thì ngƣời mua không thanh toán vì lỗi thuê tàu thuộc công ty A (đối tác chỉ yêu cầu công ty B hợp tác đắc lực trong việc chuyển tải). Hơn nữa khi công ty B nhận thấy 4.871 MT gạo không đạt phẩm chất quy định nên đã tự động giảm 33.000 USD để bán hàng nhằm tránh gạo tiếp tục mất chất lƣợng hơn, hành động này không đƣợc ngƣời mua yêu cầu nên ngƣời bán Việt Nam phải chịu toàn bộ khoản giảm giá này. Rõ ràng trong trƣờng hợp này nếu ngƣời bán Việt Nam chỉ giao hàng đúng theo điều kiện bán là FOB thì sẽ không gặp những rủi ro nói trên. 2.2.4. RỦI RO BẢO HIỂM Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá cũng thƣờng xuyên xảy ra, làm phƣơng hại tới quyền lợi của chủ hàng XNK. Giống nhƣ rủi ro đối với phƣơng thức thanh toán hay vận tải, rủi ro trong bảo hiểm thƣờng phát sinh do lỗi mang tính nghiệp vụ khi thực hiện ký kết hợp đồng bảo hiểm. Đối với các doanh nghiệp XNK Việt Nam thƣờng mua CIF bán FOB nên ít quan tâm tới việc
- 38 mua bảo hiểm và thuê tàu. Việc thuê tàu và mua bảo hiểm hàng hóa trong vận chuyển thƣờng do phía nƣớc ngoài đảm nhận, do vậy khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn. Nếu hai bên không quy định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm thì có thể xảy ra rủi ro, đặc biệt là việc xác định không gian, thời gian, trách nhiệm cũng nhƣ các điều kiện bảo hiểm. Theo tập quán bảo hiểm quốc tế, không gian trách nhiệm đƣợc hiểu là “ từ kho đến kho”. Tuy nhiên, tập quán hàng hải quốc tế lại thƣờng quy định không gian bảo hiểm là “từ cảng đến cảng” hay “ từ lan can đến lan can”. Trong trƣờng hợp giành đƣợc quyền vận tải và đảm nhận mua bảo hiểm hàng hoá, các công ty Việt Nam thƣờng gặp rủi ro nhƣ: thuê phải tàu già, bảo hiểm không đúng điều kiện. Trƣờng hợp công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà nội (TOCONTAP) mua 10.000 tấn bột mì trị giá 1.755.840 USD (FOB Bombay- Ấn Độ), TOCONTAP thuê tàu Romashka đã già của Katsan Shipping Company (Hồng Công) để chở hàng về với giá chở 25USD/tấn, mua bảo hiểm của Bảo Minh. Khi tàu gặp sự cố do gió mạnh đứt neo, bị mắc cạn và làm ƣớt toàn bộ bột mỳ, TOCONTAP đã lập hồ sơ gửi đến công ty bảo hiểm Bảo Minh để đƣợc bồi thƣờng khi tổn thất xảy ra. Bảo Minh giám định và điều tra là tàu Romashka đã quá già và không đủ điều kiện đi biển nữa do đó từ chối bồi thƣờng. 2.2.5. RỦI RO DO CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ Rủi ro về chính trị đƣợc hiểu nhƣ là những chính sách của chính phủ áp dụng làm giới hạn cơ hội kinh doanh của các nhà đầu tƣ, cụ thể là khả năng các cơ quan của chính phủ tạo nên sự thay đổi trong môi trƣờng kinh doanh của quốc gia tác động đến lợi nhuận và những mục tiêu khác của công ty kinh
- 39 doanh. Sự biến động chính trị trên trƣờng thế giới cũng có ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, nếu nhƣ chúng ta không nhìn nhận yếu tố này một cách tổng thể thì sẽ không trách đƣợc các rủi ro. Đối với môi trƣờng kinh doanh trong nƣớc, nhờ có cải cách về hành chính và chính sách mới đáp ứng yêu cầu hội nhập, Việt Nam đã đƣợc tổ chức tƣ vấn về các rủi ro chính trị và quốc tế đánh giá cao, là nơi an toàn nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng, Rủi ro pháp lý là rủi ro liên quan đến vấn đề pháp lý, thƣờng đƣa đến tranh chấp kiện tụng kéo dài có thể gây ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rủi ro pháp lý bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: - Do sự thay đổi về luật pháp liên quan đến kinh doanh nhƣ quy định về nhãn hiệu hàng hoá, môi trƣờng lao động - Doanh nghiệp thiếu các kiến thức về pháp lý. - Thiếu chặt chẽ trong hợp đồng kinh tế hoặc đầu tƣ. - Vi phạm luật quốc gia nhƣ luật chống độc quyền, chống bán phá giá, chống phân biệt chủng tộc Trong những năm gần đây, cùng với việc thực hiện đƣờng lối chủ động hội nhập, Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu nổi bật trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Bên cạnh một số mặt hàng của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trƣờng thế giới, đã xuất hiện một số trƣờng hợp hàng Việt Nam gặp rủi ro chính trị, pháp lý điển hình do các nƣớc áp dụng chính sách bảo hộ trong nƣớc và vấn đề doanh nghiệp chƣa hiểu, chú ý về pháp luật, cũng nhƣ quy định về thƣơng hiệu trong kinh doanh xuất nhập khẩu trên thị trƣờng khu vực và quốc tế. Hàng hoá xuất khẩu bị nƣớc nhập khẩu điều tra áp dụng thuế bán phá giá với mức độ ảnh hƣởng và hậu quả kinh tế ngày càng lớn, từ những hàng hoá
- 40 nhƣ gạo, giầy dép đến bật lửa, tỏi đều bị kiện bán phá giá, điển hình là cá da trơn và tôm bị kiện bán phá giá ở Mỹ không những làm cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam bị giảm sút, gây ảnh hƣởng tới hàng vạn ngƣời dân Việt Nam đồng thời tạo tiền lệ xấu cho các nƣớc nhập khẩu điều tra chống bán phá giá với các sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản khác của nƣớc ta. Trong tƣơng lai khi hàng xuất khẩu của Việt Nam có sức cạnh tranh cao hơn, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, tăng đột biến vào Mỹ thì khả năng bị đánh thuế bán phá giá sẽ càng cao. Bảng 2.3. Số vụ DN Việt Nam bị kiện bán phá giá Năm Nƣớc Mặt hàng Tình hình 1994 Colombia Gạo Không đánh thuế vì dù kết luận bán phá giá 9.07 % nhƣng không gây tổn hại cho ngành trồng lúa của Colombia. 1998 Liên minh Châu Mỳ chính Đánh thuế mức bán phá giá 16.8%. Âu – EU 1998 EU Giầy dép Không đánh thuế vì thị phần gia tăng nhỏ so với Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan. 2000 Ba Lan Bật lửa Đánh thuế chống bán phá giá mức 0.09 Euro/ chiếc. 2001 Canada Tỏi Đánh thuế chống bán phá giá mức 1.48 Đô la Canada/1kg. 2002 Canada Giày không Không đánh thuế vì không bán phá giá. thấm nƣớc 2002 EU Bật lửa Không đánh thuế vì không bán phá giá. 2002 Mỹ Cá da trơn Bị đánh thuế bán phá giá. 2003 Mỹ Tôm Đang trong quá trình tham kiện. (Nguån: Tæng hîp b¸o c¸o cña Bé Th•¬ng M¹i - 2003).
