Luận văn Phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_phat_trien_viec_su_dung_cong_cu_chuyen_nhuong_o_vie.pdf
Nội dung text: Luận văn Phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TRỊNH HUYỀN TRANG PHÁT TRIỂN VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHUYỂN NHƯỢNG Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế Mã số : 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ QUY HÀ NỘI - 2007
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các số liệu trích dẫn nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Các kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của thầy cô giáo trong trường, Khoa Sau Đại học trường Đại học Ngoại thương. Tôi xin bảy tỏ lòng cảm ơn sâu sắc PGS.TS Nguyễn Thị Quy người đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những ý kiến quý báu trong quá trình hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến toàn thể người thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã ủng hộ, quan tâm và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Hà nội, năm 2007 Trịnh Huyền Trang
- MỤC LỤC Trang DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CỤ CHUYỂN NHƢỢNG 4 1.1. Khái niệm và đặc điểm của công cụ chuyển nhƣợng 4 1.1.1. Khái niệm 4 1.1.2. Đặc điểm của công cụ chuyển nhượng 6 1.2. Các loại công cụ chuyển nhƣợng 9 1.2.1 Hối phiếu 9 1.2.2. Kỳ phiếu .13 1.2.3. Séc 14 1.2.4. Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được 17 1.3. Luật điều chỉnh công cụ chuyển nhƣợng 18 1.3.1. Luật quốc tế 18 1.3.2. Luật quốc gia 19 1.4. Cơ sở hình thành công cụ chuyển nhƣợng 21 1.4.1. Tín dụng thương mại 21 1.4.2. Tín dụng ngân hàng 23 1.5. Một số nghiệp vụ liên quan đến công cụ chuyển nhƣợng 24 1.5.1. Nghiệp vụ chiết khấu 24 1.5.2. Nghiệp vụ bao thanh toán CCCN truy đòi và miễn truy đòi 25 1.5.3. Nghiệp vụ nhờ thu 25 1.5.4. Nghiệp vụ bảo lãnh 26 1.5.5. Nghiệp vụ cầm cố 26 1.6. Vai trò của CCCN trong nền kinh tế thị trƣờng 27 1.6.1. Đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế 27 1.6.2. Tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động cấp tín dụng 27 1.6.3. Bổ sung hàng hoá cho thị trường tiền tệ, tạo điều kiện cho NHTW thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia 28 1.6.4. Thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển 28
- 1.7. Tình hình sử dụng CCCN ở một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 29 1.7.1. Tình hình sử dụng CCCN ở Singapore 29 1.7.2. Tình hình sử dụng CCCN ở Trung Quốc 30 1.7.3. Tình hình sử dụng CCCN ở Mỹ 32 1.7.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 32 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHUYỂN NHƢỢNG Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ. 35 2.1. Môi trƣờng pháp lý điều chỉnh CCCN ở Việt Nam 35 2.2. Thực trạng sử dụng CCCN ở Việt Nam trong thời gian qua 41 2.2.1. Thời kỳ trước đổi mới 41 2.2.2. Thời kỳ sau đổi mới đến nay 43 2.2.2.1. Hoạt động thương mại quốc tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng – cơ sở phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam 43 2.2.2.2. Các chủ thể tham gia sử dụng CCCN ở Việt nam 48 2.2.2.3. Phạm vi sử dụng CCCN 50 2.2.2.4. Tình hình sử dụng các nghiệp vụ liên quan đến CCCN 58 2.3. Đánh giá việc sử dụng các CCCN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính quốc tế 62 2.3.1. Những kết quả đạt được 62 2.3.2. Những bất cập 66 2.3.3. Những nguyên nhân 72 CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VIỆC SỬ DỤNG CCCN Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 79 3.1. Sự cần thiết phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế 79 3.1.1. Phát triển CCCN là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường 79 3.1.2. Phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế 80 3.1.3. Giảm sức ép tín dụng đối với hệ thống ngân hàng thương mại 82 3.1.4. Phát triển việc sử dụng CCCN góp phần hoàn thiện thị trường tiền tề Việt Nam 82
- 3.2. Định hƣớng phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế 83 3.2.1. Quan điểm của Đảng - Nhà nước về phát triển thị trường tài chính trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế 83 3.2.2. Các định hướng chính về phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế. 84 3.3. Các giải pháp phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế 86 3.3.1. Các giải pháp vĩ mô 86 3.3.1.1. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc sử dụng các CCCN 86 3.3.1.2. Thể chế hoá chế độ thanh toán không dùng tiền mặt 87 3.3.1.3. Thực hiện công khai, minh bạch hoá tình hình hoạt động và khả năng tài chính của doanh nghiệp 89 3.3.1.4. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về CCCN 91 3.3.1.5. Xây dựng hệ thống ngân hàng có khả năng cạnh tranh đáp ứng yêu cầu sử dụng CCCN 92 3.3.1.6. Hỗ trợ các doanh nghiệp phát hành và sử dụng CCCN 94 3.3.2. Các giải pháp vi mô 94 3.3.2.1. Các giải pháp đối với Ngân hàng Thương mại 94 3.3.2.2. Các giải pháp đối với doanh nghiệp 102 KẾT LUẬN 105 KIẾN NGHỊ 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
- DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT BIDV: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BTA: Hiệp định thương mại song phương CCCN: Công cụ chuyển nhượng CD: Certificate of Deposit - Chứng chỉ tiền gửi CHND: Cộng hoà nhân dân CHXHCN: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa CPH Cổ phần hoá CRA: Công ty định mức tín nhiệm ICB: Ngân hàng Công thương Việt Nam NHLD: Ngân hàng liên doanh NHNN: Ngân hàng Nhà nước NHTM: Ngân hàng thương mại NHTW: Ngân hàng Trung ương PLTP: Pháp lệnh thương phiếu TCTD: Tổ chức tín dụng TPKB: Tín phiếu kho bạc VBARD: Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam VCB: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Hình 1.1 Quy trình lưu thông hối phiếu trả tiền ngay 12 Hình 1.2 Quy trình lưu thông hối phiếu trả chậm 13 Hình 1.3 Quy trình lưu thông kỳ phiếu 14 Bảng 1.1 Doanh số các công cụ tài chính trên thị trường Mỹ 32 (2004 – 2006) Bảng 2.1 Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD năm 2006 43 Bảng 2.2 Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2006 44 Bảng 2.3 Ngân hàng và các tổ chức phi tín dụng tại Việt Nam tính đến 46 T9/2006 Bảng 2.4 Tình hình sử dụng CCCN (chủ yếu là hối phiếu đòi nợ) trong 52 thanh toán quốc tế tại các NHTMVN (2004-T9/2006) Bảng 2.5 Tỷ trọng nợ nước ngoài trên GDP của Việt Nam 54 (giai đoạn 2000 - 2006) Bảng 2.6 So sánh tín dụng nội địa/GDP của hệ thống ngân hàng Việt Nam 58 Bảng 2.7 Tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông so với tổng các phương tiện 73 thanh toán ở Việt Nam(2001- 2006) Bảng 2.8 Khả năng tài chính của các NHTM Việt Nam 75 tính đến hết tháng 9/2006 Bảng 2.9 Tỷ lệ an toàn vốn của một số NHTM trong khu vực Châu á đến 76 T9/2006 Bảng 2.10 So sánh năng lực cạnh tranh của khu vực tài chính 76 ngân hàng Việt Nam so với các nước trong khu vực Bảng 3.1 Tổng dư nợ (VND) của toàn bộ nền kinh tế 82 (giai đoạn 2001 - 2006)
- 1 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Từ năm 1986 trở lại đây, cùng với việc thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện mọi mặt kinh tế-xã hội của đất nƣớc, nền kinh tế nƣớc ta đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Song, do xuất phát từ nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu, hầu hết các doanh nghiệp nƣớc ta có quy mô sản xuất-kinh doanh nhỏ bé, nguồn vốn kinh doanh hạn hẹp, việc tiếp cận tín dụng ngân hàng còn hạn chế nên tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp còn rất phổ biến. Trên thực tiễn, quan hệ tín dụng thƣơng mại giữa các doanh nghiệp, tiểu thƣơng đã tồn tại nhƣ một thực tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, hoạt động tín dụng thƣơng mại dƣới hình thức phát hành và lƣu thông CCCN, một hình thức tín dụng trực tiếp giữa các doanh nghiêp đã khá phổ biến ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển, lại chƣa đƣợc phát triển đúng mức ở nƣớc ta. Nhu cầu phát hành và lƣu thông công cụ chuyển nhƣợng, bằng chứng pháp lý quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng thƣơng mại, để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các bên vì thế trở nên bức thiết. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một xu thế thời đại, diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, biểu hiện xu hƣớng tất yếu khách quan của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nƣớc ta ngày càng mở rộng quan hệ giao lƣu thƣơng mại, đầu tƣ với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập và tăng cƣờng giao lƣu thƣơng mại này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu và sử dụng các phƣơng thức, phƣơng tiện thanh toán phổ biến trong quan hệ thƣơng mại quốc tế, quan hệ tín dụng quốc tế nhƣ thƣ tín dụng, séc, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, Nhu cầu đƣa CCCN, công cụ thanh toán và tín dụng phổ biến ở những nền kinh tế thị trƣờng vào sử dụng trong nền kinh tế nƣớc ta là đòi hỏi khách quan và cấp thiết, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù CCCN đã tồn tại và phát triển ở nhiều nƣớc có nền kinh tế phát triển trên thế giới, song ở nƣớc ta đây vẫn còn là một khái niệm còn tƣơng đối mới mẻ, và gặp không ít khó khăn. Với mong muốn nghiên cứu những vấn đề lý luận về
- 2 CCCN, đồng thời tìm hiểu thực trạng sử dụng CCCN ở Việt Nam trong thời gian qua; trên cơ sở phân tích những kết quả đạt đƣợc và những hạn chế còn tồn tại để đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập tài chính quốc tế, đề tài: “Phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế” đƣợc tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu: Trong kế hoạch phát triển kinh tế 10 năm (2001-2010) của Đại hội Đảng IX đã nhấn mạnh chủ trƣơng kiện toàn thị trƣờng tài chính ngân hàng trong giai đoạn hội nhập. Để tiến tới cụ thể hoá chủ trƣơng văn kiện Đại hội Đảng IX, song song với việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc sử dụng các công cụ tài chính nói chung và các công cụ chuyển nhƣợng nói riêng, thì nhiều đề tài khoa học và các bài viết về lĩnh vực này cũng đã đƣợc nghiên cứu một cách nghiêm túc, sâu sắc. T.S Lê Đức Thuý -Thống đốc NHNNVN- trong đề tài “Cơ sở khoa học và giải pháp cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam phù hợp với yêu cầu nền kinh tế thị trường có định hướng hội nhập quốc tế trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” (Mã số KNHTĐ 2001-01) đã đƣa ra một số giải pháp phát triển các công cụ tài chính nhằm kiện toàn hệ thống ngân hàng. Với cách phân tích cụ thể hơn, GS. Đinh Xuân Trình trong đề tài “Giải pháp phát triển thị trường thương phiếu nhằm phát triển hoạt động thương mại ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” (12/2005) đã chỉ ra vai trò quan trọng và sự cần thiết của việc phát triển thƣơng phiếu nhằm thúc đẩy thƣơng mại trong nƣớc và với nƣớc ngoài phát triển, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa có nghiên cứu nào cụ thể, chi tiết và đầy đủ về thực trạng và giải pháp phát triển việc sử dụng các công cụ chuyển nhƣợng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập tài chính quốc tế. 3. Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hoá những lý luận về CCCN; tìm hiểu thực trạng sử dụng CCCN ở Việt Nam, trên cơ sở đó đáng giá những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế và nguyên nhân.
- 3 Đề xuất một số giải pháp phát triển việc sử dụng các CCCN ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích, tập hợp có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về CCCN. Tìm hiểu thực trạng sử dụng các CCCN ở Việt Nam trong thời gian qua. Đề xuất giải pháp phát triển việc sử dụng các CCCN ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập tài chính quốc tế. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Công cụ chuyển nhƣợng trong nền kinh tế Việt Nam dƣới tác động của hội nhập tài chính quốc tế. Phạm vi: Về nội dung: Giới hạn ở các công cụ chuyển nhƣợng chủ yếu gồm: hối phiếu, kỳ phiếu, séc và chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc. Về phạm vi: - Mốc thời gian phân tích thực trạng: từ trƣớc đổi mới đến năm 2006. - Mốc thời gian đề xuất nghiên cứu: đến năm 2010. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu nhập tƣ liệu, phân tích thông tin, so sánh tổng hợp. Trong quá trình nghiên cứu, đề tài lấy phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin trên cơ sở kết hợp với đƣờng lối, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng tổ hợp các phƣơng pháp khác nhƣ: hồi cứu tƣ liệu, quan sát, phân tích, so sánh đối chiếu và đánh giá các sự kiện trong mối quan hệ biện chứng với nhau. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài đƣợc kết cấu làm ba chƣơng, cụ thể nhƣ sau: Chương I: Cơ sở lý luận về CCCN. Chương II: Thực trạng sử dụng CCCN ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế.
- 4 Chương III: Các giải pháp phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập tài chính quốc tế.
- 5 CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CỤ CHUYỂN NHƢỢNG 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG CỤ CHUYỂN NHƢỢNG 1.1.1. Khái niệm Công cụ chuyển nhƣợng (CCCN) là một tài sản tài chính vô hình, chứa đựng những quyền pháp lý đối với lợi ích tƣơng lai cho ngƣời sở hữu nó. Tài sản tài chính (financial assets) đƣợc hiểu là bất kỳ tài sản nào có giá trị trao đổi đƣợc đo bằng tiền. Những lợi ích tƣơng lai của ngƣời sở hữu CCCN đƣợc thực hiện khi ngƣời chủ sở hữu này chuyển nhƣợng quyền pháp lý đối với CCCN cho ngƣời khác, hoặc cầm cố, nhƣợng bán các quyền đó cho các tổ chức tín dụng để đổi lấy một số tiền nhất định vào một thời điểm xác định do các bên thoả thuận. Trong nền kinh tế thị trƣờng, bên cạnh tín dụng ngân hàng - tín dụng giữa các ngân hàng với doanh nghiệp - còn có sự xuất hiện và phát triển của hình thức tín dụng thƣơng mại, tức là quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau trong quá trình mua bán hàng hoá. Trong quan hệ thanh toán và đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp đã sử dụng các công cụ nhƣ: hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ (kỳ phiếu), séc Các công cụ này có thể đem ra để mua đi bán lại, chuyển nhƣợng, cầm cố, thế chấp, chiết khấu nên đƣợc gọi chung là công cụ chuyển nhƣợng. Các CCCN đƣợc biết đến hiện nay gồm: Hối phiếu, Kỳ phiếu, Séc và Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc. CCCN và các hoạt động kinh tế liên quan đến nó đã đƣợc điều chỉnh, quy định trong luật quốc tế và luật quốc gia một số nƣớc trong đó có Việt nam Một cách khái quát và đầy đủ, Luật Thƣơng mại thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code-UCC) định nghĩa về CCCN tại điều 3-104 là: “Một cam kết (Promise) trả tiền hoặc một lệnh (Order) đòi tiền vô điều kiện một số tiền nhất định (có hoặc không có lãi suất hay các khoản chi phí khác) cho người cầm phiếu hoặc theo lệnh, khi công cụ được xuất trình hoặc tại một thời điểm xác định trong tương lai”.
