Luận văn Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

pdf 113 trang vanle 2310
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_nang_luc_hoi_nhap_kinh_te_quoc_te_cua_doanh_nghiep.pdf

Nội dung text: Luận văn Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG BÙI THU THUỶ NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA DNN&V VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế Mã số : 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. NGUYỄN PHÚC KHANH HÀ NỘI - 2004
  2. LỜI CẢM ƠN Trước tiên cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, các thầy cô giáo và các cán bộ Khoa sau Đại học, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, đã giảng dạy, truyền thụ cho tôi những kiến thức, những phương pháp nghiên cứu khoa học mới và sự giúp đỡ tận tình trong suốt thời gian khoá học Cao học 8 (2001-2004) tại Trường Đại học Ngoại thương Hà nội. Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Phúc Khanh, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, người đã hướng dẫn tận tình, cung cấp cho tôi những tài liệu thiết thực và luôn dành cho tôi những ý kiến đóng góp quý báu trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sỹ này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ Thư viện Trường Đại học Ngoại thương Hà nội, Thư viện của tổ chức JETRO Nhật Bản, Cục Phát triển Doanh nghiệp Nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương, Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam và nhóm chuyên gia tư vấn ADB thuộc dự án Hỗ trợ Kỹ thuật chuẩn bị khoản vay chương trình phát triển DNN&V đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình sưu tập các tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài Luận văn tốt nghiệp. Sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cha mẹ và mọi người trong gia đình, các đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về thời gian và cổ vũ động viên tôi trong quá trình thực hiện Luận văn này. Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn./. Hà nội, ngày 26 tháng 8 năm 2004 Người viết Bùi Thu Thuỷ
  3. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN KÝ HIỆU VIẾT TẮT LỜI NÓI ĐẦU 1 Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DNN&V VÀ NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA DNN&V VIỆT NAM 4 1.1. Lý luận chung về DNN&V và vai trò của DNN&V trong nền kinh tế. 4 1.1.1. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) 4 1.1.2. Đặc điểm và tính chất của DNN&V 7 1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập 9 1.2. Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam 13 1.2.1. Vài nét về Hội nhập kinh tế quốc tế: lợi ích và rủi ro 13 1.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với DNN&V Việt Nam trong quá trình hội nhập 15 1.2.3. Năng lực Hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam 18 1.3. Kinh nghiệm về chính sách tạo dựng năng lực HNKTQT cho DNN&V của các nước trên thế giới 25 1.3.1. Kinh nghiệm của nhóm nước OECD 25 1.3.2. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN 28 1.3.3. Một số kết luận rút ra từ thực tiễn kinh nghiệm tạo dựng năng lực HNKTQT cho DNN&V của các nước 32 Chương II: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA DNN&V VIỆT NAM 34 2.1. Đánh giá thực trạng năng lực hội nhập kinh tế quốc tế
  4. của DNN&V Việt Nam 34 2.1.1. Năng lực về vốn và công nghệ 34 2.1.2. Năng lực quản lý và nguồn nhân lực 44 2.1.3. Năng lực về tên tuổi thương hiệu và tiếp cận thị trường 51 2.2. Hỗ trợ của Chính phủ và các nhà tài trợ trong tạo dựng năng lực hội nhập cho DNN&V trong thời gian vừa qua 59 2.2.1. Hỗ trợ về mặt chính sách, khung khổ pháp lý 59 2.2.2. Hệ thống chương trình trợ giúp DNN&V 62 2.2.3. Trợ giúp từ phía các nhà tài trợ 64 Chương III: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TẠO DỰNG NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CHO DNN&V VIỆT NAM. 66 3.1. Quan điểm và định hướng tạo dựng năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cho DNN&V Việt Nam 66 3.1.1. Yêu cầu của hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đối với DNN&V Việt Nam 66 3.1.2. Quan điểm và định hướng tạo dựng năng lực hộ nhập cho khu vực DNN&V Việt Nam 68 3.2. Những giải pháp chủ yếu tạo lập năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam 73 3.2.1. Nhóm giải pháp về vốn và công nghệ 73 3.2.2. Nhóm giải pháp về quản lý và nguồn nhân lực 82 3.2.3. Nhóm giải pháp về tên tuổi thương hiệu và tiếp cận thị 89 trường KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DNN&V Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DNTN Doanh nghiệp tư nhân HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế WTO Tổ chức Thương mại Thế giới MPDF Chương trình phát triển khu vực Mêkông GTZ Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật của Đức QLKTTW Quản lý Kinh tế trung ương STAMEQ Tổng Cục Tiêu chuẩn đo lường Chất lượng UNDP Tổ chức phát triển của Liên hiệp quốc WB Ngân hàng Thế giới IFC Công ty Tài chính quốc tế JBIC Ngân hàng quốc tế Nhật Bản OECD Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế APEC Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á Th¸i B×nh D•¬ng JICA Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản USPTO Cục sáng chế thương hiệu Mỹ SHCN Sở hữu công nghiệp EU Liên minh châu Âu NNPTNT Nông nghiệp Phát triển nông thôn ADB Ngân hàng Phát triển châu Á TNHH Trách nhiệm hữu hạn SMI DNN&V công nghiệp ASEAN Các nước khu vực Đông Nam Á
  6. - 1 - LỜI NÓI ĐẦU Một trong những nét nổi bật của kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ II trở lại đây, đặc biệt là trong khoảng một thập kỷ qua, là sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế mà một trong đặc trưng cơ bản là sự gia tăng của các luồng trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, tài chính, công nghệ và nhân công giữa các quốc gia cũng như sự hình thành và phát triển hàng loạt các thể chế kinh tế quốc tế. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập của Việt Nam không chỉ diễn ra như một tất yếu mà còn là một quá trình mang tính chủ động xuất phát từ quan điểm và đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã xác định “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một trong những định hướng chiến lược quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội”. Quá trình hội nhập của Việt Nam có thành công hay không phủ thuộc chủ yếu vào năng lực hội nhập của các doanh nghiệp, mà trong đó hơn 90% là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V). Phát triển khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) ở Việt Nam được Chính phủ và các cơ quan tài trợ nước ngoài xác định là động lực tăng trưởng trong thiên niên kỷ mới. Phát triển DNN&V không những sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định chính trị của đất nước thông qua tạo nhiều việc làm giải quyết vấn đề lao động và phúc lợi xã hội. Ở một nước mà phần lớn lao động làm nông nghiệp như nước ta thì chính DNN&V là tác nhân và động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách biện pháp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội. Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2000 tháo gỡ khó khăn và tạo điệu kiện dễ dàng cho thành lập doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp đã không ngừng tăng lên. Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về “Trợ giúp phát triển doanh
  7. - 2 - nghiệp nhỏ và vừa” (Nghị định 90) đồng thời thành lập Hội đồng khuyến khích phát triển DNN&V và Cục Phát triển DNN&V làm cơ quan đầu mối thực hiện các chương trình hỗ trợ DNN&V. Nhờ những chính sách chủ trưởng đúng đắn của Đảng, DNN&V Việt Nam đã bước đầu được hoạt động trong một môi trường khá thuận lợi và cũng đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, những kết quả đó chưa tương xứng với vị trí và vai trò của DNN&V. Phần lớn các DNN&V vừa mới ra đời còn non trẻ, hạn chế về nhiều mặt không chỉ là nguồn nhân lực, năng lực tài chính mà còn năng lực công nghệ, tên tuổi thương hiệu và khả năng tiếp cận thị trường nhìn chung cũng rất yếu kém. Nhận thức được điều đó, người viết chọn đề tài: “Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài tốt nghiệp thạc sỹ của mình với hy vọng cùng các công trình nghiên cứu chung góp phần xây dựng lộ trình hội nhập hiệu quả cho các DNN&V Việt Nam. 1. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu . Làm rõ cơ sở về lý luận và thực tiễn của DNN&V và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các DNN&V Việt Nam. . Đánh giá thực trạng năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam. . Kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các DNN&V Việt Nam. 2. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn sẽ là các DNN&V Việt Nam và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của khu vực doanh nghiệp này. Trong một thời gian dài chúng ta chưa có định nghĩa thống nhất về DNN&V, hơn nữa đại bộ phận DNN&V Việt Nam là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (97%)
  8. - 3 - không kể các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vậy tính chất và đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mang tính đại diện cho các DNN&V của Việt Nam. Vì vậy, khi phân tích năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V, các con số thống kê về tỷ trọng GDP đóng góp trong nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm, đặc điểm công nghệ, năng lực vốn, trình độ quản lý chủ yếu được tổng kết trên cơ sở số liệu của khu vực ngoài quốc doanh chứ chưa có số liệu tổng hợp theo tiêu thức phân loại mới về DNN&V quy định tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. 3. Phạm vi nghiên cứu Có rất nhiều yếu tố khác nhau trực tiếp hay gián tiếp quyết định năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam nhưng luận văn chỉ tập trung vào phân tích một số yếu tố chủ yếu tác động đáng kể đến khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam như: năng lực vốn, năng lực công nghệ, năng lực quản lý, năng lực tiếp cận thị trường, năng lực con người. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu đã đề ra và làm rõ các nội dung của luận văn, tác giả sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp như phân tích định tính và định lượng, các phương pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc, các phương pháp suy luận logic và diễn giải trong quá trình phân tích. Ngoài ra, luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu trình bày các nội dung mang tính chất lý luận và thực tiễn. Các phương pháp so sánh tổng quan, phương pháp phân tích các số liệu thống kê đã được công bố cũng được tác giả sử dụng linh hoạt để rút ra kết luận, đánh giá hoặc đề xuất những giải pháp và quan điểm cơ bản về nâng cao năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam.
  9. - 4 - 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương: Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về Doanh nghiệp nhỏ và vừa và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của Doanh nghiệp Nhỏ và vừa Việt Nam Chƣơng II: Thực trạng năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. Chƣơng III: Những giải pháp nhằm tạo dựng năng lực Hội nhập kinh tế quốc tế cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DNN&V VÀ NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA DNN&V VIỆT NAM. 1.1. Lý luận chung về DNN&V và vai trò của DNN&V trong nền kinh tế. 1.1.1. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) 1.1.1.1. Tình hình phát triển và tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) ở một số nước trên thế giới. Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) tuy có mặt ở rất nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhưng lại không có một điểm chung thống nhất giữa các quốc gia về khái niệm cũng như tiêu thức xác định DNN&V. Điều này thể hiện sự khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, điều kiện chính trị, kinh tế xã hội giữa các quốc gia, đồng thời thể hiện sự khác nhau trong các chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DNN&V. Qua thực tiễn nhiều nước, trong đó có một số nước có điều kiện kinh tế và trình độ phát triển tương tự Việt Nam, có thể thấy rằng các nước này sử dụng hai nhóm tiêu thức phổ biến là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng để xác định DNN&V. Tiêu chí định tính dựa trên đặc trưng cơ bản của các DNN&V như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nhóm tiêu thức này thường chỉ được dùng làm cơ sở
  10. - 5 - tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng làm cơ sở để xác định quy mô doanh nghiệp. Tiêu chí định lượng có thể bao gồm các tiêu chí như: số lao động, tổng giá trị tài sản (hay tổng vốn), doanh thu hoặc lợi nhuận. Trong đó vốn và số lao động được áp dụng nhiều nhất làm tiêu chí xác định DNN&V. Dưới đây là cách xác định DNN&V ở một số khu vực và quốc gia trên thế giới (Tham khảo Phụ lục 1.1). a. Khu vực EU Liên minh châu Âu là khu vực phát triển rất mạnh các DNN&V (80% số doanh nghiệp EU có số lượng dưới 100 người). Tiêu chí xác định DNN&V ở EU căn cứ vào 3 yếu tố chính là: số lao động được sử dụng thường xuyên, doanh số bán hàng năm và vốn đầu tư cho sản xuất. Bảng 1.1. Phân loại DNN&V của khu vực EU Tiêu thức phân loại Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa Số lao động tối đa 50 250 Doanh thu/ năm tối đa 7 triệu EURO 40 triệu EURO Tồng kết tài sản/năm tối đa 5 triệu EURO 27 triệu EURO Nguồn: DNN&V definition, www.modcontractsuk.com Sự phân định như vậy chưa xác đáng vì không phân biệt các doanh nghiệp giữa các ngành trong khi có một thực tế là đặc điểm kinh tế giữa các ngành nhiều khi quyết định qui mô doanh nghiệp. b. Khu vực ASEAN Tại các nước ASEAN, khái niệm về DNN&V còn có sự khác nhau. Song nhìn chung các nước Singapore, Malaixia, Inđônêxia, Thái lan, Philippin đều dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định một doanh nghiệp thuộc quy mô vừa, nhỏ hay lớn, đó là: số lượng lao động được sử dụng và tổng vốn đầu tư. Singapore quan niệm DNN&V là những doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 100 người và vốn đầu tư dưới 1,2 triệu đô la Singapore. Với Malaixia, DNN&V là những doanh
  11. - 6 - nghiệp có số lao động dưới 200 người và vốn đầu tư dưới 2,5 triệu riggit. Còn với Inđônêxia, Thái Lan và Philippin thì có sự phân loại chi tiết hơn thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ (micro-enterprise) trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ thường là những hộ kinh doanh gia đình. Như vậy, quan niệm thế nào là một DNN&V ở một số nước ASEAN còn có sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương đối và chủ yếu căn cứ vào quy mô về vốn và lao động. Do đó cách xác định DNN&V cũng mắc phải một số nhược điểm như cách phân loại một số nước trong khu vực EU, tức là chưa xét đến yếu tố đặc điểm kinh tế ngành. c. Mỹ Tại Mỹ, nơi mà khi nhắc tới, người ta nghĩ ngay đến những tập đoàn kinh tế hùng mạnh thì vai trò của các DNN&V cũng rất được đề cao. Việc phân loại các DNN&V cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên cạnh những tiêu chí định lượng như: Lợi nhuận với mức tăng trưởng hàng năm dưới 150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại hay các tiêu chuẩn về lao động, DNN&V còn được phân loại theo từng ngành riêng biệt như sau: - Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Tổ chức có từ 250 lao động trở xuống được coi là doanh nghiệp nhỏ. - Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại bán lẻ: doanh nghiệp có dưới 100 lao động thì được coi là nhỏ; từ 100-1.000 lao động được coi là vừa và từ 1.000 lao động trở lên được coi là lớn và rất lớn. Luật DNN&V của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn định tính như: DNN&V là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong ngành của mình liên quan. Theo khái niệm của Mỹ, các DNN&V không phải là công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn. Điều này khác hẳn với các DNN&V ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh thuộc công ty lớn vẫn được hưởng những đặc quyền như các DNN&V.