- 41 C¸c n•íc ®iÒu tra ¸p dông thuÕ chèng b¸n ph¸ gi¸ víi ViÖt Nam ®· ¸p dông c¸ch so s¸nh gi¸ xuÊt khÈu cña hµng ho¸ ViÖt Nam víi gi¸ cña s¶n phÈm xuÊt khÈu cïng lo¹i cña mét n•íc thø 3. Colombia khi ®iÒu tra ®· lÊy gi¸ g¹o cña Th¸i Lan so s¸nh víi gi¸ cña g¹o cña ViÖt Nam xuÊt sang Colombia. Canada lÊy gi¸ tái cña Mexico so s¸nh víi gi¸ tái cña ViÖt Nam Râ rµng sù so s¸nh t•¬ng ®èi nµy lµ mét bÊt lîi ®èi víi nhiÒu hµng ho¸ ViÖt Nam, dÉn ®Õn hËu qu¶ lµ ViÖt Nam thua kiÖn vµ bÞ ¸p thuÕ chèng b¸n ph¸ gi¸ [14],[16]. Së dÜ cã hiÖn t•îng trªn lµ do ViÖt Nam ®•îc coi lµ n•íc cã nÒn kinh tÕ ch•a ph¶i lµ nÒn kinh tÕ thÞ tr•êng. §Ó ®¸nh gi¸ vµ chøng minh nÒn kinh tÕ thÞ tr•êng cña mét n•íc cÇn dùa trªn c¸c tiªu chÝ sau: - Møc ®é chuyÓn ®æi cña ®ång tiÒn n•íc ®ã sang ngo¹i tÖ n•íc kh¸c. - Møc ®é tù do khi ®µm ph¸n vÒ møc l•¬ng gi÷a ng•êi lao ®éng vµ ban gi¸m ®èc. - Møc ®é mµ c¸c liªn doanh hoÆc c¸c h×nh thøc ®Çu t• kh¸c cña c«ng ty n•íc ngoµi ®•îc n•íc ®ã cho phÐp. - Møc ®é kiÓm so¸t hoÆc së h÷u cña chÝnh phñ ®èi víi c¸c ph•¬ng tiÖn s¶n xuÊt. - Møc ®é kiÓm so¸t cña chÝnh phñ ®èi víi sù ph©n bæ c¸c nguån lùc, kiÓm so¸t gi¸ vµ quyÕt ®Þnh vÒ s¶n l•îng cña doanh nghiÖp. - Nh÷ng yÕu tè thÝch hîp kh¸c. Nh÷ng tiªu chÝ trªn kh¸ m¬ hå vµ kh«ng râ rµng do ®ã ViÖt Nam sÏ gÆp khã kh¨n vµ kh¶ n¨ng thua kiÖn cao trong viÖc chøng minh nÒn kinh tÕ cña m×nh lµ nÒn kinh tÕ thÞ tr•êng vµ rñi ro thua kiÖn ®èi víi c¸c c«ng ty ViÖt Nam khi xuÊt khÈu hµng ho¸, nhÊt lµ xuÊt khÈu sang thÞ tr•êng Mü. Hµng ViÖt Nam bÞ ®iÒu tra chèng b¸n ph¸ gi¸ th•êng g¾n víi mét sè n•íc kh¸c cã kim ng¹ch lín h¬n. Trong c¸c tr•êng hîp, hµng xuÊt khÈu ViÖt
- 42 Nam chÞu thuÕ chèng b¸n ph¸ gi¸ cã kim ng¹ch kh«ng cao vµ kh«ng g©y thiÖt h¹i ®èi víi c¸c nhµ s¶n xuÊt ë n•íc nhËp khÈu. Nh• trong vô tái, khèi l•îng xuÊt khÈu tái cña ViÖt Nam sang Canada kh«ng b»ng 1/10 l•îng tái Trung Quèc xuÊt sang n•íc nµy, nh•ng khi Canada ®¸nh thuÕ chèng b¸n ph¸ gi¸ ®èi víi tái cña Trung Quèc th× më réng ®¸nh thuÕ thªm ®èi víi tái ViÖt Nam. T•¬ng tù Ba Lan ®¸nh thuÕ b¸n ph¸ gi¸ víi bËt löa cña Trung Quèc vµ §µi Loan, sau ®ã më réng ®¸nh thuÕ nµy vµo c¶ hµng ViÖt Nam. Trong hÇu hÕt c¸c vô b¸n ph¸ gi¸, kh¶ n¨ng thua kiÖn cña c¸c doanh nghiÖp ViÖt Nam rÊt cao vµ th•êng chÞu tæn thÊt vÒ mÆt kinh tÕ. Nh÷ng khã kh¨n cña c¸c doanh nghiÖp ViÖt Nam lµ: - Sù hiÓu biÕt vÒ luËt ph¸p quèc tÕ liªn quan cßn h¹n chÕ. - Sù phèi hîp gi÷a c¸c c¬ quan chøc n¨ng, doanh nghiÖp, hiÖp héi rêi r¹c kh«ng ®ång bé, kh«ng cã sù chuÈn bÞ vµ øng phã tr•íc, kh«ng cã sù dù ®o¸n vµ ®¸nh gi¸ tèt. Liªn kÕt gi÷a c¸c doanh nghiÖp víi nhau trong cïng ngµnh s¶n xuÊt xuÊt khÈu c¸c s¶n phÈm cïng lo¹i láng lÎo vµ yÕu kÐm. - HÖ thèng luËt ph¸p vÒ kinh tÕ vµ th•¬ng m¹i ®ang trong qu¸ tr×nh hoµn thiÖn. - Khã kh¨n lín nhÊt cña chóng ta lµ sù hiÓu biÕt vÒ luËt lÖ th•¬ng m¹i quèc tÕ, b¸n ph¸ gi¸ ngoµi khÝa c¹nh kinh tÕ lµ b¶o vÖ m«i tr•êng c¹nh tranh lµnh m¹nh ®èi víi c¸c doanh nghiÖp trong n•íc, nã cßn ®•îc coi lµ mét vò khÝ cña c¸c n•íc ph¸t triÓn tr¶ ®òa lÉn nhau, hoÆc b¶o hé nh÷ng ngµnh s¶n xuÊt trong níc. Bªn c¹nh chiªu bµi kªu gäi “ tù do ho¸ th¬ng m¹i”, b¸n ph¸ gi¸ lµ vò khÝ kinh tÕ cña Mü “ ®¸nh phñ ®Çu” ®èi víi hµng ho¸ xuÊt khÈu tõ c¸c n•íc ®ang ph¸t triÓn. Cho ®Õn nay, nhiÒu doanh nghiÖp ViÖt Nam ®· bÞ kiÖn b¸n ph¸ gi¸, kinh nghiÖm ®èi phã víi hµng ho¸ xuÊt khÈu bÞ kiÖn b¸n ph¸ gi¸ cßn Ýt, phÇn lín ®Òu ph¶i thuª c¸c c«ng ty luËt cña n•íc ngoµi tham kiÖn. Nh•ng ®èi víi c¸c s¶n phÈm nhËp khÈu l¹i ch•a lÇn nµo ®iÒu tra b¸n ph¸ gi¸,