- 6 Luật Công cụ chuyển nhƣợng của nƣớc CHND Trung Hoa (2004) tuy không nêu ra định nghĩa trực tiếp về CCCN, nhƣng có quy định rõ ngƣời hƣởng lợi của CCCN: “Các công cụ chuyển nhượng gồm có Hối phiếu, Kỳ phiếu và Séc”,”Hối phiếu là công cụ chuyển nhượng do một người ký phát ra lệnh cho người bị ký phát phải trả vô điều kiện một số tiền nhất định khi xuất trình hoặc vào một ngày xác định cho người hưởng lợi hoặc người cầm hối phiếu”; “Kỳ phiếu là một công cụ chuyển nhượng do một người tạo lập ký phát cam kết sẽ trả vô điều kiện một số tiền nhất định khi xuất trình cho người hưởng lợi hoặc người cầm kỳ phiếu”. Luật Các công cụ chuyển nhƣợng 2005 của Việt nam quy định tại Điều 4 - Chƣơng I một cách ngắn gọn nhƣ sau: “Công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định.”CCCN quy định trong Luật Các công cụ chuyển nhƣợng 2005 của Việt nam gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc và công cụ chuyển nhƣợng khác trừ công cụ nợ dài hạn đƣợc tổ chức phát hành nhằm huy động vốn trên thị trƣờng: - Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do ngƣời ký phát lập, yêu cầu ngƣời bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tƣơng lai cho ngƣời thụ hƣởng. - Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do ngƣời phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tƣơng lai cho ngƣời thụ hƣởng. - Séc là giấy tờ có giá do ngƣời ký phát lập, ra lệnh cho ngƣời bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đƣợc phép của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho ngƣời thụ hƣởng. Nhƣ vậy, có thể thấy điểm chung của các khái niệm nêu trên về CCCN là: (1) CCCN là một chứng chỉ có giá, một công cụ thanh toán có thể chuyển nhƣợng đƣợc. Nó là một văn bản ghi nhận một cam kết trả tiền (promise) hoặc một mệnh lệnh đòi tiền (order) vô điều kiện một số tiền nhất định giữa các chủ thể tham gia quan hệ CCCN.
- 7 (2) Thời hạn thanh toán của CCCN là xác định, hoặc khi có yêu cầu, hoặc khi xuất trình, hoặc vào một thời điểm có thể xác định trong tƣơng lai. (3) Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ CCCN độc lập với quan hệ cơ sở phát sinh ra nó. Trong quan hệ hối phiếu đòi nợ thƣờng có 3 bên tham gia là: ngƣời ký phát, ngƣời bị ký phát, và ngƣời thụ hƣởng. Trong đó, ngƣời ký phát (ngƣời bán) yêu cầu ngƣời bị ký phát (ngƣời mua) phải trả tiền theo hợp đồng mua bán hàng hoá (hợp đồng gốc) cho mình hoặc cho ngƣời thứ ba là ngƣời thụ hƣởng. Theo đó, có hai nghĩa vụ đƣợc thực hiện: (i) nghĩa vụ giữa ngƣời bị ký phát và ngƣời ký phát; (ii) nghĩa vụ giữa ngƣời ký phát và ngƣời thụ hƣởng. Trong quan hệ hối phiếu nhận nợ, ngƣời ký phát là ngƣời mua hàng, ký cam kết thanh toán một số tiền nhất định. Ở đây chỉ tồn tại một nghĩa vụ thanh toán giữa ngƣời phát hành và ngƣời thụ hƣởng. Nhƣ vậy, dựa vào những điểm chung nhất theo quy định của Luật quốc tế và Luật một số nƣớc về CCCN, thì hối phiếu, kỳ phiếu và séc ở nƣớc ta đã có đầy đủ các điều kiện để coi là CCCN. Ở một số nƣớc (Trung Quốc, Ấn độ, ) ngoài 3 công cụ (hối phiều đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc) còn xuất hiện thêm một công cụ chuyển nhƣợng khác, đó là chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit – CD). Song chứng chỉ tiền gửi chƣa đƣợc đƣa vào phạm vi điều chỉnh của Luật các công cụ chuyển nhƣợng 2005 của Việt Nam. 1.1.2. Đặc điểm của công cụ chuyển nhƣợng 1.1.2.1. CCCN là một tài sản tài chính vô hình: Tài sản tài chính (financial assets) là bất cứ tài sản nào có giá trị trao đổi. Thƣớc đo tài sản tài chính là tiền tệ. Tài sản tài chính có hai loại: tài sản tài chính hữu hình và tài sản tài chính vô hình. Tài sản tài chính hữu hình (tangible assets) là tài sản mà giá trị của nó phụ thuộc vào hình thái vật chất của nó quyết định. Tài sản tài chính vô hình (intangible assets) là tài sản chứa đựng trong nó quyền pháp lý đối với lợi ích tƣơng lai cho ngƣời sở hữu nó. CCCN tồn tại dƣới hình thái vật chất có giá trị không đáng kể (chỉ là một mảnh giấy) nhƣng hàm chứa trong nó các quyền pháp lý cho ngƣời sở hữu nó. CCCN có thể thanh toán, chuyển nhƣợng,
- 8 cầm cố, thế chấp vay vốn và có thể đem đến ngân hàng thƣơng mại để chiết khấu hoặc đem đến Ngân hàng trung ƣơng để tái chiết khấu. 1.1.2.2. CCCN được hình thành từ một giao dịch cơ sở: * Giao dịch hợp đồng thương mại là cơ sở phát hành và lƣu thông thƣơng phiếu. Hợp đồng thƣơng mại quy định quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán. Ngƣời bán có nghĩa vụ giao hàng và có quyền lợi nhận tiền thanh toán từ ngƣời mua, ngƣời mua có nghĩa vụ thanh toán cho ngƣời bán và quyền lợi nhận lại số hàng hoá tƣơng ứng từ ngƣời bán. Song, quyền lợi và nghĩa vụ quy định trong hợp đồng của các bên thƣờng không thể thực hiện song song đồng thời cùng một lúc, do đó phát sinh nhu cầu sử dụng thƣơng phiếu. Đối với hối phiếu, ngƣời bán sẽ tiến hành giao hàng trƣớc và sau đó ký phát hối phiếu yêu cầu ngƣời mua thanh toán một khoản tiền nhất định vào một thời điểm xác định. Ngân hàng sẽ đƣợc ngƣời bán uỷ thác nhờ thu tiền từ ngƣời mua. Ngƣợc lại, đối với kỳ phiếu, ngƣời mua trƣớc khi nhận hàng trƣớc từ ngƣời bán phải ký phát một cam kết trả tiền cho ngƣời bán vào một thời điểm nhất định. * Giao dịch tín dụng ngân hàng là cơ sở phát hành và lƣu thông séc, hối phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc. Giao dịch tín dụng ngân hàng chỉ thực hiện đƣợc khi khách hàng có số dƣ tài khoản mở tại ngân hàng. Chủ tài khoản có thể đƣợc phép phát hành séc trên tài khoản của mình hoặc đƣợc ngân hàng cấp cho một chứng chỉ tiền gửi. Trong trƣờng hợp hối phiếu ngân hàng thì ngân hàng chính là ngƣời phát hành CCCN. Hiện một số nƣớc còn mở rộng phạm vi giao dịch cơ sở phát hành CCCN, nhƣ giao dịch thanh toán hoặc giao dịch tặng cho. CCCN không đƣợc hình thành từ giao dịch cơ sở là “CCCN khống” (accommodation bill). Tuy nhiên, tuỳ theo quy định của mỗi nƣớc mà các CCCN khống này có đƣợc phép sử dụng hay không. Hầu hết luật của các nƣớc chịu ảnh hƣởng của Luật Thống nhất hối phiếu thuộc Công ƣớc Giơnevo (ULB 1930) quy định hối phiếu phải đƣợc hình thành từ một giao dịch cơ sở. Còn với các nƣớc chịu ảnh hƣởng của luật Anh-Mỹ thì quy định một cách tƣơng đối: nếu CCCN cần đƣợc lƣu thông thì đặc điểm này phải đƣợc tôn trọng tuyệt đối, còn nếu CCCN chỉ đƣợc dùng nhƣ một phƣơng tiện đòi tiền thì tính trừu tƣợng không nhất thiết phải đƣợc thể hiện trên bề mặt của CCCN. Theo điều 3-Luật các công cụ chuyển nhƣợng
- 9 năm 2005 của Việt Nam quy định về cơ sở phát hành công cụ chuyển nhƣợng thì việc phát hành “khống” các CCCN là bất hợp pháp. 1.1.2.3. CCCN là trái vụ một bên: CCCN là một chứng chỉ do một bên là ngƣời ký phát (Drawer) yêu cầu ngƣời bị ký phát (Drawee) thực hiện một nghĩa vụ dân sự - trả tiền (đối với hối phiếu) hoặc là một chứng chỉ do một ngƣời phát hành (Issuer) cam kết thực hiện một nghĩa vụ dân sự - trả tiền đối với ngƣời thụ hƣởng (Beneficiary) (đối với kỳ phiếu). Việc thực hiện nghĩa vụ này hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận của ngƣời bị ký phát (đối với hối phiếu) hoặc khả năng thanh toán của ngƣời phát hành (đối với kỳ phiếu). Đối với hối phiếu, ngƣời bị ký phát có thể từ chối thanh toán do phá sản, mất khả năng thanh toán hay rơi vào trƣờng hợp bất khả kháng. Trong trƣờng hợp hối phiếu đƣợc chuyển nhƣợng cho một bên thứ ba (Third party), ngƣời ký phát vẫn phải có trách nhiệm trả tiền hối phiếu này nếu hối phiếu đó bị từ chối thanh toán. Ngƣợc lại với hối phiếu, khả năng thanh toán của kỳ phiếu lại hoàn toàn phụ thuộc vào ngƣời phát hành ra nó. Trong trƣờng hợp hai bên chƣa có quan hệ lâu dài, tin cậy lẫn nhau thì ngƣời bán chỉ nên tiếp nhận kỳ phiếu nếu kỳ phiếu đƣợc sự bảo lãnh của ngân hàng. Ngƣời bán do đó cần kiểm tra khả năng thanh toán thực sự, uy tín trên thƣơng trƣờng và hệ số tín nhiệm của ngƣời mua trƣớc khi chấp nhận kỳ phiếu. 1.1.2.4. Tính “trừu tượng” của CCCN CCCN có tính trừu tƣợng vì xét trên bề mặt, nó chỉ là một yêu cầu đòi tiền (đối với hối phiếu), cam kết trả tiền (đối với kỳ phiếu) hay một lệnh chi một số tiền nhất định từ tài khoản của mình tại ngân hàng (séc) một cách vô điều kiện mà không thể hiện quan hệ thƣơng mại hay quan hệ tín dụng phát sinh ra nó. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh theo CCCN không phụ thuộc vào quan hệ gốc giữa ngƣời phát hành và ngƣời thụ hƣởng, hoặc giữa ngƣời ký phát và ngƣời bị ký phát. Sau khi đƣợc ký phát hành, CCCN trở thành một trái vụ độc lập và tách rời khỏi quan hệ gốc. Trong quá trình chuyển nhƣợng hay thanh toán CCCN, các bên trong quan hệ CCCN (ngƣời phát hành, ngƣời chuyển nhƣợng, ngân hàng chấp nhận, bảo lãnh, chiết khấu ) không quan tâm tới giao dịch cơ sở phát sinh ra CCCN mà chỉ quan tâm đến việc CCCN phát hành, chuyển nhƣợng, ký chấp nhận, bảo
- 10 lãnh có đúng quy định của pháp luật hay không. Bản thân CCCN đã có đủ cơ sở pháp lý để tham gia thanh toán, chuyển nhƣợng mà không cần phải kèm theo bất cứ hợp đồng mua bán, cung ứng dịch vụ nào. Nhờ vào đặc điểm này mà CCCN có đƣợc tính lƣu thông dễ dàng thông qua khả năng chuyển nhƣợng theo cách chuyển giao đơn thuần hoặc ký hậu từ ngƣời này sang ngƣời khác hoặc thanh toán khi có yêu cầu. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây chính là trở ngại trong việc phân biệt giữa CCCN đƣợc phát hành trên cơ sở giao dịch gốc một cách hợp pháp và CCCN khống, do đó đòi hỏi sự quy định chặt chẽ trong quy định pháp luật và những nghiên cứu kỹ lƣỡng về mặt cơ chế nghiệp vụ nhằm hạn chế việc phát hành CCCN khống không xuất phát từ các giao dịch cơ sở. 1.1.2.5. CCCN là một loại “hàng hoá” đặc biệt CCCN từ khi ra đời cho đến nay đã phát huy tốt các chức năng và đƣợc sử dụng ngày một phổ biến trong thƣơng mại quốc tế và thƣơng mại nội địa. CCCN đƣợc đem ra trao đổi, chuyển nhƣợng, cầm cố, thế chấp, chiết khấu, do đó trở thành một hàng hoá thực sự, nhƣng là một loại hàng hoá đặc biệt. Giống nhƣ các loại hàng hoá khác, CCCN cũng có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng của CCCN thể hiện ở những quyền pháp lý đối với lợi ích tƣơng lai mà ngƣời hƣởng lợi CCCN có đƣợc. Ngƣời thụ hƣởng có quyền hƣởng số tiền ghi trên CCCN, sử dụng CCCN làm phƣơng tiện thanh toán, đem thế chấp, cầm cố, chiết khấu ở ngân hàng Giá trị sử dụng của CCCN có từ khi nó đƣợc phát hành cho đến khi hết hạn hiệu lực. Giá trị trao đổi của CCCN thể hiện ở chỗ ngƣời thụ hƣởng nó có thể chuyển nhƣợng các quyền pháp lý với lợi ích tƣơng lai có đƣợc từ CCCN cho một ngƣời khác. Để quay vòng vốn trong kinh doanh, ngƣời thụ hƣởng CCCN thƣờng nhƣợng lại các quyền và lợi ích cho ngân hàng trƣớc khi các CCCN đến hạn thanh toán với một giá nhất định theo thoả thuận (thấp hơn số tiền ghi trên CCCN). Do các quyền lợi này là vô hình nên CCCN đƣợc coi là một loại hàng hoá đặc biệt.
- 11 1.2. CÁC LOẠI CCCN 1.2.1. Hối phiếu: Hối phiếu từ lâu đã đƣợc biết đến nhƣ một phƣơng tiện tín dụng và thanh toán trong quan hệ thƣơng mại. Định nghĩa đầy đủ nhất về hối phiếu đƣợc quy định trong Điều 3 Luật hối phiếu của Anh năm 1882: “Hối phiếu là một mệnh lệnh vô điều kiện của một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu. Hối phiếu phải là một mệnh lệnh thanh toán bằng văn bản”[23] Các bên liên quan đến việc phát hành và thanh toán hối phiếu gồm: Ngƣời ký phát hối phiếu (drawer): thông thƣờng là ngƣời bán, ngƣời cung ứng dịch vụ, đại diện tổ chức xuất khẩu. Ngƣời trả tiền hối phiếu (drawee): là ngƣời mà hối phiếu gởi đến cho họ, đòi tiền họ, có thể là ngƣời mua, ngân hàng mở L/C, ngân hàng thanh toán Ngƣời hƣởng lợi hối phiếu: trƣớc hết là ngƣời ký phát, kế đến là ngƣời do ngƣời ký phát hối phiếu chỉ định trên hối phiếu. Hối phiếu có một số đặc điểm cơ bản sau: Tính trừu tượng của hối phiếu: Ở trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ kinh tế, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả là bao nhiêu và trả cho ai, ngƣời nào sẽ thanh toán, thời gian thanh toán khi nào. Ngƣời sở hữu hối phiếu không cần biết khoản nợ đó xuất phát từ cơ sở nào. Tính bắt buộc trả tiền vô điều kiện của hối phiếu: Ngƣời trả tiền của hối phiếu phải trả tiền đầy đủ đúng theo yêu cầu của tờ hối phiếu. Ngƣời trả tiền không đƣợc viện lý do riêng của bản thân đối với ngƣời ký phát hối phiếu để từ chối việc thanh toán, trừ trƣờng hợp hối phiếu đƣợc lập ra trái với đạo luật chi phối nó. Tính lưu thông của hối phiếu: Hối phiếu đƣợc coi là một khế ƣớc dân sự, do vậy nó có thể đƣợc lƣu thông từ ngƣời này sang ngƣời khác trong thời hạn của nó.