  12. - 7 - 1.1.1.2. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Nghị định 90/2001/CP-NĐ ngày 23/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ về trợ giúp và phát triển DNN&V quy định DNN&V là “Những đơn vị sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có mức vốn đăng ký không quá 10 tỷ VND và/hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Tuy nhiên, các chính sách và chương trình hỗ trợ của Chính phủ đối với các DNN&V vẫn gặp khó khăn vì đây thực sự vẫn chưa phải là một định nghĩa toàn diện về DNN&V. Định nghĩa được đề cập trong Nghị định 90 tuy đã đưa ra hai tiêu chí quan trọng nhất là lao động và vốn đăng kí để xác định DNN&V, nhưng theo nhiều chuyên gia kinh tế, định nghĩa này sẽ hoàn chỉnh hơn nếu nó bao hàm cả tiêu chí về doanh thu và tổng tài sản. Bởi lẽ, vẫn tồn tại một thực tế là các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ về bản chất có doanh thu cao hơn nhưng tổng vốn đăng kí nhỏ hơn so với các doanh nghiệp sản xuất. Một trở ngại khác liên quan đến định nghĩa hiện tại về DNN&V đó là trong định nghĩa hiện nay không quy định các tiêu chí để phân chia các DNN&V thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Điều này gây khó khăn cho Chính phủ trong việc xác định trọng tâm hỗ trợ dựa trên quy mô doanh nghiệp trong nội bộ khu vực DNN&V. 1.1.2. Đặc điểm và tính chất của DNN&V Qua việc phân tích các quan niệm về DNN&V ở trên chúng ta thấy hết các nước coi DNN&V là một loại hình doanh nghiệp không được phân biệt theo hình thức sở hữu mà được phân biệt trên khía cạnh qui mô nhiều hơn. Các DNN&V là các doanh nghiệp có qui mô về vốn hoạt động là nhỏ do đó doanh thu và lợi nhuận không lớn và hầu hết hoạt động trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, DNN&V có những đặc tính nhất định trong quá trình hình thành và phát triển. Hầu hết các học giả nhất trí rằng loại hình DNN&V có các điểm mạnh và điểm yếu sau đây:
  13. - 8 - * Về các điểm mạnh: So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác đang tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế như các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các công ty đa quốc gia thì DNN&V có các điểm mạnh như: - Dễ khởi nghiệp, hầu hết các DNN&V đều dễ dàng có thể bắt đầu ngay sau khí có ý tưởng kinh doanh và một số ít vốn cũng như lao động nhất định. Loại hình doanh nghiệp này gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Rất nhiều doanh nghiệp lớn, các công ty đa quốc gia trên thế giới đi lên từ những DNN&V. - Linh hoạt, vì hoạt động với quy mô nhỏ nên hầu hết các DNN&V đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường. Trong một số trường hợp các DNN&V còn năng động trong việc đón đầu những biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội, hay các dao động đột biến trên thị trường. Trên giác độ thương mại thì nhờ tính năng động này mà các DNN&V dễ dàng tìm kiếm những thị trường ngách và gia nhập thị trường này khi thấy việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang phát triển hoặc chuyển đổi. - Lợi thế so sánh trong cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn, DNN&V có lợi thế so sánh trong cạnh tranh đó là khả năng phát huy những nguồn lực đầu vào như lao động hay tài nguyên hoặc nguồn vốn tại chỗ khi khai thác và phát huy các ngành nghề truyền thống của từng địa phương. Rất nhiều DNN&V của Việt Nam và thế giới đã từng bước trưởng thành và lớn mạnh khi khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương. Bên cạnh đó các doanh nghiệp nhỏ còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, qua đó sáng tạo ra nhiều loại hàng hoá và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. - Tạo ra các tác động ngoại lai. Trên giác độ kinh tế thì DNN&V tạo ra các tác động ngoại lai rất mạnh cả về mặt tích cực và tiêu cực. Với lợi thế trong việc
  14. - 9 - khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao động, DNN&V góp phần tạo công ăn việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và bảo vệ các nét văn hoá truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó việc phát triển các DNN&V còn có các lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn qua đó góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội và giúp chính phủ giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội khác. * Về các điểm yếu: Bên cạnh các điểm mạnh được chỉ ra ở trên, các DNN&V còn có các điểm yếu nhất định như (1) thiếu các nguồn lực để tiến hành các công trình hoặc các dự án đầu tư lớn, các dự án đầu tư công cộng; (2) các DNN&V không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và ở một số nước nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường yếu thế hơn trong các quan hệ với ngân hàng, với Chính phủ và giới báo chí cũng như thiếu sự ủng hộ của công chúng. Nhiều DNN&V bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong qúa trình phát triển; (3) Đứng ở giác độ nhất định thì các DNN&V vì là rất dễ khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy càng nhiều DNN&V ra đời thì cũng có càng nhiều DNN&V bị phá sản. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm của nhiều nhà kinh tế thì các DNN&V có tỉ lệ phá sản và thất bại cao trong năm hoạt động thứ tư. Và các doanh nghiệp do nam giới quản lý thường có tỷ lệ thất bại cao hơn các doanh nghiệp được điều hành và quản lý bởi các chủ doanh nghiệp nữ. Bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực thì DNN&V cũng gây ra không ít các ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực trong nền kinh tế như do ít vốn, hầu hết các doanh nghiệp này không quan tâm đầy đủ tới việc bảo vệ môi trường hoặc khi nhiều DNN&V bị phá sản do hoạt động không hiệu quả thì gây ra sự thiếu tư tưởng của dân chúng đối với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho người tiêu dùng khi lựa chọn các sản phẩm tiêu dùng cũng như các nhà cung cấp dịch vụ. Điều này đã làm giảm uy tín của loại hình DNN&V đối với công chúng và người lao động.
  15. - 10 - 1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập. Vai trò của các DNN&V ở nhiều nước được biết đến như là các cơ sở sản xuất, kinh doanh có khả năng (1) Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp; (2) cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá và dịch vụ và làm tăng GDP cho nền kinh tế; (3) Tăng cường kỹ năng quản lý và đổi mới công nghệ; (4) góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập trong xã hội, xoá đói giảm nghèo và đảm bảo sự công bằng trong nền kinh tế; (5) tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn; (6) cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn này không chỉ các nước phát triển mà cả nước đang phát triển thừa nhận (xem Phụ lục 1.2 - Vai trò DNN&V ở một số nước). 1.1.3.1. Đóng góp một phần đáng kể vào GDP và tăng trưởng kinh tế Theo báo cáo về tình hình triển khai Nghị định 90/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNN&V của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, DNN&V ở nước ta hiện nay chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc, trong đó phần lớn là doanh nghiệp tư nhân. DNN&V đóng góp khoảng: 26% tổng sản phẩm xã hội (GDP), 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, 68% tổng lượng vận chuyển hàng hoá. Đóng góp thông qua nộp thuế của DNN&V năm 2001 chiếm 6,4% tổng ngân sách Quốc gia, tăng lên hơn 7% trong năm 2002 (tăng 13% so với năm 2001), vượt chỉ tiêu do Quốc hội đề ra là 3,6%. Quý I/2003, thuế nộp ngân sách của DNN&V chiếm khoảng 11% tổng số thu GDP, tăng 28,7% so với cùng kỳ và đạt 26,7% chỉ tiêu do Quốc hội đề ra.
  16. - 11 - Bảng 1.2. Đóng góp vào GDP của các DN Việt Nam giai đoạn 1998-2002 ( Đơn vị: Tỷ đồng) Khu vực 1998 1999 2000 2001 2002 DNNN 144.406 154.927 170.141 186.958 200.045 Doanh nghiệp ngoài 180.396 196.057 212.879 234.011 250.392 quốc doanh Doanh nghiệp có vốn 36.214 48.958 58.626 63.524 67.971 đầu tư nước ngoài Tổng số DNN&V 361.016 399.942 441.646 484.493 518.408 DNNN 40% 39% 39% 39% 39% Doanh nghiệp ngoài 50% 49% 48% 48% 48% quốc doanh Doanh nghiệp có vốn 10% 12% 13% 13% 13% đầu tư nước ngoài Tổng(%) 100% 100% 100% 100% 100% Nguồn: Tổng cục Thống kê, Kêt quả khảo sát thực trạng doanh nghiệp” 2001, 2002, 2003, 2004 Nhà xuất bản Thống kê 1.1.3.2. Góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, tạo sự ổn định xã hội Tại hầu hết các quốc gia, mặc dù quy mô nhỏ nhưng theo quy luật số lớn, DNN&V được biết đến như một khu vực thu hút nhiều lao động, góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, chính khu vực kinh tế này đã tạo ra khoảng 70% việc làm trong xã hội. Trong gần bốn năm qua, báo cáo của Viện Nghiên cứu QLKTTW cho thấy mỗi năm đã có khoảng 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc mới đã được tạo ra nhờ các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể mới thành lập và mở rộng quy mô kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp; đưa tổng số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng số lao động trong các DNNN; và tổng số lao động làm việc trong doanh nghiệp của tư nhân và
  17. - 12 - hộ kinh doanh cá thể lên đến khoảng hơn 6 triệu người. Có không ít doanh nghiệp đã tạo công ăn việc làm trực tiếp và gián tiếp cho hàng nghìn lao động. Trong lĩnh vực cơ bản của ngành công nghiệp chế biến, các DNN&V tuyển dụng 355.000 lao động, chiếm 36% tổng số lao động trong ngành. Trong ngành xây dựng tương ứng là 155.000 lao động, chiếm 51%, trong ngành thương nghiệp và dịch vụ sửa chữa là 110.000 lao động, chiếm 56%, lĩnh vực khách sạn nhà hàng là 51.000 lao động, chiếm 89%, hoạt động kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn là 27.000 lao động, chiếm 72% tổng số lao động ngành. Hơn nữa các số liệu thống kê cũng cho thấy rằng DNN&V đã thu hút một tỷ lệ lao động chủ yếu trên phạm vi toàn quốc; ở duyên hải miền trung số lao động làm việc tại các DNN&V so với tổng số lao động làm việc ở tất cả các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất là 67%; Đông Nam Bộ có tỷ lệ thấp nhất là 44%; và tỷ lệ này trên toàn quốc là 49%. 1.1.3.3. Tận dụng các nguồn vốn, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn xã hội Theo đánh giá của các chuyên gia, một nguồn vốn nhàn rỗi lớn tiềm ẩn trong nền kinh tế Việt Nam chưa được huy động và khai thác một cách hiệu quả. Việc khởi sự doanh nghiệp với lợi thế vốn nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh, tính chất phân tán rải rác đi sâu vào nhiều vùng, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế như DNN&V là cơ hội để huy động được các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn hình thức doanh nghiệp tư nhân, các hộ gia đình, hợp tác xã vừa huy động nguồn vốn tự có của cá nhân vừa tận dụng được các nguồn đầu tư đa dạng trong nền kinh tế. Từ đó dần dần tạo ra tập quán dùng tiền vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh thay vì chỉ để tiền nhàn rỗi. Hơn nữa, với quy mô nhỏ gọn của mình, các DNN&V thường sử dụng nguyên vật liệu tại địa phương để làm xuất phát điểm tiến hành sản xuất kinh doanh, điều này rất thiết thực đối với các ngành thủ công truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, DNN&V vì thế có thể góp phần huy động nguồn lực toàn xã hội.