- 43 c¸c doanh nghiÖp trong níc th¶ næi “ thÞ trêng” nµy. Do ®ã, chóng ta kh«ng cã ®Çy ®ñ kiÕn thøc vµ kinh nghiÖm. Bªn c¹nh b¸n ph¸ gi¸, th•¬ng hiÖu còng lµ mét vÊn ®Ò ®¸ng quan t©m ®èi víi nhiÒu doanh nghiÖp xuÊt nhËp khÈu. C¸c yÕu tè cÊu thµnh th•¬ng hiÖu gåm tªn th•¬ng hiÖu, nh·n hiÖu (Trademark), tªn th•¬ng m¹i (Tradename), biÓu t•îng (Logo), kiÓu d¸ng c«ng nghiÖp, gi¶i ph¸p h÷u Ých, s¸ng chÕ, b¶n quyÒn t¸c gi¶, khÈu hiÖu ®o¹n nh¹c tãm l¹i lµ tÊt c¶ nh÷ng g× t¹o ra sù kh¸c biÖt gi÷a th•¬ng hiÖu cña doanh nghiÖp nµy víi c¸c th•¬ng hiÖu cña doanh nghiÖp kh¸c trªn thÞ tr•êng. Th•¬ng hiÖu cã vai trß quan träng trong th•¬ng m¹i quèc tÕ, lµ mét vò khÝ c¹nh tranh s¾c bÐn. Doanh nghiÖp gÆp rñi ro nÕu bÞ ®¸nh c¾p th•¬ng hiÖu, hËu qu¶ vµ tæn thÊt khã •íc tÝnh vÒ kinh tÕ, ¶nh h•ëng nghiªm träng ®Õn h×nh ¶nh, h¹n chÕ sù ph¸t triÓn, qu¶ng b¸ vµ x©m nhËp thÞ tr•êng cña c¸c doanh nghiÖp ë nh÷ng thÞ tr•êng xuÊt khÈu. Mét sè doanh nghiÖp thµnh danh cña ViÖt Nam ®· gÆp ph¶i rñi ro nµy, ®iÓn h×nh lµ c¸c tr•êng hîp cña h·ng cµ phª Trung Nguyªn, PetroVietNam, thuèc l¸ Vinataba [7][15] Tæng c«ng ty thuèc l¸ ViÖt Nam n¨m 2002 ®· ph¸t hiÖn th•¬ng hiÖu thuèc l¸ Vinataba bÞ c«ng ty Sumatra (trô së chÝnh t¹i Indonesia) ®¸nh c¾p t¹i thÞ tr•êng Lµo, Campuchia vµ Trung Quèc. N¨m 2002, ®Ó b¶o vÖ th•¬ng hiÖu vµ ®•îc c«ng nhËn t¹i Lµo, Camphuchia, Tæng c«ng ty ®· ph¶i chi ®Õn mét tû ®ång. Cµ phª Trung Nguyªn khi nép ®¬n ®¨ng ký th•¬ng hiÖu t¹i Mü th× ph¸t hiÖn mét c«ng ty Mü nép ®¬n ®¨ng ký nh·n hiÖu Trung Nguyªn vµ ®ang trong giai ®o¹n chê cÊp phÐp, sau khi t×m hiÓu th× ®ã lµ mét c«ng ty ph©n phèi hµng thùc phÈm n«ng nghiÖp t¹i Mü, môc ®Ých cña c«ng ty ®ã lµ ®¨ng ký tªn Trung Nguyªn ®Ó giµnh ®éc quyÒn ph©n phèi hµng Trung Nguyªn t¹i Mü. Qua nhiÒu lÇn ®µm ph¸n trao ®æi, c«ng ty nµy ®ång ý rót hå s¬ víi ®iÒu kiÖn Trung
- 44 nguyªn ®ång ý cho hä lµ nhµ ph©n phèi ®éc quyÒn cña h·ng t¹i Mü trong thêi gian 2 n¨m. Bªn c¹nh ®ã, tªn miÒn trungnguyen.com còng bÞ mét ViÖt kiÒu ë TiÖp Kh¾c ®¨ng ký tr•íc víi môc ®Ých ®Çu c¬ vµ giao b¸n rÊt ®¾t. Theo bµ Vâ ThÞ Hµ Giang, phô tr¸ch Quan HÖ Céng §ång vµ Qu¶ng C¸o, C«ng ty Cµ phª Trung Nguyªn: “ Bµi häc mµ Trung nguyªn muèn chia sÎ víi c¸c doanh nghiÖp lµ hä cã thÓ ph¶i tr¶ gi¸ rÊt ®¾t cho nhËn thøc thÊp vÒ th•¬ng hiÖu”[12]. Thùc tÕ ®· chøng minh bµi häc nµy, nhÊt lµ ®èi víi lÜnh vùc n«ng s¶n. Trong buæi héi th¶o “ X©y dùng th¬ng hiÖu n«ng s¶n ViÖt Nam” do Thêi B¸o kinh tÕ Sµi Gßn, C«ng ty cµ phª Trung Nguyªn, §¹i häc Kinh tÕ TP.HCM vµ c«ng ty VietNam Marcom phèi hîp tæ chøc ngµy 21/11/2003, hiÖn nay n•íc ta lµ quèc gia ®øng ®Çu thÕ giíi vÒ xuÊt khÈu h¹t tiªu, thø hai thÕ giíi vÒ cµ phª vµ c¸c s¶n phÈm kh¸c nh• ®iÒu, chÌ vµ xuÊt khÈu thuû s¶n ë møc cao trªn thÕ giíi. Tuy nhiªn theo thèng kª cña Bé NN vµ PTNT, hÇu hÕt c¸c mÆt hµng n«ng s¶n, thùc phÈm cña ViÖt Nam xuÊt ra n•íc ngoµi ®Òu ®•îc b¸n d•íi d¹ng th« hoÆc s¬ chÕ nªn ch•a cã gi¸ trÞ cao ®Ó t¨ng thªm lîi nhuËn cho n«ng d©n. Thªm vµo ®ã, 90% n«ng s¶n ViÖt Nam xuÊt ra thÞ tr•êng n•íc ngoµi lµ ch•a cã th•¬ng hiÖu, ph¶i qua trung gian d•íi nh÷ng th•¬ng hiÖu cña n•íc kh¸c nªn hËu qu¶ lµ ng•êi tiªu dïng thÕ giíi vÉn ch•a biÕt nhiÒu vÒ nh÷ng nÐt ®Æc thï cña n«ng s¶n ViÖt Nam. Theo TiÕn sÜ Vâ Mai, Chñ tÞch HiÖp héi tr¸i c©y ViÖt Nam th× ®iÒu nµy lµm n•íc ta thÊt thu hµng tr¨m triÖu USD mçi n¨m. Th•¬ng hiÖu cña doanh nghiÖp lµ mét tµi s¶n cña doanh nghiÖp, ®èi víi c¸c th•¬ng hiÖu næi tiÕng cña c¸c doanh nghiÖp n•íc ngoµi, hä h¹ch to¸n gi¸ trÞ th¬ng hiÖu díi môc “ tµi kho¶n v« h×nh” trong b¶ng tæng kÕt tµi s¶n. Rñi ro th•¬ng hiÖu g¾n liÒn víi rñi ro c¹nh tranh kh«ng lµnh m¹nh gi÷a c¸c doanh nghiÖp. Gi¸ trÞ cña mét sè nh·n hiÖu do Phã Côc Tr•ëng Côc Së h÷u trÝ tuÖ TrÇn ViÖt Hïng cung cÊp trong buæi tËp huÊn vÒ th•¬ng hiÖu th¸ng 4/2004 [15].