- 12 Hối phiếu đƣợc sử dụng phổ biến trong tín dụng và thanh toán thƣơng mại là vì nó đồng thời có một số chức năng quan trọng nhƣ: Là công cụ tín dụng: Hối phiếu là công cụ tín dụng giữa: (1) ngƣời ký phát hối phiếu và ngƣời bị ký phát; (2) ngƣời sở hữu và ngƣời ký phát hối phiếu; (3) một ngân hàng với ngƣời có hối phiếu hoặc ngƣời phát hành hối phiếu thông qua hành vi chiết khấu hối phiếu Là phƣơng tiện đảm bảo an toàn: Hối phiếu là một công cụ đảm bảo trong quan hệ tín dụng. Vì là một lệnh yêu cầu trả tiền vô điều kiện, ngƣời chủ nợ luôn luôn có quyền đòi thanh toán hối phiếu mà họ sở hữu trong thời hạn của hối phiếu. Là phƣơng tiện đầu tƣ vốn: Trong nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu, tất cả các ngân hàng đều có thể đầu tƣ vào hối phiếu bằng cách mua bán lại hối phiếu từ ngƣời bán hoặc từ các ngân hàng khác. Là công cụ thanh toán: Khi hối phiếu đƣợc thanh toán thì món nợ gốc ghi trên hối phiếu đƣợc coi là đã thanh toán. Hối phiếu gồm nhiều loại khác nhau, căn cứ vào các tiêu thức phân loại khác nhau: * Căn cứ vào thời hạn trả tiền: Hối phiếu đƣợc chia làm 2 loại - Hối phiếu trả tiền ngay (At sight Draft): là loại hối phiếu mà khi nhìn thấy hối phiếu ngƣời trả tiền phải trả ngay số tiền ghi trên hối phiếu cho ngƣời thụ hƣởng. - Hối phiếu trả chậm (Usance Draft): là loại hối phiếu mà việc trả tiền đƣợc thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định. Việc quy định thời hạn thanh toán của hối phiếu trả chậm có thể theo cách: trả sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhìn thấy hối phiếu, hoặc kể từ ngày ký phát hối phiếu, hoặc kể từ ngày lập vận đơn đƣờng biển, ngày giao hàng. Hối phiếu trả chậm đƣợc sử dụng phổ biến trong thanh toán bằng hình thức tín dụng thƣ trả chậm. * Căn cứ vào chủ thể ký phát: Hối phiếu có 2 loại - Hối phiếu thƣơng mại (Commercial Bill of Exchange): là loại hối phiếu do ngƣời bán hàng, ngƣời cung ứng dịch vụ (Drawer) ký phát lệnh đòi tiền ngƣời mua (Drawee). Đây là loại hối phiếu đƣợc sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong thanh toán quốc gia và quốc tế.
- 13 - Hối phiếu ngân hàng (Bank’s Bill of Exchange): Ngân hàng (Drawer) ký phát hối phiếu ra lệnh cho ngân hàng đại lý của mình (Drawee) trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình cho ngƣời hƣởng lợi (Beneficiary). Loại hối phiếu này ít đƣợc sử dụng và do đó cũng không đƣợc luật các quốc gia điều chỉnh trực tiếp. Luật các CCCN Việt nam cũng chƣa đƣa hối phiếu ngân hàng vào phạm vi điều chỉnh. * Căn cứ vào chứng từ kèm theo: Hối phiếu đƣợc chia thành 2 loại - Hối phiếu trơn (Clean Draft): là loại hối phiếu mà việc trả tiền không kèm theo điều kiện nào đó liên quan đến việc trao chứng từ hàng hoá, loại hối phiếu này thƣờng đƣợc sử dụng trong phƣơng thức thanh toán nhờ thu trơn hoặc phƣơng thức bảo lãnh theo yêu cầu. - Hối phiếu kèm chứng từ (Documentary Draft): là loại hối phiếu mà việc trả tiền có kèm theo điều kiện về chứng từ kèm theo, nều ngƣời trả tiền đồng ý trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng của ngƣời mở tài khoản sẽ giao bộ chứng từ nhận hàng cho họ. Loại hối phiếu này thƣờng đƣợc sử dụng trong phƣơng thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ và phƣơng thức tín dụng chứng từ. * Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: Hối phiếu gồm 3 loại - Hối phiếu đích danh (Nominal Draft): là loại hối phiếu có ghi rõ tên ngƣời hƣởng lợi và chỉ ngƣời đó mà thôi và không kèm theo từ “theo lệnh”. Hối phiếu này không chuyển nhƣợng đƣợc bằng thủ tục ký hậu. - Hối phiếu vô danh (Nameless Draft): là loại hối phiếu không ghi tên ngƣời thụ hƣởng hoặc ghi trả theo lệnh của ngƣời nào đó. Đối với loại hối phiếu này, việc chuyển nhƣợng đƣợc thực hiện bằng cách trao tay thông thƣờng, ngƣời giữ hối phiếu chính là ngƣời thụ hƣởng. Vì thế, loại này ít đƣợc sử dụng trong thanh toán quốc tế do mức độ rủi ro cao nhất. - Hối phiếu theo lệnh (Order Draft): là hối phiếu ghi trả theo lệnh của ngƣời nào đó. Ngƣời thụ hƣởng hoặc ngƣời trả theo lệnh của ngƣời thụ hƣởng sẽ đƣợc hƣởng lợi hối phiếu. Hối phiếu này đƣợc chuyển nhƣợng dễ dàng bằng thủ tục ký hậu nên đƣợc sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. Mỗi loại hối phiếu lại đƣợc lƣu thông theo quy trình lưu thông riêng phù hợp với đặc điểm, mục đích của nó:
- 14 - Lưu thông hối phiếu trả tiền ngay: Hối phiếu đƣợc thanh toán ngay khi xuất trình hoặc ngày kế tiếp kể từ ngày nhìn thấy hối phiếu (không quá 7 ngày đối với thanh toán bằng phƣơng thức tín dụng chứng từ). Quy trình lƣu thông hối phiếu trả tiền ngay qua ngân hàng nhƣ sau: NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG NGƢỜI BÁN NGƢÒI MUA Giao hàng NGƢỜI BÁN NGƢÒI MUA Ký phát hối phiếu và uỷ thác cho ngân hàng thu tiền hối phiếu từ ngƣời mua Ngƣời mua chuyển tiền trả ngƣời bán thông qua ngân hàng Hình 1.1: Quy trình lưu thông hối phiếu trả tiền ngay - Lƣu thông hối phiếu trả chậm: Việc trả tiền hối phiếu sẽ đƣợc tiến hành một số ngày nhất định kể từ ngày nhận đƣợc hối phiếu đƣợc xuất trình hoặc kể từ ngày do các bên thoả thuận. Quy trình lƣu thông hối phiếu gồm hai giai đoạn: + Hối phiếu đƣợc xuất trình, ngƣời mua chấp nhận thanh toán và hoàn trả hối phiếu đã đƣợc chấp nhận cho ngƣời bán: NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG NGƢỜI BÁN NGƢÒI MUA Giao hàng NGƢỜI BÁN NGƢÒI MUA Yêu cầu ngƣời mua ký chấp nhận thanh toán Hoàn trả hối phiếu đã chấp nhận cho ngƣời bán Hình 1.2: Quy trình lưu thông hối phiếu trả chậm + Đến khi hối phiếu đáo hạn, ngân hàng sẽ thu tiền hối phiếu. Với chức năng là công cụ thanh toán hữu hiệu thúc đẩy thƣơng mại quốc tế và thƣơng mại trong nƣớc phát triển, hối phiếu ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong thanh toán quốc tế. Ra đời sớm hơn, tuy không có vai trò xứng đáng nhƣ hối phiếu, nhƣng kỳ phiếu, một công cụ chuyển nhƣợng quan trọng khác cũng đƣợc sử dụng khá phổ biến.
- 15 1.2.2. Kỳ phiếu (Promissory Note) Kỳ phiếu là một chứng chỉ tài chính, trong đó, ngƣời ký phát cam kết trả một số tiền nhất định vào một ngày nhất định cho một ngƣời thụ hƣởng nhất định có ghi trên kỳ phiếu, hoặc cho một ngƣời nào khác, hoặc theo lệnh của ngƣời thụ hƣởng. Luật các CCCN Việt Nam năm 2005 coi kỳ phiếu là hối phiếu nhận nợ và định nghĩa hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do ngƣời phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tƣơng lai cho ngƣời thụ hƣởng. Đối với kỳ phiếu, ngƣời ký phát (drawer) đồng thời là ngƣời chấp nhận kỳ phiếu, với tƣ cách là ngƣời mắc nợ, do vậy không có nghiệp vụ chấp nhận (acceptance) nhƣ đối với hối phiếu. Kỳ phiếu thƣờng phải có một ngƣời thứ ba đứng ra bảo lãnh thanh toán, có thể là ngân hàng hoặc các trung gian tài chính, nhằm nâng cao tính chuyển nhƣợng của kỳ phiếu. Nhƣ vậy, hối phiếu chỉ do một ngƣời ký phát để đòi tiền một hay nhiều ngƣời, trong khi kỳ phiếu có thể do một hay nhiều ngƣời ký phát nhằm cam kết trả tiền cho một hay nhiều ngƣời, nên quyền lợi của ngƣời thụ hƣởng theo hối phiếu đƣợc đảm bảo hơn ngƣời thụ hƣởng theo kỳ phiếu. Khác với hối phiếu, việc chấp nhận trả tiền trên bề mặt kỳ phiếu là không bắt buộc và kỳ phiếu chỉ có một bản gốc. Nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ kỳ phiếu là nghĩa vụ duy nhất, cơ bản và tuyệt đối của ngƣời phát hành, còn trong quan hệ hối phiếu thì nghĩa vụ này đƣợc chia sẻ cho ngƣời phát hành, ngƣời chấp nhận và ngƣời chuyển nhƣợng (nếu có) trong trƣờng hợp hối phiếu bị từ chối thanh toán. Ngƣời mua ký phát kỳ phiếu để cam kết trả tiền cho ngƣời bán thông qua ngân hàng bảo lãnh của mình. Sau khi đƣợc bảo lãnh, kỳ phiếu sẽ đƣợc chuyển cho ngƣời bán. Ngƣời bán sau khi kiểm tra, nếu đồng ý thì giao hàng cho ngƣời mua. Sau đó, ngƣời bán nhờ ngân hàng đứng ra thu tiền từ ngƣời mua theo kỳ phiếu đó. Quy trình lƣu thông một kỳ phiếu không cần chấp nhận nhƣ sau:
- 16 NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG NGƢỜI BÁN NGƢÒI MUA Giao hàng NGƢỜI BÁN NGƢÒI MUA Ký phát kỳ phiếu, nhờ Ngân hàng bảo lãnh và giao hàng cho ngƣời bán Nhờ thu kỳ phiếu thông qua Ngân hàng Chuyển trả tiền Hình 1.3: Quy trình lưu thông kỳ phiếu 1.2.3. Séc (Cheque) Séc là phƣơng tiện thanh toán quen thuộc và phổ biến ở phần lớn các nƣớc trên thế giới. Theo Công ƣớc Giơnevơ 1930, séc đƣợc đinh nghĩa là “ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người chủ tài khoản mở tại ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng (nơi mở tài khoản) trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình mở ở ngân hàng này trả cho người cầm séc hoặc cho người được chỉ định trên tờ séc” Theo Luật các CCCN Việt Nam 2005 thì “Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng”[14] Nhƣ vậy, một cách khái quát, séc là một lệnh vô điều kiện của ngƣời chủ tài khoản mở tại ngân hàng yêu cầu ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho ngƣời hƣởng lợi séc hoặc cho ngƣời cầm séc. Séc đƣợc sử dụng thay tiền tề làm chức năng thanh toán và lƣu thông. Điều kiện để phát hành séc bao gồm các quy định sau: - Cá nhân hoặc tổ chức muốn phát hành séc phải có tài khoản vãng lai mở tại ngân hàng. - Trên tài khoản phải có đủ số dƣ có hoặc đƣợc cấp một khoản tín dụng. - Có quyền sử dụng quyển sổ séc thông qua một hợp đồng séc - Các điều kiện đặc biệt trong việc sử dụng phƣơng thức thanh toán Giống nhƣ các loại CCCN khác, luật các nƣớc nhìn chung thống nhất với nhau trong việc quy định các nội dung cơ bản của séc, bao gồm: - Tiêu đề séc
- 17 - Số tiền trên séc phải là số tiền xác định - Địa điểm thanh toán - Ngày ký phát - Thời hạn thanh toán séc phải là trả tiền ngay, thời hạn hiệu lực của séc phải đƣợc xác định rõ, do luật các nƣớc khác nhau có những quy định khác nhau về thời hạn thanh toán của séc. Ví dụ, Công ƣớc Giơnevơ 1930 quy định thời hạn này với séc nội địa là 8 ngày, séc lƣu thông ngoài quốc gia cùng châu lục là 20 ngày, và khác châu lục là 70 ngày. Luật các CCCN Việt Nam 2005 quy định tại điều 69 về thời hạn xuất trình yêu cầu thanh toán séc là 30 ngày kể từ ngày ký phát. Luật các CCCN Việt nam còn quy định chi tiết và cụ thể hơn so với Luật các quốc gia khác bằng việc đƣa thêm một số nội dung bắt buộc khác của séc nhƣ: - Tên của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ là ngƣời bị ký phát. - Tên đối với tổ chức, cá nhân là ngƣời thụ hƣởng đƣợc ngƣời ký phát chỉ định hoặc yêu cầu thanh toán séc theo lệnh của ngƣời thụ hƣởng hoặc bên yêu cầu thanh toán séc cho ngƣời cầm giữ. - Tên, điạ chỉ của tổ chức, cá nhân là ngƣời ký phát. Dựa vào một số tiêu chí phân loại nhất định, séc có thể đƣợc chia làm nhiều loại khác nhau: * Căn cứ vào chủ thể phát hành séc: Séc có 3 loại - Séc doanh nghiệp (Private Cheque): là loại séc do các doanh nghiệp, thƣơng nhân, tổ chức kinh tế, chính trị xã hội có tài khoản mở tại ngân hàng phát hành ra lệnh cho ngân hàng trích tiền từ tài khoản của mình để trả cho ngƣời hƣởng lợi séc. Séc doanh nghiệp có đặc điểm: Ngƣời phát hành séc là các doanh nghiệp, thƣơng nhân hay các tổ chức kinh tế-xã hội, không phải là ngân hàng hay các tổ chức tài chính. Ngân hàng nắm giữ tài khoản Số tiền ghi trên séc đƣợc căn cứ theo hoá đơn thƣơng mại Thời hạn hiệu lực của séc là theo luật định Ngƣời hƣởng lợi là do ngƣời phát hành séc chỉ định - Séc ngân hàng (Bank cheque): là loại séc do ngân hàng phát hành ra lệnh cho ngân hàng khác trích từ tài khoản của mình mở tại ngân hàng đó một số tiền nhất định để trả cho ngƣời hƣởng lợi séc.
