Luận văn Nghiệp vụ bao thanh toán factoring) và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

pdf 118 trang vanle 2760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghiệp vụ bao thanh toán factoring) và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_nghiep_vu_bao_thanh_toan_factoring_va_trien_vong_ap.pdf

Nội dung text: Luận văn Nghiệp vụ bao thanh toán factoring) và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG  NGUYỄN THỊ MINH NGỌC NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN FACTORING) VÀ TRIỂN VỌNG ÁP DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. VŨ SỸ TUẤN HÀ NỘI 2006
  2. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hoạt động bao thanh toán là một trong những hình thức tài trợ thương mại lâu đời nhất trên thế giới. Với một bề dày lịch sử phát triển hàng trăm năm, bao thanh toán đang là một phương thức không thể thiếu trong hoạt động thương mại trong nước và đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển. Khi thế đàm phán trong thương mại nghiêng về phía người mua; người bán buộc phải nhượng bộ. Việc người bán cấp tín dụng cho người mua trở thành một trong những điều khoản bắt buộc trong nhiều thoả ước kinh tế. Trên thực tế, người bán lại rất cần vốn để tiếp tục sản xuất, kinh doanh, đặc biệt đối với người bán là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phương thức bao thanh toán ra đời đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, đồng thời đem lại nguồn thu không nhỏ cho các công ty bao thanh toán. Bao thanh toán thực chất là việc tổ chức tín dụng hay công ty bao thanh toán đứng ra tạm ứng cho người bán để người bán tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh thông qua việc mua lại và quản lý những khoản phải thu của người bán. Bao thanh toán đến với Việt Nam hơi muộn nhưng bao thanh toán đang là một kênh cấp tín dụng được các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng hết sức quan tâm. Việt Nam đang trên con đường chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đặt các ngân hàng thương mại Việt Nam đứng trước những thách thức lớn; đó là bị “thua thiệt ngay trên sân nhà” nếu không có những bước đột phá trong cung cấp dịch vụ ngân hàng mới như bao thanh toán hay bảo hiểm tín dụng . Có thể thấy, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, giữ được vị thế cạnh tranh khi mà các ngân hàng nước ngoài trong tương lai sẽ tham gia vào thị trường tài chính Việt
  3. 2 Nam với quy mô ngày càng rộng và sâu đang trở thành một vấn đề “sống còn”. Việc phát triển loại hình tài trợ thương mại trong đó có dịch vụ bao thanh toán là hoàn toàn phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, đề tài nghiên cứu về “Nghiệp vụ bao thanh toán và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, theo tác giả, mang giá trị thực tiễn cao. 2. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu về nghiệp vụ bao thanh toán, hệ thống hoá những lý luận về nghiệp vụ bao thanh toán tại các tổ chức tín dụng; trên cơ sở đó đánh giá về thực trạng và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp hạn chế rủi ro đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam khi triển khai bao thanh toán 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: - Nghiệp vụ bao thanh toán của các tổ chức tài chính trên thế giới và đi sâu vào nghiệp vụ này ở một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam như chi nhánh Ngân hàng Far East National Bank (FENB-Mỹ), Ngân hàng Citibank; - Nghiên cứu về những cơ hội và thách thức của các Ngân hàng thương mại Việt Nam khi áp dụng dịch vụ này. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: + Phân tích + So sánh + Thống kê + Điều tra chọn mẫu + Tổng hợp + Các bảng số liệu 5. Những đóng góp khoa học của luận văn: - Nghiên cứu về nghiệp vụ bao thanh toán, hệ thống hoá những lý luận về nghiệp vụ bao thanh toán tại các tổ chức tín dụng
  4. 3 - Đánh giá thực trạng và triển vọng nghiệp vụ bao thanh toán ở các NHTM Việt Nam - Đề xuất một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam trong phát triển nghiệp vụ bao thanh toán 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu làm ba chương, cụ thể như sau: Chƣơng I: Tổng quan về nghiệp vụ bao thanh toán (factoring) của các tổ chức tín dụng Chƣơng II: Thực trạng và triển vọng của nghiệp vụ bao thanh toán tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Chƣơng III: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
  5. 4 CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING) CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ngày nay khi tốc độ lưu thông tiền tệ đang được thúc đẩy, nhu cầu về vốn đối với hầu hết các doanh nghiệp đang trở thành một vấn đề khó khăn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do việc tiếp cận với nguồn vốn cho vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác không đơn giản. Với nhiều quốc gia trên thế giới bao thanh toán thực sự là một phương thức tài trợ thương mại đem lại nguồn lợi to lớn không chỉ cho các nhà bao thanh toán mà còn đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này với các tính năng ưu việt của nó. Do đó, việc nắm vững cơ sở lý luận về bao thanh toán là cần thiết, để từ đó có cái nhìn khách quan hơn trong quá trình tiếp cận và ứng dụng tốt vào thực tiễn loại hình nghiệp vụ này. 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN 1.1.1. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển của bao thanh toán 1.1.1.1. Lịch sử ra đời của bao thanh toán Hoạt động bao thanh toán là một trong những hình thức tài trợ lâu đời nhất trên thế giới với một bề dầy lịch sử phát triển hàng trăm năm. Một số học giả cho rằng bao thanh toán có từ thời đế chế La Mã. Một số nhà học giả lại cho rằng bao thanh toán có từ cách đây chừng bốn nghìn năm từ thời vua Hammurabi. Hammurabi là vị vua của vùng Mesopotamia, nơi được coi là cội nguồn phát triển việc cho vay. Khái niệm factor xuất phát từ động từ trong tiếng Latin facio, có nghĩa là “he who does thing” (tạm dịch là “người kinh doanh buôn bán hưởng hoa hồng”). Động từ tiếng Latin trên gợi ý rằng nguồn gốc của bao thanh toán cũng được phát sinh vào thời gian đó khi ấy, nó được đưa vào nội dung các giấy tờ làm bằng chứng cho các hoạt động
  6. 5 mua bán của vùng và các văn bản mô phỏng luật lệ cai trị của vị vua này. Theo thời gian, vị vua Hammurabi và người dân ở vùng đất này cũng không còn nhưng phương thức bao thanh toán vẫn còn tồn tại. Hầu hết các quốc gia văn minh thời bấy giờ coi trọng buôn bán, đều đã thử ứng dụng một số phương thức tương tự như phương thức bao thanh toán hiện giờ; lấy một ví dụ điển hình là người Roman đã từng bán giảm giá tờ thương phiếu. Các nhà sử học thường cho rằng bao thanh toán có từ thời xuất hiện đại lý hưởng hoa hồng, những người thực hiện việc mua bán và luân chuyển hàng hoá khoảng 2000 năm trước thời Đế chế La mã. Do hệ thống thông tin và vận tải còn sơ khai, đại lý hưởng hoa hồng thực hiện chức năng marketing quan trọng trong giao dịch giữa nhà sản xuất ở nước ngoài và người mua trong nước. Với vai trò là đại lý, họ nắm quyền sở hữu (không chỉ đơn thuần về mặt danh nghĩa) của hàng hoá của bên uỷ nhiệm - nhà sản xuất nước ngoài - rồi giao hàng hoá đó cho người mua trong nước, ghi sổ và thu nợ khi đến hạn, chuyển số tiền trả nợ cho bên uỷ nhiệm sau khi đã trừ đi phần hoa hồng của mình, phần hoa hồng này thường được tính bằng phần trăm trên tổng doanh thu. Cùng với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp dệt của Anh vào thế kỷ 14 và thế kỷ 15, các đại lý bao thanh toán cũng ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong giao thương. Khi họ bắt đầu tin tưởng hơn vào khả năng trả nợ của khách hàng, họ chấp nhận cấp tín dụng cho các đại lý cấp dưới của mình để ăn hoa hồng cao hơn. Thực tế là với khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý bao thanh toán bắt đầu đảm bảo khả năng trả nợ của người mua bằng cách cam kết trả cho đại lý cấp dưới trong trường hợp người mua không trả nợ đúng hạn và khả năng tài chính của họ không cho phép họ có sẵn nguồn để thanh toán. Trước đó không lâu, xuất hiện hình thức bảo lãnh tín dụng, đại lý thanh toán có đủ vốn bắt đầu trả trước một phần, gọi là “tạm ứng” cho đại lý cấp
  7. 6 dưới của mình dựa trên khoản thanh toán trong tương lai của người mua hoặc của đại lý bao thanh toán, nếu người mua không trả tiền và nếu nó bảo lãnh khoản tín dụng đó với người mua. Do có những khoản tạm ứng này mà đại lý bao thanh toán tính thêm phí hoa hồng hoặc lãi suất. Thông thường, để tránh khỏi tình trạng không thanh toán hoặc là thanh toán không đủ do những vấn đề không thuộc lĩnh vực tín dụng; ví dụ như người mua khiếu nại người bán về số lượng, chất lượng hoặc thời gian giao hàng, đại lý bao thanh toán không tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng. Thay vào đó họ giữ lại một phần để dự trữ phải trả cho người bán cho tới khi họ đã thu hồi được tất cả các khoản nợ. Người mua được thông báo là đại lý bao thanh toán đã mua quyền nhận tiền thanh toán của họ. 1.1.1.2. Sự phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán trên thế giới Vào thời điểm Columbus phát hiện ra châu Mỹ năm 1492, đại lý bao thanh toán đã phát triển từ vai trò duy nhất là với chức năng marketing thành đóng vai trò vừa có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính. Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chế độ thực dân của Mỹ, và cùng với nó vai trò ngày càng tăng và nhiều cơ hội mới cho bao thanh toán - đặc biệt là đối với những người thiết lập hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Khoảng cách giữa châu Âu và thị trường thực dân rất lớn và càng lớn hơn khi Mỹ mở rộng biên giới phía Tây của nó. Khoảng cách lớn này làm cho những nhà sản xuất châu Âu khó quen với thị trường châu Mỹ và làm giảm sự tin cậy về tín dụng đối với những khách hàng đầy tiềm năng này. Và điều này làm cho vòng tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất cho đến khi nhận được khoản tiền thanh toán cuối cùng cũng dài hơn. Kết hợp những yếu tố trên đây có thể thấy người sản xuất phải trải qua rất nhiều khó khăn để thu hồi vốn tái sản xuất. Vì vậy, những đại lý bao thanh toán ở Mỹ do đã quen với thị trường và người mua trong nước của họ, quyết định nhóm họp lại thành
  8. 7 một tổ chức để cung cấp cho các nhà sản xuất châu Âu những dịch vụ marketing và tài chính tương tự như trước đây các đại lý bao thanh toán vẫn thường làm. Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương mại đã diễn ra. Mỹ phát triển mạnh mẽ trở thành một quốc gia có chủ quyền, ít bị phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành công nghiệp trong nước có được là nhờ dân số và lực lượng lao động phát triển rất nhanh, tài nguyên thiên nhiên dư thừa và việc áp đặt biểu thuế gắt gao đối với hàng hoá nước ngoài. Đồng thời những nhà sản xuất Mỹ cũng phát triển đội ngũ kinh doanh (marketing) của mình và vì vậy nhu cầu chức năng marketing mà trước đây các nhà bao thanh toán thường thực hiện bấy giờ giảm đi. Tuy nhiên, một lần nữa các đại lý bao thanh toán lại phát triển và điều chỉnh theo nhu cầu của nền kinh tế mới trong nước, tập trung vào các hoạt động tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính (thường là thông báo cho người mua việc bán các khoản phải thu). Việc giao cho các đại lý bao thanh toán thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản xuất ngành dệt của Mỹ có thời gian tập trung hơn vào sản xuất và tiếp thị kinh doanh sản phẩm. Vào đầu thế kỷ 20, khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng sang các sản phẩm may mặc, phụ kiện, đồ nội thất và thảm , các đại lý bao thanh toán Mỹ cũng mở rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp mới này. Trước năm 1930, bao thanh toán diễn ra chủ yếu trong ngành công nghiệp dệt may vì ngành công nghiệp này là con đẻ của nền kinh tế thuộc địa vốn rất hay áp dụng hình thức bao thanh toán. Sau chiến tranh thế giới thứ II, bao thanh toán của Mỹ phát triển sang các ngành công nghiệp mới đang phát triển như điện, hoá chất, sợi tổng hợp công ty bao thanh toán đưa ra hình thức bao thanh toán mua lại các khoản phải thu dựa trên cơ sở hoá đơn và từ
  9. 8 đó trở đi bao thanh toán đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong hoạt động của giới doanh nhân. Ngày nay các đơn vị bao thanh toán tồn tại dưới đủ mọi hình thức: một phòng ban của một tổ chức tài chính lớn hay ở quy mô lớn hơn như một doanh nghiệp kinh doanh độc lập. Rất nhiều đơn vị bao thanh toán đã hoạt động thực sự có những bước tiến mạnh mẽ khi mức lãi suất tăng cao đỉnh điểm vào những năm 60, 70. Xu hướng này càng diễn biến trở nên sâu sắc hơn khi vào những năm 80, lãi suất ngày càng gia tăng và ngành ngân hàng đã có những biến động mạnh. Từ đó việc hình thành một Hiệp hội thế giới về bao thanh toán trở thành một vấn đề cấp thiết. Đầu những năm 1960, tổ chức các nhà bao thanh toán quốc tế ra đời (gọi tắt là IFG: International Factor Group) ra đời với gần 70 thành viên có mặt ở 47 quốc gia. Với mục tiêu để giúp các nhà bao thanh toán thuận lợi trong quá trình hợp tác với nhau, IFG là tổ chức sáng lập ra hệ thống bao thanh toán hai đơn vị (two-factor system), một hệ thống dịch vụ bao thanh toán quốc tế. Một tổ chức khác mạnh và có tầm ảnh hưởng lớn đó là Hiệp hội các nhà bao thanh toán thế giới - Factors Chain International (gọi tắt là FCI). Năm 1968, FCI ra đời với vai trò là một hiệp hội đứng ra tập hợp các công ty bao thanh toán độc lập lại với nhau. Ngay từ những ngày đầu thành lập các thành viên sáng lập ra FCI luôn nhận thức được tiềm năng của bao thanh toán, do đó họ luôn đặt sứ mệnh của FCI lên trên hết đó là: Đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ mang tính toàn cầu Giúp các thành viên trong Hiệp hội của mình giành được lợi thế cạnh tranh trong tài trợ thương mại toàn cầu thông qua việc  Thiết lập một mạng lưới các nhà bao thanh toán hàng đầu thế giới
  10. 9  Xây dựng một hệ thống mạng lưới thông tin hiện đại và hiệu quả để kết nối các nhà bao thanh toán lại với nhau  Xây dựng khung pháp lý nhằm bảo vệ các nhà xuất nhập khẩu  Tiến hành thủ tục tuân chuẩn quy tắc về chất lượng dịch vụ đặt ra  Thường xuyên xây dựng các gói đào tạo  Không ngừng giới thiệu quảng bá bao thanh toán là một phương thức tối ưu trong tài trợ thương mại. Với phương châm hoạt động như vậy, cho đến nay FCI đã có trong mình số lượng thành viên lên tới 206 tại 59 quốc gia, chiếm hơn 50% doanh số bao thanh toán toàn cầu. Doanh số bao thanh toán cũng như tầm ảnh hưởng tới tài chính toàn cầu của FCI ngày càng gia tăng rõ rệt. 1984 19.393 1989 80.496 1994 130.166 1999 245.354 2004 437.932 2005 479.433 (đơn vị: triệu euro) Biểu đồ 1.1: Doanh số bao thanh toán của FCI (Nguồn: Factors Chain International, 2005) 1984 29% 1989 41% 1994 44% 1999 42% 2004 51% 2005 54%