- 45 B¶ng 2.4. Gi¸ trÞ mét sè nh·n hiÖu næi tiÕng TT Nhãn Hiệu Triệu USD 1 Coca-Cola 7045 2 Micrsoft 6517 3 IBM 5177 4 Intel 3111 5 NOKIA 2944 6 Disney 2804 7 McDonald‟s 2470 8 MERCEDES 2137 9 SONY 1335 10 SAMSUNG 1085 11 P/S ( 1996) 5 12 Dạ Lan ( 1997) 2.5 (B¸o c¸o tËp huÊn th•¬ng hiÖu th¸ng 4/2004 - Côc së h÷u trÝ tuÖ). 2.2.6. RỦI RO TỶ GIÁ Phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vẫn chủ yếu thanh toán bằng USD (chiếm trên 70%), đồng EURO chiếm 15%. Trong bối cảnh tỷ giá giữa VNĐ và USD đƣợc nhà nƣớc điều chỉnh và quản lý với chính sách khá ổn định, tƣởng chừng nhƣ không bị ảnh hƣởng trƣớc sự mất giá của đồng USD hay các đồng tiền khác. Thế nhƣng rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu là loại rủi ro thƣờng xuyên, thƣờng trực mà các doanh nghiệp gặp phải. Sự thay đổi tỷ giá làm thay đổi giá trị kỳ vọng của các khoản thu, chi ngoại tệ trong tƣơng lai, khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hƣởng đáng kể. Ví dụ ngày 18/11/2002, công ty Sagonimex đang thƣơng lƣợng ký hợp đồng xuất khẩu trị giá 200.000USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán vào
- 46 ngày 18/05/2003 (sau sáu tháng kể từ ngày ký hợp đồng). Tại thời điểm thƣơng lƣợng, tỷ giá USD/VND=15.381 nhƣng sự không chắc chắn của tỷ giá này trong tƣơng lai sáu tháng sau chứa đựng rủi ro của hợp đồng này. Nếu trong thời điểm thanh toán đó tỷ giá USD/VND là 15.281 thì cứ mỗi USD xuất khẩu, công ty lỗ 100VND, tính toàn bộ hợp đồng thì công ty sẽ lỗ là 200.000x100 =20.000.000VND. Nếu tính chung nhiều hợp đồng mà công ty ký cùng thời điểm này thì tổn thất sẽ lớn hơn rất nhiều. Tỷ giá giữa các đồng ngoại tệ mạnh trong những năm gần đây biến động liên tục theo diễn biến của tình hình kinh tế thế giới, ảnh hƣởng đến thanh toán hợp đồng ngoại thƣơng của các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp vẫn tự tính toán để dự phòng rủi ro này hơn là sử dụng bất kỳ một công cụ chuyên nghiệp nào của thị trƣờng tiền tệ. Cách làm của các doanh nghiệp thƣờng căn cứ theo nhu cầu thanh toán để chuyển đổi và lựa chọn đồng tiền Bản thân hệ thống các ngân hàng thƣơng mại cũng chƣa cung cấp đủ các dịch vụ trong lĩnh vực này hoặc mới triển khai và tiếp cận, chính vì vậy các ngân hàng chƣa tƣ vấn và thuyết phục đƣợc các doanh nghiệp sử dụng các công cụ nghiệp vụ. 2.2.7. RỦI RO DO THIẾU THÔNG TIN, LỪA ĐẢO, GIAN LẬN THƢƠNG MẠI Sự bùng nổ thông tin ngày nay với sự hỗ trợ đắc lực của cách mạng tin học, công nghệ mã-số hoá, sự ra đời các mạng thông tin vệ tinh nhƣ Internet, Intranet, Extranet, Bridge Tellerate đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho hoạt động giao dịch, thông tin kinh doanh trở nên trôi chảy hơn, nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn. Đây cũng chính là một công cụ hữu hiệu thúc đẩy quá trình hội nhập và tạo nên thành công của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong hoạt động XNK, nếu các doanh nghiệp không tìm hiểu kỹ các đối tác, nắm vững thông lệ và tập quán quốc tế cũng nhƣ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ để thẩm định năng lực tài chính để đảm bảo họ có khả năng thanh toán và
- 47 thực hiện đơn hàng cũng nhƣ không có yếu tố lừa đảo thì DN sẽ gặp rất nhiều rủi ro. Khai thác thông tin tốt còn giúp các doanh nghiệp đƣa ra dự báo chính xác về xu hƣớng biến động của thị trƣờng thế giới nói chung và biến động của ngành, hàng hoá nào đó nói riêng. Mọi thông tin dự báo đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay khâu thống kê kinh tế và dự báo là một điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2002 các doanh nghiệp xuất khẩu, các nhà vƣờn cà phê ở Tây Nguyên đã mất đi hàng chục tỷ đồng do tác động của nguồn thông tin dự báo thiếu chính xác. Niên vụ 2001-2002 lƣợng dự trữ cà phê toàn thế giới thặng dƣ trên 300 ngàn tấn, ngƣời trồng cà phê bán tống, bán tháo với giá thấp hơn chi phí sản xuất xã hội, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê không ai còn giám đầu tƣ dự trữ. Cuối niên vụ 2002-2003 trƣớc cơn sốt giá không ai còn cà phê để bán. Sang năm 2003, chiến sự Irắc do liên quân Anh- Mỹ sắp bùng nổ các nhà phân tích nhận định “khi chiến tranh nổ ra, giá dầu thô thế giới có thể tăng 80-100 USD/ thùng. Giá phân bón các loại có thể tăng 30-50% so với mức bình thƣờng. Các nhà nhập khẩu, cục dự trữ quốc gia một số nƣớc thi nhau nhập khẩu, đảm bảo mức an toàn nếu chiến sự kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm, đẩy giá dầu thô và thế giới tăng vọt, trong đó có các doanh nghiệp Việt Nam. Khi cuộc chiến nổ ra, giá dầu thô phân bón thế giới giảm đột ngột làm cho nhiều doanh nghiệp nhập khẩu đứng trƣớc nguy cơ thua lỗ trên 157,2 tỷ đồng. Đối với từng doanh nghiệp cụ thể, trong từng thƣơng vụ, do hạn chế ở khâu thu thập và xử lý thông tin trong quyết định kinh doanh, nhất là quá tin vào đối tác dẫn đến bị đối tác lừa. Ví dụ sau đây là minh hoạ rất chân thực cho rủi ro này: Một công ty XNK ở Bình Thuận ký hợp đồng nhập khẩu 1870 tấn bột mỳ trị giá 492.420 USD với công ty Bay Pacific - Singapore, (công ty Bay
- 48 Pacific mua lại số bột mỳ này của một công ty Ấn Độ. Ngày 28/11/1995, Ngân hàng Công Thƣơng Việt Nam mở L/C số 0001600A95LC0013 cho ngƣời hƣởng lợi là công ty Bay Pacific - Singapore và đƣợc Ngân hàng Mess Pierson - Singapore xác nhận. Khi nhận đƣợc bộ chứng từ thanh toán thì phía ngƣời nhập khẩu Việt Nam nhận đƣợc thông báo con tàu ghi trên B/L đã bị phết sơn lại và thay đổi tên khác, hơn nữa tầu này đang bị giữ ở Trung Quốc và đang chuẩn bị ra toà xét xử. Trên tàu có hai mặt hàng chính là bột mỳ và thép nhƣng lô hàng bột mỳ đã không còn, chỉ còn lô thép bị Trung Quốc giữ lại và đƣa vào kho. Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam đã buộc phải bắt lỗi bộ chứng từ này để từ chối thanh toán, song ngân hàng Mess Pierson- Singapore (Ngân hàng này đã chiết khấu bộ chứng từ cho Bay Pacific) không chấp nhận và kiện Ngân hàng Công Thƣơng Việt Nam. Nhà nhập khẩu Việt Nam có nguy cơ phải trả 497420 USD mà không nhận đƣợc hàng, còn về phía Ngân hàng Công thƣơng do bị kiện cáo nên mọi tài khoản NOSTRO của ngân hàng tại Singapore đều bị phong toả. Tại phiên toà chung thẩm, cán bộ Ngân hàng Công Thƣơng Việt Nam đƣợc biết công ty Bay Pacific đã mở L/C qua ngân hàng Mess Perierson để nhập khẩu bột mỳ từ Ấn Độ, và yêu cầu họ xuất trình bộ chứng từ hàng hoá cùng toàn thể hồ sơ giao dịch liên quan nói trên và thấy bộ chứng từ này mắc nhiều sai sót. Chính ngân hàng Mess Perierson đã thông báo những sai sót này cho Ngân hàng Ấn Độ và công ty Bay Pacific nhƣng họ không sửa chữa và ngay ngày sau đó đã gửi cho Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam với cam kết bộ chứng từ là hoàn hảo. Ngân hàng Mess Perierson đã không giải thích đƣợc những bất hợp lý này. Do đó, bên Việt Nam thắng kiện và tránh đƣợc thiệt hại hàng tỷ đồng. Một trong những vụ doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam bị phía nƣớc ngoài lừa do quá tin vào đối tác đó là trƣờng hợp Unimex Thái Bình bán hàng cho đối tác Trung Quốc, hƣởng L/C trị giá 700.000 USD do ngân hàng Fortis