  18. - 13 - 1.1.3.4. Tạo lập sự phát triển cân đối, từng bước chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu, tăng tính năng động, linh hoạt và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Ở Việt Nam cũng như các nước khác, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường tập trung ở các thành phố, trung tâm công nghiệp. Xu hướng này đã gây mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong một quốc gia, từ đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế. Phát triển các DNN&V là phương tiện quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối giữa các vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngành và các vùng lãnh thổ. Hơn nữa, việc phát triển các DNN&V cũng có ý nghĩa to lớn đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Các DNN&V có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh giúp cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNN&V trong nền kinh tế một mặt có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn thông qua các hợp đồng phụ làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, cung cấp nguyên liệu, thâm nhập vào các ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. Mặt khác, với số lượng đông đảo DNN&V tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế, giảm bớt khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn. DNN&V với mạng lưới rộng khắp đảm bảo phân bố doanh nghiệp hợp lý hơn, giảm bớt sức ép về dân số ở các thành phố lớn. 1.1.3.5. Các DNN&V là nơi gieo mầm cho các tài năng kinh doanh DNN&V chính là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp và bản thân người lao động. Kinh doanh với quy mô nhỏ là môi trường đào tạo tốt nhất cho các nhà doanh nghiệp để từng bước tiếp cận đến kinh doanh với quy mô tầm cỡ hơn. Khởi sự từ hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ và thông qua quá trình điều hành
  19. - 14 - quản lí kinh doanh với quy mô nhỏ, các nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp tài ba, biết cách làm thế nào để doanh nghiệp của mình đi lên và phát triển. Đây là vấn đề có tính thực tiễn khá cao không chỉ đối với nhiều nước trên thế giới mà ngay cả đối với Việt nam, trong nhiều năm chìm trong cơ chế quan liêu bao cấp với hàng loạt các nhà doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm với cơ chế thị trường. Sự phát triển của các DNN&V có tác dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách qua thực tế những người có năng lực thực sự để trở thành những nhà lãnh đạo tài năng cho sự nghiệp phát triển kinh tế cho cả quốc gia cũng như cho mục tiêu riêng của từng doanh nghiệp. 1.2. Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam 1.2.1. Vài nét về Hội nhập kinh tế quốc tế: lợi ích và rủi ro Thế giới đang đứng trước một xu thế có tính quy luật là các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào nhau, hiệp tác chặt chẽ hơn với nhau ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu. Từ cuối những năm 80, xu thế này được khẳng định bằng cụm từ Hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT). Đây cũng chính là vấn đề thời sự mà các khu vực, các nền kinh tế và các doanh nghiệp đang đặt sự quan tâm lên hàng đầu. Khái niệm HNKTQT được sử dụng để chỉ nỗ lực chủ quan của các nước tham gia qúa trình toàn cầu hoá vì lợi ích phát triển của quốc gia, phù hợp với xu thế hoà bình, ổn định và phát triển. Xét trên khía cạnh lý thuyết cũng như thực tế, các hình thức biểu hiện của HNKTQT, hay nói khác đi là các phương thức hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm hai mặt: - Tham gia các thoả thuận quốc tế về các biện pháp mở cửa, tự do hoá trên nguyên tắc có đi có lại, bao gồm các thoả thuận song phương như Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, các cơ chế hợp tác khu vực, liên khu vực và toàn cầu (đa phương). Gần đây, trong khi các hình thức hợp tác song phương và toàn cầu tiếp tục được coi trọng, các hình thức hợp tác khu vực và liên khu vực có xu hướng ngày càng được quan tâm hơn. Ngoài các hình thức liên kết kinh tế truyền thống từ thấp đến cao như khu vực mậu dịch tự do (FTA), liên minh thuế quan (CU), thị trường
  20. - 15 - chung (CM), liên minh kinh tế (EU), các hình thức hợp tác mới cũng được khai thác mạnh như: tam/ tứ giác các khu vực phát triển (GMS), hợp tác kinh tế khu vực (như APEC), liên khu vực (như AFTA - CER), liên lục địa ( như ASEM) và toàn cầu (như WTO). - Các biện pháp chủ động, đơn phương mở cửa, tự do hoá thương mại và đầu tư (thí dụ Estonia sử dụng hình thức này trong chính sách HNKTQT của mình, Trung Quốc, Đài Loan, Nga trước khi gia nhập WTO, Việt Nam trước khi tham gia AFTA ); Như vậy, ngoài các biện pháp song phương và tham gia các thể chế hợp tác kinh tế khu vực, toàn cầu, HNKTQT còn bao hàm các hoạt động mở cửa, tự do hoá đơn phương của các quốc gia nhằm thích ứng và tận dụng tốt nhất các cơ hội do xu thế toàn cầu hoá đem lại như thu hút đầu tư, công nghệ, phát triển quan hệ mậu dịch, tăng cường trao đổi thương mại và đầu tư phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Từ hơn một thập kỷ qua, hội nhập và toàn cầu hoá đã diễn ra nhanh chóng, trở thành xu thế khó có thể đảo ngược, tạo ra áp lực cạnh tranh đối với kinh tế của các nước, kể cả các nước công nghiệp phát triển đồng thời đưa các nước xích lại gần nhau hơn thông qua trao đổi mậu dịch và điều chỉnh các luật lệ, quy tắc của quốc gia phù hợp với quy tắc và thông lệ quốc tế. Nhiều nước chấp nhận thách thức, chủ động tham gia trào lưu hội nhập và toàn cầu hoá. Tiêu biểu là việc Trung Quốc đã hoàn tất quá trình đàm phán và đã sớm được công nhận là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đã được thừa nhận, mặt trái của quá trình hội nhập và toàn cầu hoá là phân hoá xã hội, suy thoái môi trường và chính trị hoá vấn đề thương mại, sinh thái, nhân quyền. Lợi ích của toàn cầu hoá phân chia không đồng đều dẫn đến mâu thuẫn ngày càng lớn giữa các khu vực, các quốc gia, thậm chí giữa các vùng lãnh thổ, giữa các doanh nghiệp trong một nước. Thất bại của hàng loạt các hội nghị thương mại toàn cầu thể hiện khá rõ mâu thuẫn lợi ích trong
  21. - 16 - lòng các nước phát triển, giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển và giữa các nước đang phát triển với nhau. Trong bối cảnh đó, xu hướng tập hợp lực lượng Nam - Nam, liên kết khu vực và tiểu khu vực, đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế được đẩy mạnh nhằm đối phó với thách thức của quá trình toàn cầu hoá. 1.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với DNN&V Việt Nam trong quá trình hội nhập Cùng với việc được hưởng những lợi ích mà hội nhập có thể mang lại, các DNN&V trong nước đồng thời cũng phải tuân thủ các quy định quốc tế chung đặc biệt là các quy định của WTO. Điều đó có nghĩa là các hàng rào thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ dần bị hạ thấp, các hàng rào phi quan thuế sẽ dần phải dỡ bỏ, các trợ cấp thiếu bình đẳng cho các doanh nghiệp sẽ không còn nữa, độc quyền về sản xuất, phân phối lưu thông, dịch vụ của một số doanh nghiệp hiện nay cũng sẽ bị dỡ bỏ. Hàng hoá của nước ngoài một khi đã thông quan, cũng như các dịch vụ do nước ngoài cung cấp và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ được đối xử một cách bình đẳng trước pháp luật như hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của doanh nghiệp nội địa. Nếu như sức cạnh tranh của DNN&V Việt Nam không cao thì điều rõ ràng là thị trường sẽ dần bị thu hẹp, doanh nghiệp sẽ gặp phải bế tắc. Các DNN&V tham gia vào nhiều loại hình sản xuất khác nhau, do vậy việc mở cửa hội nhập sẽ bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế và có tác động đến tất cả mọi ngành nghề sản xuất, dịch vụ của Việt Nam. Vì vậy các DNN&V do sự đa dạng về ngành nghề hoạt động của mình cũng khó có thể tránh khỏi những tác động nhiều mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực của tiến trình hội nhập. 1.2.2.1. Cơ hội đối với DNN&V - Giảm giá thành đầu vào cho sản xuất: Kinh nghiệm các nước cho thấy, trong tiến trình hội nhập, khi thực hiện mở cửa thị trường, hàng hoá nhập khẩu sẽ có cơ hội thâm nhập sâu hơn nhiều hơn vào thị trường trong nước. Người tiêu dùng sẽ có cơ hội mua hàng với giá thấp hơn (do hạ thấp hàng rào thuế quan), có nhiều sự lựa chọn với mẫu mã đa dạng hơn. Các DNN&V nếu tham gia vào các ngành sản
  22. - 17 - xuất với tư cách là người tiêu dùng, cũng sẽ có những cơ hội tương tự như vậy để lựa chọn đầu vào với giá cả được hạ thấp, chất lượng cao và nhiều sự lựa chọn hơn cho vật liệu sơ chế và các đầu vào trực tiếp khác. - Việc thúc đẩy tự do hoá thương mại sẽ tạo điều kiện cho các DNN&V có thêm cơ hội để sản xuất phục vụ xuất khẩu và tiếp cận thị trường trao đổi ngoại hối. Do xu thế hội nhập, điều tất yếu là các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển phải tập trung sức lực và tạo mọi điều kiện để thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu. Để thực hiện được việc này, nhà nước sẽ phải tạo ra hành lang pháp lý, thủ tục hành chính đơn giản cùng các điề kiện ưu đãi khác nhằm tăng thêm năng lực sản xuất hướng về xuất khẩu. Do vậy, những điều kiện khắt khe như giấy phép xuất khẩu, giới hạn được tiếp xúc với thị trường ngoại hối, phân bổ hạn ngạch vốn thường được ưu tiên cho các doanh nghiệp lớn sẽ dần phải dỡ bỏ. Vì vậy, các DNN&V sẽ được đối xử một cách bình đẳng hơn và sẽ có những điều kiện thuận lợi hơn cho việc sản xuất phục vụ xuất khẩu. - Mở cửa thương mại gắn liền với tiến trình toàn cầu hoá bởi nó tạo ra sự gắn kết giữa nền kinh tế trong nước với thị trường toàn cầu cả ở phần đầu vào lẫn đầu ra. Cùng với sự phát triển của cách mạng thông tin và công nghệ cao, giảm bớt các rào cản thương mại và sự gia tăng lưu chuyển vốn trên toàn cầu, các DNN&V sẽ có những cơ hội mà trước đây họ không thể có, đặc biệt là trong việc tiếp xúc với các xu hướng tiêu thụ mới và phân công lao động trên diện rộng với chi phí sản xuất thấp và kỹ thuật tiên tiến. 1.2.2.2. Những thách thức đối với DNN&V Kinh nghiệm các nước cho thấy bên cạnh một số lợi ích nêu trên, DNN&V thường gặp phải một số khó khăn nhất định trong quá trình tham gia hội nhập. Những khó khăn đó bao gồm hai loại: bên ngoài/khách quan và nội tại/chủ quan. Trong các khó khăn bên ngoài, khó khăn lớn nhất thường liên quan đến các chính sách kinh tế trong nước bao gồm: môi trường kinh tế vĩ mô, các chính sách khuyến khích và các định chế liên quan. Các khó khăn bên trong liên quan đến năng lực của
  23. - 18 - chính các doanh nghiệp (định hướng phát triển, tiếp cận thị trường, khả năng quản lý, vấn đề tiếp cận và xử lý thông tin, kỹ thuật, tay nghề người lao động ). Tất cả những khó khăn trên sẽ có tác động rất lớn đến năng lực hội nhập của các DNN&V. - Chính sách vĩ mô như chính sách tiền tệ, tài khoá bảo đảm một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định (bao gồm giá cả hàng hoá dịch vụ, lãi suất và tỷ giá hối đoái linh hoạt, phản ánh đúng cung cầu thị trường ) là những điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp phát triển ổn định. Những ràng buộc bên ngoài (môi trường cạnh tranh kém, các yếu tố thị trường bị bóp méo do chính sách bảo hộ, tín dụng và thuế) hiện vẫn hạn chế hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Với thực tế Việt Nam là một nước đi sau, trình độ phát triển thấp, thể chế thị trường đang hình thành, khuôn khổ pháp lý đang hoàn chỉnh, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; cơ cấu và phương thức phân bổ các nguồn lực chưa hiệu quả và có xu hướng tạo sức ì từ phía các nhóm đặc quyền và khu vực được hưởng lợi nhờ bảo hộ tạo ra rất nhiều khó khăn khách quan cho các doanh nghiệp Việt Nam. Với những thủ tục rườm rà, nhiều chi phí phụ thì một doanh nghiệp nhỏ để sản xuất ra một sản phẩm cũng phải đi qua mọi cửa và chịu cùng một khoản chi phí phụ như một doanh nghiệp lớn. - Sự phát triển năng động của doanh nghiệp thường phải dựa trên cơ sở gắn kết lợi thế so sánh về chi phí cùng việc nâng cao khả năng cạnh tranh về chất được nhìn nhận trong tổng thể những biến động về môi trường kinh tế vĩ mô, thị trường bạn hàng, đối thủ cạnh tranh và công nghệ. Trên những lĩnh vực này, các DNN&V Việt Nam thường còn có nhiều yếu kém đặc biệt là do thiếu thông tin. Tăng cường khả năng cập nhật thông tin sẽ tạo điều kiện cho các DNN&V trở nên năng động hơn cho các hoạt động tác nghiệp của mình. - Sự thiếu hiểu biết về kiến thức kinh tế, luật pháp quốc gia và quốc tế, đặc biệt là các luật chơi của thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập cùng những cơ hội và thách thức đặt ra cũng sẽ làm giảm rất nhiều khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để làm được việc này cần có sự phối hợp chủ động, đồng bộ của các
  24. - 19 - Bộ ngành và sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp vào tiến trình tuyên truyền, tìm hiểu các kiến thức có liên quan. Như vậy, tham gia hội nhập nghĩa là tham gia vào một cuộc cạnh tranh về kinh tế mang tính toàn cầu, chấp nhận hội nhập đồng nghĩa với chấp nhận cạnh tranh mà chủ thể chính của quá trình này không ai khác chính là các doanh nghiệp với 97% trong số đó là DNN&V. Đất nước có hội nhập được hay không, có thực hiện được đầy đủ cam kết với cộng đồng quốc tế hay không phụ thuộc chủ yếu vào khả năng hội nhập của bản thân các doanh nghiệp này. DNN&V nước ta đang đứng trước những bước phát triển mới về hội nhập đòi hỏi các doanh nghiệp, chủ thể của quá trình này, phải chủ động nắm bắt, nhận biết về yêu cầu của qúa trình này và chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập. Các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh quốc tế, nền kinh tế có khả năng cạnh tranh quốc gia cao sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tạo thêm việc làm và thu nhập, trình độ khoa học công nghệ được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Ngược lại, chậm hoặc mơ hồ với áp lực của hội nhập khiến cho các doanh nghiệp phải chuyển hướng sản xuất, thậm chí giải thể, phá sản dẫn đến rối ren chung toàn xã hội. 1.2.3. Năng lực Hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam 1.2.3.1. Khái niệm năng lực Hội nhập kinh tế quốc tế Như đã khẳng định ở trên, hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là nỗ lực chủ động gắn kết nền kinh tế quốc gia với kinh tế thế giới và khu vực. Từ sau khi đất nước tiến hành mở cửa nền kinh tế, đặc biệt trong một vài năm gần đây, khái niệm HNKTQT đã không còn quá mới mẻ và trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam. Không ít công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học, các học giả đã ra đời với phân tích đầy đủ sâu rộng về toàn cầu hoá, về HNKTQT và những cơ hội, thách thức của Việt Nam khi tham gia qúa trình này. Tuy nhiên, khái niệm về năng lực HNKTQT của quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng còn ít được đề cập. Năng lực HNKTQT của doanh nghiệp là khái niệm dùng để chỉ:
  25. - 20 - - khả năng thích ứng với những điều kiện mới của doanh nghiệp: quy định và thông lệ pháp luật, quy định về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm, các quy định về thuế quan, về tự do hoá thương mại, quota, hàng rào thuế quan và phi quan thuế ; - là khả năng thực hiện các cam kết song phương (Hiệp định thương mại Việt Mỹ) và đa phương ở cả cấp khu vực (AFTA), liên khu vực (APEC) và toàn cầu (trong khuôn khổ WTO); - là khả năng gia nhập thị trường thế giới với biến động cung cầu luôn thay đổi đầy rủi ro; - là khả năng cạnh tranh và phát triển ổn định tại thị trường nội địa trong điều kiện tự do hoá thương mại hoàn toàn theo những luật chơi chung do cộng đồng quốc tế quy định; - là khả năng trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị hàng hoá toàn cầu thông qua các sản phẩm mang tính ưu việt, có khả năng cạnh tranh cao. Như vậy, với nội hàm khái niệm năng lực HNKTQT nêu trên, một doanh nghiệp được coi là có khả năng hội nhập khi doanh nghiệp đó: (i) có khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận trong điều kiện nền kinh tế mở cửa toàn diện, tự do hoá thương mại hoàn toàn và không có bất kỳ sự hỗ trợ nào của Chính phủ (thể hiện ở hiệu quả, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, ở chi phí thấp hoặc ở tính chất độc đáo, phân biệt của sản phẩm); (ii) có khả năng tận dụng được những lợi ích và hạn chế tối đa các rủi ro của quá trình hội nhập (chủ yếu là các rủi ro tiềm ẩn nảy sinh từ chính năng lực nội tại của bản thân doanh nghiệp); (iii) có thể chủ động tham gia vào qúa trình hội nhập bằng sự hiểu biết đầy đủ về hệ thống các quy định và pháp luật thương mại quốc tế, bằng khả năng về vốn, công nghệ, về kinh nghiệm quản lý và tiếp cận thị trường đã ở trình độ tương đối hoàn chỉnh và được thừa nhận. Năng lực hội nhập của mỗi quốc gia đều xuất phát từ năng lực hội nhập của mỗi doanh nghiệp. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh và một nền kinh tế muốn hội nhập hiệu quả, đảm bảo
  26. - 21 - thực hiện các cam kết quốc tế phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực hội nhập. Tuy nhiên, đối với một đất nước thì hội nhập là con đường duy nhất để phát triển, còn đối với từng doanh nghiệp thì không phải hoàn toàn như vậy. Hội nhập giống như một sân chơi rất hấp dẫn nhưng cũng không kém phần khắc nghiệt, sân chơi đó có thể đưa các doanh nghiệp lên đỉnh cao của sự thành công đồng thời cũng có thể đào thải bất cứ chủ thể nào trong tiến trình phát triển nếu không đáp ứng được các luật chơi của nó. Chỉ có doanh nghiệp nào chuẩn bị tốt để hội nhập thì mới có cơ may tồn tại, ngược lại nguy cơ bị loại khỏi cuộc đua là hoàn toàn hiện thực. Và điều đáng lo ngại nhất hiện nay là hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNN&V chưa ý thức được nguy cơ đó, coi hội nhập là việc của Nhà nước, của các doanh nghiệp lớn. Nguy cơ này đang đe doạ cản trợ nỗ lực phát triển và hội nhập chung của toàn nền kinh tế. 1.2.3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam Để đáp ứng các yêu cầu cạnh tranh gay gắt và khốc liệt của hội nhập, các DNN&V phải hội tụ rất nhiều yếu tố là điều kiện cần và đủ để có thể đứng vững trong qúa trình này. Các điều kiện cần và đủ cấu thành nên năng lực hội nhập của DNN&V bao gồm các nhóm năng lực cơ bản: nhóm năng lực về vốn và công nghệ; nhóm năng lực về quản lý và nguồn nhân lực; nhóm năng lực về tên tuổi thương hiệu và khả năng tiếp cận thị trường. Năng lực về nguồn vốn của doanh nghiệp. Vốn là nhân tố cơ bản trong quá trình sản xuất, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp nói riêng. Vốn là yếu tố tiền đề để từ đó có thể kết hợp với các yếu tố khác như lao động, đất đai, công nghệ quản lí. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động và mở rộng quy mô sản xuất. Năng lực nguồn vốn được phản ánh thông qua các chỉ số như: (i) quy mô vốn đăng ký và vốn hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ; (ii) cơ cấu tài sản cố
  27. - 22 - định và đầu tư dài hạn; (iii) quy mô vốn đầu tư thực hiện; (iv) trang bị vốn bình quân/ một doanh nghiệp hoặc vốn cố định/ một lao động. Sự tăng giảm của các chỉ số trên cho thấy sự biến động về khả năng nguồn vốn của doanh nghiệp. Với đặc trưng nhỏ bé về quy mô vốn, năng lực vốn của DNN&V còn được đánh giá thông qua khả năng tiếp cận và huy động nguồn vốn trong xã hội. Khả năng này phản ánh thông qua một loạt các yếu tố như khả năng đáp ứng được các yêu cầu, thủ tục cho vay khắt khe của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, khả năng lập và đưa ra được các báo cáo tài chính đảm bảo mức độ tin cậy về khả năng trả nợ, khả năng đáp ứng các yêu cầu về tài sản thế chấp hay các kỹ năng đánh giá tín dụng Năng lực công nghệ Tiến bộ khoa học công nghệ đang dần trở thành yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế toàn cầu hoá và HNKTQT. Từ năm 2000, Diễn đàn kinh tế thế giới đã nâng trọng số cho yếu tố khoa học công nghệ và sáng tạo kinh tế từ 1/9 (cho đến năm 1999) lên 1/3, thể hiện ý nghĩa quan trọng của yếu tố này. Khoa học công nghệ quyết định phẩm cấp của sản phẩm, cũng như năng suất lao động. Một công nhân ở nhà máy thép Tôkyo cần 0,55 giờ lao động để sản xuất một tấn thép trong khi đó một công nhân ở nhà máy thép An Sơn (Trung Quốc) cần 55 giờ để sản xuất một tấn thép. Khi phân tích năng lực công nghệ người ta thường phân ra thành: (i) năng lực công nghệ cơ sở; (ii) năng lực công nghệ ngành và (iii) năng lực công nghệ quốc gia. Năng lực công nghệ của một doanh nghiệp chính là năng lực công nghệ cơ sở. Nó bao gồm các yếu tố như nhân lực, khả năng tiếp thu, nắm vững công nghệ nhập. Khi phân tích năng lực công nghệ của một doanh nghiệp, người ta thường căn cứ vào các chỉ tiêu là năng lực đầu tư, năng lực sản xuất, năng lực liên kết. Một doanh nghiệp có năng lực công nghệ cao là doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cũng như công nhân giỏi. Doanh nghiệp có thể nhanh chóng nắm bắt và làm chủ các công nghệ mới và đồng thời có thể cải tiến công nghệ nhập
  28. - 23 - sao cho phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. Một doanh nghiệp có năng lực công nghệ thấp thường gặp khó khăn khi áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hiệu quả của việc đổi mới công nghệ sẽ thấp. Theo hướng dẫn của Bộ KH&CN, các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá trình độ công nghệ của sản xuất bao gồm: - Hao mòn hữu hình: Chỉ tiêu này cho biết mức hao mòn của các thiết bị máy móc của doanh nghiệp là bao nhiêu. - Tuổi trung bình của thiết bị: biểu thị mức độ sử dụng thiết bị về thời gian và sự giảm giá trị sử dụng của thiết bị. Đồng thời nó còn cho ta biết cơ cấu và mức tăng trưởng của thiết bị theo thời gian. - Hệ số đổi mới thiết bị: phản ánh động thái của đổi mới công nghệ và chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất. - Tỷ trọng thiết bị trực tiếp tham gia vào sản xuất: biểu thị phần máy móc thiết bị trực tiếp tham gia vào việc tạo ra sản phẩm, nó phản ánh hiệu quả huy động vốn. Nếu hiệu quả này càng lớn càng chứng tỏ lượng máy móc thiết bị huy động vào sản xuất càng lớn, hiệu quả của đồng vốn đầu tư cho máy móc thiết bị càng lớn. Thường rất ít khi tỷ lệ này đạt 100%.- Mức huy động công suất của thiết bị: phản ánh tỷ lệ giữa công suất thực tế đưa vào sản xuất của thiết bị so với công suất thiết kế. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp càng tận dụng được công suất của máy móc thiết bị. - Trình độ cơ khí hoá tự động hoá: phản ánh trình độ cơ khí hoá tự động hoá của một doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu này ta có thể biết được trình độ công nghệ của một doanh nghiệp. - Ngoài ra, việc đánh giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp còn có thể dựa trên một số chỉ tiêu khác như: mức huy động công suất thiết kế sản lượng, tỷ trọng thiết bị hiện đại, mức trang bị vốn cho sản xuất. Năng lực nguồn nhân lực/ con người
  29. - 24 - Như chúng ta đều biết, yếu tố giữ vai trò chi phối quyết định các hoạt động và phát triển doanh nghiệp chính là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất hay gồm yếu tố người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Trong đó yếu tố quan trọng nhất giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất là con người bởi tư liệu sản xuất sẽ không có ý nghĩa nếu không có con người sử dụng chúng và cũng không có tư liệu sản xuất mới nếu con người không sáng tạo ra chúng. Người lao động với tri thức của mình (sự hiểu biết, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, kỹ năng lao động ) làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Năng lực nguồn nhân lực của doanh nghiệp hay một tổ chức được hiểu là toàn bộ năng lực về vốn con người bao gồm thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu. Dưới dạng tổng quát, có thể nói năng lực nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số lượng lao động, cơ cấu lao động và nhất là chất lượng lao động với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khái niệm này chủ yếu phản ánh phương diện chất lượng con người, chất lượng người lao động hiện tại và tương lại gần. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở sức khoẻ, trí tuệ, trình độ học vấn, kỹ năng quản lý, kỹ năng lao động của cả chủ quản lý và người lao động làm thuê trong doanh nghiệp. Điều này thúc đẩy các công ty, doanh nghiệp săn lùng người tài giỏi và chỉ có nguồn nhân lực tri thức mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Doanh nghiệp nào có được nguồn cán bộ quản lý, kỹ sư, công nhân giỏi sẽ có lợi thế lớn trong cạnh tranh. Một khi họ không có được nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển thì sẽ bị đào thải khỏi vòng phát triển như vũ bão của toàn cầu hoá và hội nhập. Năng lực tiếp cận thị trường và tạo lập thương hiệu Thương hiệu của doanh nghiệp là cảm nhận tổng thể về chất lượng, môi trường, uy tín và giá trị đằng sau một cái tên, một cái logo của doanh nghiệp. Thương hiệu cũng có thể được coi như là một phát ngôn viên của doanh nghiệp. Phát ngôn viên này đại diện những gì đặc trưng, tinh tuý của doanh nghiệp. Gắn với thương hiệu phải là chất lượng, là uy tín. Thương hiệu là tài sản vô cùng giá trị và
  30. - 25 - lâu bền của người chủ sở hữu nó. Thương hiệu là kết quả các kinh nghiệm đã tích luỹ được của người tiêu dùng với một nhận thức về công ty, những con người của công ty và các sản phẩm của nó. Tóm lại thương hiệu không phải là một cái tên doanh nghiệp, tên sản phẩm riêng lẻ mà là tổng thể tất cả các yếu tố của doanh nghiệp mà người tiêu dùng cảm nhận được và ghi nhớ. Năng lực về tên tuổi thương hiệu của doanh nghiệp trước hết thể hiện ở khả năng tạo dựng và bảo hộ được một “hình ảnh” hay “khái niệm” về doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng. Năng lực đó cũng thể hiện ở khả năng duy trì, quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp bao gồm: duy trì và củng cố uy tín, chất lượng sản phảm, cải thiện các dịch vụ đối với khách hàng. Khi doanh nghiệp đã có được một thương hiệu mạnh, thì sức mạnh thương hiệu sẽ mang lại sự phát triển bền vững và rộng khắp cho người sở hữu nó. Sức mạnh thương hiệu luôn cần được tăng cường nhằm không ngừng củng cố vị thế cạnh tranh, đáp ứng mục tiêu tối cao của doanh nghiệp là vượt qua đối thủ chiếm lĩnh thị trường. Năng lực hội nhập bằng thương hiệu là danh tiếng, uy tín dựa trên tổng hợp tất cả sự khác biệt và những nét đặc trưng đã được khách hàng chấp nhận. Tóm lại, năng lực HNKTQT của DNN&V là tổng thể các nhóm năng lực thành phần bao gồm: năng lực vốn và công nghệ; nhóm năng lực quản lý và nhân lực; và năng lực tên tuổi thương hiệu và tiếp cận thị trường. Các nhóm yếu tố này đều quan trọng, có mối quan hệ ràng buộc và bổ sung cho nhau hình thành nên tổng thể năng lực HNKTQT của DNN&V. 1.3. Kinh nghiệm về chính sách tạo dựng năng lực HNKTQT cho DNN&V của các nƣớc trên thế giới 1.3.1. Kinh nghiệm của nhóm nước OECD Tại Tây Ban Nha
  31. - 26 - DNN&V ở Tây Ban Nha chiếm tới 99,9% tổng số các doanh nghiệp, chiếm 70% tổng số lao động; 65% GDP và 44% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả quốc gia (theo thống kê mới nhất của Ngân hàng thế giới năm 2003). Việc quốc tế hoá DNN&V là một trong những chính sách được đặt lên hàng đầu ở Tây Ban Nha. 80 tỷ ESP (peso Tây Ban Nha) đã được sử dụng để thực hiện chính sách này trong những năm 1997-1999 thông qua một chương trình tín dụng có tên là : ICO-ICEX Line. Ngoài ra, Kế hoạch khởi động xúc tiến xuất khẩu (PIPE 2000) cho phép ngày càng nhiều DNN&V của Tây Ban Nha tham gia vào thương mại quốc tế và quá trình toàn cầu hoá dựa trên những phân tích chính xác về tiềm năng xuất khẩu của từng doanh nghiệp. Giữa năm 1996, công ty tín dụng xuất khẩu Tây Ban Nha khởi xướng chương trình mang tên Chính sách 100 cho DNN&V (The 100 Policy for Small and Medium-sized Enterprises). Đây là một chính sách bảo hiểm tín dụng xuất khẩu dành riêng cho DNN&V. Một khoản bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trị giá 45 tỷ ESP được dành cho 1234 giao dịch xuất khẩu của DNN&V tới cuối năm 1998. Chính sách 100 gồm những nội dung như: bảo hiểm cho các giao dịch thương mại của DNN&V trên thị trường quốc tế; giám sát khả năng thanh toán của tất cả các khách hàng (tức là DNN&V); tư vấn về những phương thức thích hợp để hoạt động ở các thị trường khác nhau; đơn giản hoá các thủ tục tài chính. Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm: rủi ro thương mại (không trả được những khoản vay dài hạn và không trả được nợ do sự phá sản của các con nợ là Chính phủ hoặc tư nhân ở nước ngoài hoặc nhà bảo lãnh); rủi ro về chính trị (do không chuyển đổi ngoại tệ được, do người nhập khẩu là chính phủ không thanh toán); rủi ro thiên tai, bất thường, chiến tranh, bạo loạn hoặc những sự kiện tương tự. Tất cả DNN&V có kim ngạch xuất khẩu không vượt quá 200 triệu ESP, có khả năng duy trì luồng hàng xuất khẩu đều đặn tới các thị trường và nhà nhập khẩu, thì được hưởng sự hỗ trợ của chính sách 100 này. Chính sách 100 được đánh giá là một chính sách hỗ trợ tiến bộ, có hiệu quả trong số các chính sách tăng cường khả năng hội nhập cho DNN&V của các nước thành viên OECD.