  11. 10 Biểu đồ 1.2: Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn cầu (Nguồn: Factors Chain International, 2005) 1984 1.384 1989 5.384 1994 9.875 1999 19.405 2004 43.565 2005 51.672 (đơn vị: triệu euro) Biểu đồ 1.3: Doanh số bao thanh toán xuất nhập khẩu của FCI (Nguồn: Factors Chain International) 1984 32% 1989 47% 1994 49% 1999 49% 2004 64% 2005 68% Biểu đồ 1.4: Thị phần về doanh số bao thanh toán xuất nhập khẩu của FCI so với toàn cầu (Nguồn: Factors Chain International) Qua bảng số liệu, có thể thấy sự phát triển không ngừng về doanh số bao thanh toán đang minh chứng cho hoạt động sôi động và chiếm ưu thế của FCI trong thị trường bao thanh toán trên toàn thế giới. Ngoài ra, với đội ngũ khách hàng lên tới con số 134.800, 4.962.638 người mua và
  12. 11 102.105.720 giao dịch bao thanh toán đã diễn ra tính đến thời điểm quý IV/2005, FCI đang ngày càng khẳng định tầm ảnh hưởng của mình tới nền tài chính toàn cầu. Với một truyền thống lịch sử khá lâu đời, sự phát triển không ngừng của phương thức bao thanh toán qua một số thời kỳ và sự ra đời của một số tổ chức, hiệp hội về bao thanh toán, có thể thấy trên thế giới, đặc biệt ở Mỹ, bao thanh toán đang ngày càng trở thành một phương thức tài trợ thương mại được ưa chuộng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nghiệp vụ này, vẫn tồn tại một số quan niệm chưa đúng. Trước khi nghiên cứu bản chất của bao thanh toán, tác giả xin đưa ra một số quan điểm sai lầm của một số người khi đánh giá về bao thanh toán. 1.1.2. Một số quan niệm sai lầm về bao thanh toán Do bản chất bao thanh toán là một nghiệp vụ tài chính khá đặc biệt nên khá nhiều người vẫn có những quan niệm sai lầm chưa đúng về hoạt động bao thanh toán: 1.1.2.1. Bao thanh toán là một khoản cho vay Trên thực tế, mặc dù bao thanh toán là công cụ tài trợ thương mại nhưng bao thanh toán lại không là một khoản cho vay thông thường vì bao thanh toán không mang đặc thù của các khoản vay như thời hạn hoàn trả hay trách nhiệm hoàn trả của người xin vay. Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng sẽ không cho vay nếu tài sản đảm bảo của khoản vay không đủ lớn; còn trên thực tế đối với bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán lại tập trung đánh giá các khoản phải thu. Trong một số trường hợp, ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác vẫn có thể cấp vốn lưu động dựa trên những khoản phải thu, tuy nhiên như trên đã khẳng định, nó không liên quan đến thời hạn hoàn trả hay trách nhiệm hoàn trả của người xin vay. 1.1.2.2. Bao thanh toán là một hình thức để xử lý nợ khó đòi
  13. 12 Bao thanh toán cung cấp các dịch vụ thu nợ các khoản phải thu đến hạn với tính chất chuyên nghiệp cao nhưng thực chất đơn vị hay công ty bao thanh toán không phải là tổ chức chuyên xử lý các khoản nợ khó đòi tiến hành các việc như: cơ cấu lại khoản vay, cơ cấu lại hoặc tiếp quản con nợ và các nghiệp vụ xử lý nợ khó đòi khác. Nói cách khác, bao thanh toán không phải là dịch vụ cung cấp cho khách hàng khi các khoản phải thu của họ là các khoản nợ khó đòi hoặc bản thân họ không thu được nợ của những người mua hàng. 1.1.2.3. Bao thanh toán là nghiệp vụ mang tính “chiết khấu hối phiếu” Về hình thức, bao thanh toán và nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu giống nhau ở chỗ đều cho phép khách hàng nhận ngay được một khoản tiền khi xuất trình hoá đơn hay hối phiếu. Tuy nhiên có điểm khác biệt là hối phiếu trong nghiệp vụ chiết khấu được “tài sản hoá” để chuyển nhượng còn hoá đơn trong bao thanh toán là phương tiện để thu hồi nợ. Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu tập trung nhiều vào mục đích “tài chính” hơn so với bao thanh toán 1.2.2.4. Một số quan niệm chưa đúng khác Bao thanh toán chỉ sử dụng khi có khó khăn về mặt tài chính cho nên khách hàng cảm thấy “mất uy tín” khi thông báo cho người mua hàng biết về những khoản phải thu đó được bao thanh toán. Khách hàng sử dụng dịch vụ bao thanh toán vì những lợi ích của nó đem lại phù hợp với lợi ích khách hàng, đó không phải là hoạt động cứu trợ khi khách hàng gặp khó khăn về tiền mặt, vốn lưu động. Do vậy sẽ không đúng khi cho rằng khách hàng tham gia vào bao thanh toán đang gặp khó khăn và khách hàng mất uy tín khi tham gia vào bao thanh toán. Công ty bao thanh toán có vai trò như “người cho vay cuối cùng” và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Không phải khách hàng chỉ lựa chọn phương thức bao thanh toán khi họ không thể tiếp cận được với nguồn vốn
  14. 13 vay ngân hàng. Bao thanh toán cho phép chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt một cách nhanh chóng tuy nhiên đây không phải là phương tiện để xử lý các khó khăn về vấn đề thanh khoản. Khách hàng quyết định sử dụng dịch vụ bao thanh toán khi mà mức chi phí bao thanh toán nhỏ hơn lợi ích mà việc có tiền mặt trong tay mang lại tại thời điểm nhận tiền thanh toán trước. Trên đây là một số quan điểm sai lầm, rất dễ dẫn đến nhầm lẫn các phương thức tương tự. Như vậy, thực chất bao thanh toán là gì và tại sao người ta lại quan tâm đến loại hình dịch vụ này nhiều đến vậy. Trước hết, xin bắt đầu bằng một số khái niệm về bao thanh toán 1.1.3. Khái niệm về bao thanh toán Khái niệm về bao thanh toán không phải là mới đối với hệ thống các ngân hàng hay tổ chức tín dụng, nhưng với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thì đây dường như là một khái niệm vô cùng mới mẻ. 1.1.3.1. Khái niệm theo Công ước quốc tế về Bao thanh toán tại Ottawa Hiệp hội các nhà bao thanh toán quốc tế cùng với việc hoạt động ngày càng phát triển của mình, đồng thời nhằm phối hợp, giúp đỡ nhau trong hoạt động thương mại quốc tế đưa ra những chuẩn mực làm căn cứ pháp lý cho hoạt động bao thanh toán, đảm bảo lợi ích cho các bên có liên quan, đã chính thức cho ra đời Công ước quốc tế về bao thanh toán (UNIDROIT Convention on International Factoring) ngày 28/05/1998 trong cuộc họp các nhà bao thanh toán tại Ottawa (Canada). Theo Công ước này, hoạt động bao thanh toán là hoạt động công ty bao thanh toán mua lại các khoản phải thu của khách hàng phát sinh từ giao dịch bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ nhưng thanh toán chậm, theo đó khách hàng nhận được các khoản tiền ứng trước tương ứng với tỷ lệ định trước giá trị của khoản phải thu. Phần giá trị còn lại sẽ trả lại khách hàng khi người
  15. 14 mua hàng thực hiện việc thanh toán và đã trừ đi các khoản phí trả cho công ty bao thanh toán. Ngoài ra, việc tài trợ chính, bao thanh toán còn bao gồm cả việc quản lý sổ sách bán hàng, kế toán và tiến hành việc thu nợ một cách chuyên nghiệp để đảm bảo tối đa lợi ích khách hàng. Như vậy, bao thanh toán theo Công ước quốc tế về bao thanh toán là hoạt động tài chính tổ hợp từ các hoạt động tài trợ, quản lý sổ sách kế toán, bán hàng thu nợ và bảo vệ khách hàng trước rủi ro tín dụng. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau mô tả về nghiệp vụ bao thanh toán qua lịch sử phát triển của nghiệp vụ này. Những định nghĩa này khác nhau khá nhiều phụ thuộc vào thời gian và hoàn cảnh. “Định nghĩa thuần tuý” nhất của Mỹ được định nghĩa như sau “Bao thanh toán là một thoả thuận tiếp theo giữa bên liên quan đến bao thanh toán và người bán hàng hoặc là người cung cấp dịch vụ về mở một tài khoản, chiểu theo đó bên bao thanh toán tiến hành (tất cả) những dịch vụ sau liên quan đến khoản phải thu phát sinh từ việc bán hàng hoá và dịch vụ nói trên: (1) Mua lại tất cả những khoản phải thu và nếu cần thiết thì ứng trước tiền mặt dựa trên các khoản phải thu này trước khi thu nợ (2) Duy trì ghi sổ cái và thực hiện các nhiệm vụ ghi sổ sách khác liên quan đến khoản phải thu này. (3) Thu nợ các khoản phải thu (4) Dự tính các tổn thất có thể xảy ra khi tình hình tài chính của khách hàng không trả được nợ (tổn thất tín dụng)” 1.1.3.2. Khái niệm theo Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng Việt Nam Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ bao thanh toán cho các bên tham gia trong hoạt động bao thanh toán trong nước và bao thanh toán quốc tế trong hoạt động thương mại khu vực và quốc tế, sau nhiều lần dự
  16. 15 thảo, ngày 06/09/2004, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã chính thức đưa ra Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ/NHNN. Trong Quy chế, điều 2 quy định rõ khái niệm bao thanh toán: Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của Tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng. Như vậy, hiểu một cách đơn giản bao thanh toán là một hình thức tài trợ thương mại trong đó ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đáo hạn để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ người mua hàng đồng thời cung cấp dịch vụ quản lý sổ cái bán hàng cho bên bán hàng. Tại Quy chế này cũng quy định rõ một số khái niệm cần thiết liên quan đến khái niệm về bao thanh toán như: Khoản phải thu: là khoản tiền bên bán hàng phải thu từ bên mua hàng theo hợp đồng mua, bán hàng. Tuy nhiên, không phải tất cả các khoản phải thu đều thuộc bao thanh toán, có một số trường hợp các khoản phải thu không nằm trong bao thanh toán như: . Gửi bán: Trường hợp này người mua không phải trả tiền hàng cho đến khi hàng hoá đã được bán đi. Nếu sau một thời gian mà hàng hoá chưa bán được, người mua hoàn lại hàng cho người bán và tài khoản người mua lại ghi có. . Lắp đặt thiết bị sản xuất: Người mua sẽ chỉ thanh toán tiền hàng khi thiết bị vận hành theo đúng quy cách chi tiết kỹ thuật đã thoả thuận. Nếu người bán bị vỡ nợ, sau khi thiết bị đã được giao, lập hoá đơn và đã được lắp đặt theo các chi tiết kỹ thuật đã thoả thuận, khi đó nếu bao thanh toán
  17. 16 cho những khoản phải thu này, công ty bao thanh toán sẽ không được nguời mua thanh toán . Thanh toán theo tiến độ và giữ lại một phần tiền (phổ biến trong ngành xây dựng): người mua có quyền giữ lại 5% đến 10% số tiền trên mỗi hoá đơn cho đến khi kết thúc hợp đồng. Nếu công ty xây dựng bị phá sản giữa chừng trong khi đang tiến hành thực hiện hợp đồng, khi đó người mua sẽ phải tìm một nhà thầu xây dựng khác để tiếp tục thực hiện hợp đồng. Người mua sẽ khấu trừ phần giá trị giữ lại và các chi phí phát sinh thêm vào các hoá đơn chưa thanh toán và đơn vị bao thanh toán sẽ phải chịu rủi ro này. Hợp đồng mua, bán hàng: là thoả thuận bằng văn bản giữa bên bán hàng và bên mua hàng về việc mua, bán hàng hoá theo quy định của pháp luật, trong đó bên mua hàng chưa đến hạn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Số dư bao thanh toán: là số tiền mà đơn vị bao thanh toán ứng trước cho bên bán hàng theo thoả thuận tại hợp đồng bao thanh toán. Hạn mức bao thanh toán: là tổng số dư tối đa của các khoản phải thu được bao thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận của đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng trong hợp đồng bao thanh toán. Bên mua hàng: là tổ chức được nhận hàng hoá từ bên bán hàng và có nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu quy định tại hợp đồng mua, bán hàng. Chứng từ bán hàng: là các chứng từ liên quan đến việc giao hàng và việc yêu cầu thanh toán của bên bán hàng đối với bên mua hàng trên cơ sở hợp đồng mua, bán hàng. Tại khoản 2, điều I của Quy chế này cũng quy định rõ tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng, gồm: - Ngân hàng thương mại nhà nước; - Ngân hàng thương mại cổ phần;
  18. 17 - Ngân hàng liên doanh; - Ngân hàng 100% vốn nước ngoài; - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài; - Công ty tài chính. Khách hàng được tổ chức tín dụng bao thanh toán là các tổ chức kinh tế Việt Nam và nước ngoài cung ứng hàng hoá và được thụ hưởng các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá theo thoả thuận giữa bên bán hàng và bên mua hàng tại hợp đồng mua, bán hàng. Như vậy không phải trong trường hợp nào, bao thanh toán cũng được áp dụng. Theo Quy chế hoạt động bao thanh toán, một số khoản phải thu không được bao thanh toán đó là các khoản phải thu:  Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hoá bị pháp luật cấm  Phát sinh từ các giao dịch thoả thuận bất hợp pháp  Phát sinh từ các giao dịch, thoả thuận đang có tranh chấp  Phát sinh từ các hợp đồng mua bán dưới hình thức ký gửi  Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh toán còn lại dài hơn 180 ngày  Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp  Các khoản phải thu đã quá hạn theo hợp đồng mua bán hàng Các giới hạn này cũng mang tính tương đối tùy từng quy định của luật pháp cũng như quy định của chính tổ chức tín dụng đó. 1.1.3.3. Một số tính chất đặc trưng của bao thanh toán Tính chất tín dụng Với tính chất tín dụng, bao thanh toán sẽ xoá bỏ được các khó khăn trong việc bổ sung vốn lưu động đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào các hoạt động xuất khẩu. Họ thiếu vốn lưu động nhưng việc tiếp cận với nguồn tín dụng hỗ trợ từ phía ngân
  19. 18 hàng và các tổ chức tín dụng khác là rất khó khăn. Với bao thanh toán, các tổ chức tín dụng sẽ chỉ quan tâm đến người mua hàng thông qua hoá đơn các khoản phải thu và không yêu cầu người xuất khẩu phải mang tài sản ra thế chấp. Thông thường, các công ty bao thanh toán sẽ thanh toán ngay 70% đến 90% số tiền trên hoá đơn và số tiền này sẽ được nhà bao thanh toán thanh toán trong vòng 24 giờ. Thay vì phải đợi 30, 60 thậm chí 90 ngày mới được thanh toán tiền hàng, doanh nghiệp xuất khẩu có thể đem bán quyền đòi tiền của mình cho tổ chức bao thanh toán để lấy tiền ngay, trừ đi một khoản chiết khấu hợp lý trên hoá đơn thương mại. Với số tiền đó, doanh nghiệp có thể đẩy nhanh vòng quay sử dụng vốn, chớp lấy cơ hội kinh doanh hấp dẫn khác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như vậy rõ ràng, bao thanh toán không là một khoản tín dụng nhưng nó lại có tính chất tín dụng với các bên tham gia vào bao thanh toán. Tính chất nhờ thu Tính chất nhờ thu của bao thanh toán giúp các doanh nghiệp xuất khẩu làm giảm chi phí quản lý nợ và giảm nợ xấu. Bởi lẽ, khi khách hàng sử dụng dịch vụ bao thanh toán họ sẽ không còn phải lo nghĩ nhiều đến việc quản lý các khoản nợ chưa được thanh toán của mình nữa. Công ty bao thanh toán sẽ đảm nhiệm công việc đó, họ sẽ tiến hành kiểm tra tín dụng, duy trì các khoản phải thu, phải trả và các công việc khác. Hơn nữa, các công ty bao thanh toán thông thường được trang bị đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm trong việc thu hồi các khoản nợ xấu vì cấp tín dụng và thu nợ là công việc chính của công ty này. Vì vậy, trong trường hợp bên nợ không thanh toán hoặc chậm trễ trong việc thanh toán, họ sẽ có nhiều biện pháp thu hồi nợ một cách hiệu quả nhất. Như vậy, bao thanh toán là một nghiệp vụ tài chính khá đặc biệt, vừa mang tính “tín dụng” vừa mang tính “nhờ thu”.