- 49 HongKong phát hành. Trong L/C quy định (Inspection certificate issued by Applicant signed by Mr XXX - giấy chứng nhận kiểm tra do ông XXX ký phát), dù Unimex Thái Bình đã nhận đƣợc thông báo của Ngân hàng về chú ý này nhƣng do quá tin vào đối tác, thậm chí còn cử cán bộ sang cảng đến ký bảo lãnh cho ngƣời mua nhận hàng. Ngay sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, Unimex đã xuất trình chứng từ để đòi tiền nhƣng Ngân hàng Fortis Hong Kong đã từ chối thanh toán vì thiếu giấy chứng nhận kiểm tra. Gian lận thƣơng mại, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp làm giảm năng lực cạnh tranh, giảm uy tín và cơ hội phát triển, gián tiếp ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh. Ví dụ công ty Đông Nam Dƣợc Bảo Long ký hợp đồng liên doanh với công ty Gree Wood của Nga và cho phép họ độc quyền tiêu thụ sản phẩm của công ty ở Nga. Để hợp đồng đƣợc thực hiện Gree Wood đã yêu cầu công ty Dƣợc Bảo Long cho phép mình nợ tiền hai tháng kể từ ngày nhận hàng. Do khó khăn về tiền mặt nên công ty Bảo Long đã ký hợp đồng bán hàng qua công ty trung gian là của Việt Nam là Daphana - chuyên sản xuất mặt hàng tƣơng tự nhƣ sản phẩm của Bảo Long. Hợp đồng lập theo từng đợt hàng, mỗi đợt hàng, Bảo Long trả cho Daphana 20% tiền hoa hồng và mỗi container hàng phải bớt lại để công ty Gree Wood mua hàng của Daphana. Một năm sau Gree Wood đã tự ý bỏ hợp đồng không mua hàng của Bảo Long nữa. Do bị cắt hợp đồng đột ngột, hàng hoá bị ứ đọng nên doanh thu giảm từ 1,3 tỷ đến 3 tỷ đồng mỗi tháng. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân thì Daphana và Gree Wood đã nhái tên thƣơng phẩm của Bảo Long trên thị trƣờng Nga đồng thời Gree Wood đăng ký và thông tin trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng rằng sản phẩm của Bảo Long hiện đang lƣu hành trên thị trƣờng Nga là sản phẩm giả [4].
- 50 2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ RỦI RO XNK CỦA VIỆT NAM Những năm vừa qua, có rất nhiều nguyên nhân gây ra những rủi ro trong hoạt động xuất nhập khẩu, một phần vì chính xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, phần vì nhà nƣớc và các doanh nghiệp XNK Việt Nam chƣa thực hiện một cách triệt để và hữu hiệu các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro. 2.3.1. NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN Nhân tố kìm hãm tiến trình toàn cầu hoá là nguyên nhân gây cản trở và tăng khả năng rủi ro trong thƣơng mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam nói riêng là: - Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trƣờng và chức năng của nhà nƣớc. Kinh tế thị trƣờng là cơ sở và cốt lõi của toàn cầu hoá, những đòi hỏi của nó vƣợt khỏi một số chức năng quản lý kinh tế của nhà nƣớc nhƣng những chức năng này lại liên quan đến vấn đề an ninh kinh tế và lợi ích quốc gia. Kìm hãm quá trình toàn cầu hoá là kìm hãm hoạt động kinh tế thế giới nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. - Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Toàn cầu hoá kinh tế là tự do hoá di chuyển tƣ bản, buôn bán, quá trình sản xuất trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi mậu dịch tự do trên toàn thế giới. Đối ngƣợc lại xu hƣớng này là chủ nghĩa bảo hộ với các biện pháp phi thuế quan ngày một tinh vi nhƣ các biện pháp hạn chế nhập khẩu, chống bán phá giá, chống trợ giá hàng hoá, hạn chế quảng cáo, thủ tục khai báo rƣờm rà, tiêu chuẩn kỹ thuật cao, tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ phức tạp. Ví dụ tại Mỹ, trong hệ thống Luật thƣơng mại quan trọng của Mỹ có Luật về nguồn gốc xuất xứ hàng hoá, Luật thuế đối kháng, Luật chống bán phá giá, các Luật điều tiết thƣơng mại nông sản, dệt may, Luật hạn chế nhập
- 51 khẩu vì lý do an ninh, Luật hạn chế nhập khẩu về cán cân thanh toán, Luật về tiêu chuẩn kỹ thuật - Yếu tố chính trị. Các nƣớc phƣơng Tây, nhất là Mỹ thƣờng lợi dụng chiêu bài tự do, dân chủ, tôn giáo, sắc tộc để xen vào các hoạt động kinh tế, gây cản trở và làm chậm tiến trình gia nhập các tổ chức tài chính, thƣơng mại cũng nhƣ các cam kết quốc tế của các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam, gây khó khăn đối với hoạt động xuất nhập khẩu cũng nhƣ nhiều chính sách khác. - Thể chế kinh tế: Do trình độ phát triển kinh tế các nƣớc khác nhau nên trong quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi mở cửa thị trƣờng các nƣớc nhƣ nhau là một mâu thuẫn lớn. Nƣớc này không thể mở cửa theo mức độ và ý muốn của nƣớc khác và ngƣợc lại. Đối với các nƣớc đang phát triển thì mở cửa thị trƣờng không có nghĩa là thu đƣợc ngay những lợi ích của toàn cầu hoá, hệ thống luật pháp chƣa hoàn thiện nên khó chống đỡ những rủi ro khủng hoảng kinh tế. - Sự khác biệt về văn hoá. Bản chất của toàn cầu hoá cũng là một nhân tố kìm hãm và gây ra rủi ro. Toàn cầu hoá để làm các nƣớc xích lại gần nhau, nhập thành một nền kinh tế chung cho toàn thế giới, đòi hỏi phá vỡ mọi trở ngại, phân cách do con ngƣời dựng lên ở các nƣớc. - Luật pháp và quy tắc quốc tế không bình đẳng. Những quy định luật pháp, quy tắc quốc tế phần lớn do các nƣớc phát triển định ra, các luật pháp và quy tắc này thƣờng đẩy các nƣớc đang phát triển vào thế bất lợi, buộc các nƣớc này phải hi sinh một phần chủ quyền quốc gia hoặc lợi ích kinh tế lớn để đổi lấy sự hoà nhập vào hệ thống này.
