Luận văn Dịch vụ bảo hiểm và phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập

pdf 117 trang vanle 2240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Dịch vụ bảo hiểm và phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_dich_vu_bao_hiem_va_phat_trien_dich_vu_bao_hiem_vie.pdf

Nội dung text: Luận văn Dịch vụ bảo hiểm và phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI ĐỖ THỊ XUÂN QUỲNH DỊCH VỤ BẢO HIỂM VÀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỘI NHẬP LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HÀ NỘI – THÁNG 5/ 2006
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI ĐỖ THỊ XUÂN QUỲNH DỊCH VỤ BẢO HIỂM VÀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỘI NHẬP Chuyên ngành: KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. : NGUYỄN NHƯ TIẾN HÀ NỘI – 2006
  3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI ĐỖ THỊ XUÂN QUỲNH DỊCH VỤ BẢO HIỂM VÀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỘI NHẬP Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HÀ NỘI – THÁNG 5/ 2006
  4. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM VÀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM 3 1.1 Khái quát về bảo hiểm 3 1.1.1 Khái niệm 3 1.1.2 Đặc điểm 4 1.1.3 Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế và đời sống xã hội 7 1.2 Khái quát về dịch vụ bảo hiểm 9 1.2.1 Khái niệm về dịch vụ 9 1.2.2 Dịch vụ bảo hiểm 18 1.2.3 Các quan điểm về dịch vụ bảo hiểm 23 1.2.3.1 Quan điểm mở cửa hạn chế dịch vụ bảo hiểm 23 1.2.3.2 Quan điểm mở cửa tự do thị trường bảo hiểm 24 1.3 Những quy định của WTO và một số hiệp định thương mại Việt Nam đã ký kết 25 1.3.1 Quan niệm của WTO 25 1.3.2 Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ 26 1.3.3 Quan niệm của các nước ASEAN 28 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM TRÊN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM 29 2.1 Vài nét về sự ra đời và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam 29 2.1.1 Thị trường bảo hiểm Việt Nam trước Nghị định 100 C/P 29 2.1.2 Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau Nghị định 100 C/P 34 2.2 Các sản phẩm bảo hiểm hiện có trên thị trường bảo hiểm Việt Nam 43 2.2.1 Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ 43 2.2.2 Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ 45 2.3 Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm Việt Nam 47
  5. 2.3.1 Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam 47 2.3.2 Các văn bản pháp luật khác có liên quan 47 2.3.2.1 Hệ thống văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động kinh doanh bảo hiểm 47 2.3.2.2 Hệ thống văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm 50 2.4 Những vấn đề rút ra qua thực trạng của dịch vụ bảo hiểm Việt Nam 51 2.4.1 Những ưu điểm và hạn chế của dịch vụ bảo hiểm Việt Nam 51 2.4.1.1 Những ưu điểm 51 2.4.1.2 Những nhược điểm 57 CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỘI NHẬP 67 3.1 Yªu cÇu héi nhËp ®èi víi dÞch vô b¶o hiÓm 67 3.1.1 Yªu cÇu më cöa 67 3.1.2 §a d¹ng ho¸ 68 3.1.3 Yªu cÇu t¹o m«i tr•êng b×nh ®¼ng, c¹nh tranh 69 3.2 §Þnh h•íng ph¸t triÓn c¸c dÞch vô b¶o hiÓm ViÖt Nam 70 3.2.1 Ph¸t triÓn thÞ tr•êng b¶o hiÓm toµn diÖn, an toµn vµ lµnh m¹nh 71 3.2.2 §a d¹ng ho¸ lo¹i h×nh vµ n©ng cao chÊt l•îng cña dÞch vô b¶o hiÓm trªn thÞ tr•êng 72 3.2.3 N©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña doanh nghiÖp 75 3.2.4 T¨ng tr•ëng vµ ph¸t triÓn dÞch vô b¶o hiÓm theo h•íng bÒn v÷ng 76 3.3 Gi¶i ph¸p ph¸t triÓn c¸c dÞch vô b¶o hiÓm ViÖt Nam 78 3.3.1 Gi¶i ph¸p vÒ phÝa nhµ n•íc 78 3.3.2 Gi¶i ph¸p hiÖp héi 82 3.3.3 Gi¶i ph¸p doanh nghiÖp 85 KẾT LUẬN 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau nghị định 100/CP (1993-2005) 34 B¶ng 2.2: C¬ cÊu thÞ tr•êng b¶o hiÓm theo lo¹i h×nh doanh nghiÖp 39 B¶ng 2.3: Danh s¸ch c¸c DNBH trªn thÞ tr•êng b¶o hiÓm ViÖt Nam 40 B¶ng 2.4: Vèn ®iÒu lÖ cña c¸c doanh nghiÖp b¶o hiÓm ViÖt Nam 60 Biểu 2.1: Tăng trưởng GDP qua các năm (%) 54
  7. 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần đến nay, nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng với nền kinh tế khu vực và thế giới. Bên cạnh việc tham gia vào tổ chức kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, Việt Nam đang gấp rút hoàn tất quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đã đang và sẽ đứng trước sức ép rất lớn về vấn đề mở cửa các ngành kinh tế dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là khi chính thức được trở thành thành viên của WTO. Lĩnh vực bảo hiểm là một lĩnh vực dịch vụ theo cam kết phải được mở cửa và Việt Nam đã chính thức mở cửa thị trường bảo hiểm cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài từ năm 1995 sau khi có Nghị định 100CP, xoá bỏ tình trạng độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm với việc các công ty và tập đoàn bảo hiểm nước ngoài đặt chân vào Việt Nam, cùng với sự ra đời của một số doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Bên cạnh đó do nền kinh tế phát triển, nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo hiểm tăng lên, mà dịch vụ bảo hiểm Việt Nam tuy đã được đa dạng hoá và phát triển song còn chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy cần phải có những giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ bảo hiểm không những đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân mà còn đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đó cũng chính là lý do tại sao tôi chọn nghiên cứu đề tài này. Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam qua đó kiến
  8. 2 nghị một số giải pháp phát triển dịch vụ bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế theo tôi là hết sức cần thiết về lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu: Vấn đề mở cửa các ngành kinh tế dịch vụ trong đó có lĩnh vực bảo hiểm đang là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu mà các đối tác trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương đặt ra với Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo hiểm song chưa có một nghiên cứu toàn diện nào về hướng phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập, vì vậy đề tài là công trình nghiên cứu hoàn toàn mới của chuyên ngành kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. 3. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay cùng với các yêu cầu hội nhập, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt Nam, đáp ứng nhu cầu hội nhập. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ bảo hiểm Việt Nam - Phạm vi nghiên cứu: Dịch vụ bảo hiểm Việt Nam trước và sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP, nhấn mạnh đến đặc điểm của dịch vụ bảo hiểm Việt Nam những năm gần đây. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát, để thực hiện mục đích nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn: Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, phần còn lại được cấu trúc thành 3 chương: + Chương I: Khái quát về bảo hiểm và dịch vụ bảo hiểm
  9. 3 + Chương II: Thực trạng dịch vụ bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm VN + Chương III: Những giải pháp nhằm phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập
  10. 4 CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM VÀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM 1.1 Khái quát về bảo hiểm 1.1.1 Khái niệm Quá trình tồn tại và phát triển của con người là quá trình đấu tranh, chống chọi với thiên nhiên. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật giúp con người phần nào hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của thiên nhiên. Tuy vậy, các thảm họa thiên nhiên cũng như kỹ thuật đã gây thiệt hại to lớn về người và của. Con người với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật tiến bộ đến đâu cũng không thể lường trước được rủi ro. Những rủi ro như vậy chính là căn nguyên của hoạt động bảo hiểm. Theo Dennis Kessler, “Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít”. Hoặc theo Monique Gaullier, “Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê”. Tuy nhiên, những định nghĩa này hoặc quá thiên về góc độ kinh tế hoặc quá thiên về góc độ kỹ thuật, ít nhiều có sự khiếm khuyết, chưa hoàn chỉnh. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một khái niệm đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủi ro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đơn vị đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau thành một nhóm tương tác.
  11. 5 “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm được định nghĩa là: “Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.” 1.1.2 Đặc điểm Bảo hiểm là một ngành kinh doanh đặc biệt trong xã hội bởi chính nguồn gốc ra đời, sản phẩm và ý nghĩa của nó, do vậy ngành bảo hiểm hoạt động theo một số nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm . Chỉ bảo hiểm rủi ro: Theo nguyên tắc này, nghĩa là người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm rủi ro, tai nạn bất ngờ không lường trước được, chứ không nhận bảo hiểm những cái gì chắc chắn sẽ xảy ra. Bảo hiểm được thực hiện chính là nhằm giải quyết những sự cố rủi ro ngoài ý muốn của con người, những rủi ro mà con người không thể khống chế được hoặc chỉ khống chế được phần nào. Người khai thác không nhận bảo hiểm hay cấp đơn bảo hiểm khi biết chắc chắn tai nạn hay sự cố sẽ xảy ra, ví dụ như xe cơ giới không đảm bảo hiểm an toàn kỹ thuật, con tàu không đủ
  12. 6 khả năng đi biển Hoặc tai nạn đã xảy ra, ví dụ như xe đã bị tai nạn, tàu đã bị đắm, chủ xe hay chủ tàu mới tham gia bảo hiểm để được bồi thường bằng cách mua bảo hiểm ghi lùi lại ngày tháng trước khi tai nạn hoặc người bảo hiểm cấp đơn đúng ngày tháng khi tham gia bảo hiểm nhưng chủ xe/chủ tàu tìm cách để có hồ sơ tai nạn ghi ngày tháng xảy ra sau ngày mua bảo hiểm. Trong trường hợp này, người bảo hiểm sau khi biết người được bảo hiểm không khai báo thật, có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm hoặc không bồi thường tổn thất xảy ra. . Trung thực tuyệt đối: Trong giao dịch kinh doanh nói chung cần thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau nghĩa là không được phép có bất kỳ hành vi gian lận hay mưu toan lừa đảo nào. Người bán hàng phải trả lời trung thực các câu hỏi của khách hàng đặt ra và giới thiệu, thông báo, quảng cáo đúng như giá trị sử dụng của hàng hoá. Trong giao dịch bảo hiểm, chỉ có người chủ (hoặc quản lý, sử dụng) mới biết được tất cả mọi yếu tố của đối tượng bảo hiểm, biết rủi ro mình yêu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm thường không biết rõ rủi ro mà chỉ dựa vào những thông tin do người yêu cầu bảo hiểm cung cấp để xét đoán mức độ rủi ro và quyết định thái độ của mình đối với rủi ro: nhận hay không nhận bảo hiểm, nhận bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản như thế nào và tính tỷ lệ phí bảo hiểm bao nhiêu Do đó, người yêu cầu bảo hiểm phải có trách nhiệm khai báo mọi yếu tố trên, thậm chí cả những hiểm hoạ, nguy cơ làm tăng thêm rủi ro đối với đối tượng được bảo hiểm. Một vấn đề nữa là, người yêu cầu bảo hiểm có nghĩa vụ khai báo sự phát sinh các yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng đến đối tượng được bảo hiểm trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực hoặc khi tái tục hợp đồng. Trong ký kết hợp đồng bảo hiểm, cả hai bên người được bảo hiểm và người bảo hiểm đều phải tôn trọng nguyên tắc “trung thực tuyệt đối” (Utmost
  13. 7 good faith). Về phía người được bảo hiểm có nghĩa vụ khai báo trung thực như đã nêu, về phía người bảo hiểm có nghĩa vụ công bố, giải thích tất cả các qui tắc, điều khoản, điều kiện chi tiết của nghiệp vụ bảo hiểm và nội dung cụ thể của hợp đồng bảo hiểm cần ký kết. . Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm (Insurable Interest): Theo nguyên tắc này, người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có ở trong đối tượng bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền với hay phụ thuộc vào, sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Người nào đó có lợi ích bảo hiểm ở trong một đối tượng bảo hiểm nào đó có nghĩa là quyền lợi của người đó sẽ được đảm bảo hiểm nếu đối tượng bảo hiểm đó an toàn và ngược lại, quyền lợi của người đó sẽ bị phương hại nếu đối tượng bảo hiểm đó gặp rủi ro. Hay nói cách khác, người có lợi ích bảo hiểm là người bị thiệt hại về tài chính khi đối tượng bảo hiểm đó gặp rủi ro. Người có lợi ích bảo hiểm là người chủ sở hữu về đối tượng bảo hiểm đó, người chịu trách nhiệm quản lý tài sản hoặc người nhận cầm cố tài sản. Lợi ích bảo hiểm có ý nghĩa to lớn trong bảo hiểm. Có lợi ích bảo hiểm mới được ký kết hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm đã phải có lợi ích bảo hiểm rồi mới được bồi thường. Bảo hiểm không có nghĩa là trút mọi trách nhiệm cho người bảo hiểm. Nguyên tắc đảm bảo người được bảo hiểm sau khi đã ký hợp đồng bảo hiểm vẫn phải quan tâm, trông nom, bảo vệ đối tượng bảo hiểm. . Nguyên tắc bồi thường (Indemnity): Theo nguyên tắc này, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo hiểm cho người được bảo hiểm có vị trí tài
  14. 8 chính như trước khi có xảy ra tổn thất, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi. Trong bảo hiểm, số tiền bồi thường mà một công ty bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm trong một số sự cố được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm, không được lớn hơn thiệt hại thực tế. Người được bảo hiểm cũng không thể được bồi thường nhiều hơn thiệt hại do tổn thất, không được kiếm lời bằng con đường bảo hiểm, tối đa người được bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường đầy đủ, chứ không thể nhiều hơn thiệt hại. . Nguyên tắc thế quyền (Subrogation): Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm, sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Tất cả các khoản tiền nào có thể thu hồi được để giảm bớt thiệt hại đều thuộc thẩm quyền sở hữu của người bảo hiểm là người đã trả tiền bồi thường tổn thất. Khi số tiền phải bồi thường càng lớn thì việc áp dụng nguyên tắc thế quyền càng quan trọng và hết sức có ý nghĩa. Thế quyền có thể được thực hiện trước hoặc sau khi bồi thường tổn thất, trong trường hợp này người bảo hiểm được thay mặt người được bảo hiểm để làm việc với các bên liên quan. Người được bảo hiểm không có quyền miễn trách người có lỗi, vì nếu người được bảo hiểm chỉ nhận lỗi về mình, nghĩa là người được bảo hiểm tước đi khả năng thực hiện thế quyền của người bảo hiểm. Tuy nhiên, người bảo hiểm cũng chỉ được thực hiện thế quyền ở mức độ tương đương với số tiền đã trả hoặc sẽ trả. Để thực hiện được nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp các biên bản, giấy tờ, chứng từ, thư từ cần thiết cho người bảo hiểm. 1.1.3 Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế và đời sống xã hội Bảo hiểm là một ngành kinh tế hết sức nhạy cảm, có thể coi bảo hiểm chính là lá chắn của nền kinh tế quốc dân, chính vì vậy bảo hiểm có một vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế.