  32. - 27 - Tại Mỹ Tầm quan trọng của DNN&V ở Mỹ thể hiện ở những con số: năm 1995 DNN&V chiếm hơn 99% tổng số lao động, là nơi tạo ra hầu hết các công việc mới, đóng góp 51% sản lượng của khu vực kinh tế tư nhân. Về xuất khẩu năm 1996 DNN&V đóng góp 180 tỉ USD, tức hơn 30% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Xấp xỉ 95% các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu ở Mỹ là DNN&V và gần 60% DNN&V xuất khẩu có số lao động dưới 20 người [29]. Điểm nổi bật trong chính sách hỗ trợ HNKTQT của Mỹ là việc thành lập nhiều cơ quan chuyên trách với những chương trình hỗ trợ cụ thể cho DNN&V. * Hỗ trợ về mặt thông tin thương mại Các trung tâm hỗ trợ DNN&V hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế thế giới của Mỹ là nơi chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên gia, cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài, về các đầu mối liên hệ quốc tế và về các dịch vụ luật pháp có liên quan ở 100 văn phòng trên khắp nước Mỹ và ở hơn 70 nước trên thế giới. Mọi khó khăn về xuất khẩu, mở rộng thị trường của DNN&V đều có thể được giải quyết nhờ những thông tin ở đây. Đây cũng là nơi thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo về thương mại điện tử nhằm hướng dẫn cho DNN&V các phương thức marketing quốc tế bằng Internet. Trung tâm thông tin thương mại do chính quyền liên bang điều hành là nơi cung cấp cho DNN&V thông tin về thuế quan, các quy định về thương mại, các quy định về kinh doanh trong từng ngành sản xuất cụ thể của các nước trên thế giới. Điều này giúp DNN&V của Mỹ lựa chọn đối sách thích hợp khi thâm nhập vào từng thị trường cụ thể. * Hỗ trợ vốn cho DNN&V tham gia xuất khẩu Trung tâm thông tin thương mại có Chương trình vốn lưu động hỗ trợ bảo lãnh các khoản vay cho DNN&V để tiến hành các giao dịch xuất khẩu có giá trị
  33. - 28 - bằng hoặc thấp hơn 0,833 triệu USD. Tiếp theo là Chương trình tín dụng thương mại quốc tế hỗ trợ DNN&V bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh ở nước ngoài thông qua bảo lãnh tín dụng tới 1,25 triệu USD. Cơ quan quản lý DNN&V và Ngân hàng xuất nhập khẩu (Ex-im Bank) cũng đã đưa ra một loạt chính sách để hỗ trợ DNN&V giải quyết khó khăn về vốn. Theo đó, DNN&V đạt những tiêu chuẩn như: 1) do người thiểu số lãnh đạo; 2) do phụ nữ lãnh đạo; 3) doanh nghiệp nằm ở vùng ngoại ô hoặc nông thôn; 4) doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực liên quan đến môi trường, được bảo hiểm 100% vốn lưu động để tham gia thị trường quốc tế. Tây Ban Nha và Mỹ chỉ là hai trong rất nhiều quốc gia khác của OECD có những chính sách hỗ trợ cụ thể và thiết thực cho DNN&V. Chẳng hạn như ở Canađa, Exportsource là một địa chỉ Internet chuyên cung cấp thông tin cho DNN&V thâm nhập thị trường nước ngoài. Tại Mêhicô, chương trình Hệ thống hướng dẫn xuất khẩu (Export Guidance System) cung cấp dịch vụ tư vấn cho DNN&V về các cơ hội xuất khẩu và thủ tục xuất khẩu. Những hỗ trợ đó cũng được thực hiện bởi Chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp mới tham gia thị trường xuất khẩu của Hà Lan, gói trợ giúp DNN&V (SME Package) của Thuỵ Điển, hay Cơ quan tư vấn phát triển xuất khẩu (Export Development Counsellors) của Anh [29] Như vậy hầu hết các nước thành viên OECD đều thành lập những cơ quan chuyên trách hỗ trợ mọi mặt cho DNN&V thâm nhập hiệu quả vào thị trường nước ngoài. Các cơ quan này thường xuyên tổ chức các chương trình hỗ trợ, tập trung chủ yếu ở 4 mặt: Tài chính; đổi mới công nghệ; quản lý và xúc tiến xuất khẩu. Nhờ thế hoạt động hỗ trợ được tiến hành thường xuyên, toàn diện, đến được với mọi DNN&V. Ở Việt Nam hiện nay chúng ta còn thiếu những cơ quan chuyên trách hỗ trợ DNN&V cũng như những chiến lược dành riêng cho DNN&V như thế, vì vậy đây cũng là một kinh nghiệm chúng ta có thể học tập. 1.3.2. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN 1.3.2.1. Philippines
  34. - 29 - DNN&V chiếm hơn 99% tổng số doanh nghiệp ở Philppines, thu hút hơn 55% lực lượng lao động của cả nước và đóng góp khoảng 28,1% vào tổng sản phẩm xã hội. Khoảng 60% các công ty có sản phẩm xuất khẩu, tham gia thị trường quốc tế của Phillippine là các DNN&V. Trong thập kỷ trước, năng lực vốn và tài chính của các DNN&V Philippine cũng rất hạn chế. Để cải thiện các khó khăn về vốn cho DNN&V, Chính phủ Philippines tiến hành hàng loạt các chính sách quy định các tổ chức tài chính, đặc biệt ngân hàng phải dành một tỷ lệ nhất định trong tổng số vốn đầu tư cho DNN&V vay. Trong đó nổi bật là sự ra đời của Luật Magna Carta theo đó các ngân hàng phải dành 10% trong tổng số các khoản cho vay cho DNN&V. Luật Magna Carta ban hành năm 1991 tạo ra khung khổ thể chế phát triển DNN&V ở Philippine thông qua: . thành lập Hội đồng phát triển DNN&V làm nhiệm vụ khuyến khích phát triển DNN&V và thực thi các chính sách quy định trong Luật . thành lập công ty tài chính và bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ . phân bổ nguồn lực tín dụng bắt buộc cho các DNN&V Các hoạt động hỗ trợ tạo dựng năng lực hội nhập cho DNN&V ở Philippine được thực hiện bởi một hệ thống các tổ chức hỗ trợ bao gồm: Hội đồng DNN&V Philippine là cơ quan chịu trách nhiệm chính các hoạt động xúc tiến, tăng trưởng và phát triển của DNN&V thông qua xúc tiến và điều phối các nỗ lực hỗ trợ DNN&V trên toàn quốc. Hội đồng DNN&V phối hợp với Văn phòng thống kê quốc gia thiết lập cơ sở dữ liệu DNN&V toàn quốc nhằm: (i) xác định năng lực của DNN&V ở tất cả các tỉnh thành phố; (ii) trợ giúp xây dựng và thực hiện các chương trình hỗ trợ cụ thể xúc tiến DNN&V và (iii) hướng dẫn hoạch định chính sách. Cục Phát triển DNN&V Philippine thuộc Bộ TM&CN làm nhiệm vụ thư ký thường trực cho Hội đồng. Tập đoàn tài chính và bảo lãnh doanh nghiệp nhỏ Philippine cũng được thành lập theo quy định tại Luật Magna Carta với các nhiệm vụ như cung cấp, phát triển và mở rộng các mô hình tài trợ cho DNN&V bao gồm: (i) cho vay trực tiếp cho dự
  35. - 30 - án, xúc tiến vốn mạo hiểm, cho thuê tài chính; (ii) cung cấp bảo lãnh cho vay cho DNN&V; (iii) cung cấp bảo lãnh tín dụng cấp hai và/hoặc bảo lãnh đầu tư do các tổ chức bảo lãnh tín dụng hoặc các tổ chức hỗ trợ DNN&V thực hiện. 1.3.2.2. Thái Lan Cũng giống như các quốc gia khác, Chính phủ Thái Lan thành lập các cơ quan chuyên trách đảm nhiệm chức năng hỗ trợ khu vực DNN&V hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế thế giới thông qua một số các tổ chức như: (i) Uỷ Ban xúc tiến DNN&V Thái Lan với các nhiệm vụ chính bao gồm đệ trình “báo cáo thực trạng DNN&V” và đề xuất “Kế hoạch hành động xúc tiến DNN&V” lên Chính phủ; (ii) Văn phòng xúc tiến DNN&V với các nhiệm vụ như đề xuất định nghĩa DNN&V và các nhóm mục tiêu xúc tiến của Uỷ ban, điều phối thiết lập “Kế hoạch hành động xúc tiến DNN&V”, quản lý Quỹ xúc tiến DNN&V Để hỗ trợ DNN&V các dịch vụ về tư vấn đầu tư và cải thiện năng lực quản lý, phát triển phương pháp tư vấn và đào tạo hiệu quả cho DNN&V, Bộ Công nghiệp phối hợp với trường Đại học Thammasat thành lập Viện phát triển DNN&V và nối mạng với tất cả các trường đại học ở trong và ngoài khu vực. Viện có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ tư vấn cho DNN&V và tiến hành các nghiên cứu liên quan đến DNN&V. Các tổ chức khác hỗ trợ DNN&V bao gồm Công ty tài chính công nghiệp nhỏ hỗ trợ tài chính dài hạn cho khởi nghiệp và mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty bảo lãnh tín dụng công nghiệp nhỏ (SICGC) cung cấp bảo lãnh tín dụng cho DNN&V có kế hoạch kinh doanh nhưng thiếu tài sản thế chấp. Để đảm bảo kế hoạch xúc tiến DNN&V được thực thi, Quỹ xúc tiến DNN&V được thành lập nhằm hỗ trợ các DNN&V, nhóm DNN&V, tài trợ bởi các dự án của Chính phủ, DNNN, các tổ chức tư nhân được phê chuẩn trong Kế hoạch hành động xúc tiến DNN&V. Nguồn vốn hoạt động của Quỹ có thể bao gồm đóng góp ngân sách hàng năm của Chính phủ, nguồn thu từ phí dịch vụ, tiền và các tài sản khác từ khu vực tư nhân trong ngoài nước cũng như chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
  36. - 31 - * Các biện pháp tạo dựng năng lực tài chính cho DNN&V Nhằm cải thiện khả năng tiếp cận nguồn vốn cho DNN&V, Chính phủ dành 35 tỷ baht (xấp xỉ 900 triệu USD) tín dụng cho DNN&V thông qua các tổ chức tài chính chuyên nghiệp và Ngân hàng Thái Lan cũng như thiết lập sàn giao dịch đặc biệt dành riêng cho DNN&V. Những biện pháp này nhằm tăng cường hiệu quả dài hạn trong việc tài trợ cho DNN&V đó là cơ cấu lại hai tổ chức tài chính quan trọng: Công ty Bảo lãnh tín dụng công nghiệp nhỏ (SICGC) và Công ty tài chính công nghiệp nhỏ (SIFC) và thành lập Trung tâm tư vấn tài chính DNN&V. Chính phủ thừa nhận vai trò của Công ty tài chính đầu tư doanh nghiệp nhỏ trong việc cung cấp tài chính cho DNN&V. Các chi tiết tái cơ cấu như sau: SIFC sẽ được cấp thêm 2,5 triệu baht năm 1999 và thêm 5 triệu baht khác năm 2003 và tăng tổng số tiền cho vay cho DNN&V lên gần 2% năm 2008. IFC sẽ mở rộng phạm vi dịch vụ cho các DNN&V có tài sản cố định kể cả đất lên đến 100 triệu baht, tăng lên so với mức 50 triệu baht hiện nay và tăng mức trần cho vay cho mỗi khách hàng từ 25 triệu lên 50 triệu baht. Mạng lưới chi nhánh của SIFC được mở rộng ra 6 chi nhánh nữa năm 1999 và sau đó thêm 11 chi nhánh. Các biện pháp này ngoài ra cũng bao gồm giới thiệu Trung tâm tư vấn tài chính cho DNN&V nhằm giúp các doanh nghiệp này giải quyết các khó khăn về nguồn vốn, cải thiện kỹ năng quản lý tài chính và tái cơ cấu các khoản nợ. Các trung tâm này sẽ cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính cho DNN&V cũng như thu thập số liệu tài chính liên quan đến DNN&V làm cơ sở cho hoạch định chính sách. 1.3.2.3. Malaysia Hoạt động hỗ trợ DNN&V ở Malaysia thường được tập trung vào các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa (SMIs). DNN&V công nghiệp được định nghĩa như sau:
  37. - 32 - Tiêu chí Lao động thƣờng Doanh thu hàng năm xuyên (ngƣời) (triệu ringgit) DN công nghiệp nhỏ và vừa ~150 ~25 Doanh nghiệp vừa 51~150 10~25 Doanh nghiệp nhỏ ~50 ~10 Nguồn: SMIDEC Cơ quan hợp tác phát triển DN công nghiệp nhỏ và vừa Malaixia Cũng theo SMIDEC, hiện tại có 11.855 doanh nghiệp công nghiệp ở Malaixia đạt tiêu chuẩn là DNN&V theo như tiêu chí trên. Trong số đó doanh nghiệp nhỏ chiếm 88% (10.432 doanh nghiệp) còn doanh nghiệp vừa chiếm 12% (1.423 doanh nghiệp). SMIs chiếm một tỉ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của Malaixia, từ 95-98% và có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. SMIs đóng góp 50,5% GDP trong công nghiệp. SMIs cũng đóng góp rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Malaixia. Thành công nổi bật nhất trong chính sách hỗ trợ SMIs ở Malaixia là chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu với các nội dung cụ thể như: Thứ nhất, hệ thống tái cấp vốn tín dụng xuất khẩu. Để thực hiện mục tiêu của Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, Ngân hàng Trung ương Malaixia và Ngân hàng Negara đã thực hiện hệ thống tái cấp vốn tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi cho các SMIs xuất khẩu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp này trên thị trường quốc tế. Thứ hai, tính gấp đôi số tiền chi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Để khuyến khích SMIs thâm nhập vào các thị trường xuất khẩu không truyền thống, Bộ trưởng Bộ tài chính chấp nhận tính gấp đôi chi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Điều này có hiệu lực từ năm 1986. Thứ ba, tính gấp đôi chi phí dành cho khuyến mại xuất khẩu. Một số chi phí nhất định mà DNN&V bỏ ra để tìm kiếm các cơ hội xuất khẩu sản phẩm sản xuất tại Malaixia được phép tính cao lên 2 lần. Các chi phí đó bao gồm: (i) Chi phí quảng