- 52 2.3.2. NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN Nguyên nhân từ phía nhà nƣớc Khó khăn trong hội nhập các tổ chức quốc tế Trong quá trình hội nhập, mục tiêu chính của Việt Nam là tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO), Việt Nam đã cải thiện hệ thống chính sách, kinh tế, pháp luật. Tuy trải qua rất nhiều vòng đàm phán nhƣng vẫn còn nhiều khó khăn để trở thành thành viên chính thức của tổ chức này - một thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho ngoại thƣơng Việt Nam phát triển và hạn chế nhiều rủi ro. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều trở ngại: Tổ chức WTO hƣớng tới mục đích tốt đẹp là bảo đảm các nguyên tắc về thƣơng mại công bằng. Tuy nhiên, thực chất WTO là “ trò chơi quyền lực giữa các nền kinh tế mạnh và yếu trong quan hệ song phƣơng”. Các quy định của WTO vẫn mang tính không cân đối và thiên về có lợi cho các nƣớc phát triển. + Nếu các nƣớc nhỏ sử dụng cơ chế WTO để trừng phạt một nƣớc mạnh hơn về kinh tế và chính trị, họ sẽ là ngƣời thiệt trƣớc tiên. + Tham gia vào WTO tức là phải lựa chọn giữa chấp nhận tổng thể tự do hoá thƣơng mại hay bị loại ra khỏi chế độ thƣơng mại quốc tế. + WTO họp mỗi tuần trung bình 47 cuộc họp, các nƣớc kém phát triển không đủ kinh phí để tham gia toàn bộ quá trình đó. Trên thực tế nhiều cuộc họp chỉ một số nƣớc đƣợc mời tham gia, do vậy các quyết định của WTO phần lớn do các nƣớc phát triển đƣa ra. Trong bản cam kết hiệp định về dệt may, Hiệp định chống bán phá giá chủ yếu bảo vệ lợi ích cho các nƣớc phát triển.
- 53 Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, định hƣớng phát triển nền kinh tế Việt Nam theo chính sách mở cửa và hội nhập, những rủi ro mà phía Việt Nam phải gánh chịu nhƣ sự bất công trong chính sách bảo hộ thƣơng mại, sự chƣa tƣơng thích của hệ thống luật pháp trƣớc những vấn đền mới nảy sinh nhƣ Bán phá giá, Luật quyền sở hữu bản quyền, công nghệ, chƣa thúc đẩy vai trò của các hiệp hội ngành nghề trong bảo vệ lợi ích các ngành nghề và doanh nghiệp Về pháp luật, chính phủ ban hành, bổ sung nhiều điều Luật mới về chống bán phá giá, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hoàn thiện và đổi mới nhiều luật nhƣ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu tạo cho doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói riêng nhiều thuận lợi hơn. Điều này thể hiện qua kết quả kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam tăng liên tục trong 15 năm gần đây với giá trị ngày càng cao. Song lĩnh vực này vẫn thể hiện những yếu kém đó là: Khung pháp luật chƣa hoàn chỉnh: Về vấn đề bán phá giá, hiện tƣợng hàng hoá xuất khẩu Việt Nam bị kiện bán phá giá manh nha từ năm 1999, Luật chống bán phá giá là một trong những yêu cầu khi Việt Nam tham gia WTO, nhƣng cho đến nay, điều luật này chƣa thực sự đi vào trong cuộc sống. Hàng Việt Nam bị kiện có xu hƣớng tập trung dần vào các mặt hàng thuỷ sản chủ lực manh nha là mặt hàng mới nổi nhƣ may mặc và đồ gỗ gia dụng, nhất là ở thị trƣờng Mỹ. Tuy ở một khía cạnh nào đó, nƣớc Mỹ đang dùng chiêu bài “ chống bán phá giá” nhƣ một vũ khí thƣơng mại. Vậy thì các doanh nghiệp, các hiệp hội phải xác định và lƣờng trƣớc khả năng hàng xuất sẽ bị kiện bán phá giá nếu hàng hoá đó có tốc
- 54 độ xuất khẩu tăng trƣởng mạnh vào EU, hoặc Mỹ, từ đó để tham vấn cho các cơ quan hữu trách trong ứng xử thƣơng mại. Đối với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ, Bộ Luật Dân sự thông qua năm 1995 có phần VI quy định về quyền sở hữu trí tuệ, sau đó là hàng loạt các nghị định thông tƣ ban hành. Ở các nƣớc, Luật SHTT là một luật riêng biệt quy định rất chi tiết, cụ thể, rõ ràng và chia ra các nhánh gồm quyền sở hữu tác giả và sở hữu công nghiệp, sáng chế giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp ) - Cơ chế xử lý vi phạm còn yếu: Năng lực của các cơ quan quản lý còn hạn chế. Hiện nay nhiều cơ quan cùng tham gia thực thi bảo hộ thƣơng hiệu nhƣ Cục SHTT, Quản lý thị trƣờng, Thanh tra khoa học công nghệ, Công An Kinh tế, Hải quan Tuy nhiên, không cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về vấn đề này, khi xét xử phải phụ thuộc vào ý kiến của nhiều cơ quan khác, các doanh nghiệp khi bị đánh cắp thƣơng hiệu thì buộc phải đàm phán trực tiếp với đối tƣợng vi phạm. Đối với vấn đề bán phá giá mặc dù Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Xuất nhập khẩu số 04/98/QH ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng hoá nhập khẩu bán phá giá vào Việt Nam, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tƣớng chính phủ ngày 04/04/2001 quy định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá năm 2001 nhƣng cho đến nay Việt Nam cũng chƣa áp dụng cho trƣờng hợp chống bán phá giá nào vì chƣa có văn bản quy phạm pháp luật hƣớng dẫn cụ thể việc điều tra phá giá và áp dụng thuế chống bán phá giá.
- 55 Vai trò của các hiệp hội - Vai trò của các hiệp hội chƣa phát triển mạnh, chƣa đóng vai trò tham vấn cho các cơ quan nhà nƣớc về chính sách cũng nhƣ chƣa phối hợp với các cơ quan này trong giải quyết các vấn đề lên quan đến phát triển ngành. Cùng với hệ thống luật pháp chƣa thực sự hoàn chỉnh làm nhiều doanh nghiệp trong nƣớc gặp khó khăn. Luật về Hội đƣợc chủ tịch nƣớc Hồ Chí Minh ký năm 1957 quy định về quyền lập hội của công dân. Năm 1992, Chính phủ ra nghị định 35/CP quy định thêm về khung pháp lý cho hoạt động của hội, tiếp theo là NĐ29/CP về dân chủ cơ sở. Mới đây nhất là nghị định 88/CP về các tổ chức xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ [3]. Tại thị trƣờng trong nƣớc, nhiều mặt hàng tiêu dùng nhập lậu tràn lan đánh bật nhiều hàng hoá của doanh nghiệp nội địa cũng nhƣ gây khó khăn và tổn thất cho các doanh nghiệp nhập khẩu làm ăn chân chính. Vì vậy, phải phát huy vai trò của các hiệp hội. Đó là bản thân các hiệp hội là cầu nối chủ động, đại diện cho lợi ích ngành cho các doanh nghiệp các tập thể công ty, phải giải quyết hài hoà giữa các mối quan hệ doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với nhà nƣớc, doanh nghiệp với quan hệ kinh tế thế giới. Nếu xét theo những góc độ trên thì các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam có bề dày lịch sử và kinh nghiệm chƣa nhiều, chƣa phát huy vai trò, chức năng một cách hiệu quả của các doanh nghiệp với các cơ quan nhà nƣớc. Hợp tác giữa các tổ chức, cơ quan đại diện với doanh nghiệp Trong thời gian qua, hoạt động của các tổ chức, cơ quan đại diện phục vụ phát triển kinh tế nói chung, trong đó có hỗ trợ các hoạt động kinh tế đối ngoại và đạt đƣợc kết quả nhƣ: mở rộng thị trƣờng xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản, thuỷ sản, hỗ trợ bảo vệ thƣơng hiệu, cung cấp thông tin phát triển khoa học công nghệ. Tuy nhiên, sự phối hợp này đạt kết quả chƣa cao.