  20. 19 1.2. CÁC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN Cũng giống như một số phương thức tài trợ thương mại khác, bao thanh toán cũng được cung cấp dưói nhiều hình thức đa dạng khác nhau phù hợp với từng nhu cầu cụ thể của khách hàng 1.2.1. Theo loại hình dịch vụ 1.2.1.1. Bao thanh toán đến hạn (Maturity Factoring) Công ty bao thanh toán mua các khoản phải thu của khách hàng và thực hiện thanh toán đầy đủ giá trị của khoản phải thu sau khi trừ đi phí bao thanh toán tại thời điểm thu được nợ từ người mua hàng hoặc vào thời điểm thỏa thuận trước hoặc sau ngày trả nợ ghi trên hoá đơn bán hàng, tùy theo thời điểm nào sớm hơn. Thông thường bao thanh toán đến hạn là hình thức bao thanh toán miễn truy đòi. Khách hàng sử dụng hình thức này thường là các công ty có quy mô trung bình và lớn, muốn chuyển rủi ro tín dụng và công việc thu nợ, theo dõi sổ sách kế toán, bán hàng cho công ty bao thanh toán. 1.2.1.2. Bao thanh toán ứng trước (Advance Factoring) Bao thanh toán ứng trước hay còn gọi là bao thanh toán trọn gói cùng được thoả thuận về mặt thời điểm thanh toán như bao thanh toán đến hạn. Tuy nhiên khách hàng tham gia vào bao thanh toán ứng trước có quyền được nhận một khoản tiền thanh toán trước tương đương với tỷ lệ nhất định (70-90%) giá trị khoản bao thanh toán phải thu ngay trong vòng từ 24-48 tiếng sau khi bàn giao cho công ty bao thanh toán các khoản phải thu. Bao thanh toán ứng trước có thể là truy đòi hoặc miễn truy đòi tuỳ theo thoả thuận giữa công ty bao thanh toán và khách hàng. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay trong hoạt động bao thanh toán.
  21. 20 1.2.2. Theo địa lý 1.2.2.1.Bao thanh toán trong nước (Domestic Factoring) Bao thanh toán trong nước là hình thức bao thanh toán với sự tham gia của công ty bao thanh toán, khách hàng, người mua hàng trên cùng một lãnh thổ quốc gia. Bao thanh toán trong nước có thể được thực hiện theo bao thanh toán đến hạn hoặc bao thanh toán ứng trước. Theo khoản 2 điều 4 chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam giải thích rõ: Bao thanh toán trong nước là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua, bán hàng, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. 1.2.2.2. Bao thanh toán xuất khẩu/nhập khẩu (Export/Import Factoring) Bao thanh toán xuất nhập khẩu được thực hiện trên giao dịch xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Khác với bao thanh toán trong nước sẽ có nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, công ty bao thanh toán của nhà xuất khẩu (có thể là một ngân hàng tham gia vào hình thức bao thanh toán này). Nhà xuất khẩu được công ty bao thanh toán cung cấp mọi dịch vụ trong bao thanh toán mà không cần phải liên hệ với công ty bao thanh toán nhập khẩu. Công ty bao thanh toán nhập khẩu chịu trách nhiệm thu nợ từ nhà nhập khẩu và trả cho công ty bao thanh toán xuất khẩu. Như vậy, rủi ro không trả được nợ của nhà nhập khẩu do công ty bao thanh toán nhập khẩu chịu. Trong nghiệp vụ bao thanh toán này thì các công ty bao thanh toán đều không chịu rủi ro về ngoại hối. Tương tự như bao thanh toán xuất khẩu nhưng bao thanh toán nhập khẩu được tiến hành ngược lại. Cụ thể, công ty bao thanh toán nhập khẩu đảm bảo việc thanh toán của nhà nhập khẩu (ở nước ngoài). Vì vậy thông qua thoả thuận bao thanh toán, nhà nhập khẩu có thể được nhập hàng ngay và liên tục từ các nhà xuất khẩu thông qua tài khoản mở.
  22. 21 Cũng theo Theo khoản 2 điều 4 chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam quy định: Bao thanh toán xuất - nhập khẩu là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất - nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu là đơn vị thực hiện bao thanh toán cho bên bán hàng là bên xuất khẩu trong hợp đồng xuất - nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu là đơn vị được phép hoạt động bao thanh toán tham gia vào quy trình bao thanh toán xuất - nhập khẩu. Thông thường, phương thức phân chia bao thanh toán theo địa lý rất phổ biến ở hầu hết các quốc gia thực hiện bao thanh toán. Ban đầu, công ty hay đơn vị bao thanh toán có thể áp dụng bao thanh toán nội địa, sau đó mới phát triển sang phương thức bao thanh toán xuất nhập khẩu. 1.2.3. Theo tính chất bảo vệ khách hàng trƣớc rủi ro tín dụng 1.2.3.1. Bao thanh toán truy đòi (Recourse Factoring) Là nghiệp vụ bao thanh toán mà công ty bao thanh toán chịu trách nhiệm thu nợ từ người mua hàng nhưng công ty bao thanh toán vẫn giữ quyền truy đòi đối với khách hàng trong trường hợp người mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu. Gần đây, ở những nền kinh tế mới nổi, xuất hiện một hình thức bao thanh toán mới, đó là bao thanh toán đảo chiều, thực chất là phương thức lựa chọn khác ngoài bao thanh toán có quyền truy đòi. Trong đó thay vì đơn vị bao thanh toán mua lại toàn bộ danh mục các khoản phải thu của các sản phẩm của nhà cung ứng đối với bao thanh toán thông thường, đơn vị bao thanh toán mua nhiều khoản phải thu của một người mua có chất lượng cao nhất. Ở đây quan hệ bao thanh toán đã nâng lên thành quan hệ ba chiều với sự tham gia của đơn vị bao thanh toán, người mua và các nhà cung ứng. Người mua thường là một công ty nổi tiếng, hoạt động hiệu quả đem lại chất lượng cao.
  23. 22 Xin đưa ra một ví dụ đơn giản mô tả cơ chế hoạt động của bao thanh toán đảo chiều. Wal-Mart (một công ty bán lẻ lớn nhất tại Hoa Kỳ) có quan hệ bao thanh toán đảo chiều với Công ty tài chính Heller liên quan đến các nhà cung ứng Mêhicô. Wal-Mart cho các nhà cung ứng Mêhicô quyền lựa chọn được bao thanh toán các hoá đơn của mình. Công ty tài chính Heller bao thanh toán các hoá đơn khi được Wal-Mart thông báo rằng một nhà cung ứng đã lựa chọn quyền bao thanh toán. Đối với bao thanh toán đảo chiều, có thể giải quyết được rủi ro liên quan đến người mua do rủi ro tín dụng hay rủi ro do thiếu thông tin mang lại. 1.2.3.2. Bao thanh toán không truy đòi (Non Recourse Factoring) Đối với bao thanh toán không truy đòi, công ty bao thanh toán không thực hiện việc truy đòi đối với khách hàng ngay cả trường hợp người mua hàng không trả được nợ. Như vậy công ty bao thanh toán phải chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu. Hình thức này thường được sử dụng phổ biến trong nghiệp vụ bao thanh toán xuất nhập khẩu. 1.2.4. Theo trách nhiệm phải thông báo cho ngƣời mua: 1.2.4.1. Bao thanh toán không thông báo (Non-notifed Factoring) Khách hàng tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán nhưng không thông báo cho người mua hàng biết khoản phải thu đó đã được bao thanh toán và không thông báo để người mua hàng vẫn phải trả nợ trực tiếp cho công ty bao thanh toán. Khi đó các khách hàng trực tiếp thực hiện việc thu nợ từ người mua hàng và trả cho công ty bao thanh toán. Đối tượng của hình thức này chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, có bộ phận thu nợ riêng và họ chỉ sử dụng bao thanh toán như một nguồn tài trợ cho mình.
  24. 23 1.2.4.2. Bao thanh toán thông báo (Notified Factoring) Người mua hàng tham gia vào loại hình bao thanh toán này đã được công ty bao thanh toán mua và yêu cầu trả nợ trực tiếp cho công ty bao thanh toán. So với hình thức bao thanh toán không thông báo, bao thanh toán thông báo phổ biến hơn. 1.3. QUY TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN Nghiệp vụ bao thanh toán được hoạt động theo quy trình chặt chẽ. Theo quy trình nghiệp vụ bao thanh toán chung, người ta thường chia ra các quy trình theo số đơn vị bao thanh toán tham gia vào đó: 1.3.1. Hệ thống một đơn vị của bao thanh toán Hệ thống một đơn vị của bao thanh toán gồm có ba bên bao gồm: một đơn vị bao thanh toán, người bán và người mua, quá trình giao dịch sẽ được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau: 1. Hợp đồng bán hàng Người bán Người mua (Khách hàng) 6. Giao hàng (Con nợ) 2. Y 2. Tr 4. K 5. BTT 7. Chuy Thanh 8. to Thanh 11. to Th 3. Thu n 9. Thanh 10. to ê ý ẩ u c u ả h m l ợ ờ ể ầ ợ p đị n nh n it u t khi đồ nht í á nd í n tr á á n d ng BTT ượ n n đế í ụ n d n ứ ụ ướ ngho ng nh ng tr ng ụ c ạ ng n ướ á đơ c n Đơn vị bao thanh toán Sơ đồ 1.1: Hệ thống một đơn vị của bao thanh toán (hay Sơ đồ bao thanh toán nội địa)
  25. 24 Bước 1: Người bán và người mua ký kết hợp đồng mua bán hai bên. Người bán ở đây đóng vai trò là khách hàng của công ty bao thanh toán. Còn người mua trở thành con nợ. Bước 2: Khách hàng đề nghị công ty bao thanh toán cấp cho người mua hàng của họ một hạn mức tín dụng (credit line). Bước 3: Công ty Bao thanh toán tiến hành thẩm định tín dụng người mua. Trong trường hợp này công ty bao thanh toán có thể từ chối việc cấp hạn mức tín dụng khi họ không có đầy đủ thông tin về người mua hàng hoặc người mua hàng không đủ uy tín về tín dụng. Bước 4: Sau khi công ty bao thanh toán chấp nhận cấp hạn mức, họ sẽ có trách nhiệm trả lời tín dụng cho khách hàng của mình, khách hàng lúc này có trách nhiệm thông báo cho người mua hàng về thoả thuận bao thanh toán và yêu cầu người mua hàng trả nợ trực tiếp cho công ty bao thanh toán. Bước 5: Khách hàng và công ty bao thanh toán chính thức ký hợp đồng bao thanh toán Bước 6: Người bán tiến hành giao hàng cho người mua Bước 7: Sau khi giao hàng cho người mua hàng, khách hàng nộp toàn bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu như hoá đơn, giấy báo nợ cho Công ty Bao thanh toán Bước 8: Sau đó toàn bộ chứng từ được công ty bao thanh toán xử lý trước khi tiến hành thanh toán ứng trước lần đầu (initial prepayment) với khoản tiền tương ứng theo tỷ lệ nhất định (khoảng từ 80% đến 90%). Thông thường việc thanh toán được tiến hành sau 24 hoặc 48 giờ kể từ khi khách hàng nộp chứng từ. Khách hàng có thể nhận được tiền dưói hình thức thanh toán séc hoặc chuyển khoản. Bước 9: Công ty bao thanh toán sẽ trực tiếp tiến hành việc thu nợ đến hạn từ phía người mua hàng.