  38. - 33 - cáo ở nước ngoài; (ii) đưa hàng mẫu ra nước ngoài; (iii) nghiên cứu thị trường xuất khẩu; (iv) cung cấp thông tin kỹ thuật ra nước ngoài; (v) triển lãm và/hoặc tham gia vào các triển lãm công nghiệp và thương mại được Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế chấp thuận; (vi) các dịch vụ phục vụ công tác quan hệ xã hội liên quan đến xuất khẩu; (vii) cước phí đi công tác ra nước ngoài của các nhân viên doanh nghiệp; (viii) chi phí ăn ở của các cán bộ kinh doanh người Malaixia ra nước ngoài. Ngoài ra đối với DNN&V hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chính phủ Malaixia cũng cho một khoản trợ cấp bằng 5% kim ngạch xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp nhất định theo quy định của Bộ trưởng Bộ thương mại. Khoản tiền này được cấp bằng cách khấu trừ trực tiếp từ lãi gộp của doanh nghiệp. Nếu khoản này vượt quá khoản lãi gộp thì coi như bị lỗ và được chuyển sang năm tài chính tiếp theo. 1.3.3. Một số kết luận rút ra từ thực tiễn kinh nghiệm tạo dựng năng lực HNKTQT cho DNN&V của các nước. Qua nghiên cứu kinh nghiệm tạo dựng năng lực HNKTQT cho DNN&V ở một số nước, có thể đi đến một số kết luận chung như sau: - DNN&V chiếm đại đa số (hơn 90%) số lượng doanh nghiệp ở hầu hết các nền kinh tế với các đóng góp quan trọng trong GDP, tạo việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu. - Nhận thức được tầm quan trọng của khu vực DNN&V trong phát triển kinh tế, hầu hết các nước đều có chính sách trợ giúp DNN&V khắc phục những khó khăn do yếu kém của bản thân DNN&V và do thách thức của toàn cầu hoá và HNKTQT đem lại. - Các chính sách và chương trình hỗ trợ tạo dựng năng lực hội nhập cho DNN&V rất đa dạng ở từng nước tuỳ thuộc vào quan điểm phát triển DNN&V của Chính phủ trong từng thời kỳ. Ở các nước có nền kinh tế thị trường tương đối phát triển như Mỹ, Tây Ban Nha và các nước OECD, các biện pháp tập trung vào hỗ trợ DNN&V nâng cao khả năng tiếp cận thị trường và năng lực cạnh tranh quốc tế
  39. - 34 - thông qua các chương trình tín dụng xuất khẩu DNN&V. Đây là những chính sách hết sức cần thiết mà ở Việt Nam chúng ta hiện nay chưa làm được. Các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu tập trung ưu tiên cho khu vực doanh nghiệp lớn và các DNNN, do đó hạn chế khả năng đóng góp cho xuất khẩu của khu vực DNN&V. - Ở một số nước láng giềng (ASEAN), do cơ chế thị trường chưa thực sự phát triển hoàn chỉnh, các nỗ lực tạo dựng năng lực HNKTQT cho DNN&V ưu tiên tập trung vào hỗ trợ khắc phục những yếu kém nội tại của bản thân khu vực doanh nghiệp này thông qua các hoạt động hỗ trợ tài chính, cải thiện năng lực công nghệ, nguồn vốn, nâng cao năng lực quản lý, nhân lực cho DNN&V. - Có một điểm chung trong chính sách tạo dựng năng lực hội nhập cho DNN&V ở hầu hết các nước (cả OECD và ASEAN) đó là các nước này đều thành lập hệ thống cơ quan trực thuộc Chính phủ chuyên trách phối hợp các hoạt động trợ giúp DNN&V. Việt Nam bắt đầu tiến hành chính sách “mở cửa” hay hội nhập từ năm 1986 nhưng chỉ trong những năm gần đây khái niệm về mở cửa, về hội nhập mới thực sự được nhắc đến như một hiện tượng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chủ trương chủ động hội nhập, chính sách trợ giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng hội nhập cũng mới được Đảng và Nhà nước khẳng định chưa được bao lâu. Hệ thống cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp còn phân tán và thiếu phối hợp giữa các bộ ngành, giữa các vùng và các cấp. Nghiên cứu kinh nghiệm hỗ trợ DNN&V ở cả các nước đã phát triển (như nhóm các nước OECD) và các nước đang phát triển có nhiều nét tương đồng với Việt Nam (như nhóm nước ASEAN) là cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn để lựa chọn mô hình hỗ trợ phù hợp với đặc trưng và trình độ phát triển của DNN&V Việt Nam.
  40. - 35 - CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA DNN&V VIỆT NAM 2.1. Đánh giá thực trạng năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của DNN&V Việt Nam 2.1.1. Năng lực về vốn và công nghệ 2.1.1.1. Năng lực về vốn và khả năng tiếp cận nguồn lực tài chính Luật doanh nghiệp 2000 ra đời là một bước đột phá nhằm dỡ bỏ các rào cản đối với quá trình phát triển của khu vực DNN&V. Theo báo cáo đánh giá 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp (tính đến hết tháng 9/2003) đã có 72.600 doanh nghiệp mới đăng ký, gấp đôi con số doanh nghiệp đăng ký thời kỳ 1991-1999, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký trên cả nước lên hơn 120.000 doanh nghiệp trong số đó chủ yếu là DNN&V. Cùng với sự tăng trưởng nhanh về số lượng doanh nghiệp, quy mô vốn của doanh nghiệp cũng thay đổi mạnh. Xét về vốn đăng ký, quy mô vốn đăng ký trung bình của một doanh nghiệp đang tăng lên qua các năm. Thời kỳ 1991-1999, vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp là 570 triệu đồng, năm 2000, 2001, và 2002 con số này tương ứng là 960, 1.300 và 1.800 triệu đồng. Điều này cho thấy một dấu hiệu đáng mừng là các doanh nghiệp đã bắt đầu tin tưởng vào chính sách khuyến khích kinh doanh, khuyến khích toàn dân làm kinh tế của Chính phủ và mạnh dạn bỏ vốn đầu tư kinh doanh. Các số liệu thống kê chính thức cũng cho thấy, không chỉ vốn đăng ký mà quy mô vốn hoạt động của các doanh nghiệp trong năm 2002 có mức tăng trưởng đáng kể so với năm 1995, nhất là đối khu vực DNN&V ngoài quốc doanh. Bảng 2.1. dưới đây cho thấy, trong khi số lượng doanh nghiệp đang hoạt động năm 2002 tăng gấp 2,3 lần năm 1995 thì số vốn lại tăng nhiều hơn - gấp 4,2 lần. Số vốn của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh có mức tăng trưởng gấp 3 lần so với mức tăng của khu vực DNNN (10,8 lần so với 3,5 lần). Như vậy trang bị về vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam đã có bước tiến đáng kể, đặc biệt là các doanh nghiệp dân doanh. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp vẫn
  41. - 36 - là vấn đề thời sự, gây nhức nhối các nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực phát triển DNN&V. Bảng 2.1. So sánh về số lƣợng và vốn hoạt động của các doanh nghiệp Năm 2002 so với năm 1995 1. Số doanh nghiệp đang hoạt động Tăng 2,3 lần - DNNN Giảm 26,2 % - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Tăng 2,9 lần - Hộ sản xuất cá thể Tăng 39,7% 2. Số vốn của các doanh nghiệp Tăng 4,2 lần đang hoạt động - DNNN Tăng 3,5 lần - DN ngoài quốc doanh Tăng 10,8 lần Nguồn: Tô Đình Thái, “Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở để xây dựng chiến lược hỗ trợ phát triển DNN&V ở Việt Nam từ nay đến năm 2010. Xét về tài sản cố định và đầu tư dài hạn trung bình của một doanh nghiệp, trong khi giai đoạn 1995 - 2000, DNNN trung ương có mức tăng là 8,3 lần, DNNN địa phương tăng 6,2 lần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3 lần, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ tăng 1,4 lần. Như vậy, mức trang bị vốn trung bình của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh (hầu hết là DNN&V) có mức tăng trưởng thấp hơn nhiều so với các khu vực doanh nghiệp khác (xem bảng dưới). Bảng 2.2. Sự phát triển về vốn của các loại hình doanh nghiệp TSCĐ và ĐT Cơ cấu tài sản theo loại Cơ cấu TSCĐ và ĐT dài hạn dài hạn/1DN hình DN (%) theo loại hình DN (%) năm 2000 so với 1995 (lần) 1995 2000 1995 2000 Tổng số 4,6 100,0 100,0 100 100 DNNN TW 8,3 51,2 51,0 49,0 40,4 DNNN ĐP 6,2 15,6 10,5 14,0 11,5 DN ngoài QD 1,4 7,6 12,7 6,4 8,8 HTX 4,1 0,9 0,9 0,9 1,1 DN tư nhân 4,3 1,8 1,8 1,9 1,5 CTHD - - 0,001 - 0,002 CTHH 5,8 4,4 5,6 3,1 4,3
  42. - 37 - CTCP 19,8 0,5 4,4 0,5 1,8 DN FDI 3,0 25,6 25,8 30,6 39,3 Nguồn: Tô Đình Thái, “Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở để xây dựng chiến lược hỗ trợ phát triển DNN&V ở Việt Nam từ nay đến năm 2010. Mặc dù khu vực DNN&V đã được cải thiện về mức trang bị vốn trung bình và đã chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng tài sản hay tài sản cố định phục vụ kinh doanh như nêu ở trên, nhìn chung các doanh nghiệp này vẫn trong tình trạng ít vốn, thiếu vốn, nhất là so với khu vực DNNN hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2000, khu vực DNN&V chỉ chiếm 13% tổng vốn đầu tư thực hiện trong năm so với 41% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và 48% của khu vực DNNN (xem biểu đồ 2.1). 31% 41% DNNN TW DNNN §P DN ngoµi QD DN FDI 15% 13% Biểu đồ 2.1: Cơ cấu vốn đầu tƣ thực hiện của khu vực DN năm 2000. Bên cạnh các hạn chế về tài sản cố định và đầu tư dài hạn, tỷ lệ vốn bình quân/ một doanh nghiệp cũng ở mức rất thấp (xem bảng 6). Trong 3 năm trở lại đây, trong số hơn 70 ngàn doanh nghiệp mới đăng ký, số doanh nghiệp có vốn đăng ký dưới 500 triệu đồng chiếm 51,6%, trên 10 tỷ đồng chỉ có 1,4%, và vài chục doanh nghiệp có vốn đăng ký trên 100 tỷ đồng. Bảng 2.3. Trang bị vốn bình quân của DN tính đến cuối năm 2002 Vốn bình quân/ 1 DN tại Việt Nam 18,8 tỷ đồng DNNN 119,5 tỷ đồng DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 136,3 tỷ đồng Doanh nghiệp dân doanh 3,4 tỷ DN tư nhân chính thức 0,89 tỷ đồng
  43. - 38 - Trang bị vốn cố định/ 1 lao động DNNN 97,6 triệu đồng DN FDI 365 triệu đồng DN dân doanh 32,5 triệu đồng Nguồn: Tính toán của người viết theo số liệu của Tổng cục Thống kê Khó khăn về vốn vẫn là tình trạng chung của DNN&V ở nước ta. Điều này không có gì mới, cũng không phải xa lạ với các nước đang phát triển nói chung như nước ta. Thiếu vốn, khó huy động vốn là vấn đề chung của các nền kinh tế đang phát triển, nhất là đối với một nền kinh tế có khu vực tài chính còn nhiều hạn chế như Việt Nam. Bản thân doanh nghiệp hầu như không thể giúp cho khu vực tài chính mạnh lên, đây là vấn đề của bản thân khu vực tài chính. Khu vực tài chính ở Việt Nam đang được cải thiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu tín dụng ngày càng tăng lên của số lượng lớn các doanh nghiệp mới thành lập. Các chương trình cải cách hệ thống ngân hàng Nhà nước, sự ra đời của các ngân hàng tư nhân và cam kết của Chính phủ trong việc mở cửa nền kinh tế cho các ngân hàng nước ngoài giúp cho khu vực tài chính ngân hàng phát triển định hướng thị trường hơn để đáp ứng nhiều hơn nhu cầu của các đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, các trở ngại chính của nền kinh tế tập trung tiếp tục cản trở việc tiếp cận tài chính của khu vực DNN&V. Hoạt động cho vay, do bị chi phối bởi các ngân hàng thương mại quốc doanh tiếp tục ưu tiên cho khối DNNN, các sản phẩm, kỹ năng và công nghệ thông tin cần thiết để cho vay có hiệu quả cho DNN&V chưa phát triển. Các khoản tín dụng vẫn yêu cầu tài sản thế chấp và mặc dù ngành công nghiệp cho thuê nhằm cung cấp tín dụng không yêu cầu thế chấp cho DNN&V đã bắt đầu phát triển, ngành này xem ra còn mới mẻ và nhỏ bé. Lĩnh vực đầu tư vốn mạo hiểm và thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn non trẻ và chưa có khả năng đóng góp nhiều trong việc huy động vốn cho các DNN&V. 2.1.1.2. Năng lực công nghệ Thực trạng năng lực công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt những doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa hiện nay đang là vấn đề gây lo lắng nhất
  44. - 39 - cho các nhà hoạch định chính sách, cho bản thân các doanh nghiệp khi lộ trình hội nhập WTO đang đến rất gần. Năng lực này không chỉ thể hiện ở trình độ máy móc thiết bị lạc hậu, trình độ cơ khí hoá, tự động hoá yếu kém mà còn thể hiện ở doanh nghiệp không có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị Theo đánh giá của Bộ KH&CN, thiết bị công nghệ trong các DNN&V Việt Nam rất lạc hậu chỉ trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng công nghệ lạc hậu tới 20 - 50 năm so với các nước trong khu vực. Một báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu và phát triển DNN&V Wollongong (Úc) cho thấy các DNN&V của Việt Nam sử dụng máy móc thiết bị và kỹ thuật lạc hậu 3-4 thế hệ so với trung bình trên thế giới (không kể những doanh nghiệp hoàn toàn không sử dụng máy móc, chỉ áp dụng lao động cơ bắp). Đã vậy, các doanh nghiệp Việt Nam lại không sử dụng hết công suất máy móc thiết bị của mình. Hiện vẫn còn một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp (gần 30%) chỉ sử dụng dưới 50% công suất các thiết bị. Nguyên nhân trực tiếp là do máy móc được trang bị không đồng bộ và công nghệ lạc hậu. Năng lực kỹ thuật công nghệ hạn chế. Vì thế sản phẩm làm ra có năng suất thấp, giá thành cao và rất khó cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường quốc tế. Tỉ lệ công nghệ lạc hậu trong các DNN&V là khá cao thể hiện qua bảng sau. Bảng 2.4. Trình độ công nghệ máy móc thiết bị sử dụng tại TP Hồ Chí Minh so với cùng loại trên thế giới Loại doanh nghiệp Trình độ công nghệ máy móc thiết bị Hiện đại (%) Trung bình (%) Quá lạc hậu (%) Doanh nghiệp nhà nước 11,4 53,1 35,5 Doanh nghiệp ngoài QD 6,7 27,0 66,3 Công ty cổ phần và 19,4 54,8 25,8 TNHH Doanh nghiệp tư nhân 30,0 30,3 50,0