- 18 Ngƣời phát hành séc là ngân hàng Ngân hàng nắm giữ tài khoản Ngƣời mua séc là ngƣời nhập khẩu hay ngƣời trả tiền Số tiền ghi trên séc là số tiền theo hóa đơn, mệnh giá chuẩn Thời hạn hiệu lực do luật quốc gia điều chỉnh Ngƣời hƣởng lợi là do ngƣời mua séc chỉ định * Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: - Séc vô danh: loại séc này không ghi tên ngƣời thụ hƣởng, chỉ cần ghi “trả cho ngƣời cầm séc”, nghĩa là ai cầm séc thì chính ngƣời đó là ngƣời thụ hƣởng. Séc vô danh khi chuyển nhƣợng chỉ bằng cách trao tay, không cần thủ tục ký hậu. Loại séc này có khả năng lƣu thông cao nhƣng độ rủi ro lớn nên không đƣợc sử dụng phổ biến. - Séc theo lệnh: là loại séc có ghi mệnh đề trả theo lệnh cho ngƣời thụ hƣởng. Séc đƣợc chuyển nhƣợng bằng thủ tục ký hậu (có thể là ký hậu theo lệnh hoặc ký hậu đích danh. - Séc đích danh: là loại séc mà chỉ có ngƣời có tên trên séc mới có thể lĩnh tiền từ ngân hàng tiếp nhận séc. Séc này không chuyển nhƣợng đƣợc bằng thủ tục ký hậu do đó khả năng lƣu thông cũng kém hơn. * Căn cứ vào cách thanh toán: - Séc tiền mặt: là loại séc mà ngân hàng thanh toán sẽ trả tiền mặt và ngƣời phát hành séc phải chịu rủi ro khi bị mất séc hoặc bị đánh cắp. Ngƣời cầm séc không cần đƣợc uỷ quyền cũng lĩnh đƣợc tiền. - Séc chuyển khoản: ngân hàng thanh toán sẽ trả tiền bằng cách ghi có vào tài khoản của ngƣời thụ hƣởng một số tiền bằng số tiền ghi trên séc. Ngƣời phát hành séc hoặc chủ sở hữu tờ séc sẽ ghi vào mặt trƣớc tờ séc “séc chỉ thanh toán chuyển khoản” để chỉ thị cho ngân hàng biết hình thức thanh toán. 1.2.4. Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc (Negotiable Certificate of Deposit - NCD) Chứng chỉ tiền gửi là một hình thức gửi tiết kiệm trong một khoảng thời gian nhất định với lãi suất cao hơn lãi suất của hình thức tiền gửi thông thƣờng. Do nhu
- 19 cầu nâng cao tính lƣu thông mà chứng chỉ tiền gửi ở nhiều nƣớc đƣợc phát hành dƣới hình thức có thể chuyển nhƣợng đƣợc. Luật Thƣơng mại Hoa Kỳ 1995 định nghĩa: “Chứng chỉ tiền gửi là hình thức gửi tiền mặt vào một tổ chức có chức năng nhận tiền gửi với lãi suất và ngày đáo hạn cố định”[25]. Căn cứ vào lãi suất, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc chia làm hai loại: Chứng chỉ tiền gửi truyền thống (Traditional CD) và chứng chỉ tiền gửi theo chỉ số thị trƣờng (Market Index CD). Chứng chỉ tiền gửi truyền thống là loại chứng chỉ tiền gửi có lãi suất và ngày đáo hạn cố định, còn chứng chỉ tiền gửi theo chỉ số thị trƣờng có mức lãi suất dao động và ngày đáo hạn cố định. Kể từ đầu những năm 1960, Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc với mệnh giá lớn (khoảng 100,000USD) đã đƣợc một số ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên thế giới sử dụng nhƣ là nguồn tài trợ thƣong mại và phƣơng tiện quản lý các khoản nợ của mình. Các NCD có giá trị lớn trở thành một bộ phận đầu tƣ gián tiếp quan trọng của các nhà đầu tƣ. Đến cuối năm 1992, tổng giá trị các NCD tại các ngân hàng lớn đã lên tới 114 tỉ USD. Do đƣợc phát hành dƣới hình thức chuyển nhƣợng đƣợc nên ngƣời sở hữu NCD có thể bán NCD ra thị trƣờng thứ cấp trƣớc ngày đáo hạn với giá trị trƣờng (thấp hoặc cao hơn mệnh giá ghi trên NCD). Đối với NCD theo chỉ số thị trƣờng, lãi suất sẽ phụ thuộc vào sự thay đổi của các chỉ số chứng khoán nên biên độ dao động sẽ mạnh hơn, độ rủi ro lớn hơn, nhƣng tính thanh khoản cao hơn. Việc chuyển nhƣợng loại NCD này đòi hỏi sự tính toán phức tạp hơn. Chứng chỉ tiền gửi chƣa đƣợc đƣa vào phạm vi điều chỉnh của Luật Các công cụ chuyển nhƣợng 2005 của Việt nam. Đó là do: - Chứng chỉ tiền gửi là một loại hối phiếu nhận nợ, nhƣng các chứng chỉ tiền gửi hiện có của các ngân hàng thƣơng mại Việt nam chƣa đáp ứng đúng với thông lệ quốc tế, hơn nữa lại chỉ đƣợc phát hành dƣới dạng chứng chỉ tiền gửi đích danh không chuyển nhƣợng đƣợc. Muốn đƣa chứng chỉ tiền gửi vào trong phạm vi điều chỉnh của Luật Các công cụ chuyển nhƣợng của ta thì hệ thống các ngân hàng cần phải nâng cấp lại hình thức, cơ chế hoạt động liên quan tới việc sử dụng chứng chỉ tiền gửi cho phù hợp, mà vấn đề này đòi hỏi thời gian và sự đầu tƣ.
- 20 - Luật Các CCCN Việt nam 2005 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2006 điều chỉnh một lĩnh vực tƣơng đối mới mẻ, nên trƣớc mắt chỉ nên điều chỉnh một số công cụ phổ biến nhất. Căn cứ vào tình hình và nhu cầu phát triển sau này, phạm vi điều chỉnh của Luật có thể đƣợc mở rộng, bổ sung thêm các CCCN khác cho phù hợp. 1.3. LUẬT ĐIỀU CHỈNH CCCN 1.3.1. Luật quốc tế Xuất phát từ vai trò kinh tế quan trọng của các CCCN, các nƣớc đã chú trọng xây dựng một cách có hệ thống và tƣơng đối cụ thể các quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các CCCN. Không chỉ dừng lại ở hệ thống pháp luật trong nƣớc, trên phƣơng diện quốc tế, pháp luật thƣơng mại quốc tế cũng đòi hỏi phải có sự thống nhất về luật pháp liên quan đến CCCN, trong chừng mực có thể đƣợc, để bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, của thƣơng nhân cũng nhƣ để đảm bảo một cách hữu hiệu sự tồn tại và hoạt động của CCCN. Từ đầu thế kỷ 20, do sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thƣơng mại quốc tế, đã thúc đẩy các nƣớc đi tới việc thành lập một thoả ƣớc quốc tế về hối phiếu nhằm thống nhất những nguyên tắc cơ bản về hối phiếu trong thƣơng mại quốc tế. Năm 1912, Hội nghị quốc tế đầu tiên về hối phiếu đã đƣợc tổ chức tại Den Haag, không có sự tham gia của Mỹ và Anh, nhằm kiến nghị ký kết một hiệp định hối phiếu và thi hành luật này ở các nƣớc thành viên. Hội nghị đã đƣa ra tuyên bố về hƣớng dẫn các quy định của hối phiếu trong các nƣớc thành viên. Song, các nƣớc đã không thể đi tới ký kết hiệp định do chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra. Năm 1931, Công ước Giơnevơ về séc đƣợc ký kết giữa 10 nƣớc thành viên sáng lập gồm: Đức, Thuỵ Sĩ, Pháp, Áo, Italia, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Hà Lan, Nauy, Thuỵ Điển. Đến nay, số nƣớc tham gia Công ƣớc Giơnevơ về séc bao gồm phần lớn các nƣớc trên thế giới trừ Mỹ và Anh. Do sự thừa nhận quyền bảo lƣu của các nƣớc thành viên của công ƣớc, luật séc mang tính quốc tế này không hoàn toàn đồng nhất với các điều khoản theo luật quốc tế tại một số nƣớc thành viên của công ƣớc. Năm 1933, Hội nghị quốc tế thứ hai về hối phiếu đã đƣợc tổ chức với sự tham gia của 22 nƣớc. Hội nghị đã đƣa ra tuyên bố về Sự thống nhất về luật hối phiếu (Uniform Law for Bill of exchange – ULB) và tuyên bố về các quy định thuộc phạm vi tƣ pháp quốc tế về hối phiếu. Các tuyên bố này đến nay vẫn còn giá
- 21 trị hiệu lực. Năm 1982, Uỷ ban thƣơng mại quốc tế của Liên Hợp quốc (UNCITRAL) đã ban hành Luật điều chỉnh về hối phiếu quốc tế số A/CN 9/12 và Luật điều chỉnh Séc quốc tế số A/CN 9/12. Song, do chƣa đủ số nƣớc phê chuẩn nên hai luật này vẫn chƣa có hiệu lực. 1.3.2. Luật quốc gia Trên phạm vi quốc gia, nhiều nƣớc xuất phát từ nhu cầu thực tế cần có các luật, quy định điều chỉnh việc phát hành và sử dụng các CCCN mà đã xây dựng những luật điều chỉnh CCCN riêng, hoặc thông qua các luật có liên quan nhƣ Luật thƣơng mại. Ra đời sớm nhất vào thế kỷ XVII, Đức là quốc gia đầu tiên ban hành Pháp lệnh Hamburg (1603) điều chỉnh CCCN là hối phiếu, sau này đƣợc bổ sung, sửa đổi thành Luật hối phiếu vào năm 1871. Ở Anh từ năm 1882 đã ban hành Luật Hối phiếu (Bill of Exchange Act – BEA) và đƣợc áp dụng từ đó đến nay. Đây đƣợc coi là luật hối phiếu thành văn sớm nhất và đầy đủ nhất điều chỉnh về hối phiếu. Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ bản sửa đổi năm 1995, có 3 chƣơng điều chỉnh CCCN bao gồm 6 phần riêng: (1) Các quy định chung và định nghĩa, có 18 điều khoản; (2) Quy định về các vấn đề chuyển nhƣợng, chuyển giao và ký hậu; (3) Quy định về việc thực hiện CCCN; (4) Quy định về trách nhiệm của các bên; (5) Quy định về từ chối CCCN; (6) Quy định về miễn trừ và thanh toán CCCN. Ở Trung Quốc, phiên họp thứ 13-kỳ họp thứ 8 của Ủy ban thƣờng vụ Đại hội đại biểu Nhân dân Trung Hoa đã thông qua Luật các CCCN, có hiệu lực từ ngày 01/01/1996. Luật các CCCN của Trung quốc gồm 7 chƣơng, 111 điều, điều chỉnh các hoạt động liên quan đến CCCN nhằm đáp ứng yêu cầu pháp điển hoá các thông lệ liên quan tới CCCN.[24] Ở Việt Nam, CCCN tuy chƣa thực sự phát triển và đƣợc sử dụng rộng song cũng đã đƣợc điều chỉnh và quy định trong hệ thống Luật Việt nam. Trong thời kỳ áp dụng cơ chế tập trung, bao cấp, Nhà nƣớc can thiệp sâu trong hoạt động kinh tế, các tổ chức kinh tế, công dân chƣa đƣợc tự do kinh doanh; pháp luật kinh doanh nói chung cũng nhƣ pháp luật thƣơng mại chƣa đƣợc chú trọng. Điều này chỉ thực
- 22 sự đƣợc đổi mới và phát triển từ khi Đảng và Nhà nƣớc chuyển hƣớng phát triển nền kinh tế nƣớc ta theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong hoàn cảnh đó, thƣơng phiếu và pháp luật thƣơng phiếu chỉ đƣợc đề cập trong những năm gần đây. Các quy định liên quan tới thƣơng phiếu bắt đầu xuất hiện rải rác trong Luật Thƣơng mại năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt nam năm 1997, Luật các tổ chức tín dụng năm 1998. Sau này, các quy định đƣợc tổng hợp trong Pháp lệnh Thƣơng phiếu năm 1999 và Nghị định số 32/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/7/2001 hƣớng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh thƣơng phiếu. Tuy nhiên những văn bản pháp luật này vẫn chƣa thực sự tạo một môi trƣờng pháp lý thuận tiên cho thƣơng phiếu hoạt động. Xuất phát từ nhu cầu phát triển của các hoạt động kinh tế liên quan đến các CCCN, Luật Các công cụ chuyển nhƣợng đã đƣợc Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2006. Luật các CCCN Việt Nam năm 2005, là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh việc phát hành và sử dụng các CCCN của Việt nam. Luật này thay thế Pháp lệnh thƣơng phiếu năm 1999 và các văn bản quy phạm pháp luật khác về thƣơng phiếu và séc trên cơ sở kế thừa những nội dung cũ và đồng thời có những quy định mới cho phù hợp với thực tiễn thƣơng mại trong nƣớc và quốc tế. Nhìn chung trên thế giới, tồn tại song song hai hệ thống luật chính điều chỉnh về CCCN nói chung: Geneva Legal System và Anglo-American Legal System. Geneval Legal System là hệ thống luật chịu ảnh hƣởng của Công ƣớc Giơnevơ 1930 (điều chỉnh hối phiếu, kỳ phiếu) và Công ƣớc Giơnevơ 1931 (điều chỉnh Séc) bao gồm các nƣớc vốn là thành viên của Công ƣớc, các nƣớc XHCN Đông Âu trƣớc đây nhƣ: Ba Lan, Hungary, Albani, Bulgari, Rumani và các nƣớc thuộc địa trƣớc đây của các nƣớc thành viên Công ƣớc nhƣ: Indonesia, Đài Loan, Hàn Quốc, Oman, Thái Lan, Mông Cổ, Việt Nam. Hệ thống Anglo-American Legal System là hệ thống luật điều chỉnh về CCCN chịu ảnh hƣởng của luật Anh-Mỹ bao gồm luật của Anh, Mỹ và các nƣớc thuộc địa của hai nƣớc này trƣớc đây nhƣ Hồng Kông, Ấn Độ, Singapore, Phillipines, Srilanka, Pakistan, Scotland, Ireland Hai hệ thống luật này ngoài một số điểm khác biệt riêng thì nhìn chung là tƣơng tự nhau. 1.4. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CCCN.
