Luận án Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam trong hội nhập quốc tế

pdf 171 trang vanle 2550
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam trong hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_thi_truong_chung_khoan_viet.pdf

Nội dung text: Luận án Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam trong hội nhập quốc tế

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI KIM THANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2015
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI KIM THANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 62 34 04 10 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS TRẦN MINH TUẤN 2. TS NGÔ HOÀI ANH HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ÐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học trong luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày tháng năm Tác giả luận án Bùi Kim Thanh
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN 6 ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về quản lý nhà nước đối 6 với thị trường chứng khoán 1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước nước về quản lý nhà nước 11 đối với thị trường chứng khoán 1.3. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo và vấn đề 20 đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 25 ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2.1. Những vấn đề chung về thị trường chứng khoán 25 2.2. Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán 33 2.3. Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở một số nước và 51 bài học cho Việt Nam Chương 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ 73 TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 3.1. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển và hội nhập của thị trường 73 chứng khoán Việt Nam 3.2. Hội nhập quốc tế và những tác động đặt ra đối với quản lý nhà 78 nước về thị trường chứng khoán 3.3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt 83 Nam trong hội nhập quốc tế 3.4. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với thị trường chứng 111 khoán Việt Nam những năm qua Chương 4: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ 120 TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 4.1. Cơ hội, thách thức và chiến lược phát triển thị trường chứng khoán 120 Việt Nam trong hội nhập quốc tế 4.2. Giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với thị trường chứng 131 khoán Việt Nam trong hội nhập quốc tế KẾT LUẬN 148 CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN 151 ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT CK : Chứng khoán CK & TTCK : Chứng khoán và thị trường chứng khoán CPH : Cổ phần hóa CTCK : Công ty chứng khoán CTCP : Công ty cổ phần CTNY : Công ty niêm yết CTQLQ : Công ty quản lý quỹ DN : Doanh nghiệp DNNY : Doanh nghiệp niêm yết ĐKGD : Đăng ký giao dịch : ĐTCK DNNNĐầu tư chứng khoán ĐTNN : Đầu tư nước ngoài GDCK : Giao dịch chứng khoán ‘HNQT : Hội nhập quốc tế IOSCO : Tổ chức quốc tế các ủy ban chứng khoán KDCK : Kinh doanh chứng khoán KTTT : Kinh tế thị trường HNQT LKCK : Lưu ký chứng khoán NĐT : Nhà đầu tư NHNN : Ngân hàng nhà nước NYCK : Niêm yết chứng khoán PHCK : Phát hành chứng khoán QLNN : Quản lý nhà nước SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán TCNY : Tổ chức niêm yết TTCK : Thị trường chứng khoán TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán TTLKCK : Trung tâm lưu ký chứng khoán WTO : Tổ chức thương mại thế giới
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Các tiêu chí đánh giá nội dung quản lý thị trường chứng khoán 46 Bảng 3.1: Cam kết cụ thể trong lĩnh vực chứng khoán 80 Bảng 3.2: Quy mô số lượng công ty niêm yết của thị trường chứng khoán 90 Việt Nam giai đoạn 2006-2013 Bảng 3.3: Kết quả so sánh hoạt động quản trị công ty năm 2009 và 2010 95 Bảng 3.4: Tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán năm 2013 98 Bảng 3.5: Thống kê số liệu về các trường hợp vi phạm đã bị xử phạt năm 110 2009-2010 Bảng 4.1: Kinh tế thế giới giai đoạn 2014 - 2015, triển vọng giai đoạn 2016 - 2020 121 DANH MỤC CÁC BIỂU Trang Biểu đồ 2.1: Mức độ cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường 38 chứng khoán Việt Nam Biểu đồ 3.1: Vốn hóa thị trường/GDP (%) của thị trường chứng khoán Việt 77 Nam giai đoạn 2000-2013 Biểu đồ 4.1: GDP theo đóng góp của vốn, lao động và TFP 126 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Trang Sơ đồ 2.1: Mô hình quản lý thị trường chứng khoán Mỹ 52 Sơ đồ 2.2: Mô hình giám sát hai cấp của thị trường chứng khoán Mỹ 56 Sơ đồ 2.3: Mô hình quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán của 63 Thái Lan Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thị trường 84 chứng khoán Việt Nam Sơ đồ 3.2: Mô hình quản lý các tổ chức tự quản trên thị trường chứng 87 khoán Việt Nam
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK) đã chứng minh: giữa TTCK và tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sự phát triển bền vững, hiệu quả của TTCK tạo cơ sở để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại. Cùng với các thị trường khác như thị trường tín dụng ngân hàng TTCK là thành tố quan trọng của hệ thống tài chính; là một thể chế bậc cao và không thể thiếu của kinh tế thị trường hiện đại. Sự phát triển và hoàn thiện của TTCK sẽ góp phần tạo nên một thị trường tài chính hoàn chỉnh, phục vụ hiệu quả các hoạt động kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, Chính phủ nước ta đã tiến hành hàng loạt các bước chuẩn bị và đến tháng 7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) ở nước ta đã chính thức ra đời và đi vào hoạt động, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam. Đây cũng là sự kiện ghi nhận bước phát triển quan trọng trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đến nay, sau 15 năm hoạt động, quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Song từ sau năm 2008 đến nay, TTCK Việt Nam diễn biến khá phức tạp và có nhiều tác động bất lợi đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Bất chấp các biện pháp "giải cứu" của Nhà nước cũng như các tín hiệu tích cực khác, TTCK vẫn tiếp tục đà lao dốc với những diễn biến bất thường, khó kiểm soát: năm 2009, mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18%; năm 2011, TTCK chứng kiến mức đáy sâu nhất trong lịch sử của HNX-Index tại mức 56 điểm (27-12-2011), giảm 50% so với mức đỉnh trong năm và VN-Index cũng chính thức ghi nhận mức đáy 347 điểm. Cùng với những chuyển biến của TTCK Việt Nam thời gian qua, công tác QLNN đối với thị trường này cũng có những bước tiến đáng kể, trong đó phải kể