  45. - 40 - Hợp tác xã 16,7 33,3 50,0 Tổ hợp, cá thể 3,6 22,8 73,6 Tính chung 10 38,0 52,0 Nguồn: Trần Thị Vân Hoa,“ Tác động của các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam“, 2003. Trình độ cơ khí hoá, tự động hoá, mức độ thay thế lao động phổ thông bằng máy móc, thiết bị còn thấp trong khi bản thân máy móc thiết bị cũng cũ kỹ lạc hậu. Bảng 2.5. Trình độ cơ khí hoá, tự động hoá của các DN Việt Nam Đơn vị: % số doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp Công ty liên Tính chung ngoài QD doanh Tổng số DN trả lời 100,00 100,00 100,00 100,00 1. Trình độ tự động hoá % công việc 25,30 31,03 - 21,74 5-10% công việc 1,2 17,24 - 4,35 10-20% công việc 20,48 3,50 15,38 15,94 trên 20% công việc 38,55 20,69 80,77 42,75 Không rõ 14,47 27,54 3,85 15,22 2. Trình độ cơ khí hoá 30-50% công việc 37,35 20,69 80,77 42,03 50-60% công việc 13,25 20,69 - 12,32 Trên 60% công việc 44,58 41,38 3,85 26,23 Không xác định được 4,82 17,24 15,38 19,42 trình độ cơ khí hoá Nguồn: Điều tra của JICA, 2001 Có một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng công nghệ lạc hậu của các DNN&V Việt Nam hiện nay là: Hạn chế về tài chính: Hầu hết các DNN&V Việt Nam bị hạn chế về nguồn tài chính để đầu tư đổi mới công nghệ. Các DNN&V ngoài quốc doanh còn có ít khả năng hơn trong việc vay vốn từ ngân hàng thương mại. Thiếu thông tin công nghệ: Do các doanh nghiệp không đủ nguồn thông tin về đầu ra cho sản xuất từ đó không đủ thông tin về công nghệ bảo đảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
  46. - 41 - Hạn chế về năng lực cán bộ công tác nghiên cứu trong doanh nghiệp: Số lao động kỹ thuật cao và chuyên gia công nghệ trong các doanh nghiệp còn ít, thậm chí có doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại song kỹ sư vận hành phải thuê của các đối tác khác. Động lực đổi mới công nghệ: Thực tế cho thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường sử dụng lợi nhuận để mở rộng quy mô kinh doanh trên cơ sở trang thiết bị sẵn có hơn là đổi mới và ứng dụng công nghệ mới. Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ của DNN&V ở Việt Nam hiện nay Theo các báo cáo điều tra từ các nguồn khác nhau, các doanh nghiệp nói chung và DNN&V nói riêng đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp: chi phí đổi mới công nghệ chỉ khoảng 0,2- 0,3% doanh thu, so với mức 5% ở Ấn Độ hay 10% ở Hàn Quốc. Tại thành phố Hồ Chí Minh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư khoảng 150 - 200 triệu US$/ năm cho đổi mới công nghệ so với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 1200 triệu US$/ năm. Trong số công nghệ mới được áp dụng, 95- 99,95% là công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài. Khối hợp tác xã hầu như không có khả năng đổi mới công nghệ do thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đào tạo và những trở ngại khác. Có nhiều lý do cho tình trạng này. Điều tra của JICA và Viện nghiên cứu QLKTTW năm 1999 cho thấy 6 khối nguyên nhân sau đây: Trước hết, hầu hết các DNN&V của chúng ta chưa có chiến lược kinh doanh, chưa nghiên cứu thị trường, chưa hiểu khách hàng của mình là ai, yêu cầu của họ như thế nào. Chính vì yếu kém này mà doanh nghiệp chưa biết các đối thủ cạnh tranh, chưa biết mình là ai và vị trí của mình đứng ở đâu trong thương trường, chưa cảm thấy sức ép cạnh tranh trong nước và ngoài nước. Rất nhiều doanh nghiệp chỉ biết lo sản xuất, các khâu nghiên cứu khoa học công nghệ hay tiếp thị, bán hàng đều rất ít quan tâm hay không hiểu biết. Biểu đồ nguyên tắc kèm theo đây cho thấy phần lớn các doanh nghiệp nước ta chỉ tập trung vào hai khâu giá trị gia tăng thấp nhất trong khi các khâu trước và sau đó có giá trị gia tăng cao hơn ít được quan tâm.
  47. - 42 - Từ đó, doanh nghiệp cũng không có hiểu biết về "công nghệ thích hợp" để đáp ứng yêu cầu khách hàng. Trong rất nhiều trường hợp doanh nghiệp không am hiểu thị trường công nghệ nên đã mua một số trang thiết bị quá hiện đại (và quá tốn kém) nhưng không tương hợp với thiết bị của nhà máy và vượt quá yêu cầu của khách hàng. Những mua sắm không cần thiết như vậy gây ra không ít thất bại trong đầu tư. Nguyên nhân thứ ba là chưa có thị trường vốn trung hạn để cấp vốn cho nhu cầu đầu tư. Đặc biệt, các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư khoa học công nghệ chưa hoạt động đã cản trở cả hai bên doanh nghiệp và các nhà khoa học gặp nhau. Nguyên nhân thứ tư là thủ tục đầu tư còn quá nhiều phiền hà, mất nhiều thời gian và tiền bạc, làm nản lòng nhiều giám đốc doanh nghiệp. Nguyên nhân thứ năm là một bộ phận người lao động không ủng hộ đổi mới công nghệ vì lo bị mất việc. Việc giải quyết các vướng mắc về tâm lý, về trợ giúp học nghề mới, chuyển việc, bảo hiểm xã hội là rất cần thiết để những người lao động này không vì tư lợi mà cản trở sự tiến bộ của cả doanh nghiệp (trong đó có cả lợi ích của chính họ).
  48. - 43 - Nguyên nhân thứ sáu là vị thế độc quyền hay được ưu ái, có thể bằng cách khác vẫn kiếm được lợi nhuận thì không ít doanh nghiệp đã chọn con đường ít trở ngại nhất để kinh doanh mà không đổi mới công nghệ. Các yếu tố cản trở đổi mới công nghệ trong DNN&V Việt Nam Thiếu hiểu biết về thị Nghiên cứu nhu cầu thị trường, tiếp thị đều yếu trƣờng Thiếu hiểu biết về công Không nghiên cứu có hệ thống về công nghệ thích hợp nghệ thích hợp với yêu cầu thị trường. Chƣa có thị trƣờng vốn DNN&V ít có khả năng lựa chọn về nguồn vốn, phụ trung hạn và dài hạn thuộc vào vốn của ngân hàng. Thủ tục đầu tƣ phức tạp, Thủ tục đòi hỏi quá nhiều cấp xét duyệt, mất thời gian, mất thời gian công sức, tiền bạc. Một bộ phận ngƣời lao Số người lao động lớn tuổi, ít được đào tạo e ngại động không ủng hộ không tiếp cận được với công nghệ mới Lãnh đạo doanh nghiệp Do không phải chịu sức ép cạnh tranh nên lãnh đạo thiếu quyết tâm DNN&V không cần phải đổi mới công nghệ Việc sử dụng công nghệ thông tin liên lạc là công cụ kinh doanh còn kém Mức độ sử dụng internet của người dân Việt Nam tương đối ít so với các nước khác, kể cả các nước láng giềng (xem Bảng 2.6). Bảng 2.6. Mức độ sử dụng internet của ngƣời dân ở một số nƣớc Quốc gia Dân số (ngƣời) Số ngƣời sử dụng Tỷ lệ (%) internet Hồng Kông 7.300.000 4.500.000 61,64 Mỹ 291.450.000 176.000.000 60,39 Thuỵ Điển 8.880.000 5.125.000 57,71 Hàn Quốc 48.324.000 26.270.000 54,36 Singapore 4.200.000 2.247.000 53,5 Nhật Bản 126.974.500 57.200.000 45,05 Anh 64.420.200 28.990.000 45,00 Ểc 19.883.000 8.600.000 43,25 Malaysia 22.662.365 7.800.000 34,42 Ph¸p 59.765.980 18.716.000 31,32 Bruney 345.000 35.000 10,14 Th¸i Lan 61.900.000 4.800.000 7,75 Trung Quèc 1.284.000.000 59.100.000 4,60 Philippine 80.980.000 2.000.000 2,47 ViÖt Nam 79.500.000 1.400.000 1,76 Indonexia 231.328.092 4.000.000 1,73
  49. - 44 - Lµo 5.777.200 15.000 0,26 C¨mpuchia 12.755.000 30.000 0,24 Myanma 46.500.000 10.000 0,02 Nguån: Ở Việt Nam, trình độ tiếp cận công nghệ thông tin và viễn thông của các DNN&V còn thấp. Theo báo cáo của Uỷ ban kỹ thuật thương mại điện tử vào tháng 9/2001, khoảng 60-70% DNN&V không có cả máy fax và máy tính cá nhân. Khu vực tư nhân chỉ sở hữu 25% số máy tính cá nhân ở Việt Nam, trong số này chỉ rất ít máy thuộc sở hữu của DNN&V. Theo điều tra, chưa đầy 30% DNN&V kết nối internet với 48% trong số này kết nối internet chỉ với mục đích nhận và gửi thư điện tử chứ không phải sử dụng để tìm kiếm thông tin thị trường hay sử dụng như công cụ kinh doanh. Dưới 10% DNN&V có trang web riêng. Nhận thức về thương mại điện tử của các DNN&V rất thấp. Theo một báo cáo của Bộ Thương mại, chỉ 2% DNN&V quan tâm đến thương mại điện tử và chỉ 7% DNN&V bắt đầu áp dụng thương mại điện tử. Thậm chí quảng cáo, mua và bán hàng trực tuyến các sản phẩm của doanh nghiệp còn ít hơn. Ngoài ra, những bất cập bên ngoài đã tác động không nhỏ tới năng lực công nghệ của doanh nghiệp như chính sách đào tạo và đầu tư của Nhà nước cho nghiên cứu khoa học còn chưa hợp lý, trong đó việc phân bố nguồn cán bộ khoa học là vấn đề nổi cộm. Ước tính Việt Nam hiện nay có khoảng trên 35 ngàn cán bộ tham gia nghiên cứu và thực nghiệm, song chủ yếu là làm việc ở các trung tâm nghiên cứu và triển khai cấp quốc gia, các tổ chức thuộc các bộ ngành và cơ quan Nhà nước hoặc các trường đại học. Số cán bộ làm việc trực tiếp tại các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ không đáng kể. Như vậy, có thể kết luận rằng, đã có những tiến bộ nhất định trong nhận thức về chuyển giao công nghệ, đã có những chuyển biến năng động trong một số doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải cạnh tranh. Song phần lớn DNN&V vẫn gặp nhiều khó khăn từ nhận thức đến tiền vốn, năng lực quản lý để đổi mới công nghệ. Và nếu so với mức độ và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế thì đây quả là
  50. - 45 - điều đáng lo ngại. Nếu không có sự trợ giúp của nhà nước, của các thể chế tín dụng, ngân hàng, của các hiệp hội, liên kết các doanh nghiệp nhỏ lại, điều hoà, phối hợp quá trình đổi mới công nghệ (như trong đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực v.v.) thì kế hoạch gia nhập WTO của Việt Nam vào năm 2005 quả là không mấy khả thi và nếu có hội nhập được vào tổ chức toàn cầu này thì các doanh nghiệp của ta cũng chỉ bị thua thiệt chứ không tận dụng được bất kỳ lợi ích nào của quá trình hội nhập. 2.1.2. Năng lực quản lý và nguồn nhân lực 2.1.2.1. Năng lực quản lý và chiến lược cạnh tranh * Chủ doanh nghiệp - Về cơ cấu thành phần chủ DNN&V. Theo kết quả điều tra thì 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân, viên chức thuộc khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào đã có kinh nghiệm trong sản xuất, một số ít có tay nghề và hiểu biết về quản lý kinh tế. Động cơ hoạt động sản xuất- kinh doanh là để tự tạo việc làm, có thu nhập cho cuộc sống. Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động ở khu vực kinh tế cá thể, tư nhân, có truyền thống của gia đình. Khoảng 10% là học sinh, sinh viên các trường phổ thông, các trường trung học, đại học tìm được việc làm, có vốn hoặc vay vốn tự lập doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. - Về trình độ văn hóa: 40% chủ doanh nghiệp có trình độ lớp 7; 35% trình độ lớp 10 (hệ cũ) và 25% có trình độ lớp 12 (hệ mới). Trình độ này còn được chứng minh qua số liệu điều tra 300 doanh nghiệp nhỏ ở 3 thành phố: Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh của Viện khoa học lao động Nhật Bản kết hợp với Viện khoa học lao động của Bộ LĐTBXH; hơn 70% có trình độ cấp II ( hệ cũ) và khoảng 25% có trình độ cấp III trở lên. - Về trình độ chuyên môn: Trong số các chủ doanh nghiệp được điều tra, cứ 100 người thì có một người có trình độ trên đại học, 3 người có trình độ đại học, 14 người có trình độ trung học hoặc tương đương. Hơn nữa, trong số trình độ trung học và đại học thì chủ doanh nghiệp có trình độ tay nghề đào tạo phù hợp với nghề hoạt