  26. 25 Bước 10: Sau khi người mua hàng thanh toán tiền cho công ty bao thanh toán, công ty bao thanh toán sẽ tất toán phần tiền còn lại cho khách hàng sau khi đã trừ đi các khoản phí bao thanh toán. Trên đây là toàn bộ quy trình bao thanh toán một đơn vị. Trên thực tế, “một đơn vị” chẳng qua đó là hình thức bao thanh toán nội địa, chỉ có một đơn vị tham gia vào quy trình bao thanh toán. Đối với bao thanh toán nội địa, việc tiếp cận thông tin đối với người mua hàng là không quá khó. Tuy nhiên cũng có một số trách nhiệm bên cạnh việc thanh toán ứng trước cho khách hàng, đó là công ty bao thanh toán còn thực hiện việc lưu trữ chứng từ và chức năng kế toán cho khách hàng. Theo định kỳ (hàng tuần hoặc hàng tháng), công ty bao thanh toán sẽ gửi cho khách hàng báo cáo về khoản phải thu và các bản sao kê kế toán. Tuy nhiên có một điểm cần nhấn mạnh là hoạt động bao thanh toán đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các bên tham gia để tránh hoặc phải xử lý những tranh chấp kiện tụng có thể xảy ra nhằm đảm bảo lợi ích của các bên. Ngoài ra, do ngày nay nhu cầu quốc tế hoá, khu vực hoá, giao thương giữa các quốc gia ngày càng trở nên phát triển mạnh mẽ. Phương thức bao thanh toán quốc tế hiện đang là một giải pháp hữu hiệu trong tài trợ thương mại quốc tế. Chúng ta đi sâu nghiên cứu hệ thống hai đơn vị của bao thanh toán, đây cũng là quy trình chủ yếu và cơ bản áp dụng cho bao thanh toán quốc tế
  27. 26 1.3.2. Hệ thống hai đơn vị của bao thanh toán: Hệ thống hai đơn vị của bao thanh toán bao gồm bốn bên tham gia vào quá trình này: 1. Hợp đồng ngoại thương Nhà Xuất khẩu Nhà Nhập khẩu (Ngƣời bán) 7. Giao hàng (Ngƣời mua) 2. Y 2. Tr5. K 6. 8. 9. Thanh to 13.Thanh to 4. Th 10.Thun 11.Thanh to 8.Chuy Chuy ê ý ẩ uc ả h m l ợ ể ể ờ ầ p n nh đị n nhn i i t u t ợ đồ nh H nh í á khi nd í n tr á á ượ nd ngBTT ượ n n ụ ng đế Đ ụ ướ ngH ng ng n h c ạ Đ n BTT 3. Yêu cầu tín dụng 5. Trả lời tín dụng Đơn vị BTT XK 8. Chuyển nhượ ng Đơn vị BTT NK 12. Thanh toán, báo cáo chuyển tiền Sơ đồ 1.2: Hệ thống hai đơn vị của bao thanh toán (hay Sơ đồ bao thanh toán xuất nhập khẩu) Bước 1: Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương, nêu rõ phương thức thanh toán là bao thanh toán xuất nhập khẩu. Bước 2: Nhà xuất khẩu đề nghị thực hiện bao thanh toán, xin cấp hạn mức tín dụng cho nhà nhập khẩu. Bước 3: Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu gửi yêu cầu cấp hạn mức đến cho Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu đồng thời cung cấp các thông tin về hợp đồng mua bán ngoại thương, người mua và người bán và các thông tin cần thiết khác.
  28. 27 Bước 4: Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu sẽ tiến hành thẩm định hợp đồng và thẩm định năng lực tín dụng của người nhập khẩu. Sau khi chấp nhận, tiến hành trả lời hay thông báo chấp nhận món bao thanh toán cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Bước 5: Đơn vị bao thanh toán sau đó thông báo cho nhà xuất khẩu, để nhà xuất khẩu làm thông báo bằng văn bản cho nhà nhập khẩu biết rõ về việc lô hàng theo hợp đồng xuất nhập khẩu đã được đăng ký bao thanh toán tại đơn vị bao thanh toán xuất khẩu, trong đó nêu rõ tên đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Bước 6: Sau khi nhận được thông báo có chữ ký xác nhận của nhà nhập khẩu do nhà xuất khẩu xuất trình, đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và nhà xuất khẩu tiến hành ký hợp đồng bao thanh toán. Bước 7: Nhà xuất khẩu tiến hành giao hàng theo đúng thoả thuận trong hợp đồng Bước 8: Khách hàng xuất khẩu sau khi giao hàng sẽ tiến hành chuyển giao hợp đồng mua bán ngoại thương bản gốc, các chứng từ bán hàng và các chứng từ khác có liên quan (Hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói hàng hoá, chứng từ vận tải, chứng nhận xuất xứ, chứng nhận bảo hiểm ). Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển quyền đòi tiền bằng cách chuyển giao bộ chứng từ giao hàng đó cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu để đơn vị này chuyển giao cho người nhập khẩu. Bước 9: Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu sẽ tạm ứng tiến hành thanh toán ứng trước lần đầu (initial prepayment) với khoản tiền tương ứng theo tỷ lệ nhất định (khoảng từ 80% đến 90%) Bước 10: Công ty bao thanh toán nhập khẩu thực hiện chức năng thu nợ khi đến hạn.
  29. 28 Bước 11: Nhà nhập khẩu khi đến hạn phải có trách nhiệm thanh toán số tiền theo như thoả thuận trong hợp đồng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Bước 12: Theo thoả thuận bao thanh toán từ trước, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu sau khi trừ đi các khoản phí, thanh toán số tiền trên cho công ty bao thanh toán xuất khẩu. Bước 13: Công ty bao thanh toán xuất khẩu thanh toán phần tiền còn lại cho người xuất khẩu sau khi đã trừ các khoản phí bao thanh toán như đúng quy định. So sánh cơ cấu giá của hai loại hình bao thanh toán này: Hệ thống hai đơn vị bao thanh toán có đặc thù chi phí cao hơn hệ thống một đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, chi phí tính cho khách hàng trong nghiệp vụ bao thanh toán về cơ bản gồm hai chi phí chính: Phí dịch vụ: một tỷ lệ phần trăm nhất định không phụ thuộc vào giá trị của khoản phải thu để bù đắp các chi phí trong việc cung cấp các dịch vụ khách hàng như thu nợ, quản lý sổ sách kế toán, bán hàng, theo dõi tình trạng khoản phải thu . Công ty bao thanh toán có thể tính phí theo từng dịch vụ cung cấp hoặc đưa ra một giá phí tiêu chuẩn chung. Phí tài chính: Phí được tính dựa trên: . Chi phí tín dụng (tiền lãi của khoản thanh toán trước = giá trị của khoản thanh toán trước x (chi phí vốn + lợi nhuận) . Phụ thuộc vào hình thức bao thanh toán Một số yếu tố tác động đến việc tính phí là: Khối lượng các khoản phải thu, mức độ trung bình các khoản phải thu, tình hình diễn biến ngành, thời hạn trả chậm, số lượng và uy tín của người mua hàng .Trong đó với bao thanh toán xuất nhập khẩu, các yếu tố này càng có tác động mạnh mẽ đến yếu tố giá loại hình dịch vụ này.
  30. 29 Hệ thống bao thanh toán hai đơn vị là phương thức quản lý các khoản phải thu ở nước ngoài đơn giản, linh hoạt và hiệu quả, phù hợp trong thương mại quốc tế. Hiện nay, trên thế giới phương thức này được các tổ chức bao thanh toán áp dụng thực hiện đối với các thành viên trong hiệp hội của mình. Trên thế giới bao thanh toán đang ngày càng được áp dụng phổ biến. Tuy nhiên, ở Việt Nam, bao thanh toán vẫn chưa thực sự “có đất” để phát triển. Chương II xin đi sâu vào thực trạng áp dụng bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, vốn vẫn được coi là trung tâm của mọi hoạt động dịch vụ tài chính.
  31. 30 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 2.1. VÀI NÉT VỀ CHỨC NĂNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM Trước thời kỳ đổi mới, mô hình tổ chức ngân hàng Việt Nam được mô phỏng theo mô hình tổ chức ngân hàng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Theo mô hình này, Ngân hàng Nhà nước vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung ương, vừa đóng vai trò là ngân hàng trung gian tài chính. Mô hình này gọi là mô hình một cấp. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và thực hiện chính sách mở cửa, các thể chế chính trị - kinh tế - xã hội cũng từng bước được đổi mới cho phù hợp, trong đó đổi mới hệ thống ngân hàng là một trong những bước đột phá khẩu. Mốc đánh dấu sự chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang mô hình ngân hàng hai cấp là Pháp lệnh Ngân hàng được công bố ngày 24/05/1990. Pháp lệnh đã đặt nền móng cho việc tổ chức, vận hành hệ thống quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Theo đó đã có sự tách bạch chức năng tổ chức: Ngân hàng Trung ương (NHNN) là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, được độc quyền phát hành tiền và đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng thương mại (NHTM), các tổ chức trung gian tài chính khác thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Kể từ khi đổi mới đến nay, hệ thống NHTM Việt Nam đã có nhiều thay đổi, trong đó trước hết phải kể đến là sự đa dạng hóa về các loại hình hoạt động trong lĩnh vực trên ở 6 ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN):
  32. 31 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam và Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long, 37 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh tại Việt Nam, 6 công ty tài chính. Vai trò của các ngân hàng thương mại được thể hiện qua các hoạt động cơ bản của nó, ở đây tác giả xin đánh giá theo các mảng hoạt động cụ thể. Riêng đối với các NHTMNN, ngoài việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận, hệ thống các ngân hàng này còn đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế của Nhà nước. 2.1.1. Huy động vốn Ngân hàng huy động vốn dưới các hình thức sau: a) Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. b) Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN chấp thuận. c) Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam d) Vay vốn ngắn hạn của Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn e) Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Nhà nước Các NHTM đáp ứng những điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền tiết kiệm của đa phần dân cư với mạng lưới các chi nhánh cấp 1, cấp 2 đến tận thôn, làng, xã. Người gửi tiền tiết kiệm được hưởng một khoản tiền gọi là lãi suất với mức độ an toàn và khả năng thanh khoản cao. Huy động động vốn là một trong những nghiệp vụ tạo vốn quan trọng hàng đầu của các NHTM Việt Nam. Khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế
  33. 32 thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các NHTM còn nhiều bỡ ngỡ, hiệu quả kinh doanh còn nhiều mặt hạn chế, kể cả mảng huy động vốn. Tuy nhiên, cùng với sự nỗ lực của bản thân các ngân hàng thương mại và sự ủng hộ từ nhiều phía tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, các NHTM đã quen dần với cơ chế mới và đạt được những thành quả nhất định trong kinh doanh. Trong giai đoạn 2000-2005, chỉ xét riêng mảng huy động vốn của hầu hết các NHTM đều có sự tăng lên cả về quy mô và chất lượng. Theo báo cáo của NHNN, tổng khối lượng vốn huy động của các tổ chức tín dụng trong nước cũng như các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh liên tục tăng. Năm 2005, các ngân hàng thương mại quốc doanh huy động được 367,5 ngàn tỉ VND (kể cả ngoại tệ quy đổi) (khoảng 70% GDP) vượt mục tiêu đã đề ra tại Đại hội Đảng IX. 2.1.2. Mở rộng tín dụng và đầu tƣ Tín dụng của các NHTM có ý nghĩa quan trọng với toàn bộ nền kinh tế, nó cung cấp nguồn tài trợ cho các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ của đất nước. Tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng thực hiện toàn bộ quá trình từ khi sản phẩm được sản xuất cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Bảng 2.1- Tăng trƣởng dƣ nợ của hệ thống NHTM Đơn vị: tỉ đồng - % Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Ngân hàng thương mại nhà nước 302.840 389.950 457.535 Ngân hàng thương mại cổ phần 45.920 58.950 69.745 Ngân hàng nước ngoài và liên doanh 38.240 46.100 53.720 Tổng cộng 387.000 495.000 581.000 Tỉ trọng dư nợ/GDP 54,73% 62,38% 68,42% (Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2005)
  34. 33 Đối với các NHTM Việt Nam do dịch vụ ngân hàng chưa đa dạng và phát triển ở mức độ chưa cao, lợi nhuận thu được từ việc thu phí dịch vụ còn thấp nên hoạt động cho vay giữ vai trò số một trong việc tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng. Do tính đơn điệu của sản phẩm nên hình thức cạnh tranh chủ yếu là thông qua lãi suất cho vay. Và trong “cuộc chiến” lãi suất, lợi thế thuộc về nhóm các NHTMNN do có quy mô vốn lớn, mạng lưới chi nhánh rộng. Các NHTMCP, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài do chi phí cho việc huy động cao hơn nên thường phải đặt mức lãi suất cao hơn so với các NHTMNN. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là khối lượng khách hàng đến xin vay tại các NHTMNN không lớn. Bởi vì có mức “giá” hấp dẫn hơn, nhưng các nguồn vốn vay từ các NHTMNN là rất khó tiếp cận. Các NHTMNN thường cho vay đối với các Tổng công ty 90, 91, các doanh nghiệp nhà nước; cho vay theo chỉ định của chính phủ đối với các công trình trọng điểm của quốc gia Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thường không có quan hệ tín dụng tốt đối với các NHTMNN do luôn bị coi là những khách hàng nhỏ, hoạt động theo kiểu manh mún, chụp giật, vốn tự có thấp, uy tín chưa cao. Các doanh nghiệp này là đối tượng của các NHTMCP, ngân hàng liên doanh, và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Từ sau khi các NHTMNN tách chức năng tín dụng chính sách đồng thời chuyển đổi từ các ngân hàng chuyên doanh sang kinh doanh đa năng, đa dạng hoá khách hàng, khu vực kinh tế tư nhân có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận vốn của các ngân hàng này. Năm 2004, các NHTMNN cho vay khu vực kinh tế tư nhân là 265.792 tỉ đồng, đến năm 2005 đã tăng lên 372.869 tỉ đồng, tăng 14,1% so với năm 2004.