  8. 2 đến những động thái hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tạo lập hành lang pháp lý, tạo hàng hóa cho thị trường, xây dựng và chuyển đổi mô hình hoạt động của UBCKNN với Sở Giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch chứng khoán tại Hà Nội (HNX), thành lập Trung tâm Lưu ký chứng khoán (TTLKCK) v.v Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp quan trọng vào quá trình hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam, đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thì hoạt động QLNN đối với TTCKVN vẫn còn có những yếu kém nhất định, chưa theo kịp với những động thái trên thị trường, tổ chức bộ máy quản lý TTCK đã tỏ rõ những bất cập, khung pháp lý chưa đồng bộ, giám sát hoạt động chưa hiệu quả, thiếu minh bạch, mua bán chứng khoán thông qua các thông tin nội gián còn nhiều, nguyên tắc công khai chưa được tuân thủ một cách triệt để Tất cả những tồn tại đó đã làm chậm tiến trình phát triển của TTCK Việt Nam và có nguyên nhân đặc biệt quan trọng từ vai trò quản lý của Nhà nước. Xuất phát từ thực tế đó và với mong muốn góp phần khắc phục những hạn chế trên, tôi đã chọn vấn đề "Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam trong hội nhập quốc tế" làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục tiêu Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN đối với TTCK; khảo sát, phân tích thực trạng QLNN đối với TTCK Việt Nam giai đoạn 2000-2015 (đặc biệt kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay), từ đó đề xuất giải pháp tăng cường QLNN đối với TTCK Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (xét đến năm 2020) đảm bảo tính ổn định, hiệu quả. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về TTCK và QLNN đối với TTCK, hệ thống hoá và xác định rõ các nội dung, tiêu chí QLNN đối với TTCK; + Trên cơ sở khảo sát và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong QLNN đối với TTCK của một số quốc gia trên thế giới (chú trọng nghiên cứu một số trường hợp điển hình và các nước có điều kiện tương đồng như Việt Nam), Luận án rút ra những bài học có thể tham khảo đối với Việt Nam;
  9. 3 + Thông qua nghiên cứu thực tiễn phát triển TTCK Việt Nam thời gian qua, đánh giá tác động của HNQT đến QLNN đối với TTCK cũng như qua việc đánh giá thực trạng QLNN đối với TTCK ở nước ta giai đoạn 2000-2015, Luận án rút ra những thành công, hạn chế và yếu kém trong QLNN đối với TTCK Việt Nam làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp trong chương 4; + Trên cơ sở cơ hội, thách thức và chiến lược phát triển của TTCK Việt Nam trong HNQT, Luận án đề xuất giải pháp tăng cường QLNN đối với TTCK Việt Nam tới năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung, chính sách, tổ chức quản lý của nhà nước đối với TTCK Việt Nam thời gian qua xét trên phương diện các chủ thể tham gia trên TTCK (QLNN đối với tổ chức phát hành, tổ chức trung gian thị trường, NĐT và QLNN đối với thị trường thứ cấp), chú trọng đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với TTCK kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên WTO. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt thời gian: nghiên cứu QLNN đối với TTCK Việt Nam kể từ khi TTCK chính thức được thành lập (năm 2000) tới năm 2015, đặc biệt chú trọng thời điểm từ khi Việt Nam gia nhập WTO (tháng 11/2006) đến nay. - Về mặt không gian: nghiên cứu QLNN đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, được giới hạn ở Sàn Giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh và Sàn Giao dịch chứng khoán Hà Nội. - Về mặt nội dung: + Thứ nhất, nghiên cứu QLNN đối với TTCK dưới góc độ quản lý chủ thể gồm: quản lý các tổ chức phát hành, tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán, nhà đầu tư, các tổ chức có liên quan trên TTCK (đơn vị quản lý và tổ chức phụ trợ) không nghiên cứu QLNN theo các nghiệp vụ của TTCK và chức năng quản lý của nhà nước. + Thứ hai, TTCK được nghiên cứu trong luận án chỉ gồm thị trường giao dịch cổ phiếu tập trung, không đề cập đến thị trường trái phiếu hay TTCK phi tập trung, thị trường giao dịch tương lai
  10. 4 4. Phương pháp nghiên cứu Nhằm đảm bảo tính khoa học và thực tiễn trong từng phần của nội dung nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp các phương pháp khác nhau và trong từng giai đoạn nghiên cứu sẽ vận dụng phương pháp thích hợp nhất, có kế thừa các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước làm cơ sở cho việc lý luận. - Phương pháp thống kê, tổng hợp và phân tích số liệu dựa trên các tư liệu thực tế: Đối với Luận án, nguồn số liệu thống kê thứ cấp được thu thập chủ yếu từ cơ quan quản lý như: Ủy ban Chứng khoán nhà nước, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội Ngoài ra, luận án còn kế thừa số liệu nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Từ những số liệu và tài liệu đã được thống kê, sẽ phân tích, tổng hợp để tìm ra nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và xu hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu trong tương lai; từ đó đề xuất được những biện pháp thích hợp và hiệu quả. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng phương án này để so sánh hiện trạng công tác quản lý của Nhà nước Việt Nam đối với TTCK trong tương quan một số nước, cũng như trong giai đoạn trước đó. - Phương pháp khảo sát điều tra: Đối tượng nghiên cứu của đề tài có nội dung rộng, liên quan đến nhiều bộ ngành cũng như các doanh nghiệp. Vì vậy, để tăng tính thực chứng cho nội dung và nhận định nghiên cứu của luận án, tác giả sử dụng bảng hỏi, gồm 11 câu với 427 phiếu hợp lệ và sử dụng phần mềm SPSS để cập nhật, phân tích thông tin. 5. Đóng góp mới của luận án - Một là, góp phần hệ thống hóa, hoàn thiện cơ sở lý luận về TTCK và QLNN đối với TTCK (tiệm cận dưới góc độ QLNN đối với chủ thể tham gia trên TTCK), đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; chỉ ra các tác động của HNQT tới QLNN đối với TTCK Việt Nam. - Hai là, trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của quốc tế trong QLNN đối với TTCK (qua điển hình Mỹ, Trung Quốc và Thái Lan), luận án rút ra 04 bài học kinh nghiệm cần thiết cho Việt Nam trong quản lý TTCK trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
  11. 5 - Ba là, cung cấp một cách nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về QLNN đối với TTCK Việt Nam thời gian qua (đặc biệt là kể từ tháng 11/2006 - thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO) trên các bình diện: tổ chức bộ máy quản lý, tạo lập môi trường pháp lý cho tới việc tổ chức, điều hành và giám sát hoạt động của các chủ thể trên TTCK trên các phương diện: QLNN đối với tổ chức phát hành, tổ chức kinh doanh dịch vụ trên TTCK, quản lý tổ chức liên quan (đơn vị quản lý, và tổ chức phụ trợ) và quản lý NĐT. - Bốn là, trên cơ sở nhận định cơ hội, thách thức và chiến lược phát triển TTCK Việt Nam trong HNQT (chú trọng phân tích từ mốc thời gian Việt Nam gia nhập WTO đến nay), Luận án đưa ra một cách tiếp cận mới mẻ về trong việc nhìn nhận, xem xét vai trò của cơ quan quản lý đối với TTCK trong bối cảnh hội nhập. Từ đó, Luận án đề xuất 07 nhóm giải pháp tăng cường công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam tới năm 2020. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
  12. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Trước tiên, cần khẳng định, CK, TTCK và quản lý TTCK là chủ đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học trong và ngoài nước, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - tài chính. Các tác giả đề cập đến khá nhiều vấn đề: hình thành và tạo lập TTCK, hình thành và phát triển các tổ chức tham gia TTCK, tạo lập hàng hóa cho TTCK, v.v Dưới đây là tổng quan những công trình chủ yếu nghiên cứu về TTCK và QLNN đối với TTCK ở trong và ngoài nước đã công bố từ trước đến nay, nhất là trong 10 năm gần đây. 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Thị trường chứng khoán được coi là một thể chế bậc cao và không thể thiếu của kinh tế thị trường hiện đại, là một kênh huy động vốn chủ đạo để phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển không bền vững của thị TTCK lại là nhân tố chủ yếu gây nên những bất ổn của kinh tế khu vực và toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997, gần đây nhất là khủng hoảng kinh tế - tài chính năm 2008 là một minh chứng rất rõ ràng cho sự cần thiết phải phát triển bền vững TTCK. Vì vậy, nghiên cứu lý thuyết về QLNN đối với TTCK luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế trong đó có một số nghiên cứu tiêu biểu như: - The regulation of non-bank financial institutions: The United States, the European Union, and Other Countries (Quy định của những thể chế tài chính phi ngân hàng: Mỹ, Liên minh châu Âu và các quốc gia khác) [54] đây là tài liệu giới thiệu kết quả nghiên cứu, phân tích sự gia tăng nhanh chóng và rộng lớn của các thể chế tài chính phi ngân hàng trong những năm gần đây, vị trí của hệ thống tài chính phi ngân hàng ở những nước khác nhau và những thách thức, rủi ro trong hệ thống tài chính. Đặc biệt, xem xét chi tiết quy định và sự giám sát các hoạt động và thể chế phi ngân hàng. Trong đó, TTCK được xem xét như một thể chế tài chính phi