  15. 9 Trước hết, bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước tổn thất do rủi ro gây nên. Rủi ro dù bắt nguồn từ thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về mặt tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống và sản xuất kinh doanh. Từ đó, người bị thiệt hại có thể khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình thường. Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người tham gia. Thứ hai, bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất; giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân và doanh nghiệp. Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp để đề phòng và hạn chế tổn thất, rủi ro đã xảy ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích cực để thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng chống tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa cháy, cùng các ngành giao thông làm các biển báo, các đường lánh nạn Thứ ba, bảo hiểm góp phần tăng tích luỹ và tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy, Ngân sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi các đối tượng này gặp rủi ro, giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tất nhiên là trừ trong những trường hợp tổn thất mang tính thảm hoạ, có tính chất xã hội rộng lớn.
  16. 10 Mặt khác, dịch vụ bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua việc thực hiện đóng các loại thuế có liên quan, như vậy là dịch vụ bảo hiểm tăng thu cho ngân sách. Thứ tư, bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động một số lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài chi trả, trợ cấp hay bồi thương thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt, đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích luỹ trong một thời gian dài mới phải chi trả cho người tham gia bảo hiểm. Do đó, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng để kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu hay là dùng để đầu tư vào hoạt động kinh tế sinh lời. Và như vậy làm tăng vòng chu chuyển nguồn vốn, làm cho hệ thống tài chính sôi động hơn Thứ năm, bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường bảo hiểm quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển thông qua hình thức phân tán rủi ro và chấp nhận rủi ro – Hình thức tái bảo hiểm giữa các công ty của các nước. Như vậy, bảo hiểm vừa góp phần phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước, vừa góp phần ổn định thu chi ngoại tệ cho ngân sách. Thứ sáu, bảo hiểm thu hút một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế, đồng thời dịch vụ bảo hiểm cũng góp phần giải quyết và ổn định đời sống cho một bộ phận người lao động trong ngành bảo hiểm.
  17. 11 1.2 Khái quát về dịch vụ bảo hiểm 1.2.1 Khái quát về dịch vụ * Khái niệm về dịch vụ Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, nền sản xuất và văn minh nhân thọ loại, dịch vụ ngày càng phát triển cả về số lượng, chất lượng và trở thành một bộ phận năng động, một xu thế phát triển của nền kinh tế hiện đại. Dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể. Hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân như: vận tải, du lịch, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, bảo vệ môi trường, dịch vụ hành chính, dịch vụ tư vấn Như vậy có thể định nghĩa một cách chung nhất: dịch vụ là những hoạt động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm thoả mãn một cách kịp thời, thuận tiện và hiệu quả hơn nhu cầu sản xuất và đời sống con người. Ở các nước phát triển, dịch vụ và khái niệm dịch vụ đã tồn tại và phát triển từ lâu và được các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Các nhà kinh tế học cũng đã dùng khá nhiều các thuật ngữ để chỉ dịch vụ như “kinh tế mềm”, “công nghiệp siêu hình”, “kinh tế khu vực III”, Tuy vậy, nguồn gốc cho sự ra đời của các hoạt động dịch vụ đó chính là nền kinh tế hàng hoá. K. Mark đã chỉ ra rằng: dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế hàng hoá khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy thông suốt liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển. Bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Mark đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ.
  18. 12 Hiện nay ở các nước phát triển tỷ trọng ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân rất cao, chiếm 70- 80% GDP. Điều đó cho thấy kinh tế hàng hoá phát triển sẽ kéo theo dịch vụ phát triển như Mark đã chỉ ra, dịch vụ là một thực thể tất yếu khách quan của sự hợp tác, phân công lao động của tiến bộ khoa học và công nghệ cũng như của đời sống. Dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của các quốc gia. Cho tới nay tồn tại rất nhiều quan niệm về dịch vụ của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học song có thể hiểu dịch vụ theo hai cách sau: Theo nghĩa rộng: dịch vụ được coi là lĩnh vực kinh tế thứ ba trong nền kinh tế quốc dân. Theo cách hiểu này, dịch vụ gồm toàn bộ các ngành, các lĩnh vực tạo ra tổng sản phẩm quốc nội hay tổng sản phẩm quốc dân trừ các ngành sản xuất vật chất như công nghiệp, nông nghiệp. Theo nghĩa hẹp: dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh doanh bao gồm các hỗ trợ trước trong và sau khi bán, là phần mềm của sản phẩm được cung ứng cho khách hàng. Là những đầu vào trung gian, dịch vụ mang lại lợi ích rất lớn cho những ngành khác. Dịch vụ tham gia sâu sắc vào trong quá trình sản xuất và thương mại đối với mọi hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế. Dịch vụ chiếm tới 10-20% chi phí sản xuất và mọi chi phí thương mại: thông tin liên lạc, vận tải, tài chính và bảo hiểm thương mại và dịch vụ phân phối. Giá cả và chất lượng dịch vụ vì thế đóng vai trò quan trọng quyết định chi phí của những mặt hàng khác trong nền kinh tế. Dịch vụ có chất lượng kém làm trì hoãn sản xuất và vận tải không cho phép các hãng tham gia vào mạng lưới kinh tế. Tác động của chất lượng dịch vụ không chỉ là lợi ích thu được một lần mà có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của quốc gia. Dịch vụ giá cao và chất lượng kém không chỉ tác động đến hoạt động sản xuất hiện thời của các hãng mà còn không khuyến khích các hãng trong và ngoài nước đầu tư trong tương lai so
  19. 13 khả năng sinh lời của đầu tư giảm sút. Không những thế, chất lượng dịch vụ kém còn dẫn đến hệ quả giảm tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học kỹ thuật, công nghệ thì cũng xuất hiện ngày càng nhiều hoạt động kinh doanh mới, các dịch vụ mới. * Phân loại dịch vụ - Căn cứ vào lĩnh vực dịch vụ + Dịch vụ có tính chất sản xuất (dịch vụ vật chất) bao gồm các dịch vụ cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm (đầu ra) và các loại dịch vụ vật chất khác như sửa chữa, ăn uống, thông tin + Dịch vụ không có tính chất sản xuất, bao gồm các dịch vụ về tư vấn, đào tạo, y tế, thể dục thể thao, giải trí, luật sư, - Căn cứ vào đối tượng dịch vụ + Dịch vụ có tính chất xã hội (dịch vụ công), là loại dịch vụ đáp ứng đời sống cộng đồng. Nguồn đầu tư chủ yếu cho loại dịch vụ này là phúc lợi xã hội. Chủ thể thực hiện dịch vụ công là do công quyền hoặc do chính quyền uỷ nhiệm thực hiện. + Dịch vụ có tính chất cá nhân, bao gồm các dịch vụ phục vụ cho đời sống vật chất, văn hoá, thẩm mỹ, của con người. - Căn cứ trên giác độ tài chính + Dịch vụ phải trả tiền. + Dịch vụ không phải trả tiền: Do nhà nước chi trả thông qua quỹ phúc lợi xã hội. * Đặc điểm cơ bản của dịch vụ Sản phẩm dịch vụ có những đặc điểm riêng biệt giúp ta có thể phân biệt với các sản phẩm vật chất.
  20. 14 Thứ nhất, sản phẩm dịch vụ là sản phẩm vô hình, không hiện hữu, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể. Sản phẩm mà dịch vụ tạo ra để phục vụ thì không thể xác định một cách cụ thể bằng các tiêu chuẩn kỹ thuật. Cái mà khách hàng cảm nhận được từ sản phẩm dịch vụ vụ lại chính là các phương tiện chuyển giao dịch vụ tới khách hàng. Do vậy mà thái độ bên ngoài của các nhân viên tiếp xúc, của yếu tố bên ngoài là rất quan trọng. Nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ. Thứ hai, sản phẩm dịch vụ có tính không tách rời. Hay nói cách khác là việc cung ứng sản phẩm và việc tiêu dùng sản phẩm diễn ra đồng thời. Một sản phẩm dịch vụ được tạo ra cũng chính là lúc nó được tiêu dùng. Sản phẩm dịch vụ không thể tách rời khỏi nguồn gốc của nó, cho dù là do con người hay máy móc tạo ra dịch vụ. Từ đó đòi hỏi phải quan tâm bố trí sản xuất hợp lý như việc đặt các địa điểm làm dịch vụ, mạng lưới dịch vụ lưu động. Thứ ba, sản phẩm dịch vụ không có dự trữ. Đây chính là hệ quả của đặc điểm không tách rời. Do sản xuất và tiêu dùng diễn ra cùng một lúc nên sản phẩm dịch vụ không có dự trữ, không thể cất trữ trong kho để làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi nhu cầu thị trường trường như các sản phẩm vật chất khác. Từ đó cần phải có kế hoạch dự trữ các phương tiện làm dịch vụ. Trong thực tế, có những nhu cầu đối với nhiều loại dịch vụ rõ rệt, nếu không có kế hoạch dữ trữ các phương tiện, hàng hoá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của khách hàng và sẽ mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy trong nhiều trường hợp, hoạt động dịch vụ sau khi đã thực hiện thì các yếu tố cấu thành sản phẩm dịch vụ không mất đi mà vẫn còn nguyên ven. Nghĩa là quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ được lặp đi lặp lại nhiều lần như một bản nhạc, một lượng thông tin tư vấn pháp luật Nhưng yếu tố cấu thành trên không phải là sản phẩm dự trữ của dịch vụ. Nó chỉ là tiềm năng tạo
  21. 15 nên dịch vụ, còn bản thân dịch vụ không có sản phẩm lưu kho. Người cung cấp và các cơ sở cung cấp dịch vụ cần có kế hoạch giữ gìn, tôn tạo, nâng cao chất lượng các yếu tố này nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Thứ tư, chất lượng dịch vụ là rất khó đánh giá, vì nó chịu nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và thời điểm mua bán dịch vụ. Trước hết đó là sự tiếp xúc tương tác qua lại giữa người làm dịch vụ và người được phục vụ, không loại trừ các phương tiện của hoạt động dịch vụ, những điều kiện và sản phẩm theo và dịch vụ bổ sung khác. Song yếu tố tác động mạnh đến chất lượng dịch vụ là quan hệ tiếp xúc, sự đáp ứng kịp thời những nhu cầu, yêu cầu và lòng mong muốn của khách hàng đối với những dịch vụ. Bên cạnh đó, bản thân chất lượng dịch vụ có tính ổn định không cao. Thêm vào đó, sự chuyển dịch vụ nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ là chậm chạp và khó khăn do thói quen về tâm lý và tín nhiệm của khách hàng đối với một loại dịch vụ, một đối tượng cung ứng dịch vụ. Đặc điểm này đòi hỏi ngành dịch vụ phải quan tâm đầu tư hiện đại hoá cơ sở hạ tầng và hiện đại hoá các phương tiện là dịch vụ cũng như quan tâm đào tạo nâng cao trình độ, rèn luyện ý thức, thái độ, tác phong của người làm dịch vụ và biết tôn trọng chữ tín trong hoạt động dịch vụ. Mặt khác cần xoá bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh dịch vụ tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các thành phần kinh tế cạnh tranh trong hoạt động dịch vụ. * Khái niệm về dịch vụ của WTO và Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ: + Quan niệm của WTO Theo James Hodge trình bày trong cuốn “Sổ tay về Phát triển thương mại và WTO” thì Thuật ngữ “dịch vụ” hàm chứa rất nhiều ngành đóng vai trò quan trọng trong giá trị sản lượng tuyệt đối và tạo công ăn việc làm ở hầu hết các nước. Nó
  22. 16 bao gồm cả “dịch vụ trung gian” (thông tin, vận tải, trung gian tài chính, điện và khí ga, phân phối, xây dựng và dịch vụ thương mại) và “dịch vụ tiêu dùng cuối cùng” (du lịch và đi lại, giải trí, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và các dịch vụ về môi trường). Khu vực dịch vụ mới chỉ được đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán thương mại đa phương trong thời gian gần đây và được khởi động từ Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) đạt được ở Vòng đàm phán Uruguay. Dịch vụ cũng đã được đề cập nhiều hơn ở hàng loạt các hiệp định khu vực như ở Liên minh châu Âu (EU), Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Thị trường chung các nước Nam bán cầu (MERCOSUR). Lý do cho mối quan tâm này là khối lượng dịch vụ thương mại tăng lên nhanh chóng do sự phát triển của công nghệ thông tin liên lạc, và khả năng tiếp cận thị trường dễ dàng hơn rất nhiều bắt nguồn từ sự bãi bỏ bớt các quy định liên quan đến các ngành phục vụ công cộng. Trong thập kỷ vừa qua, tốc độ tăng trưởng của thương mại dịch vụ đã vượt xa tốc độ tăng trưởng của thương mại hàng hoá công nghiệp. Hiện nay dịch vụ đã chiếm 1/4 tổng kim ngạch thương mại giữa các quốc gia và hơn một nửa khối lượng giao dịch của các chi nhánh công ty đa quốc gia trên (Hoekman và Mattoo 2000). Thương mại dịch vụ giữa các nước: giao dịch hiện vật và điện tử giữa các nước, ví dụ thông qua vận chuyển bằng đường biển hay hàng không và giao dịch tài chính (phương thức 1). Hiệp định chung về Thương mại trong lĩnh vực Dịch vụ (GATS) áp dụng cho bốn phương thức trao đổi dịch vụ: - Phương thức 1 (Thương mại dịch vụ giữa các nước): cung ứng qua biên giới nhưng không đòi hỏi sự di chuyển về mặt địa lý của người cung ứng hoặc sử dụng - Phương thức 2 (Tiêu dùng ở nước ngoài): người sử dụng di chuyển sang nước của người cung ứng.