  35. 34 2.1.3. Hoạt động thanh toán Việc đưa ra hoạt động thanh toán, hay nói cách khác, sự vận động của đồng vốn là một trong những chức năng quan trọng. Trong những năm gần đây, hệ thống các ngân hàng đã có những biến chuyển nhất định, các ngân hàng đã và đang trang bị máy vi tính, hệ thống mạng kết nối thanh toán thẻ quốc tế, các phương tiện kỹ thuật để đưa vào sử dụng những hình thức chuyển tiền mới như chuyển tiền điện tử, mạng SWIFT và mạng hoá hệ thống máy tính trong ngân hàng. Hệ thống mạng kết nối thanh toán điện tử liên ngân hàng được thiết lập, tạo nên những biến chuyển sâu sắc trong hoạt động thanh toán nội địa và quốc tế của các NHTM Việt Nam. 2.1.4. Tài trợ thƣơng mại Đây có thể nói là một trong những hoạt động quan trọng nhất do các NHTM thực hiện trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới. Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ những hoạt động nội thương, nhưng có những sự khác nhau đáng kể và chính từ sự khác nhau đó mà các ngân hàng thương mại cần cung ứng các dịch vụ thanh toán quốc tế hay bao thanh toán xuất nhập khẩu để cho quá trình này diễn ra suôn sẻ. Sở dĩ như vậy là do mỗi nước có một hệ thống tiền tệ riêng, không đồng nhất, và với năng lực tài chính của người mua và người bán ở các quốc gia cũng không giống nhau, ngoài ra còn có những hạn chế về ngôn ngữ, môi trường văn hoá, phong tục tập quán khác nhau, môi trường pháp lý và luật pháp của các quốc gia khác nhau, các chế độ chính trị khác nhau, người mua, người bán cách xa nhau về địa lý . Chính vì vậy các ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế, điều này thể hiện ở những mặt sau:
  36. 35  Cung cấp các khoản bảo lãnh hoặc tín dụng: bao gồm bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh phát hành L/C, cho vay đối với nhà nhập khẩu và chiết khấu chứng từ xuất khẩu, mua lại chứng từ nhờ thu đối với nhà xuất khẩu.  Trung gian thanh toán: hệ thống ngân hàng cho phép việc thực hiện thanh toán giữa các bên liên quan, đảm bảo an toàn nhanh chóng và chính xác.  Tư vấn: Trong bất kỳ trường hợp nào nếu gặp phải những vấn đề liên quan đến thanh toán trong giao dịch ngoại thương, khách hàng liên quan có thể nhận được những tư vấn tốt từ cán bộ chuyên môn trong các ngân hàng thương mại.  Quản lý rủi ro tín dụng: Trong thương mại quốc tế, người mua có thể giao dịch với một người bán mà họ không hề biết, thậm chí ngay cả khi họ đã thực hiện một số giao dịch mua bán với nhau, người mua cũng không biết về người bán một cách triệt để. Như vậy người mua và người bán không thể nắm bắt được chắc chắn về khả năng tài chính, uy tín và khả năng thực hiện hợp đồng của đối tác, do đó khó lường được những rủi ro có thể xảy ra. Với sự giúp đỡ của ngân hàng, người mua và người bán sẽ có thể tin tưởng nhau hơn vì sẽ loại trừ hoặc giảm thiểu một số rủi ro trong hoạt động kinh doanh.  Quản lý rủi ro về ngoại hối: Trong thương mại quốc tế, nguời mua và người bán ở hai nước khác nhau nhưng chỉ giao dịch với nhau cùng một loại tiền tệ, họ sẽ phải đương đầu với những loại rủi ro dao động về tỷ giá, những rủi ro này sẽ dễ dàng được hạn chế khi có sự giúp đỡ của ngân hàng thông qua các hợp đồng mua bán hoặc chuyển đổi ngoại tệ tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng.  Cung cấp khả năng lựa chọn các phương thức thanh toán: thanh toán trước, thanh toán sau, tài khoản mở, nhờ thu, L/C và bao thanh toán. Hiện nay, ở Việt Nam, phương thức tín dụng chứng từ vẫn được khách hàng ưa chuộng.
  37. 36 2.1.5. Các hoạt động khác Các hoạt động khác như giao dịch hối đoái, kinh doanh vàng, kim loại đá quý, dịch vụ uỷ thác cũng đang phát triển mạnh mẽ. Như vậy, ngoài những nhiệm vụ chính đóng vai trò huyết mạch, là bà đỡ cho các hoạt động kinh tế, hệ thống các NHTM Việt Nam còn cung cấp các dịch vụ ngân hàng, là một ngành kinh tế dịch vụ. Ngày nay, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng trước xu thế toàn cầu hoá và hội nhập nền kinh tế, do đó các sản phẩm và dịch vụ do ngân hàng cung cấp luôn phải đáp ứng với yêu cầu của thời đại. Trên thế giới, khi mà bao thanh toán đã trở thành một trong những nghiệp vụ quen thuộc của hầu hết hệ thống các tổ chức tín dụng, ở Việt Nam, rất nhiều doanh nghiệp chưa biết tới loại hình này. Tác giả xin dành một phần trong luận văn của mình để đề cập đến trực trạng áp dụng bao thanh toán tại các NHTM Việt Nam hiện nay. 2.2. THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 2.2.1. So sánh ƣu nhƣợc điểm của bao thanh toán với phƣơng thức tài trợ khác ở các NHTM Việt Nam Các NHTM Việt Nam đứng trước một môi trường cạnh tranh đang trở nên khốc liệt, phát triển đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng hơn lúc nào hết trở thành một vấn đề cấp thiết nằm trong chiến lược phát triển của từng ngân hàng nói riêng và của toàn ngành ngân hàng nói chung. Cho đến nay, phương thức tài trợ thương mại chủ yếu vẫn là cho vay đảm bảo bằng quyền đòi nợ, bảo lãnh, chiết khấu chứng từ , những phương thức rất phổ biến và truyền thống ở hầu hết các ngân hàng trên thế giới. Vậy bao thanh toán có gì vượt trội hơn so với các phương thức phổ biến ở các ngân hàng Việt Nam hiện tại. Qua một số bảng so sánh với các dịch vụ hiện tại của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam (TECHCOMABNK), một ngân hàng điển hình về phát triển
  38. 37 và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và sản phẩm, tác giả hi vọng có thể minh chứng phần nào một thực tế là các sản phẩm dịch vụ NHTM Việt Nam thiếu đi tính sáng tạo, đổi mới và hiện đại. 2.1.2.1. So sánh bao thanh toán và cho vay đảm bảo bằng quyền đòi nợ Bao thanh toán như đã phân tích, có những đặc điểm giống và khác nhau nhất định so với các sản phẩm ngân hàng truyền thống của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là sản phẩm cho vay đảm bảo bằng khoản phải thu (quyền đòi nợ). Bảng 2.2. So sánh bao thanh toán và cho vay đảm bảo bằng quyền đòi nợ Cho vay bảo đảm Điểm khác biệt bằng quyền đòi Bao thanh toán nợ Sở hữu khoản phải Thuộc người bán Thuộc Ngân hàng thu Tài trợ vốn cho Giống nhau giữa hai hình thức: người bán đều có thể nhận ngƣời bán trên cơ sở được tài trợ vốn lưu động dựa vào các khoản phải thu phải thu Rủi ro từ việc mua Người bán phải Ngân hàng (trong trường hợp bao không trả được nợ gánh chịu hoàn thanh toán không truy đòi) toàn Dịch vụ thu hộ Không có Có dịch vụ thu hộ Đối tượng thẩm định Người bán (chủ Người mua (năng lực tín dụng) và của ngân hàng yếu là nguồn trả người bán (năng lực cung cấp hàng) cuối cùng) và người mua (Nguồn: Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam, 2006) Như vậy, có một sự khác nhau căn bản giữa phương thức cho vay đảm bảo bằng quyền đòi nợ và phương thức bao thanh toán, đó là những dịch vụ
  39. 38 sau liên quan đến các khoản phải thu, đó là quyền sở hữu các khoản phải thu và trách nhiệm thu hộ của ngân hàng. 2.1.2.2. So sánh bao thanh toán và các phương thức thanh toán quốc tế Bao thanh toán xuất nhập khẩu có thể được coi là một phương thức thanh toán độc lập. So với các phương thức thanh toán truyền thống khác, bao thanh toán có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Cụ thể: Bao thanh toán chỉ áp dụng trong thanh toán trả chậm, nên sẽ khác với các phương thức trả ngay, bao gồm: Chuyển tiền ứng trước (TTR In advance); thanh toán tiền mặt dựa trên chứng từ (CAD: Cash against Documents); Nhờ thu bộ chứng từ trả ngay (D/P: Documents against Payment) và phương thức thư tín dụng trả ngay (At sight Letter of Credit) Các phương thức thanh toán trả chậm bao gồm: Chuyển tiền sau khi giao hàng (TTR after shipment hay còn gọi là Open Account); nhờ thu bộ chứng từ trả chậm (D/A: Document against Acceptance) và tín dụng thư trả chậm (Usance Letter of Credit). Ở ngân hàng Techcombank, sản phẩm bao thanh toán được kết hợp với phương thức trả chậm. Trong một số ít trường hợp, bao thanh toán có thể kết hợp với D/A. Đối với L/C trả chậm, bao thanh toán lại là một phương thức thay thế hiệu quả. Tuy nhiên, đối với hình thức L/C trả ngay, thông thường vẫn có độ trễ nhất định trong thanh toán (do các vấn đề về yêu cầu chứng từ phức tạp, thủ tục chặt chẽ và khả năng có sai biệt của bộ chứng từ so với L/C dẫn đến trì hoãn trong thanh toán) nên có thể so sánh chung như sau:  Đối với nhà xuất khẩu:
  40. 39 Bảng 2.3. So sánh chấp nhận thanh toán bằng L/C và chấp nhận thanh toán bằng bao thanh toán Chấp nhận thanh Chấp nhận thanh So sánh toán bằng bao thanh toán bằng L/C toán Thanh toán trả ngay Chỉ áp dụng với thanh Phương thức áp dụng hoặc trả chậm toán trả chậm Được ngân hàng chiết Được ngân hàng ứng Khả năng tài trợ vốn cho khấu sau khi có bộ trước trên cơ sở bộ người bán khi xuất hàng chứng từ xuất khẩu chứng từ xuất khẩu Thấp (do ngân hàng Ngân hàng gánh chịu Rủi ro từ việc không thanh phát hành L/C bảo lãnh (trường hợp bao thanh toán tiền thanh toán theo L/C toán không truy đòi) Theo dõi và thu hộ các khoản Không có Có dịch vụ thu hộ phải thu (Nguồn: Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam, 2006) Cũng tương tự như phương thức trên, đặc điểm nổi bật của bao thanh toán là có dịch vụ theo dõi và thu hộ các khoản phải thu, thông thường chấp nhận thanh toán bằng bao thanh toán chỉ áp dụng đối với phương thức thanh toán trả chậm. Đặc biệt, trong bao thanh toán không truy đòi, rủi ro do chính ngân hàng gánh chịu. Như vậy, đối với nhà xuất khẩu, sử dụng bao thanh toán ngoài lợi thế về nguồn vốn còn có thể giảm thiểu rủi ro cho hoạt động kinh doanh của mình, chuyển giao rủi ro đó sang một đơn vị có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thu hồi nợ.
  41. 40  Đối với nhà nhập khẩu Bảng 2.4. So sánh mở L/C và chấp nhận thanh toán bằng bao thanh toán Chấp nhận thanh toán So sánh Mở L/C bằng bao thanh toán Phƣơng thức áp Thanh toán trả ngay hoặc Chỉ áp dụng với thanh toán dụng trả chậm trả chậm Nhà nhập khẩu vẫn phải Nhà nhập khẩu không phải Chi phí từ việc nhà thanh toán phí phát hành chịu họ chỉ phải chịu sau khi xuất khẩu không giao L/C ngay khi nhà xuất đã nhận được hàng hàng khẩu không giao hàng Thông thường phải ký quỹ, Không có Ký quỹ khi mở L/C có thể phải ký quỹ lên tới 100% Người mua chịu nhiều Phí chủ yếu do người bán khoản phí liên quan đến trả (được trừ vào tiền thu Phí giao dịch việc mở L/C và chấp nhận được từ khoản phải thu), hối phiếu trả chậm người mua có trách nhiệm thanh toán tiền (Nguồn: Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam, 2006) Như vậy, trong quá trình thực hiện giao dịch bao thanh toán đối với nhà nhập khẩu việc cam kết thanh toán trả chậm cũng đã là một lợi thế, nhưng còn có một lợi thế nữa là giảm thiểu những chi phí phát sinh và không bị đọng vốn do phải ký quỹ mở L/C.