  13. 7 ngân hàng đặc trưng và phổ biến với những khuôn khổ pháp luật đã được thông qua ở một số thị trường phát triển như Mỹ, Liên minh châu Âu và thảo luận những vấn đề quy định đang xuất hiện ở một vài thị trường mới nổi như Trung Quốc, Thái Lan. Từ đó, khuyến khích thảo luận và cung cấp những lựa chọn chính sách cho các nhà hoạch định chiến lược ở các nền kinh tế. - The Dual Role of the government: securities market regulation in China 1980-2007 (Vai trò kép của Chính phủ: Quy định thị trường chứng khoán Trung Quốc từ 1980 đến 2007) [61] nghiên cứu đã nêu bật đặc trưng riêng về vai trò kép của chính phủ Trung Quốc vừa là chủ sở hữu vừa là người điều chỉnh TTCK, phân tích tác động của đặc điểm đó đến quá trình hình thành, điều chỉnh và phát triển quy định TTCK Trung Quốc từ năm 1980 đến năm 2007. Quản lý TTCK là nhiệm vụ của Chính phủ nhằm đối phó với những thất bại của thị trường thông qua những công cụ luật pháp, chính sách kinh tế, thủ tục hành chính và bản thân chính những quy định. Theo những nghiên cứu đã được thực hiện về điều chỉnh TTCK từ viễn cảnh kinh tế học thông thường, việc Chính phủ điều chỉnh TTCK là cần thiết và là phương pháp hiệu quả để giải quyết "những thất bại thị trường" nếu các hoạt động điều chỉnh được xác định phù hợp và thực hiện có hiệu quả. Dựa vào những nghiên cứu này, nhóm tác giả Đại học Thanh Hoa đã cho rằng vai trò của chính phủ trong điều chỉnh TTCK là cạnh tranh với thị trường, là đối lập với việc tham gia vào thị trường. Toàn bộ những nghiên cứu tồn tại về chủ đề này đã dẫn đến một sự thừa nhận ngấm ngầm rằng, chính phủ và thị trường là độc lập với nhau về sở hữu và quyền sở hữu (ownership and property right). Tuy nhiên, những lập luận này không thể áp dụng trong trường hợp của Trung Quốc bởi vì kể từ cuộc cải cách kinh tế năm 1980, khi Chính phủ Trung Quốc sở hữu các sở giao dịch chứng khoán thì chính phủ giữ một vai trò kép trong TTCK, vừa là chủ sở hữu, vừa là người điều chỉnh thị trường. Điều đó cho thấy học thuyết giả định về độc lập giữa chính phủ và thị trường là không phù hợp với Trung Quốc. Do đó, nghiên cứu đề xuất giả thuyết khi Chính phủ vừa là chủ sở hữu, vừa là người điều chỉnh TTCK, quá trình điều chỉnh thị trường sẽ diễn ra theo một lộ trình thay đổi thường mang tính bắt buộc, tập trung vào định hướng của chính phủ hơn là theo
  14. 8 định hướng thị trường, phản ứng phù hợp với thay đổi thể chế theo nhu cầu thị trường. Sử dụng trường hợp Trung Quốc, nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng độc nhất về quá trình điều chỉnh chứng khoán như thế nào trong phản ứng giám sát và quản lý của Chính phủ nếu Chính phủ vừa là người sở hữu, vừa là người điều chỉnh TTCK. - The Chinese stock market: pitfalls of a policy-driven market (Thị trường chứng khoán Trung Quốc: Cạm bẫy của 1 thị trường được điều chỉnh bởi chính sách) [34], cuốn sách cho biết những đặc trưng của 1 thị trường được điều chỉnh bằng chính sách và TTCK Trung Quốc đã được chính sách tác động như thế nào? Đặc biệt, cuốn sách này tập trung phân tích vào mâu thuẫn giữa thị trường chứng khoán - một thể chế kinh tế phi xã hội chủ nghĩa mới và nhà nước Trung Quốc với thể chế chủ nghĩa Lênin cũ, liệu có thể hình thành một thể chế TTCK lành mạnh, tăng trưởng và cạnh tranh khi chủ nghĩa Lênin vẫn có ý nghĩa quan trọng đến hoạt động quản lý hành chính và chính trị. Kể từ khi thành lập, TTCK Trung Quốc đã cho thấy những quy tắc cụ thể, khác biệt so với sự hiểu biết thông thường về các thị trường chứng khoán. Sự lãnh đạo chính trị đặt ra một loạt quy định có tính chất định hướng như tập trung hỗ trợ doanh nghiệp Nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng thị trường nhanh với một phí tổn phù hợp với những tiêu chuẩn quy định. Do đó, có thể thấy rõ ràng hơn, TTCK Trung Quốc là một thị trường được điều chỉnh bởi chính sách. Đó là thị trường mà sự can thiệp hành chính, những nhiệm vụ chính trị, các tính toán chính trị là yếu tố xác định sự biến động về giá quan trọng hơn những động lực cạnh tranh của thị trường. Đó là thị trường được phân chia với những cổ phiếu chắc chắn (cái mà ở Trung Quốc gọi là cổ phiếu sở hữu nhà nước và cổ phiếu cá nhân hợp pháp) không tham gia vào thị trường tự do để bảo đảm sự kiểm soát mãi mãi của Nhà nước. - Debt Management and government securities markets in the 21st Century (Quản lý nợ và thị trường công trái trong thế kỷ 21) [62], đây là báo cáo chuyên sâu xem xét những xu hướng và thay đổi gần đây trong cấu trúc thị trường công trái và những hoạt động quản lý nợ của chính phủ các nước OECD, đồng thời nhấn mạnh những vấn đề về cấu trúc chính sách chung trong các thị trường nợ mới nổi, những mục tiêu chính sách, đặc điểm của nợ công và thị trường trái phiếu ở các nước OECD.
  15. 9 Qua thời gian, các nhà quản lý nợ của OECD đã phát triển được phương thức tốt nhất để gia tăng, quản lý và xóa nợ ở mức rủi ro cho phép với giá thấp nhất có thể, mà chủ yếu là những khoản thâm hụt lớn kéo dài. Nhiều kỹ thuật mới cũng được phát triển để đối phó với những hậu quả tồi tệ của thặng dư liên tục (những bất thường về giá và tính thanh khoản thấp hơn trong những thị trường chuẩn truyền thống). Do đó, báo cáo đã phân tích và làm rõ tác động của hệ thống điện tử hiện đại vào thị trường sơ cấp và thứ cấp. Trong tương lai, hệ thống đấu giá điện tử tinh vi sẽ có thể hỗ trợ các nhà đầu tư thông thường trả giá trực tiếp trong những phiên đấu giá, do đó bỏ qua những người buôn bán sơ cấp. Đặc biệt, báo cáo cũng giới thiệu những công cụ mới và chính sách thông tin cũng như những chính sách liên quan đến các bên phát hành, đầu tư trong thị trường trái phiếu; từ đó chỉ rõ thách thức lớn trong quản lý nợ ở các thị trường trái phiếu mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan - Primary Dealers in government securities: Policy issues and selected countries experience (Những người buôn bán sơ cấp công trái nhà nước: Các vấn đề chính sách và kinh nghiệm ở một số nước) [22], tài liệu đã phân tích vai trò của những người buôn bán sơ cấp trong quản lý nợ công của các quốc gia; mục tiêu và cơ sở của hệ thống buôn bán sơ cấp cũng như những vấn đề chính sách liên quan đến việc thành lập hệ thống buôn bán sơ cấp của các nước. Từ đó, tài liệu cố gắng làm rõ những điều kiện để thành lập một hệ thống buôn bán sơ cấp hiệu quả, góp phần tích cực vào sự phát triển của thị trường công trái; cung cấp phương thức thành lập hệ thống buôn bán sơ cấp đáp ứng được những nhu cầu phát triển của thị trường. Bởi vấn đề chính là liệu hệ thống buôn bán sơ cấp có phù hợp với chiến lược toàn cảnh phát triển thị trường chứng khoán của quốc gia đó. Thực tế, các quốc gia được khảo sát đều cho rằng việc hình thành hệ thống buôn bán sơ cấp là cần thiết. Tuy nhiên, mỗi nước với những đặc điểm khác nhau có những cách thức khác nhau. Do đó, dựa trên kết quả khảo sát ở 39 nước, nghiên cứu đã đưa ra một số kinh nghiệm xây dựng hệ thống buôn bán sơ cấp ở một số nước. - Sử dụng phương pháp mô hình kinh tế lượng để chứng minh về mối quan hệ giữa sự phát triển của TTCK và tăng trưởng kinh tế với những ví dụ cụ thể của các quốc gia đang phát triển (như Thái Lan, Malaysia ), Hamid Mohtadi và Sumit