  23. 17 - Phương thức 3 (Hiện diện thương mại): các dịch vụ được các đơn vị nước ngoài đã thiết lập sự hiện diện thương mại tại một nước thành viên bán trong lãnh thổ của nước đó. - Phương thức 4 (Hiện diện của thể nhân): việc cung ứng dịch vụ đòi hỏi sự di chuyển tạm thời của con người. Theo điều XXVIII Định nghĩa của Hiệp định về thương mại dịch vụ của WTO thì Khoản (b), “cung cấp một dịch vụ” bao gồm việc sản xuất, phân phối, marketing, bán hoặc giao một dịch vụ. Khoản (c), “biện pháp của các thành viên tác động đến thương mại dịch vụ ”bao gồm các biện pháp về: (i) Việc mua, thanh toán hay sử dụng một dịch vụ; (ii) Sự tiếp cận hay sử dụng các dịch vụ gắn liền với việc cung cấp dịch vụ, các dịch vụ được các thành việc đó yêu cầu phải đưa ra phục vụ công chúng một cách phổ biến; (iii) Sự hiện diện, bao gồm cả hiện diện thương mại, của những người thuộc một Thành viên để cung cấp dịch vụ trên lãnh thổ của một thành viên khác; Khoản (e), “Lĩnh vực” dịch vụ là: (i) Một hoặc nhiều hoặc tất cả hoặc tiểu lĩnh vực của lĩnh vực dịch vụ đó, khi nói đến một cam kết cụ thể được liệt kê tại Danh mục cam kết của một thành viên; (ii) Toàn bộ lĩnh vực dịch vụ đó, kể cả tất cả các tiểu lĩnh vực, trong những trường hợp khác. Khoản (f), “dịch vụ của một Thành viên khác” là dịch vụ được cung cấp:
  24. 18 (i) Từ hoặc trên lãnh thổ của một Thành viên khác, hoặc trong trường hợp dịch vụ vận tải biển, do một con tàu được đăng ký theo luật pháp của Thành viên khác đó, hoặc do một người thuộc Thành viên đó cung cấp dịch vụ thông qua hoạt động của một con tàu và / hoặc sử dụng toàn bộ hay một phần con tàu đó; hoặc (ii) Của một người cung cấp dịch vụ thuộc thành viên khác, trong trường hợp việc cung cấp dịch vụ đó thông qua sự hiện diện thương mại hoặc sự hiện diện thể nhân thọ; Khoản (g), “người cung cấp dịch vụ ”là bất kỳ người nào thực hiện cung cấp một dịch vụ’ Khoản (i), “người tiêu dùng dịch vụ” là bất kỳ người nào nhận hoặc sử dụng một dịch vụ; Theo Phụ lục 1B về thương mại dịch vụ của WTO thì “dịch vụ” bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong bất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm quyền của chính phủ. “Thương mại dịch vụ” được định nghĩa là sự cung cấp dịch vụ: (a) Từ lãnh thổ của một Thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ một Thành viên nào khác ; (b) Trên lãnh thổ của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác; (c) Bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ thành viên nào khác; (d) Bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác; + Hiệp định thương mại Việt Mỹ
  25. 19 Hiệp định song phương Việt Nam- Hoa Kỳ đã viện dẫn và quy định về thương mại dịch vụ theo những quy định của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). * Khái niệm về dịch vụ theo quan điểm Việt Nam: - Theo Luật thương mại của Việt Nam năm 2005 Luật thương mại Việt Nam 2005 không đưa ra khái niệm dịch vụ mà đưa ra khái niệm cung ứng dịch vụ. Cụ thể: “Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận được thanh toán, bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thoả thuận ” Như vậy theo luật thương mại thì mọi hoạt động cung ứng dịch vụ đều được trả công ty hoặc phí dịch vụ, nếu không có sự thanh toán đó thì không được gọi là dịch vụ. Luật thương mại 2005 cũng qui định các loại dịch vụ mà thương nhân được phép cung ứng và các loại dịch vụ mà thương nhân được phép sử dụng những dịch vụ sau: a) dịch vụ do người cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ Việt Nam; b) dịch vụ do người không cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ Việt Nam; c) dịch vụ do người cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ nước ngoài; d) dịch vụ do người không cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ nước ngoài; - Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì Dịch vụ (kinh tế) là những hành động phục vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Tùy trường hợp, dịch vụ bao gồm: một công việc ít nhiều chuyên môn hóa, việc sử dụng hẳn hay tạm thời một
  26. 20 tài sản, việc sử dụng phối hợp với một tài sản lâu bền và sản phẩm của một công việc cho vay vốn. Do nhu cầu rất đa dạng, tùy theo sự phân công lao động nên có nhiều loại dịch vụ: dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh; dịch vụ phục vụ sinh hoạt công cộng; dịch vụ cá nhân dưới hình thức những dịch vụ gia đình; những dịch vụ tinh thần dựa trên những nghiệp vụ đòi hỏi những tài năng đặc biệt (hoạt động nghiên cứu, môi giới, quảng cáo); những dịch vụ liên quan đến đời sống sinh hoạt công cộng (sức khỏe, giáo dục, giải trí). Những dịch vụ về chỗ ở, v.v. Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tác động lẫn nhau chặt chẽ; dịch vụ là một điều kiện để phát triển sản xuất, kinh doanh. Dịch vụ pháp lí, tài chính, tiền tệ, vận tải, thông tin liên lạc có vai trò rất quan trọng. Du lịch là lĩnh vực hoạt động dịch vụ có ý nghĩa kinh tế lớn, sự phát triển dịch vụ hợp lí, có chất lượng cao là một biểu hiện của nền kinh tế phát triển và một xã hội văn minh. Do ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn nên hoạt động dịch vụ trở thành lĩnh vực kinh tế quan trọng, có vị trí lớn trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia có tốc độ phát triển cao. 1.2.2 Dịch vụ bảo hiểm * Khái niệm về dịch vụ bảo hiểm Từ những khái niệm về dịch vụ như đã phân tích trên đây có thể khái quát dịch vụ bảo hiểm như sau: Dịch vụ bảo hiểm là tất cả các dịch vụ mà người bảo hiểm cung cấp cho người được bảo hiểm. Tuy nhiên, trong Hiệp định chung về Thương mại trong lĩnh vực Dịch vụ (GATS) thì nhóm dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan tới bảo hiểm bao gồm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, tái bảo hiểm, trung gian bảo hiểm như môi giới và đại lý, các dịch vụ bổ trợ cho bảo hiểm như tư vấn và tính toán rủi ro.
  27. 21 Cũng giống như các ngành dịch vụ khác, dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho khách hàng sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, không có hình dáng, kích thước, trọng lượng Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm đặc biệt, đây là loại sản phẩm vô hình và không được bảo hộ bản quyền, là loại sản phẩm mà người mua không bao giờ muốn nó xảy ra với mình để được thực hiện quyền đòi bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Người mua sản phẩm bảo hiểm chỉ với mục đích đề phòng khi sự kiện được bảo hiểm xảy ra vẫn đảm bảo được an toàn về mặt tài chính, ổn định được quá trình sản xuất kinh doanh cũng như đời sống sinh hoạt xã hội. Tham gia vào dịch vụ bảo hiểm gồm có người mua (khách hàng), người cung cấp dịch vụ (các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm) và các tổ chức trung gian (người bảo hiểm giới bảo hiểm). Người bảo hiểm còn gọi là những người cung cấp dịch vụ bảo hiểm (Insurer or underwriter): là các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm , là người ký hợp đồng bảo hiểm,được hưởng phí bảo hiểm và cam kết bồi thường cho người mua bảo hiểm tất cả những tổn thất thiệt hại do rủi ro được bảo hiểm là nguyên nhân trực tiếp gây nên. Các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hiện nay theo điều 59 của Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam gồm: doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm cổ phần, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, tổ chức bảo hiểm tương hỗ và doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài. Người được bảo hiểm (Insured): Là những tổ chức hay cá nhân thọ có tài sản hay trách nhiệm dân sự theo luật định, tính mạng hay tình trạng sức khoẻ cần phải tham gia bảo hiểm sẽ trực tiếp hay thông qua người môi giới mua các sản phẩm bảo hiểm.