  42. 41  Bao thanh toán và chiết khấu chứng từ xuất khẩu Bảng 2.5. So sánh chiết khấu chứng từ xuất khẩu và bao thanh toán Điểm khác biệt Chiết khấu chứng từ Bao thanh toán xuất khẩu Sở hữu khoản phải thu Thuộc nhà xuất khẩu Thuộc ngân hàng Thanh toán trả ngay Chỉ áp dụng với thanh Phương thức áp dụng hoặc trả chậm (kèm toán trả chậm theo L/C) Dịch vụ thu hộ Không có Có dịch vụ thu hộ (Nguồn: Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam, 2006) Tóm lại, từ việc so sánh sự khác nhau giữa phương thức cho vay bảo đảm bằng quyền đòi nợ và phương thức bao thanh toán, rõ ràng bao thanh toán đã khẳng định những ưu thế vượt trội so với phương thức tài trợ khác. Đối với bao thanh toán, nhà xuất khẩu được thanh toán khoản tiền ứng trước với tỷ lệ cao ngay khi nộp chứng từ các khoản phải thu còn trong phương thức L/C, họ lại phải chờ khi đến hạn thanh toán. Khi tham gia vào hoạt động bao thanh toán, nhà nhập khẩu không phải mở L/C có nghĩa là giảm thiểu các chi phí vật chất, khoản tiền ký quỹ, thời gian phát sinh từ việc mở L/C nhưng nó lại làm tăng khả năng thương mại hàng hoá dịch vụ thông qua tài khoản mở. Hơn nữa, số lượng các vụ tranh chấp liên quan đến hoạt động thanh toán thư tín dụng rất nhiều; riêng đối với phương thức bao thanh toán, theo đánh giá của Trung tâm thương mại quốc tế (ICC), cho đến nay có 01 vụ tranh chấp liên quan đến bao thanh toán. Ngay cả đối với phương thức cho vay bảo đảm bằng quyền đòi nợ, rủi ro từ việc người mua không trả được nợ được chuyển từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Ngoài ra, trong bất cứ phương thức nào, bao thanh toán cũng cung cấp dịch vụ thu hộ và quản lý sổ
  43. 42 sách kế toán các khoản phải thu mà hầu như không có phương thức tài trợ thương mại của Việt Nam áp dụng. Tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, chủ yếu áp dụng các phương thức tài trợ trên, tuy nhiên hoạt động bao thanh toán và doanh số bao thanh toán còn quá nhỏ bé so với hoạt động bao thanh toán trên thế giới. Xu thế của thế giới ngày nay đang đi theo hướng phát triển bao thanh toán và bảo hiểm tín dụng, phương thức tín dụng chứng từ không còn chiếm vị trí quan trọng nhất như trước đây nữa. Mỗi phương thức thanh toán quốc tế truyền thống (từ chuyển tiền trả trước đến phương thức L/C trả chậm) đều có những ưu, nhược điểm nhất định cho người xuất khẩu và người nhập khẩu và việc sử dụng phương thức nào là do thoả thuận, đàm phán và mối quan hệ giữa người mua và người bán. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay, người bán (nhà xuất khẩu) Việt Nam đang phải đối mặt với sức ép cạnh tranh ngày càng tăng lên, và thế đàm phán trong thương mại đang có xu thế đang nghiêng về phía người mua rõ rệt. Trước tình hình đó, người mua sẽ có những yêu cầu hoặc lựa chọn phương thức thanh toán có lợi hơn cho mình, nhất là phương thức mua hàng trả chậm (người mua tránh được rủi ro liên quan đến việc giao hàng, chất lượng hàng hoá và đặc biệt chiếm dụng vốn của người bán. Người bán để tăng cường khả năng cạnh tranh cần phải có những giải pháp đáp ứng yêu cầu của người mua, vừa bảo vệ mình trước những rủi ro tiềm ẩn (rủi ro người mua không thanh toán). Do vậy, đối với người xuất khẩu, người bán hàng Việt Nam, phương thức này mang lại nhiều lợi ích cụ thể:  Bổ sung thêm một kênh huy động vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp bán hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những đối tượng không dễ tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng.
  44. 43  Thu hồi được vốn ngay khi bán các khoản phải thu cho ngân hàng hay đơn vị bao thanh toán; nhờ đó đồng vốn được quay vòng nhanh hơn.  Tránh được những rủi ro mất vốn khi đối tác không trả được nợ (tránh được các khoản nợ khó đòi)  Được cung cấp những dịch vụ trọn gói: Doanh nghiệp không mất thời gian và chi phí liên quan đến việc quản lý sổ sách bán hàng và thu hồi nợ từ người mua, nhờ vậy có nhiều thời gian để tập trung vào lập kế hoạch sản xuất và tiếp thị.  Ngăn chặn được sự biến động về ngoại hối  Tăng cường tính cạnh tranh của doanh nghiệp mình thông qua khả năng chào bán sản phẩm với các điều khoản thuận lợi hơn cho người mua hàng ví dụ thời gian trả chậm dài hơn. Ngân hàng hay đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng cho người mua hàng trên cơ sở thẩm định xếp hạng tín dụng của họ. Với việc cấp hạn mức này, đơn vị bao thanh toán vừa làm chức năng là đơn vị chấp nhận tín dụng vừa là đơn vị bảo lãnh thanh toán. Vì vậy, nhà nhập khẩu Việt Nam có những lợi ích sau:  Sức mua tăng mà không cần sử dụng các hạn mức tín dụng sẵn có  Có thể mua được hàng mà không phải qua các thủ tục liên quan đến mở thu tín dụng  Có thể chào mua các sản phẩm với điều khoản có lợi Với những đặc điểm riêng biệt vốn có, bao thanh toán đang nổi lên là một phương thức thanh toán giải quyết một cách khá cân đối vấn đề nêu trên của người mua và người bán tại Việt Nam, đây cũng chính là những thuận lợi căn bản để các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam có thêm nhiều cơ hội kinh doanh trong tương lai. Đó cũng chính là lợi ích chung mà bất kỳ nhà sản xuất kinh doanh nào có được khi áp dụng bao thanh toán.
  45. 44 Từ bảng số liệu về doanh số bao thanh toán trên phạm vi toàn cầu đang tăng lên nhanh chóng để tác giả có thể đánh giá được phần nào vị trí của Việt Nam trong phát triển lĩnh vực sản phẩm mới này. Bảng 2.6. Doanh số bao thanh toán toàn cầu (Đơn vị: triệu Euro) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Bao thanh toán trong nước 644.659 681.281 712.657 756.863 805.927 Bao thanh toán quốc tế 41.023 42.916 47.735 52.689 59.630 Tổng cộng 685.682 724.797 760.392 809.552 865.557 (Nguồn: Báo cáo đánh giá hoạt động bao thanh toán của Far East National Bank) Doanh số bao thanh toán thế giới đang ngày càng tăng lên không ngừng đạt con số 865.557 Euro năm 2005, trong khi Việt Nam đang bước những bước đầu tiên trong quá trình triển khai loại hình sản phẩm mới này. Phân tích một vài nét về các NHTM Việt Nam qua đó có thể thấy, bao thanh toán chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tính hiệu quả hoạt động của chính ngân hàng đó. Đồng thời, tác giả đưa ra một số bảng so sánh về các nghiệp vụ ngân hàng khác tại Việt Nam; và khẳng định rằng bao thanh toán thực sự có những ưu điểm vượt trội. Vậy tại sao cho đến nay, khi mà các ngân hàng trên thế giới đã đưa phương thức bao thanh toán vào hoạt động kinh doanh từ rất lâu, nước ta mới ở giai đoạn đầu của quá trình đưa vào áp dụng thực tiễn? Đánh giá thực trạng áp dụng bao thanh toán tại các NHTM Việt Nam hi vọng phần nào có thể giải đáp được câu hỏi này. 2.2.2. Tình hình triển khai bao thanh toán tại một số NHTM Việt Nam Hiện nay, ở Việt Nam có những cách hiểu khác nhau về dịch vụ ngân hàng. Một số ý kiến cho rằng, các hoạt động sinh lời của NHTM ngoài cho vay đuợc gọi là hoạt động dịch vụ. Quan điểm này phân định rõ hoạt động
  46. 45 tín dụng, một hoạt động truyền thống và chủ yếu trong thời gian qua của các ngân hàng thương mại Việt Nam với hoạt động dịch vụ, một hoạt động mới bắt đầu phát triển ở nước ta. Sự phân định như vậy trong xu thế hội nhập cho phép ngân hàng thực thi chiến lược tập trung đa dạng hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả của các hoạt động phi tín dụng. Quan điểm khác lại cho rằng, tất cả các hoạt động của một ngân hàng đều được coi là hoạt động dịch vụ. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Cách hiểu thứ hai này phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với cách phân loại các phân ngành dịch vụ trong dự thảo Hiệp định WTO mà Việt Nam cam kết, đàm phán trong quá trình gia nhập, và trong nội dung Hiệp định thương mại Việt Mỹ. Tuy nhiên, có một thực tế là hiện nay, hệ thống các sản phẩm dịch vụ ngân hàng chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của khách hàng. Bao thanh toán là một phương thức tài trợ thương mại nhưng đồng thời cũng là một loại hình dịch vụ mà các NHTM Việt Nam đang hướng tới. Bao thanh toán đến với Việt Nam khá muộn. Năm 2004, một số ngân hàng biết đến khái niệm “bao thanh toán” (factoring). Tháng 4/2005, dịch vụ này mới bắt đầu xuất hiện trên thị trường sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng. Đến nay, Việt Nam có 11 đơn vị cung cấp dịch vụ này trong đó có 5 ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Kỹ thương, Ngân hàng Sài Gòn thương tín, Ngân hàng Phương Đông. Tuy nhiên, 5 ngân hàng này mới chỉ dừng lại ở dịch vụ bao thanh toán mua bán trong nước. Đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực triển khai bao thanh toán, ngân hàng ACB cho đến nay cũng đã thực hiện được hơn 20 hợp đồng trị giá 5.642.000.000 VND, và cũng đã đưa vào danh sách của mình khoảng 30 khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên, việc triển khai bao thanh toán xuất nhập
  47. 46 khẩu vẫn nằm trong kế hoạch. Ngân hàng ACB cam kết sẽ tiến hành đi vào triển khai dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu trong năm 2006, nhằm giúp các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam tránh được rủi ro khi xuất khẩu và quay vòng vốn sản xuất. Tuy vậy, cũng phải đánh giá một cách khách quan là do nhận thức còn chưa tốt về loại hình dịch vụ mới này nên nhiều doanh nghiệp còn e dè trong việc sử dụng dịch vụ. Trong khi đó, tiện ích của dịch vụ này rất quan trọng với nhà sản xuất, đặc biệt những đơn vị chuyên làm hàng xuất khẩu. Hiện nay các nhà nhập khẩu lớn và có ưu thế hơn so với các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ chấp nhận hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều này sẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam mất các đơn hàng xuất khẩu, nếu không có khả năng về vốn. Nếu chấp nhận hình thức trả sau, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc quay vòng vốn và gặp nhiều rủi ro. Đặc biệt là những đơn vị xuất khẩu các mặt hàng luôn có biến động về giá như cà phê, gạo, tiêu khó tránh được thiệt hại khi giá cả và đồng ngoại tệ biến đổi. Hơn nữa, ngân hàng cũng không thể cho doanh nghiệp kéo dài thời gian vay vốn nếu thanh toán theo phương thức trả sau. Do đó, đối với phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam, việc sử dụng dịch vụ bao thanh toán là cần thiết và đem lại hiệu quả thiết thực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở góc độ các ngân hàng, khi triển khai dịch vụ bao thanh toán, đặc biệt bao thanh toán xuất nhập khẩu, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm về mình nếu như họ không có mối quan hệ hay hiểu biết nhất định đối với người nhập khẩu và ngân hàng bao thanh toán nhập khẩu. Đối với đa số các ngân hàng thương mại Việt Nam, việc triển khai loại hình dịch vụ mới này cũng yêu cầu học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, trong khi đó các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu cung cấp các giải pháp tài trợ
  48. 47 thương mại truyền thống như phương thức tín dụng chứng từ, cho vay thế chấp tài sản là hàng hoá hoặc nhà xưởng. Tính đến cuối năm 2005, tại Việt Nam có 4 chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp phép triển khai bao thanh toán đó là:  Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh của Ngân hàng Deutsche Bank AG (Đức)  Chi nhánh Ngân hàng Far East National Bank (FENB - Mỹ)  Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh của UFJ Bank (Nhật Bản)  Chi nhánh Ngân hàng Citibank (Mỹ) thuộc tập đoàn tài chính Citigroup. Mặc dù tại Việt Nam chưa thực sự có một sân chơi bình đẳng cho toàn bộ hệ thống các NHTM trong nước và ngoài nước, nhưng để triển khai nghiệp vụ bao thanh toán, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã tìm ra biện pháp để khắc phục khó khăn, tận dụng lợi thế để phối hợp với các NHTM trong nước tiến hành triển khai dịch vụ này. Để áp dụng bao thanh toán tại Việt Nam, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài gặp không ít khó khăn như: o Vấn đề về huy động vốn nhàn rỗi từ trong dân chúng của chi nhánh các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam o Việc nắm bắt nhu cầu thị trường, nhu cầu của khách hàng muốn sử dụng bao thanh toán cũng khá khó khăn do những cách biệt về văn hoá, phong cách làm việc và quản trị ngân hàng o Chưa có một quy mô các chi nhánh rộng khắp như một số ngân hàng thương mại trong nước, nên việc triển khai thường bó hẹp chỉ trong một hoặc hai tỉnh thành lớn như vậy rất khó khăn cho ngân hàng khi giới thiệu sản phẩm rộng khắp tới các doanh nghiệp và khách hàng o Gặp những khó khăn nhất định về vấn đề pháp lý khi triển khai dịch vụ mới này