  16. 10 Agarwal trong tác phẩm Sự phát triển TTCK và tăng trưởng kinh tế: Bằng chứng từ các nước đang phát triển [14] và Salvatore Capasso với Sự phát triển TTCK và tăng trưởng kinh tế [32] đã kết luận rằng, giữa sự phát triển của TTCK và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại. Tuy vậy, các công trình cũng chưa chỉ rõ nội dung của QLNN đối với TTCK. - Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, nhiều quốc gia ở châu Á đã tiến hành nghiên cứu, phân tích và đánh giá sự phát triển của thị trường vốn, TTCK của mỗi quốc gia để đưa ra định hướng chính sách, trong đó tiêu biểu là: Uỷ ban Chứng khoán Thái Lan với công trình nghiên cứu có tiêu đề Thập kỷ đầu tiên của Uỷ ban Chứng khoán Thái Lan và thị trường vốn ở Thái Lan (1992 - 2000), trong đó đã phân tích một cách toàn diện, đầy đủ sự phát triển của thị trường vốn, TTCK ở Thái Lan trong vòng một thập kỷ (1992 - 2002), đánh giá những tác động của hệ thống tổ chức bộ máy quản lý, giám sát đối với sự phát triển của thị trường, hệ thống luật pháp điều chỉnh hoạt động của thị trường , trên cơ sở đó chỉ rõ những thách thức và mục tiêu cần giải quyết trong tương lai nhằm thúc đẩy thị trường vốn, TTCK Thái Lan phát triển hiệu quả và minh bạch. Những kinh nghiệm của Thái Lan trong tạo dựng, quản lý TTCK giai đoạn sơ khởi là tư liệu quý trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án của tác giả; Uỷ ban Chứng khoán Malaysia với nghiên cứu khá công phu về Kế hoạch cấp cao cho thị trường vốn Malaysia, trong đó phân tích xu hướng phát triển của thị trường vốn, TTCK Malaysia trong giai đoạn 1970 - 2000, làm rõ những thách thức trong quá trình phát triển của của thị trường vốn, TTCK Malaysia, từ đó đề xuất tầm nhìn chiến lược với việc xây dựng hệ thống mục tiêu và các giải pháp thực thi để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao. Bên cạnh đó, các tổ chức tài chính quốc tế cũng có một số công trình nghiên cứu đưa ra những kiến nghị giải pháp đối với sự phát triển của TTCK Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn, tiêu biểu là: Nghiên cứu về cổ phần hóa và sự phát triển của TTCK - Kinh nghiệm của Việt Nam của Rijksuniversiteit Groningen [31] đã phân tích những kết quả đạt được của tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước gắn với niêm yết trên TTCK và coi đó là một yếu tố quan trọng tăng trưởng nhanh TTCK Việt Nam trong những năm 2005-2006; Ngân hàng Thế giới
  17. 11 với Tổng quan về thị trường vốn của Việt Nam và các định hướng phát triển [26] phân tích sự phát triển của TTCK Việt Nam trong mối liên hệ với thị trường vốn, đề xuất hệ thống các khuyến nghị tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam trong tương lai. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.2.1. Các công trình nghiên cứu dưới dạng đề tài, luận án tiến sĩ Sau khi TTCK tập trung - TTSGDCK TP. Hồ Chí Minh (nay là SGDCK thành phố Hồ Chí Minh) chính thức đi vào hoạt động vào năm 2000, nhiều công trình nghiên cứu về QLNN đối với TTCK đã được thực hiện. - Đề cập đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật cho TTCK Việt Nam, có một số luận án tiêu biểu như: Xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam [43], Hoàn thiện pháp luật về giao dịch chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung [3]; Hoàn thiện pháp luật về các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam [42]; Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam [11]. Hầu hết trong những công trình nêu trên, đều khẳng định tính cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt đông của TTCK nói chung, và những đối tượng quản lý riêng biệt nói riêng. Về khung pháp lý đối với TTCK Việt Nam nói chung, Xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị trường chứng khoán ở Việt Nam [43], trên cơ sở phân đặc điểm cơ bản của quá trình hình thành khung pháp luật TTCK Việt Nam là: khung pháp luật TTCK Việt Nam được hình thành trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN. Qua phân tích nguyên tắc và thực trạng khung pháp luật TTCK Việt Nam, Luận án đề xuất 05 giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật TTCK Việt Nam, tuy nhiên, so với thời điểm hiện nay, khi Luật Chứng khoán đã ban hành và khi TTCK Việt Nam đã tham gia sâu vào thị trường tài chính thế giới thì những nghiên cứu nêu trên đã lạc hậu. Hay với khung pháp lý chuyên sâu hơn nữa đối với một đối tượng cụ thể tham gia hoạt động trên TTCK, ví dụ như Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà
  18. 12 đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam [11] đã phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam trên các khía cạnh: quyền tham gia thị trường, quyền được cung cấp thông tin, quyền thực hiện các giao dịch mua, bán chứng khoán, quyền và lợi ích của nhà đầu tư là cổ đông trong công ty. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK là một nhu cầu tất yếu, và để hoàn thiện pháp luật, tác giả đã đưa ra nhóm giải pháp sau: hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ nhà đầu tư trên TTCK; nâng cao năng lực bảo vệ nhà đầu tư của chủ thể bao gồm: nâng cao năng lực quản lý TTCK của các cơ quan quản lý nhà nước; nâng cao năng lực của các tổ chức tự quản; nâng cao năng lực tự bảo vệ của các nhà đầu tư. Đặc biệt, đề tài Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán Việt Nam [17], đề tài khẳng định, trong nền KTTT, TTCK là một thể chế kinh tế tài chính bậc cao và nhạy cảm, là nơi huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế và phân bổ chúng đến những nơi có khả năng sinh lời cao nhất. Thực tiễn lịch sử cũng như sự phát triển của thị trường này cho thấy luôn cần đến một "bàn tay hữu hình" can thiệp để khuyến khích sự phát triển của thị trường và ngăn chặn các hoạt động tiêu cực, bất hợp pháp, bảo vệ người đầu tư. Trên cơ sở đó, đề tài đã hệ thống hoá về lý luận và phân tích thực tiễn những quy định hiện hành được áp dụng cho các tổ chức KDCK, cũng như những bất cập của nó. Qua nghiên cứu hệ thống pháp lý của một số nước, đề tài rút ra kinh nghiệm làm cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp lý về tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ CK, bao gồm: quy chế về kiểm soát rủi ro và kiểm soát nội bộ của CTCK, CTQLQ, quy chế về nguyên tắc hoạt động kinh doanh của CTCK, CTQLQ, quy chế về nguyên tắc và hoạt động của các CTCK, điều lệ mẫu về quản trị CTCK, CTQLQ, xây dựng bộ quy tắc về đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn đưa ra 04 nhóm giải pháp về cơ chế quản lý cấp phép, giải pháp về an toàn tài chính, về việc tự doanh của CTCK, CTQLQ của Việt Nam tại nước ngoài và của bên nước ngoài vào Việt Nam, giải pháp đồng bộ hoá các quy phạm pháp luật chung có liên quan.