- 56 Theo kết quả khảo sát của VCCI phối hợp với Bộ Ngoại Giao giữa năm 2003, chỉ gần 50 % doanh nghiệp, đã có sự phối hợp này và nhận đƣợc hỗ trợ của các tổ chức, cơ quan đại diện trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. Đây là hạn chế rất lớn mà nếu các doanh nghiệp biết khắc phục thì sẽ tránh đƣợc nhiều loại rủi ro. Nguyên nhân của thực trạng trên một phần do trong tổ chức bộ máy của các cơ quan đại diện chƣa chú trọng về việc hỗ trợ các doanh nghiệp, thiếu cán bộ có trình độ, kiến thức chuyên ngành về kinh tế, thiếu động lực khuyến khích các cán bộ ngoại giao, hạn hẹp về kinh phí hoạt động. Mặt khác, bản thân các doanh nghiệp quy mô phát triển nhỏ bé so với các đối thủ trên thế giới, e ngại rủi ro, chƣa ƣu tiên cho việc vƣơn ra thị trƣờng khu vực và thế giới, do đó hoạt động kinh tế đối ngoại của các công ty chƣa chú trọng đến việc khai thác và tận dụng các thông tin, các cơ hội do các cơ quan đại diện, các tổ chức tƣ vấn, hỗ trợ doanh nghiệp cung cấp. Thƣờng thì các doanh nghiệp chỉ tìm đến các cơ quan này chỉ khi nhu cầu tác nghiệp trở nên cấp thiết đồng thời các cơ quan này còn thiếu trách nhiệm phối hợp trong khâu xử lý và trao đổi thông tin. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp Đối với mỗi doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể gặp những rủi ro mang tính đặc thù riêng. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thƣờng sử dụng là phƣơng thức truyền thống chuyển nhƣợng rủi ro ( bảo hiểm đối với hàng hoá XNK ) đối với những loại rủi ro tĩnh. Đối với những loại rủi ro động do các yếu tố nhƣ thông tin, pháp luật, hay sử dụng pháp luật, các công cụ nghiệp vụ để chủ động bảo vệ mình thì chƣa chú trọng. - Thụ động đối phó với những rủi ro mang tính vĩ mô. Thụ động đối phó với những rủi ro mang tính vĩ mô, có nghĩa là phần lớn các doanh nghiệp cập nhật, tìm hiểu văn bản pháp lý nhƣng vẫn chƣa
- 57 quan tâm đến tƣ vấn pháp lý. Hầu hết các công ty lớn liên doanh hoặc 100% vốn nƣớc ngoài đều có bộ phận hoặc nhân viên đảm trách việc liên quan, chính sách, pháp luật (Government Relation) với chức năng là cầu nối của doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan chức năng của nhà nƣớc giải quyết những sự vụ cụ thể liên quan đến công ty (về mặt hành chính). Ngoài ra, bộ phận này còn chịu trách nhiệm cập nhật mọi thông tin liên quan đến các văn bản pháp luật và đƣa đến từng phòng ban khác trong công ty. Đối với các công ty lớn của Việt Nam, sự đảm trách nhiệm vụ này chƣa phân quyền, trách nhiệm cụ thể cho một bộ phận hoặc một cá nhân, các phòng ban thƣờng tự thu thập và cập nhật thông tin về pháp luật theo năng lực và sự nhạy bén của của mình, chƣa mang tính chuyên nghiệp cao. Đối với các công ty nhỏ thì công việc này thƣờng trực tiếp cập nhật theo năng lực lãnh đạo công ty,và các phòng ban chỉ tập chung vào chuyên môn mà thƣờng bỏ qua việc này. - Thu thập xử lý thông tin thị trƣờng còn hạn chế. Ngoài một số Tổng công ty lớn, nhiều công ty xuất nhập khẩu nhất là các công ty Việt Nam chƣa chú trọng khâu thu thập và xử lý thông tin về thị trƣờng mình quan tâm trƣớc khi tham gia vào thị trƣờng đó. Điều này thể hiện ở nhận thức của doanh nghiệp về tính chủ động phối hợp với các cơ quan tƣ vấn thị trƣờng các bộ ngành, thành lập phòng Marketing chuyên biệt của công ty, nghĩa là phòng Marketing không chỉ đơn thuần là làm các nghiệp vụ tiếp thị thông qua các công ty tƣ vấn, quảng cáo. Thu thập xử lý thông tin thị trƣờng là một quá trình đúc rút kinh nghiệm, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao của các nhân viên. Chính vì thế, ngoài nhiệm vụ tiếp thị, phải phân tích một cách tổng thể các yếu tố về văn hoá, chính trị, kinh tế nói chung, các đối thủ và đối tác về phạm vi ngành nói riêng, cũng nhƣ sự tƣơng tác giữa các yếu tố đó đối với chiến lƣợc của công ty mình. Ví dụ: Hãng Sony có riêng bộ phận nghiên cứu về văn hoá Phật giáo Công ty này đã đƣa mẫu quảng cáo sản
- 58 phẩm radio của mình với nội dung “ Phật tổ đang nằm nghiêng, hai mắt nhắm nghiền, bản nhạc tuyệt diệu phát ra từ băng casset của công ty, Phật tổ bắt đầu cử động theo tiếng nhạc và sau đó mở mắt ra” ở Thái Lan vì đây là một đất nƣớc mà Phật giáo là Quốc giáo. Nhƣng đối với ngƣời dân Thái, họ coi đây là một sự phỉ báng đối với Phật Tổ và tẩy chay hàng của Sony. - Một số dịch vụ “phòng ngừa hạn chế rủi ro” mà doanh nghiệp chƣa quen sử dụng, hoặc khó tiếp cận. Khó mua bảo hiểm đặc biệt (bảo hiểm rủi ro chiến tranh). Trong cuộc chiến tranh Irắc và chiến tranh Vùng Vịnh nói chung, do tình hình chiến tranh với những rủi ro cao nên mức chi phí tối thiểu bị bãi bỏ. Uỷ ban định giá London thông báo không nhận bảo hiểm rủi ro chiến tranh. Theo các công ty bảo hiểm của Việt Nam, các điều khoản bảo hiểm hàng vận chuyển, kể cả bảo hiểm chiến tranh mà họ đang sử dụng đều phụ thuộc vào thị trƣờng thế giới, ngay sau khi nhận bảo hiểm thì họ đều phải tái bảo hiểm ngay với các nhà bảo hiểm trên thế giới. Nếu các nhà bảo hiểm Việt Nam có đề nghị bảo hiểm rủi ro chiến tranh sẽ phải thông báo trƣớc với Uỷ ban trên, một doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh xuất khẩu lô hàng xà phòng trị giá 400.000 Euro vào Irắc xin mua bảo hiểm đã bị từ chối. - Dịch vụ của ngân hàng trong rủi ro tỷ giá còn hạn chế đồng thời doanh nghiệp chƣa quan tâm đến các biện pháp chuyên nghiệp trong hạn chế rủi ro tỷ giá. Tập quán của phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là khi đến hạn thanh toán hợp đồng thì liên hệ trực tiếp với ngân hàng mua ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay (Nghiệp vụ Spot), phƣơng tiện thanh toán chủ yếu vẫn là bằng đồng USD với tỷ giá đƣợc nhà nƣớc quản lý điều chỉnh khá ổn định. Tuy nhiên, khi chọn đồng tiền thứ ba làm đồng tiền thanh toán bao giờ cũng tiềm ẩn rủi ro về