  49. 48 Tuy vậy, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng có những lợi thế nhất định được coi là thuận lợi trong quá trình triển khai bao thanh toán tại Việt Nam: o Yếu tố con người: với phong cách quản lý và hiệu quả trong công việc cũng như kinh nghiệm trong toàn bộ quá trình quản lý sổ sách các khoản phải thu, đồng thời cách thức đánh giá doanh nghiệp ở góc độ hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó nên các ngân hàng nước ngoài thường có thế mạnh về thực hiện bao thanh toán o Mối quan hệ: Bản thân các ngân hàng nước ngoài cắm nhánh tại Việt Nam cũng đã có mối quan hệ rất chặt chẽ trong quan hệ tín dụng và thanh toán với ngân hàng mẹ và các chi nhánh có quan hệ đại lý trong cùng hệ thống, do đó bao thanh toán được tiến hành tại Việt Nam hoàn toàn rất thuận lợi cho phát triển và mở rộng, đặc biệt với bao thanh toán xuất nhập khẩu. Hơn nữa, họ không tốn nhiều thời gian và tiền bạc xây dựng các mối quan hệ này khi áp dụng bao thanh toán quốc tế. o Công nghệ ngân hàng: việc chuyển giao công nghệ ngân hàng đáp ứng để phục vụ cho yêu cầu nghiệp vụ bao thanh toán đã đem lại những lợi thế cho các ngân hàng nước ngoài Do đó khả năng đáp ứng trong toàn bộ các khâu từ giai đoạn bắt đầu cho đến khi kết thúc quá trình của một khoản bao thanh toán diễn ra nhanh chóng nên đáp ứng kịp thời yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Với những lợi thế trên đây trong thời gian qua, các ngân hàng này đã thu đuợc những kết quả đáng kể trong hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam. Bắt đầu cung cấp dịch vụ cho khách hàng tại Việt Nam từ đầu năm 2005, chi nhánh ngân hàng (FENB) của Mỹ đã xây dựng cho mình một mối quan hệ chặt chẽ giữa chi nhánh ngân hàng với các NHTMCP Việt Nam như Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, Ngân hàng Phương Đông . Đầu năm 2005, ngân hàng OCB đã triển khai nghiệp vụ bao
  50. 49 thanh toán dựa trên thoả thuận hợp tác với chi nhánh ngân hàng FENB tại Việt Nam; theo đó, khi phát sinh nhu cầu bao thanh toán, ngân hàng FENB đóng vai trò là ngân hàng bao thanh toán và các ngân hàng liên kết đóng vai trò là ngân hàng ứng vốn thanh toán. Tính đến thời điểm hiện tại, tổng doanh số bao thanh toán của ngân hàng FENB tại Việt Nam khoảng 45.632.000.000 VND, con số tuy nhỏ nhưng khẳng định rằng chi nhánh ngân hàng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tận dụng được thế mạnh của mình trong hoạt động triển khai dịch vụ mới, đồng thời việc liên kết giữa các ngân hàng này với các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng Việt Nam có cơ hội học hỏi những kinh nghiệm quý báu từ đối tác; trên cơ sở đó phát huy thế mạnh và điều kiện vốn có của chính ngân hàng trong quá trình chính thức trở thành thành viên của các tổ chức bao thanh toán lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, chi nhánh ngân hàng Citibank, UFJ Bank, Deutsch Bank cũng đang đưa dịch vụ này vào triển khai áp dụng và bắt đầu có bước khởi động. Nhìn chung, đối với hầu hết các tổ chức tín dụng, cũng như các doanh nghiệp, bao thanh toán vẫn là một nghiệp vụ khá mới mẻ. Do đó, việc đánh giá hoạt động thông qua con số là rất khó khăn. Với một vấn đề mà lần đầu tiên tiếp cận sâu, tác giả xin đưa ra một số đánh giá chung về triển khai dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng, trên cơ sở đó có những đánh giá khách quan về triển vọng áp dụng bao thanh toán ở Việt Nam. 2.2.3. Đánh giá thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại các NHTM Việt Nam Từ khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004, thị trường dịch vụ bao thanh toán cũng đã bước đầu có những biến chuyển rõ rệt. Nghiệp vụ bao thanh toán đã có cơ sở pháp lý làm nền tảng để các tổ chức tín dụng tại Việt Nam nghiên
  51. 50 cứu tham gia cung cấp loại hình dịch vụ này. Việc bao thanh toán đến chậm với Việt Nam là một điểm yếu, do đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhu cầu về vốn rất lớn nhưng việc tiếp cận với các khoản vay là khó khăn. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp, thậm chí doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam chưa hề biết đến Quy chế về bao thanh toán hay nghiệp vụ bao thanh toán. Hầu hết các thông tin về bao thanh toán được công bố một cách khiêm tốn trên trang web của vài ngân hàng, chưa có chương trình khuyếch trương cũng như quảng bá, giới thiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp trên diện rộng. Do đó một phần dẫn đến nhận thức về bao thanh toán đối với các khách hàng tiềm năng trở nên hạn hẹp. Nhiều NHTM Việt Nam đã đưa nghiệp vụ bao thanh toán bàn luận và xây dựng chương trình triển khai thực hiện nhưng chưa thực sự quyết liệt. Một số ngân hàng cũng đã đưa ra Quy trình bao thanh toán tạm thời nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự đi vào triển khai. Phải chăng bao thanh toán thực sự khó triển khai, nhiều rủi ro và phức tạp. Nghiên cứu cho thấy, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, bao thanh toán là một giải pháp có nhiều ưu điểm, nó mở ra một nghiệp vụ tín dụng mới, linh động và giải quyết được khúc mắc so với tín dụng truyền thống, khắc phục những nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ. Mặc dù vậy, hoạt động này cũng gặp những rủi ro và phức tạp nhất định, phát hiện ra rủi ro đã là bài toán khó, giải nó như thế nào lại càng khó hơn, đặc biệt trong giai đoạn như nước ta hiện nay. Nhất là bao thanh toán lại quan tâm đến “người thứ 3”, đó là đơn vị bao thanh toán, đó là các ngân hàng đứng ra mua lại các khoản phải thu. Sau khi tiến hành một cuộc điều tra khảo sát một số cán bộ làm công tác tín dụng lấy ý kiến xem “các khoản phải thu” có những vấn đề gì và đánh giá như thế nào cho đúng, phân loại và giám sát như thế nào cho có hiệu quả thì quả thực không dễ khi mà nhiều doanh nghiệp và các thành
  52. 51 phần kinh tế khác của nước ta hoạt động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh không ổn định, lãi thật, lỗ giả hoặc lãi giả, lỗ thật hoặc trong cung cách báo cáo không đúng sự thật . Có thể thấy các rủi ro liên quan đến hoạt động bao thanh toán của ngân hàng thương mại Việt nam tựu chung lại như sau: . Rủi ro từ người bán: vì đơn vị bao thanh toán là các tổ chức tín dụng mà cụ thể ở đây là các ngân hàng và bao thanh toán là một nghiệp vụ đặc biệt của tín dụng, do vậy người bán chính là một khách hàng vay vốn với điều kiện đảm bảo khoản vay bằng các khoản phải thu của khách hàng đối với bên thứ ba. Người vay có thể tìm ra muôn vàn lý do và cách lý giải để được vay vốn, cũng đồng nghĩa là rủi ro có thể phát sinh từ đây. Một là, rủi ro xuất hiện do người bán (người đi vay vốn) cố tình gây ra. Hiện tượng này xảy ra cũng có nhiều cách và nhiều nguyên nhân của nó; có thể khách hàng vì một mục tiêu nào đó không trung thực trong hoạt động, cũng có thể do mâu thuẫn trong nội bộ hay vì một lợi ích cá nhân nào đó dẫn tới thủ đoạn móc nối để tạo ra rủi ro cho ngân hàng. Có thể thực hiện được hành vi này vì chính người bán là người sử dụng hoá đơn, chứng từ mua bán. Do vậy ở đây có trường hợp như hợp lý hoá hoá đơn chứng từ tạo ra các hợp đồng ma, hoặc đội giá hợp đồng . Tuy vậy để thực hiện được ý đồ trên, đòi hỏi phải có hệ thống mắt xích cấu kết mới có thể tạo ra được. Về nguyên nhân này, có thể do người mua người bán thông đồng với nhau, tạo ra sự hợp lệ, hợp lý các chứng từ, tạo khống các khoản phải thu trên giấy tờ mà kỳ thực là không có. Hai là, rủi ro xảy ra do năng lực yếu kém của bên bán do nhiều nguyên nhân bên trong hoặc bên ngoài tạo ra. Nếu chỉ đơn thuần xét năng lực của người bán như năng lực quản lý, điều hành, năng lực tạo lợi nhuận, phát triển , có rất nhiều lý do và sẽ kéo theo việc sản phẩm của bên bán không đủ hay không đạt yêu cầu, không đáp ứng được chất lượng đề ra và như vậy,
  53. 52 khi sản phẩm được bán ra không đạt yêu cầu sẽ làm cho cán cân đó bị lệch đó là giá trị các khoản phải thu theo hợp đồng mua bán đã ký lại nhỏ hơn giá trị ứng trước của ngân hàng đã cấp cho bên bán, đây cũng là mấu chốt căn bản ảnh hưởng đến lợi ích của ngân hàng. Theo hợp đồng kinh tế đã ký, đơn vị bao thanh toán là chịu phần rủi ro này. Do năng lực yếu kém của bên bán mang lại, hoặc sản phẩm của bên bán có tốt nhưng do lịch sử của bên bán không tốt nên cũng ảnh hưởng đến việc thu tiền hàng của đơn vị bao thanh toán và các khoản phải thu sẽ trở thành món nợ khó đòi. Ba là rủi ro từ phía người mua hàng. Người mua hàng ở đây là khách hàng của người bán, nghiệp vụ thu nợ ở đây chuyển từ người bán sang quyền thu cho ngân hàng. Có nghĩa là sau khi các bên ký kết xong hợp đồng bao thanh toán và nhận các hồ sơ cần thiết bao gồm chứng từ mua bán, các hợp đồng mua bán và các hoá đơn), ngân hàng sẽ nhận chuyển giao trách nhiệm thu nợ và chịu rủi ro thay người bán hàng. Từ đây mọi phát sinh được giao dịch chủ yếu giữa hai bên là tổ chức bao thanh toán và người mua hàng. Cũng từ đây, việc thu nợ được hay không, nguy cơ rủi ro đến đâu có thể căn cứ vào lý giải sau:  Năng lực tài chính của người mua, gắn trách nhiệm cao với ngân hàng thực hiện bao thanh toán, vì lúc này rủi ro thuộc về ngân hàng, cho dù ngân hàng có thực hiện bao thanh toán đến mức nào có quyền truy đòi hay không truy đòi. Giả sử trong quá trình ngân hàng quản lý các khoản phải thu, do bên mua hàng có cán cân tài chính không tốt, nợ phải trả tương đối cao trong khi các khoản phải thu của bên mua hàng trở nên khó đòi. Thứ hai, do đạo đức của khách hàng. Vì bên mua là bên thứ ba đối với ngân hàng thực hiện bao thanh toán.  Rủi ro từ chất lượng thẩm định của ngân hàng: việc thẩm định của ngân hàng đối với tài sản đảm bảo thường theo quy trình nhất định và đối
  54. 53 với hệ thống ngân hàng Việt Nam, việc thẩm định tài sản là một công việc tương đối thường xuyên và quy củ. Tuy nhiên, để đánh giá đúng chất lượng các khoản phải thu đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải thực sự hiểu và giám sát tốt các khoản phải thu này. Tuy vậy, việc xem xét đánh giá khách hàng bên mua là cả một quá trình, rủi ro này có thể xuất hiện trong quá trình thẩm định do trình độ của cán bộ thẩm định, nguyên nhân có thể là do trình độ của cán bộ thẩm định yếu kém, do ý thức và trách nhiệm của người thẩm định .  Bên cạnh đó còn một số rủi ro về tỷ giá, chính sách và cả rủi ro về mặt hàng bao thanh toán (ví dụ như thực phẩm, hoa quả, nông sản vì các sản phẩm này rất khó bảo quản và dễ hỏng). Ngoài ra, theo đánh giá của lãnh đạo một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam, bao thanh toán thực sự chưa tiện lợi, giá thành dịch vụ lại cao. Phí bao thanh toán xuất khẩu bao gồm phí tài trợ vốn, tương tự như lãi suất tín dụng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp muốn thực hiện bao thanh toán xuất khẩu phải chịu phí dịch vụ khoảng 1-2%, tuỳ thuộc vào tổng doanh số xuất khẩu, giá trị bình quân cho mỗi hoá đơn, thời hạn thanh toán và nhà nhập khẩu. Riêng phí chuyển nhượng mỗi hoá đơn mất từ 10-20 đô la Mỹ. Ngoài ra, ngân hàng Việt Nam thường đòi hỏi rất cao, thông thường phải chứng minh uy tín bên mua hàng hoá. Đây thực sự là một khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, khi hiểu biết và thông tin về thị trường xuất khẩu còn rất hạn chế. Nếu có một cái nhìn tổng thể về thị trường dịch vụ bao thanh toán Việt nam, đây còn là một thị trường mới, đầy tiềm năng. Đó mới chỉ là giai đoạn bước đầu của quá trình triển khai nghiệp vụ bao thanh toán trên toàn hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam. Theo xu thế hội nhập, Việt Nam đang ở ngưỡng cửa gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và trong
  55. 54 tương lai không xa, khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO; một trong những ngành phải mở cửa theo các cam kết này đó là ngành ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài tham gia tích cực vào hệ thống tài chính Việt Nam, hệ thống NHTM Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, có liên quan đến sự “sống còn” của từng ngân hàng. Với phạm vi bài viết có hạn, tác giả xin đưa ra một số đánh giá về triển vọng phát triển nghiệp vụ bao thanh toán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2.3. TRIỂN VỌNG CỦA NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM Sự phát triển của nền kinh tế đất nước hôm nay có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống các NHTM Việt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém trong hoạt động hi vọng trong tương lai với một thái độ luôn học hỏi, nghiên cứu tìm tòi, kế thừa và phát huy, các NHTM Việt Nam sẽ có những biến đổi cả về lượng và chất trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, mang lại hiệu quả cho ngân hàng và những tiện ích cho khách hàng trong và ngoài nước. Đây cũng chính là một tiền đề quan trọng tạo điều kiện phát triển một nghiệp vụ mới mẻ với nhiều NHTM Việt Nam, bao thanh toán. Để có một đánh tổng hợp về triển vọng dụng bao thanh toán tại Việt Nam, tác giả xin đưa ra một số đánh giá khách quan những yếu tố nội tại, những yếu tố phụ trợ của hệ thống NHTM Việt Nam làm nền tảng phát triển dịch vụ bao thanh toán và nhu cầu thực tế của khách hàng sử dụng loại hình dịch vụ này 2.3.1. Các yếu tố nội tại của hệ thống NHTM Yếu tố về vốn: Như đã đề cập ở phần I, chương II, vốn là yếu tố nội tại đầu tiên cần được nhắc đến bởi vai trò quan trọng của nó đối với hoạt động của các