  19. 13 Do phạm vi và giới hạn nghiên cứu, trong khuôn khổ của đề tài, luận án tiến sĩ luật học, các đề tài, luận án trên mới chỉ đề cập đến một nội dung của QLNN đối với TTCK là xây dựng, hoàn thiện pháp luật cho các chủ thể, các hoạt động của TTCK mà chưa đề cập đến các nội dung khác của QLNN đối với TTCK. Cạnh đó, do độ trễ về thời gian, những nội dung về QLNN đối với xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật chưa cập nhật những thay đổi về quy định, chính sách trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO. Do vậy, những khoảng trống kiến thức trong các đề tài nêu trên ví dụ như QLNN về hàng hóa, chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán trong hội nhập quốc tế là hướng nghiên cứu của đề tài. - Liên quan đến chủ đề hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế, các bài học về kinh nghiệm quản lý TTCK của các nước trên thế giới và những gợi ý cho Việt Nam, có một số luận án tiêu biểu sau: Luận án Quá trình hình thành và quản lý thị trường chứng khoán ở một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam [40]; Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [28]. Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong quản lý TTCK, các luận án nêu trên đã rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho Việt Nam, từ đó đề xuất một số áp dụng cụ thể. Việc nghiên cứu hoạt động quản lý tại các nước này tập trung vào những vấn đề sau: 1- Mô hình quản lý, bao gồm: cơ cấu quản lý nhà nước đối với TTCK và cơ cấu quản lý theo quy định riêng cũng như việc phân cấp quản lý giữa 2 tổ chức này; 2- Hệ thống pháp luật điều chỉnh TTCK; 3- Các chính sách điều tiết, biện pháp quản lý thị trường mà các nước này đã và đang áp dụng tập trung vào giai đoạn từ năm 1997 đến nay; 4- Các biện pháp về thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động trên TTCK. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về việc hình thành TTCK Việt Nam, về quản lý TTCK đối với Việt Nam trên các phương diện: xây dựng hệ thống chính sách phù hợp, xây dựng hệ thống pháp lý cho TTCK, xây dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK, về tạo hàng, đào tạo nguồn nhân lực và về thiết lập hệ thống tổ chức và giao dịch ở TTCK Vận dụng những bài học kinh nghiệm đó vào việc xây dựng, vận hành TTCK Việt Nam, tác giả Nguyễn Hải Thập đã đưa ra 7 giải pháp hoàn thiện việc hình thành và 7 giải pháp hoàn thiện việc quản lý
  20. 14 TTCK Việt Nam, 11 kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan QLNN có liên quan những vấn đề cần thiết cho việc phát triển và quản lý TTCK Việt Nam. Còn tác giả Bùi Thùy Nhi đã đưa ra 10 bài học kinh nghiệm, căn cứ vào những hạn chế còn tồn tại trong quản lý TTCK Việt Nam, luận án đã phân tích về cơ sở vận dụng cũng như nội dung có thể vận dụng những bài học trên vào thực tiễn Việt Nam. Trần Thị Thùy Linh với Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hội nhập đến năm [18], đã cung cấp hệ thống cơ sở lý luận về TTCK và phát triển TTCK của một số nước, kinh nghiệm cho Việt Nam. Thực trạng phát triển TTCK được tác giả tiếp cận qua 2 góc độ: TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp, từ đó đi đến những nhận định về thành công, hạn chế trong phát triển TTCK Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở những dự báo về xu hướng phát triển TTCK Việt Nam và các nước khu vực, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, luận án đã đưa ra 09 nhóm giải pháp, trong đó chú trọng việc kết nối thị trường chứng khoán Việt Nam với Singapore và các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đây chỉ là những nghiên cứu đơn thuần về TTCK Việt Nam, trong đó, nội dung quản lý nhà nước đối với thị trường này không được phân tích, đề cập. - Đề cập đến một trong những nội dung của QLNN đối với TTCK như xây dựng, hoàn thiện pháp luật cho các chủ thể, các hoạt động của TTCK; ban hành chính sách, công cụ quản lý TTCK; tăng cường giám sát đối với hoạt động GDCK, tăng cường minh bạch hóa thông tin trên TTCK là chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, trong đó có một số luận án tiêu biểu như: Tác giả Trần Văn Quang với Cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam [30] nghiên cứu những vấn đề cơ bản về TTCK và cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động của thị trường này; thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động của TTCK ở Việt Nam được kiến nghị gồm: hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính vĩ mô đối với hoạt động của TTCK (hoàn thiện cơ chế chính sách thuế, phí, lệ phí); hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động của TTCK Tuy cơ chế tài chính là nội dung rất quan trọng đối với hoạt động của TTCK nhưng cũng chỉ là một trong các khía cạnh nội dung cần giải quyết của QLNN đối với TTCK.
  21. 15 Nguyễn Thùy Linh với Giải pháp tài chính phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam [19]. Trên cơ sở lý luận chung về phát triển bền vững TTCK và giải pháp tài chính cho phát triển bền vững TTCK Việt Nam được trình bày trong chương 1, luận án trình bày thực trạng giải pháp tài chính phát triển bền vững TTCK Việt Nam giai đoạn 2000-2011 trên các khía cạnh: thực trạng giải pháp về ngân sách nhà nước (thuế, chi ngân sách nhà nước, về phát hành trái phiếu chính phủ và giải pháp về phí đối với các giao dịch chứng khoán); giải pháp về tiền tệ; giải pháp về thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài; giải pháp tài chính đối với doanh nghiệp; giải pháp tài chính đối với các trung gian tài chính trên TTCK. Trên cơ sở dự báo những tác động của tình hình kinh tế trong và ngoài nước đến sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam giai đoạn 2012-2019, tác giả đã đưa ra 05 nhóm giải pháp (về ngân sách, tiền tệ, quản lý vốn đầu tư nước ngoài, tài chính đối với doanh nghiệp và trung gian tài chính trên thị trường). Tuy nhiên, Luận án cũng chỉ giải quyết một trong các khía cạnh của QLNN đối với TTCK. Giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK Việt Nam của Lê Trung Thành [40] đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về giám sát GDCK trên TTCK; phân tích, đánh giá thực trạng giám sát GDCK trên TTCK Việt Nam và rút ra kết luận TTCK Việt Nam không đạt mức hiệu quả dạng yếu, thị trường bị trục lợi bởi các giao dịch thao túng, nội gián, với nhứng mức độ trục lợi khác nhau ở các thời kỳ nghiên cứu và những vi phạm pháp luật khác liên quan đến GDCK. Tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng giám sát GDCK trên TTCK Việt Nam ở cả 2 cấp là UBCKNN và các tổ chức tự quản. Đánh giá chung, các chủ thể giám sát mới chỉ giám sát được các vi phạm tuân thủ quy định của pháp luật về quy trình giao dịch, công bố thông tin liên quan; còn giám sát các giao dịch nội gián, thao túng thị trường chưa được thực hiện. Luận án đã đề xuất những giải pháp tăng cường giám sát GDCK trên TTCK Việt Nam: xác lập mô hình giám sát GDCK và mối quan hệ giữa các chủ thể giám sát, nội dung và phương thức giám sát GDCK của mỗi chủ thể giám sát, trong đó chú trọng vai trò của Hiệp hội KDCK trong hoạt động giám sát GDCK. Các giải pháp về nâng cao năng lực nhân sự thực hiện giám sát GDCK, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ giám sát và đề xuất hệ thống chỉ tiêu giám sát GDCK cũng được luận án đưa ra và