  28. 22 Người được người bảo hiểm là người mua bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, là người có tên trên hợp đồng bảo hiểm hay là người được hưởng lợi ích trên hợp đồng bảo hiểm. Tổ chức trung gian bảo hiểm hay còn gọi là người môi giới (broker), đại lý (agent) bảo hiểm là cầu nối giữa người mua và người bán bảo hiểm. * Môi giới bảo hiểm: Môi giới bảo hiểm có thể là công ty hoặc cá nhân đứng ra thu xếp bảo hiểm với các công ty bảo hiểm. Họ có thể tư vấn về các vấn đề như nhu cầu bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, thị trường bảo hiểm, khiếu nại, kiện tụng Môi giới bảo hiểm có thể đại diện cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và người được bảo hiểm. * Đại lý bảo hiểm: Đại lý bảo hiểm có thể là tổ chức hay cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý. Đại lý bảo hiểm thay mặt doanh nghiệp bảo hiểm bán các sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp và được hưởng lương hoặc tiền hoa hồng theo thoả thuận. Như vậy đại lý thường được coi là đại lý cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. * Đặc điểm của dịch vụ bảo hiểm Cũng giống với các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ bảo hiểm cũng có các đặc trưng chung như: - Người cung cấp và nhu cầu về dịch vụ bảo hiểm : Người cung cấp dịch vụ bảo hiểm: chính là các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp dịch vụ bảo hiểm để phục vụ khách hàng của mình. Các doanh nghiệp tham gia kinh doanh dịch vụ bảo hiểm có thể tăng hoặc giảm tuỳ theo nhu cầu của thị trường và tuỳ theo khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp luôn nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc nâng cao chất lượng sản
  29. 23 phẩm dịch vụ, chính là sản phẩm bảo hiểm. Ngày càng có nhiều sản phẩm bảo hiểm được phát triển và hoàn thiện phù hợp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật của nền kinh tế xã hội trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá. Sản phẩm bảo hiểm luôn được cải tiến, hoàn thiện và đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường. Cầu về dịch vụ bảo hiểm: là nhu cầu của dân cư, của các tổ chức xã hội, của các đơn vị sản xuất, kinh doanh xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về dịch vụ bảo hiểm ngày càng tăng. Nếu theo thang bậc nhu cầu của MASLOW thì nhu cầu về bảo hiểm không thuộc nhu cầu thiết yếu, do vậy dịch vụ bảo hiểm được quan tâm nhiều hơn khi người dân đã có tích luỹ. Điều này cũng có nghĩa là khi nền kinh tế xã hội phát triển thì các tổ chức kinh tế xã hội cũng phát triển theo, đời sống vật chất, tinh thần của dân cư cũng được cải thiện do đó nhu cầu đa dạng về dịch vụ bảo hiểm tăng lên. Những năm đầu của thế kỷ XX trên thị trường bảo hiểm mới chỉ có vài chục sản phẩm nhưng đến nay con số này đã lên tới hàng trăm. Xã hội phát triển, dịch vụ bảo hiểm cũng phát triển, ngày nay các sản phẩm bảo hiểm đã đi sâu vào từng ngõ ngách của đời sống kinh tế xã hội để phục vụ nhu cầu. - Giá cả của dịch vụ bảo hiểm: Giá cả của dịch vụ bảo hiểm, hay còn gọi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm chính là phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm (Premium): là một khoản tiền mà người mua bảo hiểm phải trả cho người cung cấp dịch vụ bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm do rủi ro được bảo hiểm là nguyên nhân trực tiếp gây ra. Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa người sử dụng và người cung cấp dịch vụ bảo hiểm về một dịch vụ bảo hiểm nào đó và cũng có thể xem đó là giá chấp nhận của thị trường trường về dịch vụ (hay sản phẩm) bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở giá trị bảo hiểm (hay số tiền bảo hiểm) với tỷ lệ phí bảo
  30. 24 hiểm. Nếu giá trị bảo hiểm (hay số tiền bảo hiểm) càng lớn, tỷ lệ phí bảo hiểm càng cao thì phí bảo hiểm càng lớn và ngược lại. Phí bảo hiểm cũng luôn thay đổi, nó phụ thuộc vào rủi ro nhiều hay ít, mức độ nguy hiểm cao hay thấp, trình độ quản lý rủi ro, mức độ thiệt hại khi xảy ra rủi ro, điều kiện bảo hiểm cũng như nhận thức của con người Ngoài ra phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào các quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh .trên thị trường dịch vụ bảo hiểm. - Cạnh tranh và liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm: Cũng giống như các loại hình dịch vụ khác, trên thị trường cung cấp dịch vụ bảo hiểm luôn có sự cạnh tranh gay gắt và cả sự liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Ngoài ra, dịch vụ bảo hiểm còn có các đặc trưng riêng như: - Dịch vụ bảo hiểm có tiềm năng phát triển lớn, đối tượng khách hàng rộng, đối tượng bảo hiểm rất đa dạng bao gồm tài sản, con người và trách nhiệm dân sự. - Dịch vụ bảo hiểm phát triển phụ thuộc vào sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội. Khi xã hội phát triển thì nhu cầu an toàn trong sản xuất, kinh doanh cũng như đời sống sinh hoạt của người dân càng được đặt ra cao hơn đã tạo điều kiện thúc đẩy dịch vụ bảo hiểm phát triển. - Dịch vụ bảo hiểm cung cấp sản phẩm đặc biệt liên quan đến rủi ro, nguy hiểm. Bảo hiểm ra đời là do sự tồn tại khách quan của rủi ro. Rủi ro là những đe doạ nguy hiểm, bất ngờ mà con người không thể lương trước được là nguyên nhân gây ra tổn thất, thiệt hại cho đối tượng bảo hiểm. Bảo hiểm là một ngành kinh doanh đặc biệt trong xã hội. - Dịch vụ bảo hiểm là dịch vụ tài chính, chịu sự kiểm tra, kiểm soát rất chặt chẽ của nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Nhà nước không những xét duyệt biểu phí, xác định giới hạn trách nhiệm bồi thường mà còn quyết định sản phẩm được phép kinh
  31. 25 doanh hoặc hình thức triển khai bắt buộc hay tự nguyện. Chỉ có dịch vụ bảo hiểm mới có hình thức bắt buộc người tiêu dùng phải sử dụng một số sản phẩm bảo hiểm. - Dịch vụ bảo hiểm hoạt động theo quy luật số đông bù số ít, đây là quy luật đặc thù của ngành bảo hiểm. Bảo hiểm chính là sự phân tán rủi ro, chia nhỏ tổn thất của một hay một số người cho nhiều người cùng gánh chịu. Tức là lấy số đông để bù vào rủi ro của một số ít. Một người tự mình thì không thể gánh nổi khi sự cố bảo hiểm xảy ra nhưng nhiều người san sẻ thì sẽ vượt qua được. Từ quy luật này cho thấy trên một lĩnh vực bảo hiểm nếu thu hút được nhiều khách hàng tham gia thì phí bảo hiểm thu được từ khách hàng càng lớn, tác dụng bồi thường khi có sự cố xảy ra càng cao. Quy luật “số đông bù số ít” luôn được các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tận dụng triệt để. Quy luật này không phát huy tác dụng thì hoạt động của dịch vụ bảo hiểm không thể tồn tại, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bị phá sản. 1.2.3 Các quan điểm về dịch vụ bảo hiểm Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm thế giới, các quốc gia đang có xu hướng mở cửa hội nhập và tự do hóa thị trường bảo hiểm nội địa. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có hai quan điểm về vấn đề này: 1.2.3.1 Quan điểm mở cửa hạn chế dịch vụ bảo hiểm Các nước áp dụng quan điểm này điển nhất hiện nay là các nước thuộc Liên minh Châu Âu và Nhật Bản. Nếu như trước đây Nhật Bản thường khuyến khích người dân tiêu dùng hàng nội địa, không muốn mở cửa thị trường thì hiện nay, do sức ép của tình trạng suy thoái kinh tế, xu thế toàn cầu hóa, Nhật Bản đã dần mở cửa thị trường trong nước trong đó có thị trường bảo hiểm. Nhật Bản đã cho phép các công ty bảo hiểm nước ngoài chỉ cần thông báo với các cơ quan chức năng của Nhật Bản về hoạt động kinh doanh của mình để có thể hoạt động ở Nhật.
  32. 26 Tự do hóa tỷ lệ phí bảo hiểm của một số nghiệp vụ bảo hiểm xóa bỏ lệnh cấm môi giới trong hoạt động bảo hiểm Khác với Nhật Bản, các nước trong khối liên minh Châu Âu mở cửa hoàn toàn thị trường bảo hiểm đối với các nước thành viên thuộc liên minh, song lại hạn chế đối với các nước bên ngoài liên minh. Các nước thành viên không chấp nhận loại bảo hiểm bắt buộc của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Một số nước như Áo, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Italia còn có các hạn chế về phạm vi nghiệp vụ bảo hiểm do công ty của các nước không thuộc Liên minh Châu Âu triển khai ở nước họ. Trong khi, Nhật Bản và các nước thuộc Liên minh Châu Âu chỉ mở cửa hạn chế thị trường bảo hiểm vì không muốn chia sẻ thị phần cho các công ty nước ngoài thì các nước đang phát triển, ví dụ như là các quốc gia Đông Nam Á lại hạn chế mở cửa thị trường này nhằm mục đích bảo hộ cho các công ty bảo hiểm nội địa còn non trẻ. Nếu như Malaysia thường có các quy định về hạn chế số cổ phần của phía nước ngoài trong công ty liên doanh bảo hiểm từ 30% đến 50% thì Thái Lan lại quy định chặt chẽ về vệc cấp giấy phép thành lập. Một doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài muốn thành lập và hoạt động tại thị trường Thái Lan thì phải được nội các Thái Lan đồng ý và có giấy phép do bộ trưởng ký; ngoài ra Thái Lan cũng có những quy định về mức vốn góp; về lao động nước ngoài (chỉ cho phép các nhân viên quản lý cao cấp vào Thái Lan, chuyên gia và cán bộ kỹ thuật nước ngoài vào làm việc phải được sự đồng ý của Hội đồng bảo hiểm Thái Lan). Tuy nhiên trước sức ép của xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, đặc biệt là luật chơi chung của WTO đang buộc các nước theo quan điểm này dần phải dỡ bỏ bớt các hạn chế để mở cửa cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.
  33. 27 1.2.3.2 Quan điểm mở cửa tự do thị trƣờng bảo hiểm Những quốc gia theo quan điểm này thường là những nước có nền kinh tế phát triển, có ngành bảo hiểm vững mạnh và ngược lại với những nước này là những nước có ngành bảo hiểm nội địa quá yếu kém và bị sức ép mở cửa thị trường cho các công ty bảo hiểm nước ngoài từ chính các nước phát triển. Đại diện cho khu vực có dịch vụ bảo hiểm phát triển mạnh không thể không kể tới Hồng Kông. Chính quyền của Hồng Kông đã mở cửa dịch vụ bảo hiểm tự do nên ngành này ở Hồng Kông thực sự phát triển. Hiện nay có rất nhiều công ty bảo hiểm đang hoạt động tại thị trường Hồng Kông, bên cạnh các công ty đăng ký thành lập ở Hồng Kông thì có rất nhiều các công ty bảo hiểm nổi tiếng, thành lập ở các nước Anh, Pháp, Mỹ, Cùng với Hồng Kông, Đài Loan là khu vực có nền kinh tế phát triển rất nhanh, năm 1995 thì Đài Loan bắt đầu mở cửa toàn diện thị trường dịch vụ bảo hiểm. Bất cứ công ty nào cũng có thể thành lập công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh tại đây nếu: công ty đó có kết quả hoạt động tốt và trong vòng 5 năm gần nhất không bị xử phạt về kinh doanh trái pháp luật tại nước chủ quản. Ngược lại với hai khu vực trên thì những nước có dịch vụ yếu kém như một số nước ở Châu Mỹ la tinh và Châu Phi lại mở cửa không hạn chế cho các công ty bảo hiểm nước ngoài do các công ty trong nước không có thực lực. Tuy nhiên, có thể nhận thấy xu hướng tự do hóa mở cửa dịch vụ bảo hiểm là xu hướng tất yếu trước các yêu cầu hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra nhanh chóng. Tự do hóa dịch vụ này khiến cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ, để có thể đứng vững trên thị trường các doanh nghiệp bảo hiểm không thể không đổi mới sản phẩm, dịch vụ, các kênh phân phối, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá cả dịch vụ, chăm sóc khách hàng, tiếp thu công nghệ mới, nâng cao năng quản lý hiệu quả, Tất cả
  34. 28 những điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển và đồng thời sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn cho khách hàng sử dụng dịch vụ này. 1.3 Những quy định về dịch vụ bảo hiểm của WTO và một số hiệp định thƣơng mại Việt Nam đã ký kết 1.3.1 Những quy định của WTO WTO đã nêu rõ trong Phụ lục về các dịch vụ tài chính thuộc Hiệp định chung về thương mại dịch vụ. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác. Trong đó Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm bao gồm: (i) Bảo hiểm trực tiếp (kể cả đồng bảo hiểm) (A) nhân thọ (B) phi nhân thọ (ii) Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm; (iii) Bảo hiểm trung gian, như là môi giới và đại lý; (iv) Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, như là tư vấn, dịch vụ đánh giá xác xuất và rủi ro và dịch vụ giải quyết khiếu nại. 1.3.2 Cam kết theo Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt Nam – Hoa Kỳ Hiệp định Thương mại Việt Mỹ được ký kết vào ngày 13/7/2000 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 10/12/2001 sau khi Quốc hội hai nước phê chuẩn. Theo Hiệp định này, Việt Nam đưa ra những cam kết trong tất cả các lĩnh vực của hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm:  Bảo hiểm nhận thọ và bảo hiểm tai nạn con người trừ bảo hiểm sức khỏe  Bảo hiểm phi nhân thọ  Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm
  35. 29  Các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động bảo hiểm (bao gồm các dịch vụ môi giới và đại lý bảo hiểm) Cụ thể như sau: Đối với việc cung cấp dịch vụ qua biên giới, các doanh nghiệp, bảo hiểm Hoa Kỳ được phép cung cấp không hạn chế đối với:  Các dịch vụ bảo hiểm (nhân thọ và phi nhân thọ)cho những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam  Các dịch vụ tái bảo hiểm  Các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế  Các dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm  Các dịch vụ tư vấn giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro Cũng theo Hiệp định, việc tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài không chịu bất kỳ hạn chế nào. Sự hiện diện thương mại của các công ty bảo hiểm Mỹ không bị hạn chế nhưng phải tuân thủ theo lộ trình tự do hóa từng bước trong giai đoạn từ 3-5 năm. Cụ thể là:  Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các Công ty Bảo hiểm của Hoa Kỳ được thành lập công ty liên doanh với các đối tác được phép kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam, trong đó, tỷ lệ góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không vượt quá 50% vốn pháp định.  Sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam cho phép thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn của Hoa Kỳ. Ngoài ra, các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư của Hoa Kỳ không được phép kinh doanh các dịch vụ đại lý bảo hiểm.  Sau 3 năm đối với công ty liên doanh và 6 năm đối với công ty bảo hiểm 100% vốn của Hoa Kỳ kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ xóa bỏ việc không cho phép các công ty bảo hiểm Hoa Kỳ kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc (như bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm
  36. 30 xây dựng, lắp đặt, bảo hiểm các dự án dầu khí, bảo hiểm các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường)  Sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ bãi bỏ chế độ tái bảo hiểm bắt buộc. Những cam kết này cũng sẽ là các điều kiện để Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập với khu vực ASEAN, các đối tác thương mại quan trọng như Nhật Bản, Liên minh Châu Âu và chuẩn bị đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều đáng lưu ý là theo nguyên tắc tối huệ quốc, những cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ cũng sẽ được áp dụng tương tự với các nước có các thỏa thuận thương mại song phương với Việt Nam. Do đó, tác động của các cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm như trình bày ở trên sẽ không chỉ giới hạn trong quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ mà còn được mở rộng sang các đối tác thương mại chính như EU, Nhật Bản, ASEAN, 1.3.3 Cam kết trong khuôn khổ các nƣớc ASEAN Xu thế mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực này. Trong khuôn khổ Hiệp định khung về Dịch vụ của ASEAN được ký vào cuối tháng 12/1998 và có hiệu lực kể từ ngày 13/10/1999, 7 quốc gia thành viên ASEAN (trừ Lào, Myanmar và Campuchia) đã đưa ra những cam kết cụ thể trong lĩnh vực bảo hiểm theo hướng huỷ bỏ về cơ bản những hạn chế về tiếp cận thị trường và tăng cường chiều sâu cũng như phạm vi tự do hoá trong lĩnh vực bảo hiểm. Hiện nay, các nước ASEAN đang trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định thư số 5 về thiết lập chương trình chung của ASEAN về bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc đối với bên thứ ba của chủ xe cơ giới. Bên cạnh đó, các cố gắng xây dựng thể chế cũng đang được đẩy mạnh với sáng kiến thành lập Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm ASEAN và Hiệp
  37. 31 hội bảo hiểm ASEAN để gắn kết và tăng cường sự hợp tác giữa các Chính phủ và ngành bảo hiểm các nước trong khu vực. Tóm lại, lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ bảo hiểm nói riêng là ngành kinh tế chịu sức ép mở cửa rất lớn khi Việt Nam gia nhập WTO và cam kết theo các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Do vậy, Việt Nam cần phải xây dựng một chiến lược và lộ trình mở cửa hợp lý để phát triển dịch vụ bảo hiểm trước những yêu cầu của quá trình hội nhập.