- 23 1.4.1. Tín dụng thƣơng mại Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, hoạt động trao đổi thƣơng mại ngày càng đƣợc mở rộng, kéo theo nhu cầu vốn rất lớn nhằm đáp ứng quy mô và giá trị ngày càng tăng của giao lƣu thƣơng mại. Để thoả mãn nhu cầu về vốn kinh doanh của mình, các thƣơng nhân vì không thể tự mình có đủ số vốn cần thiết nên có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau nhƣ vay vốn ngân hàng, vay từ các doanh nghiệp, cá nhân khác Quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá luôn tồn tại một mâu thuẫn vốn có là trong khi có một số chủ thể kinh tế thừa vốn (dƣới dạng hàng hoá hoặc tiền tệ) thì một số chủ thể kinh tế khác lại thiếu vốn, có nhu cầu về vốn. Trên thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất-kinh doanh giữa các doanh nghiệp, việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tƣợng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu đƣợc thực hiện trong một thời gian nhất định thì cả hai đều có lợi. Khi đó, tín dụng thƣơng mại ra đời nhƣ là đòi hỏi tất yếu cho sự phát triển của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Thực tế cho thấy, các thƣơng nhân thƣờng dựa trên lòng tin và sự tín nhiệm để bán hàng và cung ứng dịch vụ trả chậm cho ngƣời mua. Đây là hình thức tín dụng trực tiếp trong quan hệ thƣơng mại giữa các thƣơng nhân. Các công cụ tín dụng từ đó ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của tín dụng thƣơng mại. Để đảm bảo ngƣời mua chịu trả nợ khi đến hạn, bên cạnh sự tin tƣởng, ngƣời bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng chỉ pháp lý, đó chính là giấy tờ chứng nhận quan hệ mua bán chịu, giấy chứng nhận này có thể là chủ nợ lập để đòi tiền hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền (chính là hình thức của hối phiếu và kỳ phiếu). Vì vậy, CCCN đƣợc hình thành trên cơ sở đáp ứng nhu cầu mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Hay nói cách khác, cơ sở kinh tế ban đầu của CCCN chính là tín dụng thƣơng mại. Sự ra đời và phát triển của tín dụng thƣơng mại tạo nền tảng cho sự hình thành và phát triển CCCN trong hoạt động kinh tế. Trong giai đoạn sơ khai, hình thức biểu hiện của các công cụ tín dụng là các văn bản nhận nợ và cam kết trả nợ của các bên trong hợp đồng mua bán. Đây là hình thức manh nha của thƣơng phiếu. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng
- 24 hoá, quan hệ mua bán chịu giữa các thƣơng nhân trở nên phức tạp, đòi hỏi phải cho ra đời một công cụ tín dụng thay cho tiền tệ thực hiện chức năng lƣu thông để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ mua bán chịu, đó là thƣơng phiếu. Đến thế kỷ XII, các thƣơng gia thành phố cảng nƣớc Italia là những ngƣời đầu tiên phát hành và sử dụng thƣơng phiếu, nhƣng mới chỉ là hối phiếu nhận nợ. Theo hình thức hối phiếu nhận nợ này, ngƣời ký phát (ngƣời lập văn bản) cam kết sẽ thanh toán cho ngƣời thụ hƣởng số tiền tƣơng ứng (có trừ một phần phí dịch vụ) tại nơi khác, thƣờng bằng đồng nội tệ của nơi thanh toán. Đây là hình thức hối phiếu nhận nợ đầu tiên đƣợc phát hành trên cơ sở giao dịch uỷ thác thanh toán hoặc chuyển tiền. Đến thế kỷ XIV-XV, trong quan hệ thƣơng mại, các thƣơng nhân duy trì việc sử dụng hối phiếu đòi nợ, nhƣng chƣa có hình thức ký chấp nhận của ngƣời bị ký phát. Tại miền Nam nƣớc Pháp, các thƣơng gia đổi tiền đã thực hiện việc thanh toán bù trừ giữa các khoản vay và cho nhau trên cơ sở thƣơng phiếu. Thế kỷ XVI, những ngƣời thành Florenz và thành Genua thuộc nƣớc Italia đã tạo ra cách ký nhƣợng thƣơng phiếu và từ đó thƣơng phiếu đƣợc sử dụng nhƣ một chứng phiếu lƣu thông tín dụng. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các bên khi tín dụng thƣơng mại phát triển, CCCN dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thƣờng đã trở thành một công cụ lƣu thông tín dụng có thể thực hiện đƣợc chức năng phƣơng tiện lƣu thông và phƣơng tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế. Đến nay, thông qua kỹ thuật chuyển nhƣợng, thƣơng phiếu đã đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ thanh toán trong quan hệ thƣơng mại quốc tế, cũng nhƣ trong quan hệ thƣơng mại nội địa của nhiều quốc gia. Mặt khác, thông qua việc phát hành và lƣu thông thƣơng phiếu, nó đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ tín dụng giữa ngƣời ký phát và ngƣời bị ký phát; giữa ngƣời ký phát và ngƣời thụ hƣởng; hoặc giữa ngƣời thụ hƣởng và ngân hàng. Song, tín dụng thƣơng mại cũng có một số ảnh hƣởng tiêu cực nhất định định đến việc phát triển CCCN. Chẳng hạn, CCCN khó có thể tăng giá trị thanh toán và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trƣờng hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu. Hay do quan hệ mua bán chịu giữa các bên là cơ sở hình thành
- 25 CCCN, nên dễ dẫn đến tình trạng hai bên thông đồng nhau lập ra thƣơng phiếu khống để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này làm cho cơ sở đảm bảo của thƣơng phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay đƣợc ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo. Ngoài ra, quan hệ mua bán chịu chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thƣờng xuyên với nhau nên chính nhƣợc điểm này đã làm hạn chế số lƣợng các doanh nghiệp tham gia vào việc phát hành và sử dụng CCCN trong quan hệ vay nợ. Nhƣ vậy, tín dụng thƣơng mại là cơ sở cho sự ra đời của CCCN, và CCCN đến lƣợt nó lại thúc đẩy cho tín dụng thƣơng mại phát triển. 1.4.2. Tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng và tín dụng thƣơng mại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Song bản thân tín dụng thƣơng mại không thể đáp ứng hết nhu cầu của quá trình tái sản xuất trong xã hội. Ngƣời bán vẫn cần phải duy trì và phát triển sản xuất trƣớc khi thu hồi hết nợ từ ngƣời mua. Do đó nó đòi hỏi phải có một tổ chức, cá nhân khác đứng ra cấp tín dụng cho ngƣời bán theo hợp đồng mua bán chịu đƣợc ký kết giữa hai bên mua bán. Ngân hàng thƣơng mại ra đời, với tƣ cách là tổ chức kinh doanh tiền tệ và tín dụng, sẵn sàng mua lại các CCCN và phát hành các công cụ lƣu thông tín dụng nhƣ hối phiếu ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, séc, chứng chỉ tiền gửi tạo điều kiện cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục và trôi chảy. Với đặc điểm là một giấy tờ có giá độc lập hoàn toàn với giao dịch kinh tế sản sinh ra nó, CCCN trở thành một công cụ mà ngƣời nắm giữ nó có thể chuyển nhƣợng, chiết khấu hay cầm cố tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Các ngân hàng tạo nguồn vốn cho mình bằng cách thu hút tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán từ các cá nhân và thể nhân. Các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức này sau đó có thể rút tiền ra khỏi tài khoản của mình bằng lệnh rút tiền hoặc trao lệnh rút tiền cho ngƣời hƣởng lợi để ngƣời này hƣởng lợi số tiền ghi trên lệnh đó. Lệnh rút tiền này chính là hình thức ban đầu của séc và hiện vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi trong thƣơng mại quốc tế và thƣơng mại nội địa.
- 26 Trong khi sự phát triển của tín dụng thƣơng mại chính là nền tảng cho sự ra đời của CCCN thì tín dụng ngân hàng bằng việc chiết khấu, cầm cố các giấy tờ có giá, các cam kết nhận nợ đã góp phần không nhỏ thúc đẩy sự phát triển CCCN, giúp cho nó đƣợc lƣu thông dễ dàng và thuận lợi. Sự phát triển của CCCN chịu ảnh hƣởng tác động của tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng càng phát triển phong phú thì các CCCN càng có điều kiện đƣợc sử dụng một cách thuận tiên, linh hoạt hơn. Đây là kết quả tất yếu của sự giải quyết liên tục những mâu thuẫn trong quá trình tái sản xuất. 1.5. MỘT SỐ NGHIỆP VỤ LIÊN QUAN ĐẾN CCCN 1.5.1. Nghiệp vụ chiết khấu Chiết khấu CCCN là việc các tổ chức tín dụng mua các CCCN của ngƣời thụ hƣởng trƣớc hạn thanh toán với mức giá do hai bên thoả thuận, thực chất là hình thức cấp tín dụng cho ngƣời thụ hƣởng CCCN. Việc chiết khấu CCCN của tổ chức tín dụng cần phải đảm bảo một số nguyên tắc theo luật định và những điều kiện nhƣ: (1) Đƣợc phát hành hợp pháp và trên cơ sở giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; (2) Thuộc quyền thụ hƣởng hợp pháp của khách hàng; (3) Không ghi cụm từ “không đƣợc chuyển nhƣợng”, “cấm chuyển nhƣợng”, “không trả theo lệnh” hoặc các cụm từ khác có ý nghĩa tƣơng tự (Theo Luật CCCN Việt nam 2005). Khi chiết khấu CCCN, ngƣời thụ hƣởng chỉ đƣợc nhận một phần mệnh giá, gọi là thị giá chiết khấu. Thị giá chiết khấu phụ thuộc nhiều yếu tố nhƣ: chính sách chiết khấu và tái chiết khấu của Ngân hàng trung ƣơng, quan hệ cung-cầu về CCCN, mức độ rủi ro mà các tổ chức tín dụng gặp phải từ việc thu tiền của CCCN trong tƣơng lai, tỷ lệ rủi ro phát sinh từ sự chênh lệch giữa mệnh giá CCCN và số tiền đƣợc đảm bảo thanh toán Ngƣời thụ hƣởng CCCN phải thực hiện nghĩa vụ chuyển nhƣợng CCCN đó cho tổ chức tín dụng chiết khấu. 1.5.2 Nghiệp vụ bao thanh toán CCCN truy đòi và miễn truy đòi (Factoring và Forfaiting) Factoring và Forfaiting là hình thức phát triển ở mức cao hơn của nghiệp vụ chiết khấu. Bao thanh toán đƣợc hiểu là loại hình chiết khấu trọn gói tất cả các
- 27 khoản thu của nhà xuất khẩu hoặc ngƣời bán trong một thời gian nhất định theo những điều kiện quy định trong hợp đồng bao thanh toán ký kết giữa các trung gian tài chính và ngƣời xuất khẩu hoặc ngƣời bán với một tỷ suất chiết khấu thoả thuận. - Bao thanh toán truy đòi (Recourse Factoring): là nghiệp vụ bao thanh toán mà công ty bao thanh toán chịu trách nhiệm thu nợ từ ngƣời mua hàng nhƣng công ty bao thanh toán vẫn giữ quyền truy đòi đối với khách hàng trong trƣờng hợp ngƣời mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu. Nhƣ vậy, trong nghiệp vụ Factoring, công ty Factoring sẽ đƣợc quyền truy đòi lại nhà xuất khẩu hoặc ngƣời bán nếu số tiền thu đƣợc nhỏ hơn mệnh giá thƣơng phiếu. - Bao thanh toán miễn truy đòi (Non-recourse Factoring): công ty bao thanh toán không thực hiện truy đòi đối với khách hàng ngay cả trƣờng hợp ngƣời mua hàng không trả đƣợc nợ. Công ty bao thanh toán phải chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phả thu. Hai nghiệp vụ bao thanh toán này đƣợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng bao thanh toán dài hạn ký kết giữa trung gian tài chính và ngƣời xuất khẩu. Bao thanh toán đƣợc coi là một hình thức tài trợ trực tiếp, lâu dài, ổn định và có hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán hàng. 1.5.3 Nghiệp vụ nhờ thu CCCN Nghiệp vụ nhờ thu CCCN là một hình thức chuyển nhƣợng đặc biệt và đang rất phát triển trong thanh toán quốc tế. Nghiệp vụ này đƣợc sử dụng khi ngƣời thụ hƣởng CCCN không thể tự mình thu tiền, mà phải uỷ quyền cho ngƣời khác thu hộ. Ngƣời đƣợc uỷ quyền nhờ thu thƣờng là các Ngân hàng thƣơng mại có quan hệ với bên phải trả tiền theo CCCN và ngân hàng nhờ thu này phải có tƣ cách pháp lý. Để thực hiện nhờ thu, ngƣời thụ hƣởng CCCN phải tiến hành thủ tục chuyển nhƣợng một phần quyền pháp lý đối với lợi ích tƣơng lai của CCCN (chuyển nhƣợng quyền thu tiền chứ không phải là chuyển nhƣợng quyền hƣởng lợi). Về mặt hình thức, việc chuyển giao CCCN để nhờ thu đƣợc ngƣời chủ chủ CCCN ghi rõ vào mặt sau của thƣơng phiếu cụm từ “chuyển giao để nhờ thu”, tên ngân hàng
- 28 thu hộ và ngày tháng năm nhờ thu. Ngân hàng thu hộ có quyền xuất trình thƣơng phiếu và yêu cầu có nghĩa vụ thanh toán thƣơng phiếu khi đến hạn. 1.5.4. Nghiệp vụ bảo lãnh Nghiệp vụ bảo lãnh là nghiệp vụ mà trong đó trung gian tài chính với tƣ cách là bên thứ ba cam kết sẽ đảm bảo thanh toán một phần hay toàn bộ số tiền nếu ngƣời trả tiền CCCN không thanh toán. Sau khi trả tiền xong, trung gian tài chính đứng ra bảo lãnh sẽ đƣợc hƣởng tất cả quyền lợi của ngƣời thụ hƣởng, tức là quyền đƣợc hƣởng số tiền ghi trên CCCN, quyền khởi tố những ngƣời ký tên chuyển nhƣợng trên CCCN. Bản chất của bảo lãnh CCCN là trung gian tài chính cấp một khoản tín dụng cho bên yêu cầu bảo lãnh bằng uy tín hoặc tài sản của mình. Trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh thì sự bảo lãnh này là độc lập và không thể huỷ bỏ. Nếu không đƣợc sự đồng ý của bên đƣợc bảo lãnh và bên yêu cầu bảo lãnh thì cam kết bảo lãnh sẽ đƣợc bảo lƣu, không đƣợc chỉnh sửa, bổ sung gì. Trung gian tài chính ký cam kết bảo lãnh ngay trên bề mặt của thƣơng phiếu hoặc phát hành Thƣ bảo lãnh riêng. Trên thị trƣờng CCCN, việc bảo lãnh thƣờng đƣợc các NHTM hoặc các tổ chức tín dụng có uy tín đứng ra đảm nhận chữ ký bảo lãnh của một ngân hàng danh tiếng, CCCN sẽ dễ dàng đƣợc chiết khấu và tái chiết khấu với lãi suất ƣu đãi. Ngƣời xuất khẩu khi đó sẽ sớm thu hồi vốn để tiếp tục quay vòng hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, hình thức bảo lãnh của ngân hàng cũng là một dạng tài trợ của ngân hàng cho khách hàng. 1.5.5. Nghiệp vụ cầm cố CCCN Khi khách hàng không muốn sử dụng phƣơng thức chiết khấu hoặc ngân hàng từ chối chiết khấu CCCN thì khách hàng có thể xin cho vay cầm cố bằng CCCN. Cầm cố CCCN là việc ngƣời thụ hƣởng CCCN có nghĩa vụ chuyển giao CCCN mà mình là ngƣời sở hữu cho bên thứ ba để làm vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ bao gồm nợ gốc và lãi. Tài sản cầm cố là CCCN bản gốc đang còn thời hạn hiệu lực thanh toán và đƣợc tạo lập phù hợp với các yêu cầu pháp lý về nội dung cũng nhƣ hình thức do luật CCCN của nƣớc phát hành quy định. Giá trị cầm cố CCCN do bên cầm cố và bên nhận cầm cố căn cứ vào mệnh giá CCCN và thị giá chiết