- 59 tỷ giá bất kể là đồng USD hay một đồng ngoại tệ mạnh khác, nhƣng nhiều doanh nghiệp vẫn tự phỏng đoán và dự tính hơn là sử dụng các công cụ chuyên nghiệp của thị trƣờng tiền tệ. Theo ý kiến của ông Lê Văn Trí, phó giám đốc công ty Casumina cho rằng: sử dụng các công cụ bảo hiểm tỷ giá có vẻ ngiêng nhiều về kinh doanh tiền tệ hơn là bảo hiểm tỷ giá, phần lớn các doanh nghiệp chƣa quen, chỉ một vài doanh nghiệp đƣợc tƣ vấn sử dụng nghiệp vụ hoán đổi tỷ giá (nghiệp vụ Swap). Thực tế ít ngân hàng triển khai các nghiệp vụ này, đầu năm 2003, Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam mới cho phép áp dụng nghiệp vụ mới là nghiệp vụ quyền chọn (Option) và thí điểm ở Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam, Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. - Năng lực cán bộ. Chủ động đối phó với các rủi ro mang tính vi mô, nhƣng phần lớn mới chỉ tập trung ở khâu đàm phán, ký kết hợp đồng và bảo hiểm và do trình độ yếu kém của đội ngũ cán bộ nên đã gây ra không ít rủi ro. Điều này thể hiện ở nhận thức và trình độ của đội ngũ cán bộ trực tiếp tác nghiệp về kiến thức mang tính chuyên môn. Chƣa thấy đƣợc một cách đầy đủ và toàn diện về những rủi ro và biện pháp hạn chế trong từng quá trình thƣơng lƣợng mua bán một cách tổng thể vì rủi ro là một yếu tố tồn tại trong mỗi quyết sách, lĩnh vực và phạm vi rộng và phức tạp, vì mỗi sự vụ cụ thể lại có những biến thái với mầu sắc khác nhau của rủi ro có thể do nhiều yếu tố gây ra cùng lúc nhƣ thiếu thông tin, dẫn đến bị đối tác lừa thì tất yếu đàm phán ký kết hợp đồng có chỉn chu tới mức nào cũng đều thất bại. Thiếu năng lực quản lý dẫn đến sai lầm trong quản lý và điều hành, thiếu năng lực chuyên môn dẫn đến sơ suất, thiếu chặt chẽ trong quá trình tác nghiệp gây ra rủi ro không đáng có.
- 60 Tóm lại, thực trạng rủi ro chính trong XNK với nhiều bất cập và khó khăn đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải có các giải pháp để hạn chế, khắc phục rủi ro trong hoạt động này. Các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro đƣợc quan tâm, áp dụng từ lâu và có tác dụng tích cực trong đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, tuy nhiên nhiều biện pháp còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp phải nhìn nhận rủi ro bao quát về cả vi mô và vĩ mô, xem xét đánh giá rủi ro một cách tổng thể, phải tƣ vấn cho nhà nƣớc để cùng hạn chế rủi ro nói chung.
- 61 CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa trong tƣơng lai. Tuy nhiên, đối mặt với những rủi ro đã xảy ra trong thời gian vừa qua cho thấy xu hƣớng là bên cạnh những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ, rủi ro phát sinh trong nghiệp vụ tác nghiệp phức tạp và rất đa dạng, xảy ra ở nhiều khâu. Rủi ro liên quan đến chính trị và pháp lý có xu hƣớng tăng và hậu quả nghiêm trọng hơn Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải có giải pháp ngăn ngừa hạn chế rủi ro một cách đồng bộ, hoàn chỉnh, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, tổ chức nhà nƣớc với các doanh nghiệp. 3.1. CÁC GIẢI PHÁP VĨ MÔ Rủi ro về chính trị, chính sách, pháp luật, môi trƣờng kinh doanh trong XNK là điều khó tránh khỏi và có xu hƣớng xảy ra ngày càng cao, vì những mâu thuẫn tất yếu trong hội nhập phát triển kinh tế, sự đối đầu giữa lợi ích của các khối kinh tế, của nƣớc phát triển với nƣớc đang phát triển, của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia với các công ty bản địa truyền thống. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật, chính sách phát triển, hỗ trợ kinh tế của nhà nƣớc phải đƣợc xem nhƣ là một khía cạnh hạn chế rủi ro cho hoạt động kinh tế. Nhà nƣớc thông qua các công cụ vĩ mô điều tiết kinh tế nói chung trong đó có rủi ro trong XNK nói riêng. Đó là: 3.1.1. TẠO MÔI TRƢỜNG PHÁP LUẬT ĐỒNG BỘ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Để điều tiết hoạt động kinh doanh XNK, hệ thống Luật của nƣớc ta có những luật sau:
- 62 Luật Thƣơng Mại Việt Nam đƣợc soạn thảo (căn cứ vào Hiến pháp Nƣớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - 1992) đƣợc Quốc hội khoá IX thông qua 5/1997, đã quy định các hoạt động thƣơng mại xảy ra tại Nƣớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Với 6 chƣơng và 264 điều, Luật Thƣơng mại điều chỉnh các hành vi thƣơng mại, xác định địa vị pháp lý của thƣơng nhân và quy định những nguyên tắc, chuẩn mực trong hoạt động thƣơng mại tại nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 1). Điều chỉnh các hành vi thƣơng mại trong hoạt động mua bán hàng hoá ở thị trƣờng trong nƣớc và mua bán hàng hoá với nƣớc ngoài, các dịch vụ thƣơng mại gắn liền với các hoạt động thƣơng mại, lƣu thông hàng hoá nhƣ đại diện thƣơng nhân, môi giới thƣơng mại, uỷ thác mua bán hàng hoá, đại lý mua bán, thuê mua, gia công, giao nhận, kho vận, quảng cáo, trƣng bày giới thiệu hàng hoá, hội chợ, triển lãm của các thƣơng nhân hoạt động tại Việt Nam. - Nghị định số 33-CP ngày 19-04-1994 về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. - Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thƣơng mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nƣớc ngoài: - Thông tƣ số 26/1999/TT-BTM ngày 19/8/1999 bổ sung Thông tƣ số18/1998/TT-BTM ngày 28/8/1998 của Bộ Thƣơng mại hƣớng dẫn thực hiện Nghị định số 57/1998/NĐ-CP. - Nghị định số 94/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế xuất nhập khẩu số 04/1998/QH ngày 20/05/1998.