  22. 16 luận giải một cách có khoa học. Tuy nhiên, cũng như các luận án nêu trên "Giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK Việt Nam" cũng chỉ là một trong số nhiều nội dung, nghiệp vụ của QLNN đối với TTCK. Minh bạch hóa thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Nguyễn Thúy Anh [1], dựa trên hai lý thuyết về thông tin, luận án đã chỉ ra sự cần thiết phải minh bạch hóa thông tin thông tin bắt buộc và thông tin tự nguyện trên TTCK. Thực trạng minh bạch hóa thông tin trên TTCK Việt Nam được tác giả tiếp cận qua hai góc độ: Thực trạng minh bạch hóa thông tin bắt buộc và thông tin tự nguyện. Trên cơ sở phân tích các điều kiện đảm bảo minh bạch hóa thông tin trên TTCK Việt Nam qua những phân tích về khung pháp luật; về minh bạch hóa thông tin trong hoạt động quản trị công ty; về kế toán, kiểm toán đối với doanh nghiệp phát hành chứng khoán tác giả đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với việc minh bạch hóa thông tin trên TTCK được thể hiện qua công tác thanh tra, giám sát hoạt động của TTCK và việc xử lý các vi pham trong công bố thông tin. Qua đó, luận án đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường minh bạch hóa thông tin trên TTCK Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bao gồm 7 nhóm giải pháp về phía nhà nước, 3 nhóm giải pháp cho doanh nghiệp phát hành, giải pháp về phía công ty xếp hạng tín nhiệm và công ty kiểm toán độc lập và giải pháp về phía nhà đầu tư. Trong đó, luận án nhấn mạnh đến việc xây dựng và triển khai áp dụng chỉ số VN-CTIndex để đánh giá mức độ minh bạch hóa thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam. - Quản lý và vai trò quản lý của nhà nước đối với TTCK là chủ đề được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, đặc biệt đáng lưu ý là Một số giải pháp nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam hiện nay của Vũ Xuân Dũng [12], đã nêu rõ vai trò của Nhà nước trong việc quản lý các hoạt động của TTCK tập trung thể hiện trên 04 mặt: thiết lập bộ máy QLNN đối với lĩnh vực CK & TTCK; xây dựng, ban hành các chính sách, pháp luật và công cụ quản lý khác; tổ chức quản lý, giám sát các hoạt động của TTCK tập trung; định hướng và thúc đẩy TTCK phát triển. Luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động QLNN đối với Việt Nam theo lát cắt ngang trên các mặt công tác: thiết lập và hoàn
  23. 17 thiện bộ máy QLNN đối với TTCK; xây dựng và hoàn chỉnh khung pháp lý; quản lý các hoạt động cơ bản trên TTCK tập trung (phát hành, niêm yết, GDCK, công bố thông tin, LKCK, ). Các giải pháp để nâng cao vai trò QLNN đối với TTCK Việt Nam được xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn quản lý TTCK Việt Nam, cùng với việc tham khảo kinh nghiệm của một số nước, đồng thời gắn với chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010. Những nghiên cứu về QLNN đối với TTCK theo chủ thể tham gia (lát cắt dọc: Quản lý chủ thể tham gia trên TTCK, quản lý hàng hóa và các hoạt động giao dịch trên TTCK) sẽ là hướng nghiên cứu tiếp theo của tác giả. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với TTCK Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Hiếu [15] cung cấp một cách nhìn mới toàn diện và sâu sắc hơn về nội dung QLNN đối với TTCK trên các bình diện: quản lý theo chức năng, theo các yếu tố của thị trường và theo các hoạt động cơ bản của TTCK. Trên cơ sở đó, Luận án phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian qua theo các nhánh nội dung sau: Xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển TTCK; Tạo lập môi trường pháp lý cho các chủ thể hoạt động trên TTCK; Tổ chức bộ máy quản lý các hoạt động của các chủ thể trên thị trường; Ban hành các chính sách và công cụ quản lý; Thực hiện thanh tra, giám sát hoạt động và điều hành TTCK. Trên cơ sở đó, các giải pháp để nâng cao vai trò QLNN đối với TTCK Việt Nam được đề xuất. Tuy nhiên, có thể thấy, trong luận án tác giả tập trung tập trung nghiên cứu QLNN đối với TTCK theo chức năng. Các nội dung về QLNN đối với chủ thể tham gia TTCK Việt Nam trong hội nhập quốc tế chưa được nghiên cứu tương xứng. Những dư địa đó sẽ là hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài này Luận án "Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam trong hội nhập quốc tế". Quản lý nhà nước về pháp luật đối với công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam củaVũ Thị Thúy Ngà [25], trên cơ sở ứng dụng các lý thuyết kinh tế cơ bản, luận án đã làm rõ các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về pháp luật đối với công ty niêm yết trên TTCK; nghiên cứu và tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về quy định của pháp luật đối với các nội dung quản lý nhà nước về niêm yết, phát hành, công bố thông tin và quản trị công ty. Thực tiễn quản lý nhà nước đối với
  24. 18 công ty niêm yết trên TTCK được luận án làm sáng tỏ qua 2 phương thức phân tích chính: phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu trên cơ sở hoạt động thực tiễn của thị trường và kết quả điều tra khảo sát các doanh nghiệp đang niêm yết trên TTCK tại thời điểm tháng 12/2009-01/2010. Thông qua việc đánh giá cụ thể thực hiện các quy định về phát hành, niêm yết, công bố thông tin và quản trị công ty trên TTCK Việt Nam thời gian qua, những bất cập được ghi nhận làm căn cứ đề xuất phương án hoàn thiện, đổi mới hệ thống quản lý nhà nước nói chung trong giai đoạn 2010- 2020 trên các khía cạnh niêm yết, phát hành, công bố thông tin và quản trị công ty. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong Luận án chỉ dừng lại ở khía cạnh quản lý nhà nước về pháp luật đối với công ty chứng khoán - một trong những chủ thể tham gia TTCK, vì vậy sẽ không trung lắp với chủ đề mà NCS nghiên cứu. Đề tài Tái cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam do Nguyễn Thành Long làm chủ nhiệm [21], trên cơ sở trình bày tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc hệ thống tài chính, đi sâu vào việc hệ thống hóa các nghiên cứu và thực tiễn về tái cấu trúc thị trường chứng khoán trên thế giới, đề tài hướng tới mục tiêu đánh giá thực trạng, sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2000-2012 trên tất cả các mặt hoạt động cụ thể như: cơ sở hàng hóa, thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, cơ sở nhà đầu tư, hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên cả hai phương diện thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. Nhận diện rõ thực trạng, vận dụng lý thuyết và áp dụng kinh nghiệm thế giới để đề xuất các giải pháp tái cấu trúc TTCK Việt Nam. Trên cơ sở những nội dung tái cấu trúc thị trường chứng khoán đã được phê duyệt tại Đề án do Thủ tướng phê duyệt, nhóm đề tài đánh giá những mặt cụ thể về việc tái cấu trúc thị trường chứng khoán trong thời gian 2012-2013, từ đó đề ra phương hướng trong giai đoạn sắp tới nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam ổn định và bền vững. Trong đó, nội dung của việc tái cấu trúc TTCK được nhóm tác giả xác định trên những khía cạnh sau: 1- Tái cấu trúc cơ sở hàng hóa, gồm nâng cao chất lượng phát hành, niêm yết, đăng ký giao dịch; Tăng cường hoạt động công bố thông tin; Tăng cường công tác quản trị công ty; Hoàn thiện công tác cổ phần hóa; 2- Tái cấu trúc TT trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp; 3- Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư; 4- Tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán. Tuy những phân tích, đề xuất
  25. 19 trong đề tài thiên về phân tích thực trạng phát triển của TTCK, và các hướng tái cấu trúc loại hình thị trường này, nhưng chính số liệu cập nhật của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho NCS trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu. Đề tài "Chính sách và giải pháp phát triển bền vững TTCK Việt Nam đến năm 2020" ở phạm vi cấp Nhà nước nằm trong Chương trình nghiên cứu "Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020" đã: 1- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển an toàn và bền vững TTCK, hệ thống hoá và xác định các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững của TTCK nói chung và xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ bền vững của TTCK Việt Nam, đồng thời nghiên cứu làm rõ hệ thống điều kiện đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững của TTCK Việt Nam trong bối cảnh hội nhập; 2- Trên cơ sở khảo sát và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về việc phát triển bền vững TTCK của một số quốc gia trên thế giới (chú trọng nghiên cứu một số trường hợp điển hình và các nước có điều kiện tương đồng như Việt Nam), rút ra những bài học về phát triển bền vững TTCK ở nước ta đến năm 2020; 3- Thông qua khảo sát thực tiễn quản lý và vận hành TTCK Việt Nam, tổng kết, đánh giá chính sách phát triển TTCK ở nước ta trong thời gian qua, đề tài đi sâu phân tích và đánh giá mức độ bền vững của TTCK Việt Nam, nhận dạng những dấu hiệu phát triển không bền vững và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khiếm khuyết trong cơ chế, chính sách và quản lý vận hành thị trường, chỉ rõ những bất cập về các điều kiện để TTCK phát triển bền vững ở nước ta; 4- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm và xu hướng phát triển kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK Việt Nam, dự báo xu hướng phát triển của TTCK Việt Nam đến 2020, đề tài đề xuất các quan điểm và phương hướng hoàn thiện cơ chế, chính sách, giải pháp đảm bảo cho sự phát triển an toàn, bền vững của TTCK Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 đồng thời xây dựng lộ trình và các điều kiện thực hiện các giải pháp đề xuất. 1.2.2. Các công trình dưới dạng sách, báo, tạp chí và các công bố khác Đáng lưu ý trong số này là Phát triển bền vững TTCK Việt Nam của Đinh Văn Sơn [37]. Cuốn sách đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản và quan trọng về TTCK cũng như các tiêu chí xác định và điều kiện để phát triển bền vững thị