- 29 khấu CCCN để xác định trên cơ sở có tính đến các yếu tố tác động (đặc biệt là rủi ro thanh khoản của CCCN đó). 1.6. VAI TRÒ CỦA CCCN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG. 1.6.1. Đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì việc mua bán chịu giữa các thƣơng nhân ngày càng phổ biến. Đó là do tốc độ lƣu chuyển hàng hoá nhanh hơn so với tốc độ chu chuyển của vốn, hơn nữa do trị giá thƣơng mại giao dịch lớn, nguồn vốn kinh doanh của các thƣơng nhân lại hạn hẹp, điều này khiến cho các CCCN đƣợc sử dụng nhƣ là một công cụ thanh toán và cấp tín dụng thƣơng mại trực tiếp giữa các thƣơng nhân nhằm giải quyết nhu cầu cấp thiết về vốn. Nhu cầu vốn của nền kinh tế có thể đƣợc thoả mãn qua nhiều kênh khác nhau nhƣ hoạt động tín dụng Nhà nƣớc, hoạt động tín dụng ngân hàng, hoạt động thị trƣờng chứng khoán, thị trƣờng trái phiếu Sử dụng thƣơng phiếu nhƣ là cách cấp tín dụng trực tiếp, các thƣơng nhân có thể thoả thuận với nhau những điều kiện ƣu đãi riêng nhƣ: thời hạn thanh toán (thời hạn cấp tín dụng), điều kiện tín dụng, sao cho linh hoạt và thuận lợi cho các bên. Hơn nữa, thƣơng phiếu là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, nó giúp bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thƣơng mại, loại bỏ đƣợc tình trạng nợ nần dây dƣa giữa các doanh nghiệp, giúp cho nguồn vốn không bị ứ đọng, đƣợc đƣa vào lƣu thông nhanh hơn. Nói chung, cách thức này đơn giản và thuận tiện hơn so với các hình thức cấp tín dụng khác. Mặt khác, do các doanh nghiệp có thể đem các CCCN ra các NHTM để chiết khấu, cầm cố, thế chấp, nên nguồn vốn của họ cũng dễ dàng đƣợc chuyển đổi, giúp chủ động về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.6.2. Tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động cấp tín dụng Ra đời từ các giao dịch cơ sở là hợp đồng thƣơng mại hàng hoá và dịch vụ nên CCCN trở thành một “công cụ nợ” (quyền tài sản) quan trọng giữa ngƣời bán và ngƣời mua. CCCN là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHTW để khôi phục nguồn vốn của mình. Bằng nghiệp vụ chiết khấu, cho vay cầm cố thƣong
- 30 phiếu, NHTM đã cấp tín dụng cho ngƣời thụ hƣởng thƣơng phiếu, gắn kết tín dụng thƣơng mại và tín dụng ngân hàng, đồng thời tín dụng ngân hàng đến lƣợt nó lại hỗ trợ cho tín dụng thƣơng mại phát triển. Ngoài ra, do luật về thƣơng phiếu luôn đảm bảo tính độc lập của CCCN với quan hệ gốc nên quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ CCCN không bị ảnh hƣởng bởi quan hệ gốc. Nhờ đó mà góp phần phân tán rủi ro cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.6.3. Bổ sung hàng hoá cho thị trƣờng tiền tệ, tạo điều kiện cho NHTW thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia Là chứng chỉ có giá có thể chuyển nhƣợng, khi đƣợc các ngân hàng ký chấp nhận cam kết thanh toán khi đến hạn, CCCN là thƣơng phiếu trở thành công cụ đƣợc giao dịch phổ biến trên thị trƣờng. Nhờ vào tính chất lƣu thông, CCCN trở thành một công cụ lƣu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm chi phí sử dụng tiền mặt, giảm sức ép tiền mặt đƣa vào lƣu thông, qua đó kìm chế lạm phát và ổn định sức mua đồng tiền, một trong những đóng góp không nhỏ góp phần ổn định tiền tệ. Vì lẽ đó, CCCN là công cụ quan trọng đƣợc NHTW sử dụng cùng với các công cụ tài chính khác của thị trƣờng tiền tệ nhằm điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia. Đồng thời, NHTW còn thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn dƣới hình thức tái chiết khấu thƣơng phiếu, cho vay ngắn hạn trên cơ sở cầm cố thƣơng phiếu nhƣ là việc sử dụng các công cụ tài chính gián tiếp trong việc thực thi chính sách tiền tệ. 1.6.4. Thúc đẩy lƣu thông hàng hoá phát triển Thƣơng mại quốc tế phát triển kéo theo sự lƣu thông hàng hoá diễn ra mạnh mẽ, vƣợt ra ngoài biên giới quốc gia. Nhƣng do khoảng cách địa lý và giá trị giao dịch ngày một lớn mà việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt gặp nhiều khó khăn và không thuận tiện. CCCN khi đƣợc sử dụng nhƣ là một công cụ tín dụng thay cho tiền mặt thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ bán chịu, trả chậm, ngƣời bán và ngƣời mua vẫn tiếp tục trao đổi hàng hoá ngay cả khi chƣa thanh toán tiền cho nhau. Điều này giúp cho việc lƣu thông hàng hoá đƣợc diễn ra liên tục, gia tăng cả về số lƣợng và giá trị. Ngoài ra, do sự tham gia của bên thứ ba (ngƣời chuyên chở, ngân hàng ) trong giao dịch thƣơng mại mà sự ra đời và phát triển của CCCN giúp giải quyết vấn đề chuyển nhƣợng quyền sở hữu hàng hoá giữa các
- 31 bên từ ngƣời bán sang ngƣời chuyên chở, từ ngƣời chuyên chở sang ngƣời mua trong khi vấn đề thanh toán vẫn đƣợc đảm bảo. Khi vấn đề về quyền sở hữu hàng hoá đƣợc giải quyết thì bản thân hàng hoá sẽ có điều kiện để lƣu thông dễ dàng hơn. Rõ ràng, CCCN ra đời đã thúc đẩy lƣu thông hàng hoá phát triển. 1.7. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CCCN Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1.7.1. Tình hình sử dụng CCCN ở Singapore. Do đặc điểm vị trí và hoạt động kinh tế của Singapore là thƣơng mại trong nƣớc nhỏ bé, chủ yếu là các hoạt động xuất nhập khẩu nên CCCN là hối phiếu của Singapore đƣợc sử dụng trong hoạt động ngoại thƣơng là chính. Ngân hàng thƣơng mại chiết khấu hối phiếu thƣơng mại (hối phiếu do ngƣời bán lập ra và phải có chữ ký của một ngân hàng thƣơng mại xác nhận) bằng 2 hình thức: “mua đứt” và “mua tạm” hối phiếu từ nhà xuất khẩu. Để tránh rủi ro, Ngân hàng Trung ƣơng Singapore (MAS) kiểm duyệt rất chặt chẽ từng hối phiếu của nhà xuất khẩu và chỉ chấp nhận cho tái chiết khấu loại hối phiếu “mua tạm thời” mà thôi. Lý do là nếu ngân hàng thƣơng mại không trả đƣợc hối phiếu đó khi đến hạn thì MAS vẫn có thể đòi nợ trực tiếp nhà sản xuất theo hối phiếu đã ký. Giá trị đƣợc vay vốn từ nguồn tái chiết khấu của MAS đối với nhà xuất khẩu hiện đƣợc quy định tối đa là25% vốn tự có. Hối phiếu đƣợc phép tái chiết khấu tại MAS phải có đầy đủ 3 chữ ký của ngƣời sản xuất vay vốn ngân hàng thƣơng mại, ngân hàng thƣơng mại đƣợc MAS tái chiết khấu và của một ngân hàng thƣơng mại khác ký xác nhận bảo lãnh. Quy trình tái chiết khấu của MAS nhƣ sau: hàng ngày vào 15h, ngân hàng thƣơng mại gửi đến MAS đơn và các biểu ghi theo quy định của MAS (phải nằm trong hạn mức tái chiết khấu, thuộc danh mục nhà sản xuất đã đăng ký, có thời hạn thanh toán không quá 3 tháng hay 90 ngày và ít nhất là 1 tháng hay 30 ngày, tín nhiệm của ngân hàng thƣơng mại và nhà sản xuất, tính hợp lệ của hối phiếu). Đến 10h sáng hôm sau MAS trả lời bằng điện thoại cho từng ngân hàng thƣơng mại để
- 32 gửi hối phiếu gốc lên MAS và đến 15h cùng ngày làm thủ tục vay vốn tái chiết khấu của MAS. Tái chiết khấu hối phiếu cả MAS có 2 dạng: tài trợ trƣớc khi xuất khẩu (sản xuất hàng xuất khẩu có địa chỉ tiêu thụ xác định) và tài trợ xuất khẩu. Lãi suất tái chiết khấu thấp (khoảng 3,5%) đƣợc xem là công cụ tài trợ quan trọng đối với nhà sản xuất. Do vậy, MAS chỉ tái chiết khấu hối phiếu có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu, tăng GDP. MAS xem xét việc tái chiết khấu theo những quy trình và điều kiện chặt chẽ, đặc biệt là sự đóng góp cho gia tăng GDP của nhà xuất khẩu và phục vụ cho yêu cầu của chính sách tiền tệ. Ngoài ra, tại Singapore, thanh toán bằng tiền mặt chiếm tỷ lệ thấp khoảng 20% trong tổng phƣơng tiện thanh toán, thanh toán không dùng tiền mặt trong đó có việc thanh toán bằng các CCCN chiếm 80%. Có đƣợc kết quả trên là do Singapore đã hoạch định đƣợc chiến lƣợc tổng thể, dài hạn; đã xây dựng và tổ chức quản lý, vân hành đƣợc hệ thống thanh toán và các phƣơng tiện thanh toán trong đó có CCCN dựa trên nền tảng cơ sở pháp lý đồng bộ gồm Luật hối phiếu, Luật kinh doanh thẻ tín dụng, Luật séc cùng một số luật chuyên biệt điều chỉnh về lĩnh vực thanh toán. Singapore còn xây dựng đƣợc Trung tâm thanh toán bù trừ do cơ quan Thanh toán bù trừ và viễn thông tài chính Singapore trực tiếp vận hành. Tham gia vào hệ thống này Ngân hàng Trung ƣơng và những ngân hàng lớn cùng một số tổ chức phi tài chính. Tại các trung tâm thanh toán bù trừ, các phƣơng tiện hối phiếu, kỳ phiếu, séc đƣợc thanh toán bù trừ cho nhau bằng các nghiệp vụ với sự hỗ trợ đắc lực của mạng máy tính. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, nhất là trong lĩnh vực thanh toán đƣợc Ngân hàng Trung ƣơng Singapore rất quan tâm. Vụ công nghệ thông tin đƣợc thành lập với các phòng chuyên môn để quản lý, vận hành, bảo trì máy tính và hệ thống thông tin. Hiện nay, tại trung tâm chính có các máy Mainfram và máy chủ Server tốc độ cao, cùng khoảng 500 máy tính cá nhân đƣợc sử dụng nhƣ các thiết bị đầu cuối.
- 33 1.7.2. Tình hình sử dụng CCCN ở Trung Quốc. Thị trƣờng CCCN là thƣơng phiếu ở Trung Quốc đã ra đời từ khoảng năm 1982, nhƣng sau hơn một thập kỷ đi vào hoạt động, thị trƣờng này đã chƣa phát huy đƣợc vai trò và tầm quan trọng to lớn của mình. Một phần là do trong thời kỳ này chƣa có hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động liên quan đến thƣơng phiếu và chƣa có sự quan tâm phát triển đúng mức. Trong những năm gần đây, nhằm thúc đẩy thị trƣờng thƣơng phiếu phát triển, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC) đã ban hành và bổ sung nhiều văn bản pháp lý nhƣ: Luật các CCCN nƣớc CHND Trung Hoa năm 2004, Quy định về giao dịch tái chiết khấu tại Hội sở của ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc, Quy định về việc chấp nhận, chiết khấu, tái chiết khấu thƣơng phiếu . Đến nay, thị trƣờng thƣơng phiếu ở Trung Quốc đã phát triển tƣơng đối sôi động. Hầu nhƣ tất cả các ngân hàng thƣơng mại Trung Quốc đều đã tiến hành các nghiệp vụ liên quan đến CCCN nhƣ chiết khấu, chấp nhận, cầm cố, bảo lãnh Nhu cầu sử dụng hối phiếu nhƣ là một công cụ tín dụng ở các doanh nghiệp Trung Quốc là rất lớn, do chi phí của việc phát hành hối phiếu của các công ty có độ tín nhiệm thấp hơn nhiều so với chi phí vay ngân hàng. Hối phiếu ngân hàng đang đƣợc sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nƣớc này. Đến T12/2006, tổng giá trị hối phiếu ngân hàng đƣợc phát hành đạt 2.8766 nghìn tỷ Yuan. Đối với hối phiếu thƣơng mại, các bên tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp và các tổ chức. Hối phiếu sau khi phát hành chỉ có giá trị trong vòng 6 tháng. Hối phiếu thƣơng mại có tốc độ phát triển ngày một tăng ở Trung quốc. Trong vòng một thập kỷ qua, tổng giá trị thanh toán bằng hối phiếu đã tăng gấp 14 lần. Đến T6/2006, đã có 2.87 triệu hối phiếu thƣơng mại đƣợc sử dụng với tổng giá trị đƣợc thanh toán lên tới 2.5716 nghìn tỷ Yuan. Séc cũng là một trong các công cụ chuyển nhƣợng đƣợc sử dụng phổ biến nhất ở Trung Quốc. Các tổ chức và cá nhân đều có quyền phát hành séc. Séc phải đƣợc thanh toán trong vòng 10 ngày sau khi phát hành và thƣờng đƣợc sử dụng trong phạm vi thành phố nơi nó đƣợc phát hành. Nhằm nâng cao hiệu quả thanh toán, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã thiết lập hệ thống trao đổi hình ảnh séc
- 34 trên phạm vi toàn quốc và cùng với Hiệp hội ngân hàng có nhiệm vụ tổ chức các Trung tâm xử lý và thanh toán séc. Mỗi trung tâm đƣợc tổ chức thành hai bộ phận, một bộ phận xử lý séc trong hệ thống, một bộ phận xử lý séc ngoài hệ thống và khác địa phƣơng. Quy trình tiếp nhận, xử lý và luân chuyển séc rất khoa học, chặt chẽ, thực hiện trên mạng máy tính thông qua việc truyền, nhận các bản chụp tờ séc giữa các ngân hàng liên quan với độ bảo mật cao. Dự kiến đến hết năm 2007, séc sẽ đƣợc nhận dạng và thanh toán tại tất cả các thành phố của Trung Quốc. Theo thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2006, có tổng số 556.47 triệu tấm séc đã đƣợc phát hành với trị giá lên tới 90.5844 nghìn tỷ Yuan. [1.7.3. Tình hình sử dụng CCCN ở Mỹ. Thị trƣờng thƣơng phiếu Mỹ xuất hiện từ những năm 60 và hiện là thị trƣờng thƣơng phiếu lớn nhất thế giới. Ngay từ đầu thập niên 70, hầu hết các thƣơng phiếu của Mỹ đều đã đƣợc xếp loại tín nhiệm bởi ít nhất một cơ quan đánh giá tín nhiệm Ở Mỹ, để đƣợc phép phát hành thƣơng phiếu, nhà phát hành bắt buộc phải có một khoản tín dụng dự phòng. Khoản tín dụng dự phòng này giúp cho ngƣời thụ hƣởng an tâm khi sở hữu do đƣợc đảm bảo thƣơng phiếu sẽ đƣợc thanh toán khi đến hạn, đồng thời cũng giúp ngƣời phát hành lên một kế hoạch thanh toán phù hợp cho các khoản phải trả trong tƣơng lai. Khoản tín dụng dự phòng này không làm tăng độ tín nhiệm cho nhà phát hành mà chỉ nhằm mục đích thanh toán CCCN đến hạn mà nhà phát hành không trả đƣợc. Trong các loại CCCN, hối phiếu thƣơng mại đã trở thành công cụ tài chính ngắn hạn đƣợc sử dụng nhiều nhất trong khu vực kinh tế phi chính phủ tại Mỹ. Tính hết T12/2005, tổng dƣ nợ hối phiếu thƣơng mại của Mỹ đạt khoảng 16 nghìn tỷ USDollars, tƣơng đƣơng với 1/3 tổng dƣ nợ của các khoản tín dụng trong nƣớc. Đặc biệt, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc (NCDs) đã đƣợc các doanh nghiệp Mỹ sử dụng rất phổ biến với tổng giá trị đạt tới gần 170 tỷ USD năm 2006 (xem bảng 1.1).