  38. 32 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM TRÊN THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM 2.1 Vài nét về sự ra đời và phát triển của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam 2.1.1 Thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trƣớc Nghị định 100/CP Trước thập niên 50, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã có mặt ở Việt Nam, tuy nhiên, thực chất đó là đại lý của các hãng bảo hiểm nước ngoài, toàn bộ thị trường bảo hiểm là do các công ty bảo hiểm Pháp thực hiện. Nhìn chung, vị trí của ngành bảo hiểm trong nền kinh tế là không đáng kể. Ở miền Nam đã ra đời hàng loạt các Công ty bảo hiểm dưới nhiều loại hình: Công ty bảo hiểm cổ phần, Công ty bảo hiểm tương hỗ, Công ty bảo hiểm nước ngoài. Bảo hiểm thương mại tương đối phát triển. Năm 1972, Sài Gòn có khoảng 51 công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) được Hội đồng Chính phủ ký quyết định thành lập ngày 17/12/1964. Công ty Bảo hiểm Việt Nam chính thức đi vào hoạt động kể từ tháng 1/1965. Và kể từ đó, cho đến tận năm 1994, ở Việt Nam chỉ có Bảo Việt là công ty bảo hiểm đầu tiên và duy nhất được Chính phủ thành lập. Thời kỳ này, bảo hiểm tập trung chủ yếu vào hai nghiệp vụ là bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu và bảo hiểm tàu biển. Với duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm, lại hoạt động độc quyền nên bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa được coi là một thị trường thực sự. Do vậy, ở giai đoạn này có thể coi lịch sử phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam chính là lịch sử phát triển của Bảo Việt. Bảo Việt thành lập thêm một số chi nhánh Hải Phòng. Số vốn ban đầu được nhà nước cấp là 1 triệu đồng với số lượng cán bộ nhân viên toàn công ty là 20 người.
  39. 33 Trong giai đoạn mới thành lập, khi đất nước còn nằm trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung và bao cấp, tất cả các nghiệp vụ mà Bảo Việt triển khai chủ yếu phục vụ cho sự phát triển trao đổi thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa. Năm 1965, khi mới ra đời, do đội ngũ và trình độ nên Bảo Việt chỉ nhận bảo hiểm thân tầu và đến năm 1967 mới tiến hành bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tầu. Năm 1979, Bảo Việt hình thành văn bản thoả thuận về một số quy định trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tầu, quy định cụ thể về vận dụng nội dung điều khoản bảo hiểm ITC vào Việt Nam. Năm 1989, bản thoả thuận trên lại được sửa đổi bổ sung thêm và được các chủ tầu hoan nghênh. Đến năm 1987, Bảo Việt đã bảo hiểm cho 436 tầu của 45 đội tầu biển trong nước. Đối với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, chỉ sau năm 1975- tức sau khi đất nước thống nhất, Bảo Việt mới giành được quyền bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu từ Trung Quốc. Cũng bắt đầu từ giai đoạn này kim ngạch bảo hiểm của các nghiệp vụ bảo hiểm đối ngoại được nâng cao. Bảo Việt bắt đầu mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới. Đến năm 1979, đã có 39 công ty nước ngoài có quan hệ với Bảo Việt. Sau khi giải phóng, việc quốc hữu hóa được thực hiện với 51 công ty bảo hiểm cũ của miền Nam, lớn nhất là công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm (VAR). Ngày 17/01/1976 chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ra quyết định số 21/QĐ-BKT thành lập công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam – gọi tắt là BAVINA. BAVINA tiếp tục thực hiện trách nhiệm của các công ty cũ với Người được bảo hiểm muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Sau khi đất nước thống nhất, ngày 1/3/1977, bộ trưởng bộ tài chính nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định số 61/TCQĐ/TCCB về việc sát nhập BAVINA thành chi nhánh của Bảo Việt tại
  40. 34 thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, kể từ đó, Bảo Việt chính thức có mạng lưới hoạt động tại các tỉnh phía Nam. Để phát triển thị trường bảo hiểm, phục vụ đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, công ty bảo hiểm Việt Nam đã mở thêm các chi nhánh ở một số tỉnh, thành phố có cảng biển để phát triển bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và bảo hiểm tầu biển như chi nhánh Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bình Định và Vũng Tầu. Việc mở chi nhánh Vũng Tầu còn có mục đích nắm bắt cơ hội bảo hiểm trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí. Bảo hiểm dầu khí là một loại hình bảo hiểm phức tạp. Về mặt nghiệp vụ, Bảo Việt đã phát triển kinh doanh một loạt sản phẩm mới như bảo hiểm giàn khoan; bảo hiểm trách nhiệm nhà thầu khoán; bảo hiểm kiểm soát giếng; bảo hiểm tài sản, trách nhiệm cho các nhà thầu phụ; bảo hiểm ôtô; bảo hiểm trách nhiệm cho người lao động; bảo hiểm trộm cắp, hoả hoạn; bảo hiểm trách nhiệm tổng hợp đối với người thứ ba; bảo hiểm tiền mặt và bảo hiểm máy bay trực thăng Bước sang thập niên 80, công ty bảo hiểm Việt Nam bắt đầu quan tâm tới bảo hiểm đối nội, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ bảo hiểm trên khắp cả nước. Năm1980, Bảo Việt bắt đầu cung cấp dịch vụ bảo hiểm tai nạn hành khách; bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Năm 1981 triển khai bảo hiểm hàng không đối với các đội bay của cục hàng không dân dụng Việt Nam. Năm 1982 triển khai thí điểm bảo hiểm cấy lúa lần 1. Năm 1985 khởi thảo bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh và bảo hiểm tai nạn lao động. Những năm sau một loạt các dịch vụ bảo hiểm mới cũng được Bảo Việt lần lượt tung ra thị trường như bảo hiểm xe cơ giới; bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt; bảo hiểm xây dựng - lắp đặt, bảo hiểm sinh mạng cá nhân Từ đầu năm 1986, Bảo Việt được phép tự hạch toán ngoại tệ, đây có thể coi như là một bước đột phá quan trọng cần thiết và thích ứng trong nền
  41. 35 kinh tế thị trường. Điều này đã tạo thêm cơ hội để Bảo Việt phát triển mạnh hơn nữa các dịch vụ bảo hiểm đối ngoại. Từ chỗ Bảo Việt gặp khó khăn về tài chính, nợ nước ngoài 2,5 triệu USD nhưng chỉ trong một thời gian ngắn đã trả hết nợ và có tích luỹ ngoại tệ. Sau khi có chính sách đổi mới nền kinh tế năm 1986, ngành bảo hiểm nước ta càng có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển. Đến cuối những năm 80, mạng lưới của Bảo Việt đã phủ khắp các tỉnh thành trên toàn quốc với các sản phẩm bảo hiểm trên thị trường phong phú đa dạng. Thấy rõ tầm quan trọng của hoạt động bảo hiểm trong giai đoạn mới và khả năng phát triển của Bảo Việt, ngày 17/12/1989, Bộ Tài chính đã ban hành quyết định số 27/TCQĐ chuyển Công ty bảo hiểm Việt Nam thành Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam; các chi nhánh và văn phòng đại diện của Bảo Việt tại các tỉnh và thành phố trở thành các công ty thành viên thuộc tổng công ty. Từ đây, vị thế mới của Bảo Việt được khẳng định, hoạt động bảo hiểm càng được phát triển sâu rộng trên khắp cả nước. Có thể khẳng định Bảo Việt là một tập đoàn bảo hiểm có tiềm năng về tài chính qua các thống kê về doanh thu như sau: Trong 20 năm đầu hoạt động (1965-1985) tổng doanh thu toàn ngành chỉ dừng ở con số 1136,4 triệu VNĐ; năm 1987 tổng doanh thu xấp xỉ 1 tỷ VNĐ; năm 1989 là gần 94 tỷ; đặc biệt là từ 1989 đến 1994 tốc độ tăng của doanh thu đạt 35-40%/năm. Số lượng người, tài sản và trách nhiệm dân sự được bảo hiểm tại Bảo Việt không ngừng tăng cao qua các năm. Từ năm 1991-1994, trung bình mỗi năm Bảo Việt đã bảo hiểm được trên 200 triệu lượt khách; trên 3,8 triệu người được bảo hiểm tai nạn; bảo hiểm tai nạn chỗ ngồi trên xe khách đạt trên 800.000 ghế; 850.000 người tham gia bảo hiểm nằm điều trị phẫu thuật; 650.000 người tham gia bảo hiểm sinh mạng cá nhân; bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho hơn 140.000 xe ôtô; tổng giá trị tài sản được bảo hiểm hoả hoạn
  42. 36 trên 17.000 tỷ đồng; tổng giá trị công trình được bảo hiểm xây lắp là trên 1,9 tỷ USD; 373 tầu biển và phà sông biển; hơn 23.000 tầu sông, tầu cá được bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tầu và 15.000 chiếc được bảo hiểm thân tầu; 39 máy bay của hãng hàng không quốc gia Việt Nam, Pacific Airline và của các công ty bay dịch vụ được bảo hiểm; 27 công trình thăm dò và khai thác dầu khí được bảo hiểm tại Bảo Việt; bảo hiểm cây lúa được tiến hành tại 11 tỉnh trong cả nước với diện tích là 76.000 ha. [3] Thị trường bảo hiểm Việt Nam từ khi hình thành đến trước Nghị định 100/CP là thị trường độc quyền nhưng đã đạt được những tiến bộ đáng kể, đã có đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước qua các giai đoạn đất nước còn khó khăn. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì thị trường trong giai đoạn còn nhiều hạn chế, là kết quả tất yếu của thị trường độc quyền. Thị trường tồn tại trong 30 năm song chỉ có duy nhất một doanh nghiệp độc quyền là Bảo Việt, mọi đơn vị sản xuất kinh doanh, tổ chức hay cá nhân muốn được bảo hiểm đều phải mua tại Bảo Việt. Nguyên nhân chính tạo nên sự độc quyền của thị trường là do cơ chế kinh tế tập trung bao cấp. Trên thực tế, các doanh nghiệp không có quyền tự chủ kinh doanh mà chỉ có nhiệm vụ thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch do nhà nước giao. Những chỉ tiêu kế hoạch này đôi khi chỉ mang tính chủ quan chứ không dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường, do vậy hậu quả là đã thủ tiêu sự chủ động của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, do nền kinh tế xã hội còn thấp kém, trình độ sản xuất còn lạc hậu, đời sống vật chất, tinh thần của người dân còn khó khăn nên bảo hiểm chưa trở thành nhu cầu tất yếu của cuộc sống vì vậy thị trường bảo hiểm cũng chưa được phát triển đa dạng và phong phú.