  26. 20 trường; luận giải những nội dung cơ bản về QLNN đối với TTCK. Để đánh giá TTCK phát triển bền vững hay không, tác giả xét qua các nhóm tiêu chí sau: 1- Nhóm tiêu chí về quy mô thị trường; 2- Nhóm tiêu chí về khả năng tiếp cận thị trường; 3- Nhóm tiêu chí về tính hiệu quả của thị trường; 4- Nhóm tiêu chí về sự ổn định của thị trường. Đồng thời, tác giả đã phân tích khá kỹ về nội dung QLNN đối với TTCK về mục đích, yêu cầu, vai trò, nguyên tắc, bộ máy quản lý nhà nước tới việc xây dựng, ban hành chính sách pháp luật và các công cụ quản lý khác tới công tác thanh tra, giám sát. Từ đó phân tích và đánh giá khách quan bức tranh toàn cảnh TTCK ở Việt Nam trong những năm qua trên hai khía cạnh thành công và những hạn chế, những bất cập cần giải quyết và kiến nghị những giải pháp thích hợp để phát triển bền vững TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu thiên về khía cạnh lý luận, những phân tích về thực trạng QLNN đối với TTCK còn vắng bóng. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về từng khía cạnh nhất định trong tổng thể TTCK được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí, các trang web với một số lượng đồ sộ như như: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát TTCK Việt Nam [20]; Sự hình thành và phát triển TTSGDCK Hà Nội [46]; ''10 năm hoạt động TTCK Việt Nam và định hướng chiến lược giai đoạn 2010-2020'' [36]; ''Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán - các cam kết và nghĩa vụ của Việt Nam'' [45]; Thị trường "ảo", khủng hoảng "thực" [27] Có thể nói, đây là những tài liệu rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu của tôi bởi thông tin được cập nhật và có nhiều ý tưởng mới, mang tính đột phá và khả thi. Tuy nhiên, do giới hạn của một bài báo, tạp chí và phạm vi đăng tải nên các công trình nghiên cứu trên chỉ tiếp cận, phân tích một mặt, một khía cạnh nào đó của vấn đề mà không mang tính chuyên sâu và chưa giải quyết thỏa đáng vấn đề quản lý nhà nước đối với TTCK Việt Nam trong dài hạn. 1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LUẬN ÁN CẦN THAM KHẢO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.3.1. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo Qua khảo lược các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan cho thấy, các nghiên cứu về CK&TTCK chiếm một số lượng lớn trong mảng kinh
  27. 21 tế - tài chính. Các công trình nghiên cứu ở trên đã có nhiều đóng góp có ý nghĩa về mặt khoa học, làm sáng tỏ nhiều vấn đề như chứng khoán, thị trường vốn, TTCK, vai trò của TTCK trong phát triển đất nước, về quản lý nhà nước và các nghiệp vụ của QLNN đối với TTCK và hướng vào những nội dung sau: Một là, đã xác định được những nội dung cơ bản về TTCK, quản lý nhà nước đối với TTCK với những nội hàm như: khái niệm về chứng khoán, TTCK; vai trò, chính sách, công cụ, biện pháp quản lý của nhà nước đối với TTCK ; Hai là, đã làm rõ đặc điểm, tình hình và xu hướng phát triển cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy, mô hình quản lý TTCK của một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc Những kinh nghiệm để phát triển và quản lý TTCK của một số quốc gia này cho Việt Nam đã được xây dựng và khuyến nghị; Ba là, đã phân tích, làm rõ thực trạng, phương hướng phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới. Đặc biệt nội dung quản lý nhà nước đối với TTCK Việt Nam trên từng khía cạnh cụ thể như: tác động của chính sách thuế, vốn, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, quản lý về công bố thông tin, điều hành, giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia TTCK từ đó đưa ra những nhận định, phân tích và hệ giải pháp tương thích; Bốn là, nghiên cứu về TTCK Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đưa ra những nhận định về cơ hội, thách thức, lợi thế và bất lợi thế cũng như những khuyến nghị về chính sách, hướng phát triển cho TTCK Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, về nội dung QLNN đối với TTCK, cơ bản các công trình trên mới chỉ giải quyết được những nội dung sau: Thứ nhất, cách tiếp cận về QLNN của một số nước trên thế giới: Trên cơ sở phân tích quản lý nhà nước của một số nước trên thế giới đối với TTCK như của Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan Đặc biệt, qua phân tích quá trình hình thành, phát triển và quản lý TTCK ở một số nước (công nghiệp phát triển và đang phát triển), từ đó các công trình nêu trên rút ra những bài học kinh nghiệm về việc hình thành TTCK Việt Nam, về quản lý TTCK đối với Việt Nam trên các phương diện cụ thể như phát hành cổ phiếu, ứng dụng công nghệ hiện đại trong giám sát TTCK ; đồng thời đưa ra một số gợi ý vận dụng cụ thể trong quản lý TTCK Việt Nam. Thứ hai, cách tiếp cận về nội dung QLNN đối với TTCK Việt Nam: ngoài Luận
  28. 22 án của Nguyễn Thị Thanh Hiếu về hoàn thiện QLNN đối với TTCK phân tích chi tiết, bao trùm nội dung của QLNN đối với TTCK (đã phân tích), các công trình nghiên cứu về QLNN đối với TTCK còn lại chỉ tiếp cận từ khía cạnh nhỏ, đơn lẻ, ví dụ như về giám sát TTCK, về minh bạch hóa công bố thông tin, về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật cho hoạt động của thị trường, về hoàn thiện cơ chế tài chính cho hoạt động của TTCK Trong đó, nhóm nội dung về quản lý các chủ thể tham gia trên TTCK chưa được tập trung nghiên cứu đồng bộ, thỏa đáng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng. Như vậy, chưa có một công trình nào hệ thống hóa một cách hoàn chỉnh và đầy đủ về QLNN đối với TTCK xét theo các chủ thể, đối tượng tham gia trên thị trường. Với cách đặt vấn đề như vậy, và theo quan điểm của tác giả, TTCK là một thành tố quan trọng của hệ thống tài chính; một thể chế bậc cao và không thể thiếu của kinh tế thị trường hiện đại, sự phát triển và hoàn thiện của TTCK sẽ góp phần tạo nên một thị trường tài chính hoàn chỉnh, phục vụ hiệu quả các hoạt động kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, cần có những giải pháp quản lý thiết thực, để từ đó có thể áp dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả nhất nhằm khắc phục tình trạng phát triển không lành mạnh của TTCK, gây lãng phí nguồn lực lớn của xã hội. Để góp phần giải quyết vấn đề này, đề tài: "Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán trong hội nhập quốc tế" mà nghiên cứu sinh lựa chọn là mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu nêu trên đã đạt được, QLNN đối với TTCK trong bối cảnh hội nhập quốc tế là vấn đề lớn, phức tạp, luôn phải được điều chỉnh để theo kịp với thực tiễn phát triển, vì vậy cần được tập trung nghiên cứu, có thể nêu ra một số vấn đề như sau: Thứ nhất, TTCK là vấn đề mới xuất hiện, đặc biệt là ở Việt Nam (trong khoảng hơn một thập kỷ gần đây), nên có nhiều công trình quan tâm nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu đó, QLNN đối với TTCK trong hội nhập quốc tế, xét dưới lát cắt quản lý các chủ thể tham gia TTCK chưa được nghiên cứu thỏa đáng, đa phần các nghiên cứu chỉ dừng lại ở một nội