- 35 Bảng 1.1: Doanh số các công cụ tài chính trên thị trƣờng Mỹ (2004-2006) Đơn vị: Triệu USD Loại công cụ tài chính 2004 2005 2006 Chứng chỉ tiền gửi không chuyển nhƣợng đƣợc 152,520 227,685 262,105 Chứng chỉ tiền gửi chuyển nhƣợng đƣợc 107,533 91,196 170,342 Công cụ chuyển nhƣợng ngắn hạn khác 88,423 140,863 188,633 Các công cụ khác 14,142 19,577 22,062 (Nguồn: www.federalreserve.gov/claims) 1.7.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Thứ nhất, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế sử dụng CCCN phát triển. Đây là việc đầu tiên và quan trọng nhất để có thể đƣa CCCN vào sử dụng một cách rộng rãi và có hiệu quả. Bởi vì khi hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ, các doanh nghiệp cũng nhƣ ngân hàng thƣơng mại sẽ mạnh dạn hơn trong việc sử dụng CCCN nhƣ một công cụ thanh toán, công cụ tín dụng hữu hiệu. Ngân hàng Trung ƣơng đóng vai trò quyết định trong việc ban hành cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý, môi trƣờng thuận lợi, thông thoáng cho quá trình sử dụng, phát triển CCCN và hệ thống thanh toán, là ngƣời trực tiếp quản ly, kiểm tra, giám sát hoạt động thanh toán bù trừ liên ngân hàng, và cần có những biện pháp cụ thể và tích cực. Thứ hai, phải tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở hạ tầng cho thị trƣờng thƣơng phiếu, xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại dựa trên nền tảng CNTT. CCCN có đƣợc sử dụng dễ dàng, thuận lợi hay không phần lớn là nhờ sự hỗ trợ của hệ thống thanh toán hiện đại không dùng tiền mặt. Việt Nam cần tận dụng cơ hội, thế mạnh của nƣớc đi sau, thừa hƣởng những thành tựu khoa học kỹ thuật và tranh thủ huy động tối đa các nguồn lực để đầu tƣ xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại gồm trung tâm xử lý quốc gia và các trung tâm xử lý khu vực, qua đó sớm nghiên cứu xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ thƣơng phiếu, séc trên toàn quốc trong thời gian tới. Thứ ba, CCCN đặc biệt là thƣơng phiếu cần phải đƣợc xếp loại tín nhiệm. Hiện nay các nƣớc đều sử dụng hệ số tín nhiệm để đánh giá thƣơng phiếu. Nó
- 36 đƣợc sử dụng nhƣ một sự đánh giá độc lập về rủi ro tín dụng, đồng thời nó cũng đƣợc sử dụng làm cơ sở định hƣớng các khoản đầu tƣ hối phiếu. Sau khi ra đời, thƣơng phiếu lƣu thông hoàn toàn độc lập với giao dịch cơ sở ban đầu, việc xếp hạng tín nhiệm đối với thƣơng phiếu sẽ giúp cho những ngƣời thụ hƣởng nhận dạng đƣợc khả năng thanh toán đó. Việc xếp loại độ tín nhiệm thƣơng phiếu căn cứ vào những tiêu chí chủ yếu nhƣ: Quy mô hoạt động kinh doanh, bao gồm cả giá trị tuyệt đối và tỷ lệ so sánh đối với các đối thủ cạnh tranh; Lợi nhuận của công ty, bao gồm mức độ và khả năng gia tăng về lợi nhuận; Tỷ lệ nợ trên vốn tự có. Ngoài ra, các cơ quan đánh giá rủi ro còn có thể căn cứ vào một số tiêu chi chủ quan khác nhƣ: chất lƣợng quản lý, đặc điểm của ngành Thứ tư, việc phát hành CCCN phải đảm bảo khả năng thanh toán dự phòng. Nhà phát hành CCCN phải duy trì một khoản vốn để sử dụng cho việc thanh toán tất cả hay một phần CCCN đến hạn. Những khoản vốn này để dự trữ dƣới hình thức tiền mặt hoặc dƣới dạng một khoản tín dụng của ngân hàng theo hạn mức. Khoản dự trữ này phụ thuộc vào mức độ tín nhiệm của CCCN đƣợc xếp loại trên thị trƣờng. Nhìn chung, những nhà phát hành có độ tín nhiệm cao thƣờng duy trì khả năng thanh toán dự phòng là 50% dƣ nợ CCCN, còn lại phải duy trì ở mức cao hơn. Hạn mức tín dụng đƣợc đƣa ra nhằm cung cấp vốn để thanh toán CCCN khi đến hạn mà ngƣời phát hành CCCN do nguyên nhân nào đó không thể quay vòng CCCN đƣợc. Trên đây là 3 trong số nhiều nƣớc trên thế giới đã phát triển thành công CCCN. Để có thể đƣa CCCN vào sử dụng rộng rãi trong thƣơng mại và tín dụng, Việt Nam cần tích cực thu thập kinh nghiệm và bài học quý báu của các nƣớc đi trƣớc, qua đó chọn lọc, loại bỏ những gì không phù hợp và vận dụng một cách sáng tạo những kinh nghiệm đó vào Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình và điều kiện thực tế riêng của mình.
- 37 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHUYỂN NHƢỢNG Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 2.1. MÔI TRƢỜNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH CCCN Ở VIỆT NAM Dƣới góc độ pháp lý, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc tổ chức và hoạt động của các chủ thể, là công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nƣớc tiến hành quản lý xã hội. Sự phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả hoạt động cũng nhƣ quản lý của Nhà nƣớc và các chủ thể có liên quan. Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng và nhu cầu cấp thiết của việc sử dụng các CCCN trong hoạt động kinh tế, cho đến nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp lý tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển các CCCN. Việc sử dụng các CCCN đƣợc quy định tại: Luật Thƣơng mại 1997, Luật Ngân hàng nhà nƣớc 1997, Luật các Tổ chức tín dụng 1999, Pháp lệnh Thƣơng phiếu 1999, Nghị định số 32/2001/NĐ-CP ngày 5/7/2001 và gần đây nhất là Luật các CCCN năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006. Tuy không tránh khỏi những bất cập, tồn tại đòi hỏi sự bổ sung, hoàn thiện song các văn bản pháp lý này đã bƣớc đầu thực hiện một bƣớc quan trọng trong việc pháp điển hóa pháp luật về CCCN, xây dựng hành lang pháp lý thuận lợi cho việc sử dụng các CCCN, góp phần tạo thuận lợi cho thƣơng mại hàng hoá phát triển, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Thương mại Việt Nam năm 1997:[19] Luật Thƣơng mại Việt Nam đƣợc Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/5/1997, ban hành ngày 23/5/1997 và có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1998. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên đƣợc ban hành có điều chỉnh về CCCN, đồng thời cũng là đạo Luật thƣơng mại đầu tiên ghi nhận một giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta. Trƣớc khi Luật Thƣơng mại năm 1997 đƣợc ban hành, các hoạt động thƣơng mại ở nƣớc ta đƣợc quy định ở một số văn bản quy phạm của Chính phủ và các bộ, ngành. Sự thiếu vắng một văn bản có giá trị pháp lý cao đã hạn chế sự phát triển các hoạt động thƣơng mại. Luật Thƣơng mại năm 1997 đã lần đầu tiên quy định một cách có hệ thống về các hoạt động thƣơng mại hàng hoá, điều chỉnh các hành
- 38 vi thƣơng mại, xác định địa vị pháp lý của thƣơng nhân và quy định các nguyên tắc chuẩn mực trong hoạt động thƣơng mại tại nƣớc CHXHCN Việt Nam. CCCN là thƣơng phiếu đƣợc quy định tại Chƣơng III của Bộ Luật này, gồm 3 điều (từ điều 219 đến điều 221). Quy định về khái niệm “Thƣơng phiếu” (gồm hối phiếu và lệnh phiếu), quyền sử dụng thƣơng phiếu của thƣơng nhân để thanh toán trong hoạt động thƣơng mại, quyền phát hành, chuyển nhƣợng, chiết khấu, tái chiết khấu và thanh toán thƣơng phiếu. Mặc dù Luật Thƣơng mại chỉ quy định những nguyên tắc chung về CCCN là thƣơng phiếu trong hoạt động của thƣơng nhân, song nó đã đặt nền tảng pháp lý đầu tiên cho việc xử lý các quan hệ kinh tế, thƣơng mại trong việc sử dụng các CCCN ở nƣớc ta. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997:[21] Luật Ngân hàng Nhà nƣớc đƣợc Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997, ban hành ngày 26/12/1997 và có hiệu lực kể từ ngày 1/10/1998. Đây là một trong những Luật có tầm quan trọng và chi phối rất lớn đối với các hoạt động kinh tế trong giai đoạn hội nhập hiện nay, nó đã bƣớc đầu tạo dựng một môi trƣờng pháp lý thuận lợi đảm bảo cho bƣớc chuyển đổi cơ chế quản lý và tứng bƣớc hội nhập vào thị trƣờng tài chính khu vực và thế giới. Luật Ngân hàng Nhà nƣớc đã đề cập đến CCCN là thƣơng phiếu tại điều 17 và điều 30, Luật quy định: Ngân hàng Nhà nƣớc có thể thực hiện việc tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng theo hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thƣơng phiếu. Tuy nhiên, Luật vẫn chƣa đƣa ra quy định cụ thể để thƣơng phiếu đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc chiết khấu, tái chiết khấu và điều kiện của thƣơng phiếu để tổ chức tín dụng có thể sử dụng nhƣ vật cầm cố cho khoản vay tái chiết khấu từ Ngân hàng Nhà nƣớc. Song, Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam đã công nhận CCCN- thƣơng phiếu- là một trong các công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc sử dụng nó nhƣ là một công cụ cung cấp vốn cho các tổ chức tín dụng khác trong nền kinh tế. Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam năm 1997:[20] Luật các Tổ chức tín dụng đƣợc ra đời cùng với thời điểm của Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam năm 1997. Luật này quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác. Luật này
- 39 cho phép các tổ chức tín dụng đƣợc cấp tín dụng dƣới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu hoặc cầm cố CCCN là thƣơng phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Khái niệm chiết khấu, tái chiết khấu cũng đƣợc quy định tại điều 49 và điều 57 của Luật các Tổ chức tín dụng. Cụ thể, “chiết khấu” đƣợc hiểu là việc Tổ chức tín dụng mua thƣơng phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của ngƣời thụ hƣởng trƣớc khi đến hạn thanh toán và “tái chiết khấu” là việc mua lại thƣơng phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã đƣợc chiết khấu trƣớc khi đến hạn thanh toán. Song, cũng giống nhƣ Luật Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Luật các Tổ chức tín dụng cũng chƣa đƣa ra đƣợc quy định cụ thể để thƣơng phiếu có thể lƣu thông trên thị trƣờng tiền tệ. Nhƣ vậy, CCCN đã sớm đƣợc đề cập và quy định trong những Bộ luật đầu tiên của Việt Nam (Luật Thƣơng mại, Luật Ngân hàng Nhà nƣớc, Luật các Tổ chức tín dụng), qua đó cho thấy sự nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng và nhu cầu cần thiết của việc sử dụng CCCN là thƣơng phiếu trong hoạt động kinh tế thƣơng mại ở nƣớc ta. Song, do chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc chung, những văn bản pháp lý này là chƣa đủ để có một môi trƣờng pháp lý thuận tiện cho CCCN hoạt động. Pháp lệnh thương phiếu năm 1999:[19] Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế yêu cầu pháp luật về CCCN phải phù hợp với thông lệ quốc tế, thúc đẩy sự phát triển của thƣơng mại quốc tế. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 24/12/1999, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thƣơng phiếu Việt Nam. Đây đƣợc coi là văn bản dƣới luật đầu tiên điều chỉnh các quan hệ liên quan đến CCCN là thƣơng phiếu (gồm hối phiếu và lệnh phiếu) trên cơ sở tham khảo Công ƣớc Giơnevơ 1930 về Luật hối phiếu thống nhất. Pháp lệnh Thƣơng phiếu gồm 8 chƣơng, 50 điều quy định tƣơng đối chi tiết về chủ thể phát hành thƣơng phiếu, thời hạn thanh toán thƣơng phiếu, việc phát hành, chấp nhận, chuyển nhƣợng, bảo lãnh truy đòi, khởi kiện liên quan đến thƣơng phiếu . Văn bản pháp lý này có mục đích nhằm khuyến khích việc hình thành, phát triển và sử dụng thƣơng phiếu trong đời sống kinh tế, tạo cơ sở pháp lý phù hợp hơn với thể chế, chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, sau khi ra đời, Pháp lệnh Thƣơng phiếu chƣa thực sự giúp cho thƣơng phiếu đi vào các
- 40 hoạt động kinh tế. Mặc dù Pháp lệnh thƣơng phiếu đã cho phép sử dụng hối phiếu, lệnh phiếu để thanh toán nhƣng lại quy định quá chặt chẽ, cứng nhắc nên quan hệ thƣơng phiếu gặp nhiều khó khăn, thậm chí không thực hiện đƣợc. Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định 32/2001/NĐ-CP nhằm hƣớng dẫn chi tiết việc thực hiện Pháp lệnh thƣơng phiếu nhƣ hƣớng dẫn chi tiết về chủ thể đƣợc tham gia vào quan hệ thƣơng phiếu, việc xuất trình thƣơng phiếu để thanh toán, điều kiện để chuyển nhƣợng thƣơng phiếu Nghị định 159/2003/NĐ-CP và Thông tư số 05/2004/TT-NHNN:[5] Trƣớc thực trạng về khung pháp lý và tình hình sử dụng séc ở Việt nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 159/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 có hiệu lực từ ngày 1/4/2004 và Ngân hàng Nhà nƣớc đã ban hành Thông tƣ số 05/2004/TT- NHNN (hƣớng dẫn thi hành nội dung Nghị định 159/NĐ-CP) nhằm hƣớng dẫn thực hiện việc cung ứng và sử dụng séc trong thanh toán. Hai văn bản pháp lý này đã có những quy định mới (nhƣ việc bảo vệ lợi ích ngƣời thụ hƣởng séc, việc xử lý vi phạm đối với việc thanh toán séc ) tạo sự thuận tiện trong việc sử dụng séc, đồng thời phù hợp hơn với thông lệ quốc tế cũng nhƣ những quy định pháp luật của các nƣớc tiên tiến mà việc sử dụng séc trong thanh toán đã trở nên phổ biến. Song, do hiệu lực pháp lý chƣa cao nên nhiều quy định (nhƣ giải quyết tranh chấp, thủ tục khởi kiện ) vẫn phải dẫn chiếu tới các quy định khác của pháp luật, gây ảnh hƣởng không nhỏ tới quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ sử dụng séc. Hơn nữa, cộng thêm thói quen thích dùng tiền mặt trong thanh toán của ngƣời dân Việt Nam, mà séc vẫn chƣa thực sự trở thành công cụ thanh toán phổ biến ở nƣớc ta. Nhƣ vây, mặc dù đã có nhiều nỗ lực và tiến bộ trong việc xây dựng môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho CCCN hoạt động, song, các văn bản pháp lý nêu trên chƣa thực sự đồng bộ, thống nhất, đầy đủ và phát huy hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc sử dụng các CCCN. Việc đƣa các loại CCCN với tƣ cách là phƣơng tiện thanh toán, công cụ tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trƣờng vào nền kinh tế nƣớc ta đòi hỏi Nhà nƣớc phải xây dựng, hoàn chỉnh cơ sở pháp lý một cách đồng bộ hơn nữa cho các hoạt động có liên quan đến CCCN ở