  56. 55 NHTM và các doanh nghiệp Việt Nam. Vốn tự có là nguồn lực cơ bản để minh chứng cho sức mạnh tài chính của các NHTM, quyết định quy mô hoạt động, tầm vươn và độ an toàn cho các hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng trên thương trường. Chính vì vậy, giới quản trị, điều hành ngân hàng, khách hàng và các cơ quan quản lý đều quan tâm đến khả năng của ngân hàng trong việc duy trì và đảm bảo mức vốn đầy đủ khi triển khai loại hình bao thanh toán. Trên thực tế, quy mô vốn tự có của các NHTM Việt Nam là rất nhỏ bé, kể cả các NHTMNN. Lớn nhất trong hệ thống các NHTMNN là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với 5.000 tỉ đồng, còn các NHTMNN khác chỉ có từ 3.000 - 4.000 tỉ đồng tương đương 300 triệu USD và 130-150 triệu USD. Các NHTMCP có tổng vốn điều lệ khoảng trên 25000 tỉ đồng, tương đương 170 triệu USD. Như vậy, trung bình mỗi NHTMCP chỉ có khoảng trên 3 triệu USD vốn điều lệ (số liệu tính đến tháng 1/2004). Với quy mô vốn như vậy, các ngân hàng nước ta chỉ được xếp vào loại trung bình và nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực, chứ chưa nói tới các ngân hàng của Châu Âu hay Hoa Kỳ. Tóm lại, quy mô vốn của các NHTM nước ta còn yếu. Sự mỏng manh về vốn này đã làm giảm khả năng mở rộng tín dụng, cung cấp dịch vụ bao thanh toán xuất nhập khẩu của các ngân hàng đồng thời tăng rủi ro tín dụng, rủi ro trong bao thanh toán của họ. Về thực lực tài chính đã vậy, còn các yếu tố liên quan đến sự lành mạnh và an toàn tài chính các NHTM nước ta cũng không được bảo đảm. Có thể mỗi ngân hàng có phương pháp quản trị vốn tự có khác nhau: có ngân hàng lấy an toàn làm tiêu chí để định hướng hoạt động kinh doanh, nhưng cũng có ngân hàng lại chấp nhận rủi ro để xích gần tới những cơ hội sinh lời cao hơn. Có thể thấy bên cạnh năng lực tài chính yếu kém, hệ
  57. 56 thống các mức độ rủi ro hoạt động ngân hàng cao. Nếu phân loại nợ và trích lập đủ dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế; khả năng có không ít NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao và vốn tự có âm. Những rủi ro trong hoạt động ngân hàng rất đáng quan tâm ở Việt Nam nhất là trong điều kiện môi trường kinh tế vĩ mô còn thiếu ổn định như hiện nay. Vốn huy động bằng ngoại tệ lớn (năm 2004 chiếm 29,5% tổng nguồn vốn huy động); tỷ trọng cho vay trung, dài hạn so tổng dư nợ tín dụng có xu hướng tăng (từ 35,8% năm 2000 lên 42,7% năm 2004), trong khi đó nguồn vốn trung, dài hạn thiếu so với nhu cầu và khó huy động (tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn so tổng nguồn vốn huy động tăng chậm, từ mức 26,7% năm 2000 lên 29,4% năm 2004 mà chủ yếu là trung hạn), do đó các NHTM đã sử dụng một phần đáng kể vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Cho vay kinh tế nhà nước đang chiếm tỷ trọng lớn (42,5% tổng dư nợ tín dụng), trong khi năng lực tài chính của các doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém. Tín dụng ngân hàng dành cho khu vực kinh tế dân doanh còn thấp (năm 2004 đạt 38,63% tổng dư nợ) Yếu tố về mỏng và rủi ro cao về vốn cũng là một hạn chế trong việc triển khai bao thanh toán. Gần đây, để tăng dần tiềm lực tài chính của các NHTM, bên cạnh huy động tiền gửi trong dân cư, NHNN hiện đang đưa ra kế hoạch cổ phần hoá một số NHTMNN, các NHTM tích cực huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từ các khách hàng cá nhân và doanh nghiệp thông qua các đợt phát hành trái phiếu ngân hàng, do vậy đó cũng là một cơ hội tiềm tàng đáp ứng nhu cầu về vốn khi dự tính triển khai bao thanh toán vào năm 2007. Yếu tố con người : Có thể nói, con người luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, con người càng có vai trò quan trọng do đây là một hoạt động dịch vụ, việc duy trì quan hệ giữa khách hàng
  58. 57 và ngân hàng là nhiệm vụ trung tâm cho sự tồn tại và phát triển của các NHTM . Trong giai đoạn gần năng lực quản trị điều hành và năng lực thao tác nghiệp vụ bao thanh toán trong hệ thống một số NHTM đã được nâng cao thông qua các khoá đào tạo trong và ngoài nước. Các ngân hàng lớn chuyên về bao thanh toán thấy Việt Nam là một thị trường tiềm năng, thường xuyên gửi các chuyên gia của mình sang tổ chức các buổi tọa đàm về bao thanh toán. Do hoạt động cơ bản và truyền thống của cac ngân hàng là hoạt động tín dụng; trong quá trình hoạt động, ngân hàng đã xây dựng được một đội ngũ các nhân viên có trình độ trong việc thẩm định tín dụng, quyết định cho vay và thu hồi nợ. Do vậy họ có khả năng và giàu kinh nghiệm để sẵn sàng đón nhận, tiếp thu một nghiệp vụ mới khi cần, đặc biệt đối với nghiệp vụ bao thanh toán. Gần đây nhất, FCI đã tổ chức hội thảo với sự có mặt đại diện các thành viên của mình ở thành phố Hồ Chí Minh đánh giá về triển vọng áp dụng bao thanh toán ở các nước châu Á trong đó có Việt Nam. Yếu tố về hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại: Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM nhưng rủi ro lớn, hiệu quả đạt được không tương xứng với mức độ rủi ro thực tế đã và tiếp tục là nguyên nhân tạo ra nguy cơ đe doạ an toàn hoạt động của các NHTM: Cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra thu nhập cho các NHTM (trên 80% tổng thu nhập); thu về dịch vụ thanh toán, lãi kinh doanh ngoại hối và nghiệp vụ đầu tư, đặc biệt là dịch vụ tài chính phi ngân hàng (kinh doanh chứng khoán, tư vấn tài chính, mua bán nợ, ) còn thấp. Việc phát triển loại hình bao thanh toán, trên cơ sở đó, cũng sẽ gặp không ít khó khăn, do các NHTM Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến những lĩnh vực dịch vụ khác ngoài tín dụng. Đây sẽ là một thị trường bỏ ngỏ, trở thành một cơ hội
  59. 58 lớn cho các ngân hàng nước ngoài nhảy vào Việt Nam sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. 2.3.2. Nhu cầu của khách hàng Khách hàng là đối tượng phục vụ của ngân hàng, là yếu tố định hướng cho việc duy trì, mở rộng và phát triển của các NHTM. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của các ngân hàng gắn liền với mối quan hệ của ngân hàng với khách hàng, vào khả năng thỏa mãn những nhu cầu phong phú và đa dạng của khách hàng Mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng của hệ thống các NHTM Việt Nam còn yếu. Khách hàng tìm đến ngân hàng đôi khi không tìm được sự phù hợp của các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng với nhu cầu của mình. Cho một ví dụ, khách hàng doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng, nhưng hiện nay mức phí cũng chưa hợp lý, không có sự khác biệt về phí giữa phương thức bao thanh toán và phương thức tín dụng chứng từ. Theo số liệu thống kê đến cuối năm 2002, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam khoảng 62.908 trong đó có 5364 doanh nghiệp nhà nước, 55.236 doanh nghiệp tu nhân, 2.308 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng số vốn của doanh nghiệp nhà nước là 1.441 nghìn tỷ đồng (bình quân 151,2 tỷ đồng/doanh nghiệp). Như vậy có thể thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (mức vốn dưới 5 tỷ đồng) tập trung chủ yếu trong khu vực doanh nghiệp tư nhân. Trên thực tế, khả năng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông qua thế chấp tài sản,để phục vụ sản xuất kinh doanh bị hạn chế rất nhiều do các lý do: - Về thủ tục vay vốn: báo cáo tài chính cũng như việc giải trình về vấn đề vay vốn và khả năng hoàn trả vốn vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu cơ sở thuyết phục.
  60. 59 - Về yêu cầu tài sản thế chấp: hiện nay do quy định chung của Nhà nước, việc đánh giá mức độ tín dụng xếp hạng không cao, các tổ chức tín dụng thường có những yêu cầu khắt khe về tài sản thế chấp đối với các đề nghị vay vốn của các doanh nghiệp này, khiến các doanh nghiệp này không thể đáp ứng nổi. - Về hạn mức cho vay: Chưa có cơ sở thống nhất cho phương pháp định giá tài sản thế chấp cho nên các quyết định về mức vốn cho vay của các ngân hàng dao động lớn, thấp hơn nhiều so với gía trị thực của tài sản thế chấp Cũng theo số liệu thống kê năm 2005, tỷ trọng vốn chủ yếu của các doanh nghiệp chiếm khoảng 30% tổng nguồn vốn kinh doanh và con số này có xu hướng ngày càng giảm, điều này có nghĩa là tỷ trọng vốn do doanh nghiệp đi vay và chiếm dụng của doanh nghiệp khác chiếm phần còn lại, trong đó nợ chiếm dụng và nợ quá hạn cũng có xu hướng gia tăng. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tình hình tài chính của doanh nghiệp như vậy đang có tiềm ẩn yếu tố thiếu an toàn. Trong thời gian qua, cùng với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cũng đã có những bước phát triển cả về chất và lượng, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Theo số liệu thống kê, mỗi năm doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đóng góp khoảng 25-27% GDP của cả nước. Vốn kinh doanh của khu vực kinh doanh này chiếm 20% so với vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Theo Quyết định số 90/2001/NĐ-CP, DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có quy mô đầu tư vốn không quá 10 tỷ đồng, số lao động hàng năm không quá 300 người, DNVVN Việt nam có một số đặc điểm sau:
  61. 60 - Nguồn tài chính còn hạn hẹp, thiết bị công nghệ lạc hậu - Trình độ quản lý còn yếu kém, tay nghề của người lao động chưa cao - Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, gia công chế biến, thủ công mỹ nghệ là chủ yếu. - Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, quản lý đơn giản - Năng động linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu Như vậy, đây chính là một đối tượng khách hàng tiềm năng khi các ngân hàng Việt Nam muốn hướng tới khi áp dụng phương thức bao thanh toán. Theo đánh giá, việc tiến hành dịch vụ bao thanh toán đang mở ra cơ hội rất lớn cho các ngân hàng mở một kênh phân phối tín dụng khác cho khách hàng mà không chịu ảnh hưởng của các nhân tố trên, đồng thời góp phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp này thông qua việc giảm bớt tỷ trọng nợ chiếm dụng. Ngân hàng vốn vẫn là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về vốn. Do vậy, về cơ bản, ngân hàng có mối quan hệ lâu dài nhất với hầu hết các đối tượng khách hàng nên ngân hàng chính là đầu mối nắm giữ thông tin một cách chắc chắn và chính xác nhất về khách hàng. Đây cũng chính là một điểm thuận lợi tạo điều kiện phát triển bao thanh toán. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết của đại bộ phận dân chúng đối với hoạt động bao thanh toán của ngân hàng còn hạn chế, đặc biệt là hiểu biết về sản phẩm cũng như dịch vụ ngân hàng. Nhu cầu của khách hàng mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ sẵn có do ngân hàng cung cấp mà chưa có tính chất gợi mở cho ngân hàng về các loại hình dịch vụ mới. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự kém đa dạng về dịch vụ ngân hàng ở nước ta. Một nguyên nhân khách quan nữa là do trình độ công nghệ chung của đất nước còn ở mức độ lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới nên trình độ công
  62. 61 nghệ trong lĩnh vực ngân hàng cũng không thể hiện đại đủ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng như các ngân hàng thuộc các nước tiên tiến. Về nguyên nhân chủ quan, chính bản thân các ngân hàng cũng không nhanh nhạy nắm bắt ý muốn của khách hàng, không tăng cường các hoạt động nghiên cứu thị trường để tìm hiểu những nhu cầu mới nảy sinh và tìm cách đáp ứng chúng. Các ngân hàng cũng không có các hoạt động xúc tiến truyền thông có hiệu quả để giới thiệu với khách hàng về sản phẩm và dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng. Một nguyên nhân nữa liên quan đến tiềm lực tài chính của ngân hàng. Với quy mô vốn nhỏ, các ngân hàng không thể đầu tư cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ, cải tiến công nghệ ngân hàng, thực hiện các chiến lược quảng bá, giới thiệu sản phẩm bởi những công việc này đòi hỏi một lượng tiền không nhỏ. Điều này làm hạn chế khả năng của ngân hàng trong việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. 2.3.3. Các yếu tố bên ngoài và các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ Về các yếu tố bên ngoài, trước hết phải kể đến sự phát triển nền kinh tế đất nước cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ năm 2000 trở lại đây, nền kinh tế liên tục tăng trưởng khá nhanh (thấp nhất là 6,79% năm 2000, cao nhất là 7,69% năm 2004 và 8,5% năm 2005), kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định (chỉ số CPI tăng bình quân 3,34%/năm, thâm hụt ngân sách nhà nước được kiểm soát dưới 5% GDP) và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Nhờ đó, môi trường hoạt động ngân hàng ngày càng thuận lợi và hấp dẫn; nhu cầu về số lượng và chất lượng dịch vụ ngân hàng Việt Nam ngày càng tăng. Hệ thống dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và có chất lượng cao hơn. Một số dịch vụ ngân hàng hiện đại đã được triển khai và xã hội chấp nhận (ngân hàng điện tử, Internet banking, phone banking, mobile banking, thẻ ATM, ). Hệ thống ngân hàng đã có những cải thiện đáng kể về năng lực thể chế, tài chính, hoạt động, công nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới kênh phân phối. Số lượng các tổ