  43. 37 Cũng chính do sự độc quyền, không có cạnh tranh cho nên sản phẩm bảo hiểm trên thị trường không phát triển về số lượng và chất lượng. Trong thời gian này tuy tổng doanh thu phí bảo hiểm có tăng song con số vẫn còn còn rất nhỏ, sản phẩm bảo hiểm chỉ duy trì và phát triển ở một số lĩnh vực. Chính vì vậy đã kìm hãm sự phát triển nhu cầu bảo hiểm. Hơn thế nữa, thị trường vốn đã hạn hẹp lại còn phải tái bảo hiểm ra các công ty bảo hiểm nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa là cùng với việc tái bảo hiểm ra nước ngoài thì lại phải chi ngoại tệ ra nước ngoài trong khi không thu hút được cá nhân và người nước ngoài tham gia bảo hiểm nên không có nguồn thu ngoại tệ về. Tóm lại, trước khi Nghị định 100/CP được ban hành, ở Việt Nam chưa có một thị trường bảo hiểm theo đúng nghĩa của nó. Trong suốt gần 30 năm, chỉ có duy nhất Bảo Việt là doanh nghiệp độc quyền, nên đã kìm hãm sự phát triển và làm mất đi tính đa dạng, phong phú, và tính năng động của thị trường này. Có thể nói, trong giai đoạn này dịch vụ bảo hiểm chưa phát huy được vai trò tác dụng của mình đối với nền kinh tế xã hội và chưa đáp ứng đựoc nhu cầu bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh và của người dân. Thị trường bảo hiểm Việt Nam cần phải đổi mới và cải thiện. 2.1.2 Thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam từ sau khi có Nghị định 100/CP * Quy mô thị trƣờng dịch vụ bảo hiểm Bảng 2.1: Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau nghị định 100/CP (1993-2005) Các chỉ tiêu chủ yếu 1993 1996 1999 2002 2003 2004 2005 1.Kết cấu thị trƣờng Tổng số DNBH, MGBH 2 8 15 20 24 26 32 Doanh nghiệp phi nhân thọ 1 6 10 13 14 14 16 Doanh nghiệp nhân thọ 3 4 4 5 8 Doanh nghiệp tái bảo hiểm 1 1 1 1 1 1 Doanh nghiệp môi giới BH 1 1 1 2 5 6 7
  44. 38 2. Quy mô thị trƣờng BH 703 1.356 2.291 7.825 11.376 14.232 15.678 (tỷ đồng) Doanh thu phí BH (tỷ đồng) 700 1.264 2.091 6.692 10.390 12.400 13.663 + Phi nhân thọ 700 1.263 1.606 2.624 3.815 4.764 5.535 + Nhân thọ 1 485 4.368 6.575 7.363 8.128 Doanh thu đầu tư (tỷ đồng) 3 92 200 833 986 1.832 2.120 Đóng góp vào GDP (%) 0,37 0,49 0,57 1,46 1,86 2,00 2,03 +Phi nhân thọ 0,37 0,46 0,40 0,49 0,63 0,67 + Nhân thọ 0,12 0,81 1,09 1,07 + Hoạt động đầu tư 0,03 0,03 0,16 0,14 0,26 Phí bảo hiểm bình quân đầu người 10 17 27 88 125 152 (nghìn đồng) 3. Đóng góp vào ổn định KT-XH 120 809 1.494 4.949 5.977 8.095 Bồi thường và trả tiền BH (tỷ 120 760 789 1.400 1.814 2.465 đồng) Lập dự phòng nghiệp vụ (trích trong năm để đảm bảo trách nhiệm 149 705 3.549 1.463 5.630 23.696 đã cam kết) (tỷ đồng) 4. Đầu tƣ trở lại nền kinh tế 46 1.232 2.664 9.955 14.602 23.002 26.276 (tỷ đồng) 5. Năng lực tài chính ngành BH Tổng tài sản (tỷ đồng) 673 1.703 3.692 12.503 18.299 26.659 30.657 Tổng dự phòng nghiệp vụ (tỷ đồng ) 354 791 2.107 8.685 13.152 18.732 23.696 6. Giải quyết công ăn việc làm 1.000 7.000 30.000 76.600 125.700 136.900 140.000 (lao động và đại lý BH) (Nguồn: Thị trường BHVN-2004; NXB tài chính 2005 Số liệu năm 2005 theo Bộ Tài chính) Có thể thấy dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá cao so với tốc độ tăng trưởng GDP. Quy mô thị trường được phản ánh qua doanh thu phí trên thị trường bảo hiểm. Nếu năm 1993 tổng doanh thu phí bảo hiểm
  45. 39 trên thị trường mới chỉ đạt 700 tỷ đồng thì đến năm 2005 con số này tăng lên 13 663 tỷ tăng gấp hơn 19 lần. Nếu tính cả doanh thu từ đầu tư của quỹ bảo hiểm thì tổng doanh thu của ngành bảo hiểm lên tới 15 678 tỷ đồng. Năm 1993 phí bảo hiểm bình quân đầu người ở Việt Nam mới đạt 10.000 đồng thì năm 2005 con số này vào khoảng trên 164.000 đồng/ người. Năm 1993, ngành bảo hiểm Việt Nam đóng góp vào GDP mới chỉ 0,37% nhưng đến năm 2005 mức đóng góp vào GDP đã tăng lên tới 2%. Thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt song các doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò và vị trí của mình. Tổng doanh thu phí bảo hiểm của các doanh nghiệp nhà nước năm 2005 chiếm trên 50% tổng phí thu trên thị trường. Riêng Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt luôn dẫn đầu thị trường về doanh thu cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Cùng với sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam những năm qua, dịch vụ bảo hiểm Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, đạt doanh thu cao qua từng năm. Nhìn chung ngành bảo hiểm Việt Nam đang vượt qua những khó khăn thách thức, tận dụng tốt cơ hội tăng trưởng kinh tế của đất nước để phát triển, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm trong các lĩnh vực của nền kinh tế và có nhiều đóng góp vào việc huy động vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế xã hội. * Các hoạt động kinh doanh trên thị trƣờng Với trên 600 sản phẩm, thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam những năm qua rất sôi động, đa dạng và phong phú trên tất cả các lĩnh vực: * Bảo hiểm nhân thọ: Hoạt động bảo hiểm nhân thọ những năm qua rất sôi động. Chỉ riêng năm 2005:
  46. 40 - Phí bảo hiểm trực thu năm 2005 là 1 335 tỷ đồng, bằng 66% so với năm 2004, phí quy năm là 1 742 tỷ đồng, bằng 94% so với năm 2004. Doanh thu phí bảo hiểm đạt 8 128 tỷ đồng; - Tổng số tiền chi trả cho hợp đồng đáo hạn, bồi thường và giá trị hoàn trả kể cả bảo tức là 2 384 tỷ đồng tăng 64% so với năm 2004; - Số lượng đại lý bảo hiểm đến cuối năm 2005 là 91 734 người, bằng 96% so với năm 2004. Doanh thu năm 2005 tăng 5,5% so với năm 2004. Số lượng hợp đồng khai thác mới chỉ đạt 882.929, giảm 982.860 hợp đồng so với năm 2004. Số lượng hợp đồng có hiệu lực đén cuối kỳ chỉ đạt 5.102.751, bằng 78% năm 2004; có thể thấy năm 2005 là năm khó khăn với dịch vụ bảo hiểm nhân thọ. * Bảo hiểm phi nhân thọ Tăng trưởng 16,1% so với năm 2004. Dẫn đầu về doanh thu là Bảo Việt Việt Nam với 2.138 tỉ đồng (chiếm 38,64% thị phần), tiếp theo là Bảo Minh: 1.058 tỉ đồng (21,76% thị phần), Bảo hiểm Dầu khí: 711 tỉ đồng (13% thị phần), PJICO: 700 tỉ đồng (12,65% thị phần). Bảo hiểm xe cơ giới có doanh thu cao nhất: 1 603 tỷ đồng (29% doanh thọ), tiếp theo là bảo hiểm tai nạn con người: 952 tỷ đồng, bảo hiểm tàu thuỷ: 492 tỷ đồng, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển: 455 tỷ đồng, bảo hiểm xây dựng lắp đặt: 376 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng năm 2005 đã chậm hơn 2004 (22%) và chưa tương xứng, chưa khai thác tới 50% tiềm năng của nền kinh tế. Giá trị tài sản được bảo hiểm tăng 50% so với năm 2004 nhưng phí bảo hiểm chỉ tăng 16%. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp bảo hiểm đang cạnh tranh nhau gay gắt bằng cách hạ phí bảo hiểm, mở rộng điều khoản bảo hiểm, hạ thấp mức khấu trừ. Tỉ lệ bồi thường trên phí bảo hiểm là 37,8% (chưa kể phải dự phòng bồi thường cho những năm sau). Đặc biệt có tới 10/16 doanh nghiệp bảo hiểm phi
  47. 41 nhân thọ có tỉ lệ phí trên doanh thu thuần lớn hơn 40%. Nhiều loại bảo hiểm lâm vào tình trạng báo động đỏ vì tổn thất sẽ bị công ty nhận tái bảo hiểm quốc tế tăng phí bảo hiểm tàu thuỷ, bảo hiểm xe cơ giới. [14] * Tái bảo hiểm Hoạt động tái bảo hiểm liên tục phát triển, năm 2004, tổng mức phí giữ lại trong nước của thị trường chiếm 86,19% tổng phí bảo hiểm gốc. Phí bảo hiểm nhận tái từ thị trường nước ngoài tăng từ 38 tỷ VNĐ năm 2003 lên 61 tỷ VNĐ năm 2004. [1] Hoạt động tái bảo hiểm trong nước của các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm đã có đóng góp tích cực đến sự phát triển của dịch vụ bảo hiểm Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung, không những làm tăng mức phí bảo hiểm giữ lại của thị trường trong nước, hạn chế tình trạng chuyển ngoại tệ ra nước ngoàI mà còn là công cụ giúp nhà nước kiểm soát tình hình hoạt động và tình trạng tài chính cũng như khả năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tham gia bảo hiểm, góp phần duy trì mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp bảo hiểm gốc và doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm. * Môi giới bảo hiểm Trên thị trường dịch vụ môi giới bảo hiểm cũng rất sôi động, trong khi tổng phí bảo hiểm thu xếp được qua các công ty trong nước chiếm 16,23% tổng phí bảo hiểm thu xếp được qua môi giới (tỷ trọng của năm 2004 chỉ đạt 12,2 %) thì tổng số phí bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 83,77% tổng phí thu xếp. Đây là điều dễ hiểu bởi đây toàn là những tập đoàn môi giới bảo hiểm hàng đầu thế giới, có kinh nghiệm và có mạng lưới kinh doanh toàn cầu. Tổng phí bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm năm 2003 đạt 196 tỷ VNĐ, chiếm 5,14% tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ. Năm 2004, tổng phí bảo hiểm thu được qua môi giới bảo hiểm là 508 tỷ VNĐ,
  48. 42 chiếm 12,18% tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ. Năm 2005 tổng phí bảo hiểm thu được qua môi giới bảo hiểm đạt 908 tỷ đồng, tăng 57% so với năm 2004, chiếm 16,41 tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường của năm. Hoạt động môi giới bảo hiểm trong năm 2005 chủ yếu nhắm vào các nghiệp vụ như: bảo hiểm hàng không (27,34%), bảo hiểm tài sản và thiệt hại (24,63%), bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người (7,91%). Tiếp đó là các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm chung, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, riêng bảo hiểm nông nghiệp số phí thu xếp bằng không do vẫn chưa được các công ty môi giới bảo hiểm triển khai thực hiện. Trong năm 2005, Bộ tài chính cấp phép thành lập thêm một công ty cổ phần môi giới bảo hiểm, nâng tổng số công ty môi giới bảo hiểm chính thức hoạt động tại Việt Nam lên 7 công ty, gồm: 4 công ty cổ phần và 3 công ty 100% vốn nước ngoài. Aon Việt Nam tiếp tục dẫn đầu thị trường môi giới Việt Nam, chiếm 46,57% phí bảo hiểm thu xếp qua môi giới và xấp xỉ 36% tổng hoa hồng môi giới bảo hiểm. Công ty môi giới bảo hiểm Marsh Việt Nam, sau một năm chính thức đi vào hoạt động, xếp vị trí thứ 2 trên thị trường. [10] * Đại lý bảo hiểm Bên cạnh hoạt động môi giới bảo hiểm, một hoạt động mang tính chất trung gian trên thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam là hoạt động đại lý bảo hiểm cũng phát triển rất mạnh. Tính đến hết năm 2005 cả nước cơ trên 130 000 đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp hoạt động trên thị trường bảo hiểm trên cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, con số này năm 2004 là 125 155 đại lý. Hoạt động đại lý bảo hiểm ngày càng phát triển chuyên nghiệp hơn và khẳng định vai trò không thể thiếu trên thị trường bảo hiểm. * Cơ cấu thị trƣờng dịch vụ bảo hiểm Các doanh nghiệp bảo hiểm đang cung cấp dịch vụ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
  49. 43 Từ năm 2001 đến nay, Bộ Tài chính đã thực hiện phát triển dịch vụ bảo hiểm theo hướng đa dạng hoá các loại hình sở hữu bao gồm DNNN, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn ĐTNN nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm, thị trường bảo hiểm hoạt động an toàn, hiệu quả và có đủ năng lực cung cấp các dịch vụ có chất lượng, có tính cạnh tranh phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế. Bảng 2.2: Cơ cấu thị trường bảo hiểm theo loại hình doanh nghiệp Nhà Cổ Liên 100% vốn Loại hình DN Tổng cộng nƣớc phần doanh nƣớc ngoài Bảo hiểm phi nhân thọ 2 7 5 2 16 Bảo hiểm nhân thọ 1 1 6 8 Tái bảo hiểm 1 1 Môi giới bảo hiểm 4 3 7 Tổng cộng 3 12 6 11 32 (Nguồn: Tổng hợp từ Tạp chí Tài chính, T7/2005 và T3/2006 Thời báo kinh tế số 36- thứ Hai- ngày 20/2/2006) Có thể thấy rằng kể từ khi Nhà nước ta quyết định chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng. Từ chỗ chỉ có duy nhất một công ty bảo hiểm độc quyền này đã phát triển thành một thị trường với sự tham gia của 32 doanh nghiệp gồm: 3 doanh nghiệp nhà nước, 12 công ty cổ phần và 17 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam). Ngoài ra trên thị trường bảo hiểm Việt Nam còn có mặt trên 30 văn phòng đại diện của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài và tính đến hết năm 2005 đã có gần 130.000 đại lý bảo hiểm trong hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Sự có mặt các văn phòng đại diện và hoạt động mạng lưới đại lý rộng