- 41 nƣớc ta, đồng thời khắc phục đƣợc những bất cập của pháp luật về CCCN hiện hành Luật các Công cụ chuyển nhượng Việt Nam năm 2005:[6],[14] Luật các CCCN đƣợc Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khoá XI, kỳ hop thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, có hiều lực thi hành từ ngày 1/7/2006. Việc ban hành Luật các CCCN nhằm đảm bảo cho việc hình thành khung pháp lý cần thiết về CCCN và làm cơ sở pháp lý cho việc phát hành, sử dụng các loại CCCN trên thực tế. Nó không chỉ thể chế hoá đƣờng lối của Đảng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng mà còn đáp ứng các yêu cầu khách quan của nền kinh tế, nhu cầu hội nhập và còn nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến CCCN. Việc ban hành Luật các CCCN năm 2005 đƣợc coi là bƣớc tiến đáng kể trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý về CCCN. Luật này gồm 6 chƣơng, 83 điều điều chỉnh quan hệ trong việc phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhƣợng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện. Luật này điều chỉnh 3 loại CCCN gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc Pháp lệnh thƣơng phiếu năm 1999, xuất phát từ tình hình thực tế ở Việt Nam, và có sự tham khảo, học hỏi từ pháp luật, tập quán sử dụng CCCN trên thế giới, Luật các CCCN Việt Nam năm 2005 đƣợc coi là nguồn luật điều chỉnh CCCN thống nhất, chi tiết và đầy đủ nhất ở nƣớc ta hiện nay [5]. Luật đƣa ra một số nội dung cơ bản có sự đổi mới, điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tiễn thƣơng mại và thông lệ quốc tế nhƣ sau: - Về phạm vi điều chỉnh: so với Pháp lênh thƣơng phiếu 1999, phạm vi điều chỉnh của Luật các CCCN đã đƣợc mở rộng theo hƣớng Luật điều chỉnh các quan hệ CCCN trong việc phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhƣợng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện. - Về đối tượng áp dụng: Nhằm khắc phục những bất cập trong các văn bản pháp lý hiện hành và trƣớc đó khi quy định chỉ có các doanh nghiệp mới đƣợc phát hành các CCCN, Luật các CCCN đã mở rộng đối tƣợng đƣợc phép tham gia vào quan hệ CCCN bao gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài trên lãnh thổ nƣớc CHXHCN Việt Nam. Điểm mới này góp phần tạo ra hành lang pháp lý bình đẳng cho tất cả các đối tƣợng trong quan hệ CCCN, thể hiện nguyên
- 42 tắc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trƣớc pháp luật mà Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra. Nó tạo cơ hội cho các tiểu thƣơng và cá nhân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, Luật cũng bỏ quy định TCTD không phải là ngƣời ký phát hành trong PLTP và quy định nêu trong Nghị định 32 rằng: TCTD tham gia quan hệ thƣơng phiếu phải đƣợc NHNN chấp thuận bằng văn bản. Quy định mới này đã đem lại sự thống nhất giữa Luật các CCCN và Luật Doanh nghiệp về quan điểm TCTD cũng đƣợc xem là một doanh nghiệp, giải quyết đƣợc những mâu thuẫn hiện hành trong luật, đồng thời tạo thêm công cụ thanh toán cho các NHTM. - Về cơ sở phát hành CCCN: Luật quy định một đặc trƣng quan trọng đảm bảo khả năng lƣu thông của CCCN là các quan hệ CCCN độc lập với giao dịch gốc là cơ sở cho việc phát hành CCCN. Điều 3 của Luật quy định: “Người ký phát, người phát hành được phát hành công cụ chuyển nhượng trên cơ sở giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, cho vay giữa các tổ chức, cá nhân với nhau; giao dịch cho vay của tổ chức tín dụng với tổ chức, cá nhân; giao dịch thanh toán và giao dịch tặng cho theo quy định của pháp luật”. Đây là một điểm mới cơ bản so với PLTP 1999. Luật các CCCN 2005 đã mở rộng cơ sở phát hành CCCN đối với các giao dịch thƣơng mại, tín dụng, thanh toán và tặng cho giữa các tổ chức, cá nhân với nhau. Trƣớc đây, theo điều 1 PLTP 1999 thì hối phiếu đƣợc phát hành trên cơ sở hoạt động thƣơng mại có liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc phát hành, chấp nhận, chuyển nhƣợng, bảo lãnh, thanh toán, truy đòi, khởi kiện, cầm cố. Nhƣ vậy phải chăng PLTP chỉ điều chỉnh những hối phiếu có sự tham gia của các tổ chức tín dụng, ngoài ra thì không điều chỉnh? Với sự điều chỉnh này, Luật CCCN 2005 đã bao quát đƣợc hầu hết các giao dịch trong nền kinh tế và cho phép phát hành, ký phát CCCN trên cơ sở các giao dịch này, đồng thời Luật cũng đã tách bạch hoạt động thƣơng mại với hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc ký phát hành CCCN. - Về áp dụng tập quán quốc tế: Nhằm đáp ứng các yêu cầu đặt ra khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Luật các CCCN cho phép bên tham gia quan hệ CCCN đƣợc quyền thoả thuận áp dụng các tập quán thƣơng mại quốc tế thông dụng (nhƣ Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ) và các tập
- 43 quán thƣơng mại quốc tế có liên quan khác theo quy định của Chính phủ. Nhƣ vậy, Luật đã bỏ quy định trong PLTP trong đó quy định: “Tập quán thương mại quốc tế chỉ được áp dụng cho quan hệ thương phiếu có yếu tố nước ngoài, nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam”. Luật bỏ quy định này là hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc cho phép các tổ chức, cá nhân áp dụng các tập quán thƣơng mại quốc tế có tác dụng tích cực phát triển các quan hệ thƣơng mại trong nƣớc và với nƣớc ngoài, góp phần làm tăng trƣởng kinh tế trong nƣớc. - Về các loại CCCN: Luật dành 3 chƣơng quy định cụ thể về ba loại CCCN là hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc với các quy định về phát hành, nội dung, bảo lãnh, chuyển nhƣợng, cầm cố, thanh toán, truy đòi của từng công cụ. Luật các CCCN 2005 của Việt Nam đƣợc xây dựng theo hƣớng quy định chi tiết, nên hầu hết các quy định của Luật đƣợc thực hiện ngay mà không cần có Nghị định hƣớng dẫn chi tiết thi hành Luật, trừ một số nội dung mang tính kỹ thuật và cần có nghiệp vụ. 2.2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CCCN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. 2.2.1. Thời kỳ trƣớc đổi mới. * CCCN không được sử dụng trong quan hệ thanh toán và tín dụng giữa Việt Nam và các nước XHCN trong thời gian trước đây. Trƣớc khi hệ thống kinh tế XHCN trên thế giới sụp đổ năm 1990, quan hệ thanh toán và tín dụng giữa các nƣớc XHCN vẫn đƣợc thực hiện dựa trên các Hiệp định thƣơng mại, Hiệp định tín dụng, Hiệp định thanh toán song biên và đa biên do các nƣớc thành viên ký kết. Do đó, các CCCN cũng không đƣợc sử dụng trong quan hệ thanh toán và tín dụng này. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Hội đồng tƣơng trợ kinh tế (SEV), quan hệ thƣơng mại và tín dụng giữa Việt Nam và các nƣớc thành viên SEV vẫn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở của các Hiệp định thƣơng mại tay đôi, trong khi đó, quan hệ tín dụng đƣợc quy đổi ra Rúp chuyển nhƣợng dựa theo các Hiệp định thanh toán bù trừ thông qua hai ngân hàng là: Ngân hàng Hợp tác kinh tế quốc tế XHCN (MBES) và Ngân hàng Đầu tƣ quốc tế XHCN (MIB). Tƣơng tự, các quan hệ vay nợ, viện trợ giữa các nƣớc thành viên, trong đó có Việt Nam, đƣợc thực hiện bằng Hợp đồng Vay nợ và Viện trợ song biên hoặc đa biên; còn hoạt động thanh toán sẽ bằng Rúp chuyển nhƣợng theo quy
- 44 định của Hiệp định Thanh toán bù trừ đa biên. Trong tình hình đó, tín dụng thƣơng mại giữa các nƣớc thành viên nội khối hầu nhƣ không phát triển. Có thể nói, các CCCN vì thế cũng không có cơ sở hình thành và phát triển ở Việt Nam.[6] * CCCN là thương phiếu đã được sử dụng trong quan hệ thanh toán và tín dụng giữa Việt Nam và các nước Tư bản chủ nghĩa. Trong thời đại phong kiến, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế sản xuất tự cung tự cấp, bế quan toả cảng, thƣơng mại bị coi nhẹ dẫn đến các CCCN chƣa đƣợc biết đến, cũng nhƣ các văn bản pháp lý điều chỉnh việc sử dụng CCCN cũng chƣa đƣợc ban hành. Đến thời kỳ Pháp thuộc, sau khi Công ƣớc Giơnevơ đƣợc phê chuẩn cuối năm 1935, Toàn quyền Pháp ở Đông Dƣơng đã ban hành nghị định chính thức áp dụng Luật Thƣơng phiếu của Pháp trên toàn cõi Đông Dƣơng. Trong thời kỳ này, CCCN là thƣơng phiếu đã đƣợc sử dụng trong quan hệ nội thƣơng và ngoại thƣơng của Pháp tại Việt Nam, do đó Việt Nam áp dụng Luật Thƣơng phiếu của Pháp. Các giấy tờ cam kết trả tiền hàng hoá đã đƣợc một số thƣơng nhân sử dụng trong quan hệ mua bán chịu của mình trong giai đoạn này. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (giai đoạn 1945-1954), khu vực thực dân Pháp tạm thời chiếm đóng (Miền Nam) vẫn tiếp tục sử dụng CCCN là thƣơng phiếu (đặc biệt là hối phiếu), còn khu vực kháng chiến (Miền Bắc) không còn sử dụng thƣơng phiếu nữa do kinh tế phục vụ kháng chiến không là cơ sở cho thƣơng phiếu hình thành và phát triển. Từ 1954-1972, Miền Nam sử dụng thƣơng phiếu theo Luật Thƣơng mại của Pháp. Năm 1972, Chính quyền Sài Gòn ban hành Bộ Luật Thƣơng mại Sài Gòn, trong đó dành riêng chƣơng 6 để quy định về hối phiếu, kỳ phiếu và séc. Tuy thƣơng phiếu thời kỳ này chƣa đƣợc sử dụng nhiều và phổ biến, phạm vi sử dụng mới giới hạn ở lĩnh vực xuất nhập khẩu và đối tƣợng sử dụng mới chỉ là các doanh nghiệp lớn, song phần nào đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ở Miền Nam Việt Nam có thêm hiểu biết và kinh nghiệm về việc sử dụng CCCN trong hoạt động thƣơng mại. Sau khi đất nƣớc thống nhất, Luật Thƣơng mại Việt nam Cộng hoà cũng hết hiệu lực thi hành.
- 45 Giai đoạn 1975-1986, nền kinh tế Việt Nam vẫn mang nặng tính bao cấp, Nhà nƣớc vẫn độc quyền trong nội thƣơng và ngoại thƣơng, thiếu tính hiệu quả và mang tính trì trệ cao. Thƣơng mại chƣa đƣợc chú trọng đúng mức, các quan hệ CCCN trong thƣơng mại nội địa không đƣợc hình thành và phát triển. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nền kinh tế nƣớc ta chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của Nhà nƣớc, theo định hƣớng XHCN, thƣơng mại trong nƣớc và cả với nƣớc ngoài đƣợc quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp Việt Nam với nƣớc ngoài đƣợc tiến hành theo thông lệ quốc tế dựa trên hợp đồng ngoại thƣơng các bên ký kết. CCCN đặc biệt là hối phiếu, kỳ phiếu đƣợc sử dụng nhiều hơn trong thanh toán quốc tế bằng phƣơng thức tín dụng chứng từ, phƣơng thức nhờ thu thông qua các NHTM.[7] Nói tóm lại, ở Việt Nam trong thời gian trƣớc đây, do thƣơng mại trong nƣớc và với nƣớc ngoài chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, nền kinh tế còn mang nặng tính bao cấp, Nhà nƣớc giữ thế độc quyền cao, nên đã không tạo đƣợc môi trƣờng và cơ sở thích hợp cho các CCCN đƣợc hình thành và phát triển. 2.2.2. Thời kỳ sau đổi mới đến nay. 2.2.2.1. Hoạt động thương mại quốc tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng - cơ sở phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam. a) Hoạt động thương mại quốc tế trong những năm gần đây: Trong những năm qua, hoạt động ngoại thƣơng của Việt Nam có xu hƣớng tăng nhanh và tốc độ tăng trƣởng trung bình (15-20%) cao hơn tốc độ tăng trƣởng bình quân GDP (7-8) kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế. Việt Nam đã có quan hệ thƣơng mại với hơn 200 nƣớc và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt, ta đã ký kết đƣợc nhiều Hiệp định, thoả thuận thƣơng mại quan trọng nhƣ Hiệp định tiếp cận thị trƣờng EU, Hiệp định thƣơng mại tự do ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Ấn độ, ASEAN-Hàn quốc, và nhiều hiệp định kinh tế thƣơng mại với nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO kể từ ngày 1/11/2006. Điều đó thể hiện mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn vào nền kinh tế thế giới và khẳng định xu hƣớng hội nhập không thể đảo ngƣợc của Việt Nam mà trƣớc hết và trực tiếp là lĩnh
- 46 vực xuất-nhập khẩu. Đây là yếu tố khẳng định sự thành công của đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và đa phƣơng hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng mạnh ở mức kỷ lục, đạt 39,6 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2005 và chiếm trên 60%GDP của cả nƣớc. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 110,6 tỷ USD, cao hơn 1,8% so với mục tiêu đặt ra trong Chiến lƣợc Phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010. Nhiều mặt hàng xuất khẩu đã đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD nhƣ dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản. Bảng 2.1: Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD năm 2006 STT Mặt hàng Kim ngach (tỷ USD) 1 Dầu thô 8,3 2 Dệt may 5,8 3 Giày dép 3,5 4 Thuỷ sản 3,4 5 Sản phẩm gỗ 1,9 6 Điện tử và linh kiện máy tính 1,77 7 Gạo 1,38 8 Cao su 1,3 9 Cà phê 1,1 (Nguồn: Bộ Thương mại - Báo cáo hoạt động xuất nhập khẩu năm 2006) Các thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam cũng tiếp tục đƣợc mở rộng. Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ thƣơng mại với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2006, Việt Nam đã xuất khẩu vào 16 thị trƣờng với kim ngạch trên 500 triệu USD, trong đó có tới 6 thị trƣờng với kim ngạch ƣớc đạt trên 1 tỷ USD; đó là Mỹ (8 tỷ USD), Nhật Bản (5,2 tỷ USD), Trung Quốc (3,2 tỷ USD), Úc (2,59 tỷ USD), Xingapo (1,66 tỷ USD) và Đức (1,05 tỷ USD). Tính chung kim ngạch xuất khẩu vào 16 thị trƣờng lớn nhất ƣớc đạt 24,91 tỷ USD, chiếm tới 77,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2006. Hầu hết thị trƣờng xuất khẩu vào các khu vực, lãnh thổ đều có sự tăng trƣởng kim ngạch khá cao, từ 15% đến 65%, trong đó Châu Á tăng 21,3% (riêng các nƣớc ASEAN tăng 42,6%), Châu Âu tăng 6,7% (riêng EU tăng 8,1%), Châu Mỹ tăng 21,7%, Châu Đại Dƣơng tăng 51% và Châu Phi tăng 83,9%. Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu năm 2006 có sự chuyển dịch tƣơng đối rõ nét với thị phần tăng tại các khu vực/nƣớc nhƣ ASEAN, Úc, Nhật Bản, giảm mạnh tại EU, và giảm nhẹ tại thị trường Mỹ, Trung Quốc.