  51. - 46 - động sản xuất - kinh doanh thấp, chỉ khoảng 7%. Khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã hoạt động kinh tế tư nhân, mặc dù chưa có nghề nhưng nhờ chính sách đổi mới đã nắm cơ hội tạo lập cơ sở riêng hoặc phát triển doanh nghiệp thừa kế của gia đình. Số chủ doanh nghiệp này phần lớn hoạt động ở khu vực dịch vụ, đặc biệt là may mặc, dịch vụ văn hóa, sửa chữa cơ khí, điện tử. * Năng lực quản lý doanh nghiệp Qua cuộc điều tra của MPDF và Viện nghiên cứu QLKTTW năm 2001, đa số các chủ doanh nghiệp thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý trong nền kinh tế thị trường. Số chủ doanh nghiệp là cán bộ quản lý từ các DNNN ra thì thường làm theo lỗi quản lý cũ, độc đoán và chuyên quyền, không phù hợp với sự linh hoạt của thị trường. Trong khi đó, số chủ doanh nghiệp là tư nhân thì hầu hết có trình độ học vấn thấp và thường quản lý theo kiểu truyền thống do cha ông truyền lại. Trong khi đó các khoá đào tạo quản lý cho các chủ doanh nghiệp thường rất đắt và bản thân các chủ doanh nghiệp cũng rất bận và ít dành thời gian đầu tư cho việc này, họ cho rằng chỉ cần tự đào tạo qua thương trường là đủ. Do đó có thể nói, các chủ doanh nghiệp Việt nam làm việc thiếu bài bản và chuyên môn hoá. Nhiều điều tra khảo sát còn cho thấy đa số chủ doanh nghiệp không quen làm việc theo kế hoạch do bản thân đặt ra, khả năng thích ứng nhanh nhạy với những thay đổi của môi trường bên ngoài thấp. Thực tế cho thấy số chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý có khả năng nắm bắt thông tin về sự thay đổi của môi trường thể chế, của thị trường, của khách hàng để điều chỉnh công nghệ, quy trình sản xuât, mặt hàng sản phẩm không nhiều. Một ví dụ điển hình mới đây cho thấy, trong khi Cộng đồng châu Âu chuẩn bị cấm nhập các sản phẩm từ gỗ tự nhiên với lý do môi trường, thì các doanh nghiệp xuất khẩu đồ thủ công từ các loại gỗ trắc, lim (thuộc danh mục cấm) hầu như không có phản ứng gì; chỉ có rất ít chủ doanh nghiệp đi trước
  52. - 47 - một bước bằng sự thay đổi về công nghệ cho phù hợp với nguyên liệu mới (gỗ công nghiệp). Đại bộ phận DNN&V ở nước ta quy mô còn nhỏ, mang tính gia đình; người chủ sở hữu thường đồng thời là người quản lý, là người quản đốc, người cán bộ kỹ thuật, v.v của doanh nghiệp. Nói cách khác, người chủ sở hữu trong các DNN&V thường cùng một lúc thực hiện hàng loạt chức năng và vai trò khác nhau trong tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài quan hệ góp vốn cùng kinh doanh, họ còn có quan hệ huyết thống, họ hàng, bạn bè hết sức thân thiết, v.v Vì vậy, trong quản lý nội bộ và tổ chức kinh doanh rất khó phân biệt rõ ràng về mặt pháp lý quyền, quyền lợi và nghĩa vụ của người chủ, người quản lý và người lao động; tính "phi chính thức" trong quá trình ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định, v.v đang chi phối quản trị nội bộ của phần lớn các doanh nghiệp. Nhiều người chủ, người quản lý doanh nghiệp thường tập trung phần lớn thời gian và sức lực của mình vào thực hiện các công việc chuyên môn kỹ thuật của kinh doanh hơn là công việc quản lý. Thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh là một điểm yếu trong năng lực quản lý của hầu hết các DNN&V hiện nay ở nước ta. Lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của các chủ sở hữu và nhà quản lý. Đối với hầu hết các DNN&V, kế hoạch nhiều khi chỉ là dự đoán trong đầu, không thể hiện ra thành báo cáo, dự án; kế hoạch chỉ là mục tiêu tổng quát như sản xuất, tiêu thụ, lợi nhuận có thể được bao nhiêu; và nếu đạt được, thì thoả mãn với những gì đã có. Vì vậy, khi thị trường biến động, kế hoạch dự tính không hoàn thành, họ lúng túng, bị động, không biết rõ phải làm gì, ở khâu nào, bộ phận nào và như thế nào để đối phó với tình hình. Do kế hoạch chỉ là ước tính, tổng quát, không viết ra giấy, nên thường không có đánh giá hoặc không thể đánh giá được các điểm mạnh yếu; không biết rõ chỗ nào, công việc nào đang kém hiệu quả, hoặc có thể làm tốt hơn;
  53. - 48 - vì vậy, không chủ động trong nỗ lực, cải tiến quản lý nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Công tác ghi chép, cập nhật, lưu trữ sổ sách của DNN&V cũng còn yếu, chưa đúng với yêu cầu theo quy định của pháp luật. Không ít công ty TNHH không lập, cập nhật và theo dõi sổ danh sách thành viên; không cấp giấy chứng nhận phần vốn góp. Ngoài một số ít các doanh nghiệp cố gắng ghi chép, cập nhật sổ sách kế toán, lập các báo cáo tài chính phục vụ cho công tác quản trị nội bộ, hiện tượng “2 loại sổ sách kế toán” vẫn tồn tại. Việc lập sổ sách kế toán vẫn chủ yếu để "đối phó" với cơ quan thu thuế; chưa phải để theo dõi phục vụ cho công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, chưa phải để "công khai hóa" giúp những ai có quan tâm đều có thể hiểu đúng và đủ về thực trạng tài chính doanh nghiệp, về các điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp, v.v Trong chi tiêu của doanh nghiệp, chưa phân biệt rõ giữa chi tiêu của doanh nghiệp và chi tiêu của gia đình người chủ và người quản lý doanh nghiệp, chưa phân biệt được thu nhập dưới hình thức tiền công, tiền lương của người chủ và lợi nhuận. Nói tóm lại, sự kém minh bạch, thiếu công khai về quản lý tài chính đang là hiện tượng khá phổ biến. Thực trạng nói trên do nhiều nguyên nhân. Trước hết, tập quán, thói quen kiểu sản xuất nhỏ, tiểu nông kết hợp với ảnh hưởng của cơ chế hành chính-kế hoạch hóa tập trung vẫn tác động mạnh đến phương thức quản lý của đa số chủ doanh nghiệp và người quản lý. Hai là, trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, công tác đào tạo quản trị kinh doanh, trong đó có đào tạo về lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh, còn nhỏ về quy mô với nội dung chưa hoàn toàn đổi mới phù hợp với yêu cầu. Đại đa số chủ doanh nghiệp và người quản lý vẫn quản lý điều hành kinh doanh dựa trên kinh nghiệm bản thân là chủ yếu. Ba là, các loại dịch vụ hỗ trợ cho lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh như công tác thống kê, lập dữ liệu, dự đoán và dự báo của cả nền kinh tế, công tác cung cấp thông tin, v.v còn yếu và thiếu; đội ngũ cung ứng dịch vụ tư vấn lập dự án, chiến lược và kế hoạch kinh
  54. - 49 - doanh còn quá nhỏ, năng lực chưa cao, giá cả cao chưa tương xứng với chất lượng và khả năng thanh toán của đại đa số doanh nghiệp. Thêm vào đó, với lối quản lý theo kinh nghiệm chủ nghĩa đang chi phối, nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn nói chung, tư vấn quản trị, tư vấn chiến lược và kế hoạch kinh doanh nói riêng chưa cao. Các quy định khắt khe, bất hợp lý về chi phí hợp lý, hợp lệ cũng là yếu tố hạn chế nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn quản trị, tư vấn chiến lược của doanh nghiệp. Qua phân tích thực trạng năng lực quản lý của các DNN&V nêu trên, có thể kết luận rằng đội ngũ các chủ doanh nghiệp có sự bất cập về trình độ. Từ năm 1991 trở lại đây, ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khóa, trường lớp với nhiều hình thức và phương thức đào tạo khác nhau. Có thể kể đến trong số đó là các lớp đào tạo liên tục về khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp của Trung tâm xúc tiến DNN&V - PC/VCCI với sự trợ giúp của ILO, các khoá học đào tạo ngắn hạn của Trung tâm hỗ trợ DNN&V thuộc STAMEQ. Mặc dù đó mới chỉ là ban đầu hình thành do nhu cầu cấp thiết của các DNN&V, nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp khá tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được các cơ quan, các tổ chức khác nhau tổ chức cho hàng vạn lượt chủ doanh nghiệp ở các thành phố lớn và nhiều tỉnh trong cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như thế còn chưa được thực hiện đúng mức, còn manh mún, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cho loại đối tượng này. 2.1.2.2. Năng lực con người/nguồn nhân lực Thực trạng năng lực nguồn nhân lực của khu vực DNN&V Việt Nam không tách rời thực trạng chung của lực lượng lao động Việt Nam. Bên cạnh những ưu thế không thể phủ nhận như lực lượng lao động dồi dào, tỷ lệ lao động trẻ cao, tỷ lệ tham gia lao động cao, giá cả sức lao động tương đối thấp , lực lượng lao động Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều hạn chế được xem là trở ngại chính ảnh
  55. - 50 - hưởng đến năng lực cạnh tranh, năng lực hội nhập của quốc gia. Trong đó nổi bật là: * Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề thấp Theo kết quả điều tra lao động việc làm của Bộ LĐTBXH, đến 1/7/2002 số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ nghể trở lên) chỉ chiếm 19,62% tổng lực lượng lao động. Riêng đối với nữ, tỷ lệ này còn thấp hơn, chỉ có 15,67%. Lao động có đào tạo được phân bổ rất không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ (xem Phụ lục 2.1 - Cơ cấu lực lượng lao động hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật tính đến 1/7/2002) Cần nói thêm rằng, nếu so sánh với các nước khác, số lao động được đào tạo chính quy còn quá thấp. Trong khi số sinh viên tính trên 10.000 dân của Việt Nam mới là 118 người (năm 2001), thì số tương ứng của Thái Lan đã là 2166 người, ở Malaysia là 884 người và ở Trung Quốc là 377 người (năm 1999). Hơn nữa, trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam còn rất kém (so với Philippines hoặc Thái Lan). Hơn thế nữa, cơ cấu đào tạo lực lượng lao động còn nhiều bất hơn lý: số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Tỷ lệ giữa đào tạo đại học - trung học - công nhân kỹ thuật là 1-1,5-2,5 trong khi ở các nước đang phát triển trong khu vực tỷ lệ là 1- 4 -10. Điều đó dẫn đến tổng số lao động qua đào tạo đã ít, tổng số công nhân kỹ thuật lại càng ít hơn so với nhu cầu thực tế. Số này chủ yếu chỉ tập trung tại các thành phố và khu đô thị lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố, trung tâm công nghiệp lớn khác). Trong khi đó ngành nông nghiệp chiếm 60,5% tổng lực lượng lao động của cả nước, nhưng chỉ chiếm 3,85% số người được đào tạo. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến việc tăng cơ hội việc làm và thu nhập mà còn là yếu tố hạn chế khả năng hội nhập của doanh nghiệp và toàn nền kinh tế.
  56. - 51 - * Thiếu lao động chất xám về số lượng và chất lượng Nhìn chung đội ngũ lao động trí thức của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém cả về số lượng (tuyệt đối và tương đối), cả về chất lượng so với thế giới và khu vực. Nhóm lao động khoa học công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Nhóm lao động quản lý kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanh ít có cơ hội được đào tạo nên ít hiểu biết về thị trường và cơ chế thị trường, trong khi nhu cầu về loại đào tạo này càng ngày càng trở nên cấp bách và gay gắt bởi áp lực của thị trường, của cạnh tranh, của hội nhập. Sự thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ lao động trí thức thực sự đang là một thách thức lớn trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực thời gian tới. * Thể lực người lao động kém Theo số liệu điều tra về tình trạng thể lực của lao động VN năm 1996, người lao động Việt Nam có thể lực kém. Chiều cao trung bình của người lao động Vn là 1,47m; cân nặng 34,4 kg thì các con số tương ứng của Philippine là 1,53m; 45,5 kg; người Nhật là 1,64m; 53,3 kg. Số người không đủ tiêu chuẩn về cân nặng ở Việt Nam chiếm tới 48,7%. Số lượng người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ thiếu máu là 40% (số liệu điều tra năm 2000). Các số liệu điều tra năm 2001 đối với người lao động trong một số doanh nghiệp cho thấy số người mắc bệnh nghề nghiệp chiếm 54%. * Tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp chưa cao Đại bộ phận người lao động có nguồn gốc từ nông thôn, chưa được rèn luyện về kỷ luật lao động công nghiệp. Còn mang nặng tác phong của mệt nền nông nghiệp tiểu nông, tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm; thiếu tinh thần hợp tác và gánh chịu rủi ro; ít thể hiện sáng kiến cá nhân và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Để đáp ứng yêu cầu về kỹ năng và kỷ luật lao động, nhiều doanh nghiệp có ý thức kinh