  50. 44 khắp cả nước càng làm cho thị trường thêm sôi động, góp phần cải thiện môi giới trường đầu tư và tăng lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bảng 2.3: Danh sách các DNBH trên thị trường bảo hiểm Việt Nam DANH SÁCH CÁC DNBH TRÊN THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Ngày Vốn pháp Hình Lĩnh vực TT Tên Công ty thành định thức hoạt động lập Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam 568 tỷ BHNT, 1 1964 Nhà nước (BAO VIET) VNĐ BHPNT Công ty môi giới bảo hiểm AON- 250.000 2 1993 Liên doanh MGBH Inchinbroc USD 3 Công ty tái bảo hiểm quốc gia (VINARE) 1994 40 tỷ VNĐ Nhà nước TBH 4 Bảo Minh 1994 40 tỷ VNĐ Nhà nước BH PNT Công ty bảo hiểm cổ phần Petrolimex 5 1995 55 tỷ VNĐ Cổ phần BH PNT (PJICO) Công ty bảo hiểm cổ phần Nhà Rồng 6 1995 70 tỷ VNĐ Cổ phần BH PNT (Bảo Long) 7 Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC) 1996 20 tỷ VNĐ Nhà nước BH PNT Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế 6 triệu 8 1996 Liên doanh BH PNT Việt Nam (VIA) USD 9 Công ty bảo hiểm cổ phần bưu điện (PIT) 1998 70 tỷ VNĐ Cổ phần BH PNT 5 triệu 10 Công ty bảo hiểm liên hiệp (UIC) 1997 Liên doanh BH PNT USD 10 triệu 100% vốn 11 Công ty TNHH Manulife (Việt Nam ) 1999 BHNT USD nước ngoài 5 triệu 100% vốn 12 Allianz-AGF Việt Nam 1999 BHPNT USD nước ngoài Công ty Liên doanh bảo hiểm Việt- úc 4 triệu 13 1999 Liên doanh BH PNT (BIDV-QBE) USD Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Bảo 10 triệu 14 1999 Liên doanh BHNT Minh-CMG USD 14 triệu 100% vốn 15 Prudential UK 1999 BHNT USD nước ngoài 5 triệu 100% vốn 16 Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ – AIA 2000 BHNT USD nước ngoài Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp 5 triệu 100% vốn 17 2001 BH PNT Groupama Việt Nam USD nước ngoài 18 Công ty môi giới Việt Quốc 2001 6 tỷ VNĐ Cổ phần MGBH 19 Công ty Liên doanh TNHH bảo hiểm 2002 5 triệu Liên doanh BH PNT
  51. 45 Samsung – Vina USD Công ty Liên doanh TNHH bảo hiểm châu 6 triệu 20 2002 Liên doanh BH PNT á - Ngân hàng công thương USD Công ty Liên doanh giữa Incombank và Công 6 triệu 21 2002 Liên doanh BH PNT ty ASIA của Singapore (bảo Ngân) USD 300.000 100% vốn 22 Công ty môi giới bảo hiểm Gras Savoye 2002 MGBH USD nước ngoài 23 Công ty môi giới bảo hiểm Đại Việt 2003 4 tỷ VNĐ Cổ phần MGBH 24 Công ty môi giới bảo hiểm á Đông 2003 4 tỷ VNĐ Cổ phần MGBH 100 tỷ 25 Công ty Cổ phần bảo hiểm Viễn Đông 2004 Cổ phần BH PNT VNĐ 26 Công ty cổ phần bảo hiểm AAA 2005 80 tỷ VNĐ Cổ phần BH PNT Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ ACE 10 triệu 100% vốn 27 2005 BHNT (ACE Life) USD nước ngoài 10 triệu 100% vốn BHNT, 28 Tập đoàn Prévoir 2005 USD nước ngoài TBHNT 100% vốn 29 Tập đoàn Marsh Inc. 2005 MGBH nước ngoài Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ 20 triệu 100% vốn 30 2005 BHNT NewYork Life Vn USD nước ngoài Công ty môi giới bảo hiểm Thái Bình 100% vốn 31 2005 MGBH Dương nước ngoài Công ty Bảo hiểm Ngân hàng đầu tư phát 32 2005 Cổ phần PNT triển Việt Nam - BIC Nguồn: Bộ Tài chính Năm 2005, Bộ Tài chính cấp phép hoạt động cho các công ty bảo hiểm mới hoạt động bao gồm: Phi nhân thọ: Công ty AAA, Tập đoàn AIG (Mỹ), Nhân thọ: Prevoir (Pháp), ACE Life (Mỹ), New York Life (Mỹ) và môi giới bảo hiểm Thái Bình Dương. Đồng thời cũng cấp phép cho Groupama được mở rộng phạm vi kinh doanh sang hầu hết các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam mua lại phần vốn của QBE trong liên doanh bảo hiểm Việt Úc để thành lập Công ty Bảo hiểm Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam - viết tắt là BIC, Công ty QBE mua lại Allianz. Như vậy, toàn thị trường đã có 16 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 8 công ty bảo
  52. 46 hiểm nhân thọ, 1 công ty tái bảo hiểm, 7 công ty môi giới bảo hiểm với tổng số vốn điều lệ 4.608 tỉ đồng và 108,095 triệu USD. Tuy Luật kinh doanh bảo hiểm có quy định hình thức Công ty bảo hiểm tương hỗ song mãi tới ngày 24/02/2005, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 18/2005/NĐ-CP quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Đây là loại hình hoạt động rất mới ở Việt Nam và lần đầu tiên được đưa vào áp dụng. Công ty bảo hiểm tương hỗ do một nhóm người thành lập nên với mục đích bảo hiểm lẫn nhau. Vốn thành lập công ty do các thành viên đóng góp bằng cách nộp phí bảo hiểm cao hơn mức cần thiết để chi trả tổn thất và chi phí quản lý. Nói cách khác, các thành viên trong công ty bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu công ty đồng thời vừa là khách hàng. Đây là một hình thức cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho một vài nhóm đặc biệt. Ví dụ, có những rủi ro rất đặc biệt mà không công ty bảo hiểm nào muốn bảo hiểm như bảo hiểm sản xuất nông nghiệp tại những vùng hẻo lánh. trong trường hợp đó nông dân ở vùng hẻo lánh đó có thể tập hợp lại với nhau, thành lập một công ty bảo hiểm để bảo hiểm lẫn nhau. Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam Công ty bảo hiểm Liberty Mutual có văn phòng đại diện tại Hà Nội thăm dò loại hình bảo hiểm này. Từ một công ty nhỏ thành lập năm 1912, đến nay Liberty Mutual đã phát triển thành một trong những công ty bảo hiểm lớn nhất tại Mỹ. 2.2 Các sản phẩm bảo hiểm hiện có trên thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam Như chúng ta đã biết, sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm đặc biệt, đây là loại sản phẩm vô hình và không được bảo hộ bản quyền, là loại sản phẩm mà người mua không bao giờ muốn nó xảy ra với mình để được thực hiện quyền đòi bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Người mua sản phẩm bảo hiểm chỉ với mục đích đề phòng khi sự kiện được bảo hiểm xảy ra nhằm đảm
  53. 47 bảo an toàn về mặt tài chính, ổn định được quá trình sản xuất kinh doanh cũng như đời sống sinh hoạt xã hội. Có thể phân loại bảo hiểm theo cách thông thường là: - Bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm con người - Bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm - Bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc - Bảo hiểm riêng, bảo hiểm chung và bảo hiểm trùng Hiện nay, các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đã tung ra thị trường một số lượng rất lớn các sản phẩm bảo hiểm. Có thể nói, hầu hết các sản phẩm bảo hiểm hiện có trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đều do Luật kinh doanh bảo hiểm quy định và do các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm thiết kế và trình lên bộ tài chính và được Bộ tài chính phê duyệt. Có thể phân loại sản phẩm bảo hiểm hiện đang được cung cấp trên thị trường Việt Nam thành một số loại chính như sau: 2.2.1 Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết. Bảo hiểm nhân thọ có thể dành cho cá nhân hoặc cho khách hàng nhóm. Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các loại sản phẩm nhân thọ chủ yếu gồm: Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất cứ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. Một phần của phí bảo hiểm được tích luỹ lại dưới hình thức tiền tiết kiệm và được quản lý theo mục quỹ dự phòng phí. Khách hàng tham gia bảo hiểm có thể sử dụng quỹ dự phòng chi phí của mình theo một vài chọn lựa nhất định. Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời
  54. 48 hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Thông thường, Người thụ hưởng chính là người được bảo hiểm. Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ. Đơn bảo hiểm hỗn hợp cam kết chi trả quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp hoặc người được bảo hiểm sống hết hạn hợp đồng, hoặc người được bảo hiểm qua đời trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực. Giống như bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp cung cấp sự đảm bảo cho người được bảo hiểm trong một thời hạn nhất định. Thêm vào đó, bảo hiểm hỗn hợp cũng có yếu tố tiết kiệm giống như bảo hiểm trọn đời. Bảo hiểm trả tiền định kỳ hay một số công ty bảo hiểm còn gọi với thuật ngữ là “Niên kim”. Nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ thiết kế và tung ra thị trường những đơn bảo hiểm cam kết chi trả những khoản thu nhập cho người được bảo hiểm theo định kỳ đều đặn, đặc biệt là thu nhập khi nghỉ hưu. Đó là những chương trình niên kim nhân thọ. Thuật ngữ niên kim trong bảo hiểm hiểm có nhiều nghĩa. Nghĩa thứ nhất, niên kim là những khoản chi trả theo định kỳ đều đặn, thường là một năm một lần. Chẳng hạn, khi sự kiện bảo hiểm thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ có trách nhiệm chi trả quyền lợi bảo hiểm. Quyền lợi bảo hiểm có thể được chi trả dưới dạng những khoản tiền niên kim đều đặn hàng năm trong suốt nhiều năm thay vì chi trả một lần toàn bộ số tiền cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Theo nghĩa thứ hai, niên kim cũng có thể hiểu là một hợp đồng bảo hiểm mà theo đó, công ty bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền nhất
  55. 49 định theo định kỳ cho người hưởng quyền lợi với điều kiện người tham gia phải hoàn thành nghĩa vụ đóng các khoản phí của mình. Ngoài ra, Luật kinh doanh bảo hiểm còn quy định các loại nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ khác do Chính phủ quy định. 2.2.2 Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ Luật kinh doanh bảo hiểm quy định 12 nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ (điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam) như sau: a) Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tại nạn con người Bảo hiểm sức khoẻ gồm hai dạng chính là: - Bảo hiểm chi phí y tế: Đơn bảo hiểm chi phí y tế chi trả quyền lợi bảo hiểm theo chi phí điều trị khi người được bảo hiểm bị ốm hoặc bị thương tật. - Bảo hiểm trợ cấp thương tật: Đơn bảo hiểm này chi trả quyền lợi bảo hiểm nhằm bù đắp những mất mát về thu nhập của người được bảo hiểm trong trường hợp người này không còn khả năng lao động do ốm đau hoặc thương tật. Bảo hiểm tai nạn con người được chia thành các loại bảo hiểm tai nạn bất ngờ thông thường, bảo hiểm tai nạn hành khách và bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp. b) Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại Bảo hiểm tài sản hiểu theo nghĩa hẹp có nghĩa là loại bảo hiểm tiến hành với đối tượng bảo hiểm là tài sản của xí nghiệp hoặc của gia đình. Bảo hiểm tài sản hiểu theo nghĩa rộng (hay còn được gọi là bảo hiểm thiệt hại) là loại bảo hiểm tiến hành với đối tượng bảo hiểm là những vật hoặc lợi ích của các tài sản khác. c) Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường không là loại bảo hiểm tiến hành đối với đối tượng bảo
  56. 50 hiểm là các loại hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Loại bảo hiểm này lại có thể chia thành các loại bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, bảo hiểm phương tiện vận chuyển và bảo hiểm những quyền lợi có liên quan (ví dụ như cước phí vận chuyển). d) Bảo hiểm hàng không; đ) Bảo hiểm xe cơ giới; e) Bảo hiểm cháy, nổ; f) Bảo hiểm thân tầu và trách nhiệm dân sự của chủ tầu: g) Bảo hiểm trách nhiệm chung; h) Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; k) Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; l) Bảo hiểm nông nghiệp. - Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển * Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ * Phân loại theo đối tượng bảo hiểm thì chúng ta có ba loại sản phẩm: - Sản phẩm bảo hiểm con người - Sản phẩm bảo hiểm tài sản - Sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm Trên cơ sở những sản phẩm bảo hiểm trên, các công ty bảo hiểm thiết kế và đưa ra những sản phẩm mang đặc trưng riêng của mình, phù hợp với từng nhóm khách hàng, góp phần làm đa dạng hoá thị trường. Chính vì vậy mà hiện nay trên thị trường dịch vụ bảo hiểm có trên 600 sản phẩm khác nhau. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm đang cung cấp dịch vụ trên thị trường vẫn không ngừng nghiên cứu và đưa ra thị trường các sản phẩm bảo hiểm mới đáp ứng đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của người mua bảo hiểm. [21]
  57. 51 2.3 Môi trƣờng pháp lý cho hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm Việt Nam 2.3.1 Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam Cho tới năm 2000, tuy đã có nhiều bước tiến quan trọng trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm, song hệ thống văn bản pháp quy vẫn chưa tạo được môi trường pháp lý toàn diện, đầy đủ và vững chắc với hiệu lực cao, chưa đáp ứng được việc khai thác tiềm năng của thị trường bảo hiểm. Trong điều kiện mở cửa thị trường bảo hiểm sẽ phát triển với tốc độ cao, trong khi đầu tư nước ngoài vào trong nước tăng nhanh, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, hệ thống pháp luật về bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế trong tiến trình Việt Nam đã gia nhập ASEAN và đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Từ đó, qua nhiều lần sửa đổi bổ sung bản dự thảo Luật kinh doanh bảo hiểm, ngày 09/12/2000 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/04/2001 bao gồm 9 chương và 129 điều. Luật này được xây dựng trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện các văn bản pháp quy trước đó về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tham khảo kinh nghiệp và thực tiễn lập pháp của các nước Châu Âu và các nước trong khu vực. Ngày 01/08/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 42/CP và 43/CP hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm. 2.3.2 Các văn bản pháp luật khác có liên quan 2.3.2.1 Hệ thống văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động kinh doanh bảo hiểm: . Trước khi có Luật kinh doanh bảo hiểm  Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm hiểm có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1994. Nghị định có một số nội dung chủ yếu sau:
  58. 52 Chương I: Những điều quy định chung Chương II: Nội dung, phạm vi hoạt động kinh doanh bảo hiểm Chương III: Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm Chương IV: Giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm Chương V: Xử lý vi phạm  Nghị định 74/CP ngày 14/6/1997 về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.  Nghị định 115/CP ngày 17/12/1997 về chế độ bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới.  Thông tư số 45 TC/CĐTC ngày 30/05/1994 của Bộ Tài chính quy định chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm.  Thông tư số 174/1998/TT-BTC ngày 24/12/1998 hướng dẫn áp dụng thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.  Thông tư số 179/1998/TT-BTC ngày 26/12/1998 hướng dẫn áp dụng kế toán thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.  Thông tư số 144/TT/BTC ngày 13/12/1999 quy định chế độ hoa hồng bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra còn một số thông tư hướng dẫn việc thi hành các nghị định và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh bảo hiểm như Thông tư 46/TC/CĐTC ngày 30/5/1994, hướng dẫn thi hành Nghị định 100/CP; Thông tư 5/TC/CĐTC ngày 30/5/1994, quy định chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm; Thông tư 76/TC/CĐTC ngày 25-10-1994, quy định chế độ hoa hồng bảo hiểm Trên đây là một số văn bản pháp lý chính, ngoài ra còn một số văn bản pháp lý khác điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm. . Sau khi có Luật kinh doanh bảo hiểm
  59. 53  Luật kinh doanh bảo hiểm, có hiệu lực từ ngày 01/04/2001: là văn bản có tính chất pháp lý cao nhất điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.  Nghị định 42/2001/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 16/08/2001: Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm. Nghị định đã quy định cụ thể hơn việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, hoạt động đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm trong và ngoài nước.  Nghị định 43/2001/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 16/08/2001: Quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Nghị định đã quy định cụ thể về mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm, môI giới bảo hiểm; về các quỹ dự phòng nghiệp vụ; về nguồn và lĩnh vực đầu tư vốn; về khả năng thanh toán; về doanh thu và chi phí; về chế độ kế toán thống kê.  Thông tư số 71/2001/TT-BTC, có hiệu lực từ ngày 16/08/2001: Hướng dẫn thi hành Nghị định 42/2001/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm. Thông tư đã quy định cụ thể thủ tục về hồ sơ, việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Quy định cụ thể các mẫu đơn, mẫu giấy phép liên quan việc thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm.  Thông tư số 72/2001/TT-BTC, có hiệu lực từ ngày 16/8/2001: Hướng dẫn thi hành chi tiết Nghị định 43/2001/NĐ-CP quy định chế độ tàI chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môI giới bảo hiểm. Thông tư đã quy định cụ thể doanh thu, chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm. Thông tư cũng đưa ra các biểu mẫu báo cáo của doanh nghiệp bảo hiểm để báo cáo Bộ tài chính.  Nghị định số 18/2005/NĐ-CP ngày 24/02/2005 của Chính phủ về quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ.
  60. 54  Nghị định 118/2003/NĐ-CP ngày 13/10/2003 của Chính phủ về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.  Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/08/2003 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003-2010”.  Thông tư số 111/2005/TT-BTC ngày 13/12/2005 hướng dẫn về thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. 2.3.2.2 Hệ thống văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm: Bên cạnh các quy định điều chỉnh trực tiếp hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì hoạt động bảo hiểm còn chịu sự điều chỉnh của một số luật có liên quan như:  Bộ Luật Dân sự số 33/2005/QH 11 ngày 14/06/2005 chương XVIII mục 11, Đ567-Đ580 quy định về các loại hợp đồng bảo hiểm, hình thức hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, nghĩa vụ của bên được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm  Luật Doanh nghiệp nhà nước số 14/2203/QH 11 ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004 điều chỉnh các mối quan hệ tổ chức, quản lý, chế độ tài chínhcủa các doanh nghiệp Nhà nước.  Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH 10 ngày 14/06/1999: điều chỉnh các môi quan hệ tổ chức, quản lý, chế độ tài chính của các doanh nghiệp phi nhà nước như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.  Bộ Luật Hàng hải được Quốc hội khoá VIII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30/6/1990 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1991. Bộ luật hàng hải được sửa đổi, bổ sung bằng bộ Luật hàng hải số 40/2005/QH11 được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006.
  61. 55 Ngoài những nội dung chủ yếu, trong bộ luật giành riêng chương XVI, từ điều 224 đến Điều 257 quy định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm hàng hải và các vấn đề có liên quan như: giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, chuyển nhượng quyền theo hợp đồng bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm bao, thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hải, chuyển quyền đòi bồi thường, từ bỏ đối tượng bảo hiểm và giải quyết bồi thường.  Bộ Luật Hàng không dân dụng Việt Nam ngày 14/01/1992 và Luật Hàng không dân dụng sửa đổi bổ sung ngày 20/4/1995. Điều 21, Điều 72, Điều 93 có quy định về bảo hiểm như: giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ hàng không khi tham gia bảo hiểm bắt buộc; hay nghĩa vụ phải mua bảo hiểm tới mức giới hạn trách nhiệm dân sự của người vận chuyển, người khai thác dịch vụ.  Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/11/1996 và Luật Đầu tư nước ngoài bổ sung, sửa đổi ngày 09/6/2000. Điều 28 chương 4 có quy định: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hoặc tại doanh nghiệp bảo hiểm khác được phép hoạt động ở Việt Nam ”.  Luật Dầu khí ngày 19/7/1993 và Luật dầu khí bổsung sửa đổi ngày 09/6/2000 liên quan đến trách nhiệm mua bảo hiểm của Công ty dầu khí (Điều 7, chương 2). Thông tư số 05/1998/TT-BTS ngày 29/12/1998 của Bộ Thuỷ sản hướng dẫn thi hành Nghị định số 72/1998/NĐ-CP về đảm bảo an toàn cho người và phương tiện nghề cá hoạt động trên biển. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm còn tuân thủ các Điều ước, luật pháp quốc tế liên quan trong quá trình giao dịch tái bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. [21]
  62. 56 2.4 Những vấn đề rút ra qua thực trạng của dịch vụ bảo hiểm Việt Nam 2.4.1 Những ƣu điểm và hạn chế của dịch vụ bảo hiểm Việt Nam 2.4.1.1 Những ƣu điểm * Dịch vụ bảo hiểm tăng trưởng và phát triển lành mạnh, vững chắc Trong những năm gần đây, dịch vụ bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng khá cao đặc biệt là trong giai đoạn 2001-2005, mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 43%/năm. Theo đánh giá của Bộ tài chính cho thấy, năm 2005 là năm mà thị trường bảo hiểm Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá cao so với tốc độ tăng GDP. Nếu tổng doanh thu phí bảo hiểm trên thị trường mới chỉ đạt 700 tỷ đồng năm 1993 thì con số này năm 2005 đã tăng lên gấp 19 lần. Trong năm 2005, tổng số hợp đồng khai thác mới đạt 820.000 hợp đồng, tăng 26.000 hợp đồng tức là tăng 3,27% so với năm 2004. Tổng doanh thu toàn ngành đạt 15.678 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,03% GDP. Trong đó doanh thu phí bảo hiểm hiểm đạt 13.558 tỷ đồng, doanh thu từ hoạt động đầu tư đạt 2.120 tỷ đồng. Năm 1993, phí bảo hiểm bình quân đầu người ở Việt Nam mới đạt 10.000 đồng thì đến năm 2005 con người số này đã lên tới 163.000 đồng/người. Cơ cấu tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trong GDP cũng tăng lên rõ rệt, năm 1993 chiếm 0,37% GDP, thì năm 2000 là 0,78%, năm 2003 tăng lên 1,86%, năm 2004 đạt 2,0% và năm 2005 toàn ngành đã đóng góp vào GDP 2,03%.[1] Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, đạt doanh thu cao qua từng năm. Nhìn chung toàn ngành bảo hiểm Việt Nam đã vượt qua thách thức, biến động của nền kinh tế xã hội, tận dụng tốt các cơ hội tăng trưởng kinh tế của đất nước những năm qua để phát triển, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm hiểm cơ bản trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, dịch vụ và đầu
  63. 57 tư nước ngoài và có nhiều đóng góp vào việc huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. * Dịch vụ bảo hiểm Việt Nam hứa hẹn tiềm năng phát triển rất lớn Lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Thứ nhất là, mỗi năm nhà nước đầu tư trên 200.000 tỷ đồng, bình quân đầu tư nước ngoài là 1,5 tỷ USD, chưa kể đến ODA vào xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu đô thị ở các địa phương. Chỉ tính riêng năm 2006 ước tính vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5,83 tỉ USD và vốn ODA đạt 3,74 tỉ USD của năm 2005 sẽ được tiếp tục thực hiện vào năm 2006; mở ra tiềm năng cho bảo hiểm kỹ thuật, xây dựng và lắp đặt. Thứ hai là, Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 đều quy định các doanh nghiệp phải mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển sản phẩm của mình. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng trên 8% năm trong đó có nhiều lĩnh vực tăng trưởng mạnh như: đóng tàu, du lịch, hàng không, XNK tạo cho bảo hiểm tăng trưởng mạnh. Thứ ba là, sang năm 2006, đồng thời với việc xoá bỏ hạn chế đăng ký xe máy ở nội thành Hà Nội, nhà nước giảm thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế nhập khẩu xe ôtô mới và cho phép nhập khẩu ôtô cũ cũng sẽ là tiềm năng phát triển bảo hiểm xe cơ giới. Bên cạnh đó là việc áp dụng quy định mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của người kinh doanh vận tải hành khách, hàng hoá dễ cháy nổ trên đường thuỷ nội địa. Đây được xem như là cơ hội tốt để các doanh nghiệp bảo hiểm khai thác thị trường và đưa tốc độ tăng trưởng nghiệp vụ bảo hiểm hiểm cháy nổ vượt hơn mức 15,32% như của năm 2005. Đối với hoạt động du lịch, việc mua bảo hiểm bắt buộc đối với người du lịch lữ hành quốc tế đã có khung pháp lý để phát triển khi Luật du lịch có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 và Nghị định Chính phủ hướng dẫn về du lịch lữ hành sẽ được ban hành trong thời gian tới. [9]
  64. 58 Lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Việt Nam với dân số trên 83 triệu người lại đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao trong khu vực trên mọi ngành: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đầu tư chắc chắn là cơ hội lý tưởng cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo hiểm bởi quy mô dân số sẽ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến dung lượng thị trường. Đây là điều mà bất kỳ nhà kinh doanh nào cũng phải quan tâm. Bên cạnh đó, những năm gần đây thu nhân thập của người dân lao động trong xã hội không ngừng được cải thiện. Đi đôi với việc đời sống nhân dân được nâng cao thì trình độ dân trí và nhận thức của đại đa số tầng lớp dân cư đã có sự thay đổi rõ rệt. Cho đến nay, khái niệm “bảo hiểm” không còn xa lạ với người dân trong xã hội. Trong sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống sinh hoạt xã hội, người ta rất quan tâm tới sự an toàn vì vậy cả người dân và các doanh nghiệp đều thấy được sự cần thiết phải mua bảo hiểm cho hoạt động của mình. Do vậy chắc chắn là thị trường bảo hiểm lớn và sôi động đang mở ra cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Có thể nói rằng, thị trường Việt Nam sẽ cung cấp cho các nhà kinh doanh dịch vụ bảo hiểm một lượng khách hàng tiềm năng và dồi dào, đa dạng. Thực tế cho thấy nhu cầu bảo hiểm trên thị trường tăng nhanh qua từng năm. Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ năm 2005 tăng gấp gần 3,5 lần so với năm 1999 và gấp 7,9 lần so với năm 1993; doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ năm 2005 tăng gấp 16,5 so với năm 1999. Những năm qua dịch vụ bảo hiểm là một trong số những ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế. Sức hấp dẫn của thị trường bảo hiểm đã cuốn hút sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, nếu năm 1993 chỉ có Bảo Việt thì đến hết năm 2005 đã có 32 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường. Không chỉ có tiềm năng khách hàng lớn mà thị trường bảo hiểm Việt Nam còn là nơi có một lực lượng lao động dồi dào cho ngành bảo hiểm. Các