  29. 23 dung của QLNN đối với TTCK Cho đến thời điểm này, so với yêu cầu của thực tiễn phát triển, các hệ thống nghiên cứu về QLNN đối với TCCK trong bối cảnh hội nhập quốc tế đã tỏ ra bất cập, đặc biệt dưới những tác động của quá trình hội nhập như việc thực thi các cam kết, nghĩa vụ của WTO, cũng như trước những điều chỉnh chính sách tái cơ cấu thị trường tài chính (trong đó có TTCK) của Chính phủ Việt Nam Bối cảnh đó đòi hỏi hệ giải pháp về QLNN đối với TTCK phải có sự linh động phù hợp, hiệu quả (về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý lẫn chính sách điều chỉnh), tạo điều kiện cho TTCK phát huy tốt nhất vai trò, tiềm năng đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Theo đó, luận án của nghiên cứu sinh sẽ phân tích, làm rõ những khái niệm về TTCK, QLNN đối với TTCK, sự cần thiết và nội hàm của QLNN đối với TTCK xét theo phương diện chủ thể tham gia trên TTCK và công tác quản lý, điều hành hoạt động của các chủ thể trên TTCK. Trên cơ sở đó, luận án sẽ đưa ra tiêu chí và nội dung QLNN đối với TTCK, đồng thời, làm rõ cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế tới phát triển và quản lý TTCK trong bối cảnh mới. Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới về quản lý, phát triển TTCK để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Theo vấn đề này, tác giả luận án sẽ nghiên cứu những kinh nghiệm quản lý thị trường chứng khoán đối với các chủ thể tham gia trên TTCK của một số nước với nhiều mô hình quản lý khác nhau (mô hình trực thuộc chính phủ, trực thuộc Bộ Tài chính hay mô hình tự quản hoặc có sự liên kết của nhà nước) để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm phù hợp cho Việt Nam. Thứ ba, đối với quản lý TTCK Việt Nam, luận án sẽ tiếp tục làm rõ thực trạng và những nhân tố tác động tới công tác quản lý (từ phía nhà nước) đối với hoạt động của TTCK Việt Nam trong hội nhập quốc tế, đi sâu phân tích các kết quả đạt được và chưa đạt được trên các khía cạnh quản lý tổ chức phát hành, quản lý tổ chức trung gian thị trường, quỹ ĐTCK và QLNN đối với thị trường thứ cấp. Từ đó, đề xuất xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược dài hạn để quản lý TTCK Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Muốn vậy, trong luận án, nghiên cứu sinh sẽ nêu bật toàn cảnh thực trạng, thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công
  30. 24 tác quản lý nhà nước đối với TTCK (xét trên phương diện chủ quan và khách quan) trong thời gian qua. Thứ tư, nhận diện và phân tích rõ thời cơ, thách thức tác động tới TTCK và công tác quản lý TTCK Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Theo nội dung này, nghiên cứu sinh sẽ xác định cơ hội, thách thức và chiến lược phát triển TTCK và hệ giải pháp nhằm tăng cường quản lý, phát huy vai trò của TTCK vào qúa trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong bối cảnh mới. Những nghiên cứu trong luận án sẽ trả lời các câu hỏi sau: 1, Vai trò, nội hàm và tiêu chí đánh giá QLNN đối với TTCK? 2, Thực trạng QLNN đối với TTCK Việt Nam giai đoạn 2000-2015 (xét theo bộ tiêu chí được xây dựng ở chương 2) như thế nào? Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân? 3, Hội nhập quốc tế và những tác động đặt ra đối với QLNN trong lĩnh vực chứng khoán? 4, Cơ hội, thách thức và hệ giải pháp nhằm đổi mới QLNN đối với TTCK trong quá trình HNQT?
  31. 25 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2.1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm của thị trường chứng khoán 2.1.1.1. Khái niệm, phân loại chứng khoán và thị trường chứng khoán * Khái niệm - Về chứng khoán: Theo cách hiểu chung nhất CK là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức PHCK. Trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ, CK được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm CK hoặc chỉ số CK và hợp đồng đầu tư, chứng chỉ lưu ký Đó là những chứng thư dưới dạng giấy tờ, bút toán hoặc ghi trên hệ thống điện tử, xác nhận quyền sở hữu tài chính, có thể được mua bán, chuyển nhượng trên TTCK. Có nhiều hình thức phân loại CK, nhưng cách thức phân loại phổ biến nhất hiện nay là phân loại CK theo tính chất, theo đó CK có thể phân thành ba loại cơ bản là: CK vốn (cổ phiếu), CK nợ (trái phiếu) và các công cụ phái sinh (công cụ dẫn xuất). Ngoài ra, còn phân loại theo khả năng chuyển nhượng, CK được phân thành CK ghi danh (ghi tên) và CK vô danh (không ghi tên); Phân loại theo khả năng thu nhập, CK được chia thành: CK có thu nhập cố định, CK có thu nhập biến đổi và CK hỗn hợp. - Về thị trường chứng khoán (TTCK): Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về TTCK, song tất cả đều mô tả TTCK là một loại hình thị trường mà ở đó các đối tượng trao đổi, mua bán các loại chứng khoán và là kênh tập trung, huy động và luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. Theo hướng nghiên cứu của Luận án, tác giả cho rằng, TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán giữa các chủ thể tham gia, việc mua bán trao đổi này được thực hiện theo những quy định của Nhà nước và của các tổ chức tự quản trên thị trường.
  32. 26 * Phân loại thị trường chứng khoán - Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường có: Thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường chứng chỉ quỹ, thị trường chứng khoán phái sinh. Trong đó. Trong đó, thị trường cổ phiếu là thị trường mà đối tượng giao dịch là các loại cổ phiếu của các công ty cổ phần; Thị trường trái phiếu, còn gọi là thị trường nợ, là nơi giao dịch các loại trái phiếu; Thị trường chứng chỉ quỹ là nơi giao dịch các loại chứng chỉ quỹ; Thị trường chứng khoán phái sinh là nơi giao dịch các loại chứng khoán phái sinh như quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai - Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn có: Thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp. Trong đó, thị trường sơ cấp còn gọi là thị trường phát hành, là thị trường mua bán lần đầu những CK mới phát hành, kéo theo sự tăng thêm quy mô vốn đầu tư; Thị trường thứ cấp còn gọi là thị trường lưu thông, là thị trường mua đi bán lại các CK đã được phát hành qua thị trường sơ cấp. - Căn cứ vào hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của thị trường, có: TTCK tập trung, TTCK phi tập trung. Trong đó, TTCK tập trung là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được niêm yết hay biệt lệ và chỉ có các loại chứng khoán đủ tiêu chuẩn niêm yết mới được giao dịch tại đây; TTCK phi tập trung (hay còn gọi là thị trường OTC) dùng để chỉ thị trường mua bán chứng khoán chưa niêm yết (ở Việt Nam, thị trường chứng khoán phi tập trung được giao dịch qua sàn Upcom). 2.1.1.2. Bản chất, đặc điểm và vai trò của thị trường chứng khoán * Bản chất của TTCK: Về thực chất, chứng khoán là một quan hệ kinh tế mang hình thức pháp lý về cam kết của tổ chức pháp hành đối với quyền lợi của những người bỏ tiền ra mua chúng. Cam kết này khác nhau tùy theo chứng khoán là cổ phiếu hay trái phiếu [10, tr.10]. Do vậy, xét về mặt hình thức, trong nền kinh tế hiện đại, TTCK được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại CK trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được CK lần đầu từ những người phát hành và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các CK đã được phát hành. Như vậy, về mặt hình thức, TTCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại CK,
  33. 27 qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ CK. Xét về mặt bản chất, TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm: tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng; chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Với việc đầu tư qua TTCK, kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng với quyền sở hữu về vốn, nâng cao tiềm năng quản lý vốn. * TTCK có những đặc điểm chủ yếu sau: TTCK là một dạng thị trường đặc biệt, thể hiện qua các điểm sau: Thứ nhất, TTCK mà tiêu biểu, phổ biến là thị trường cổ phiếu được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, những người có khả năng cung ứng vốn đều có thể điều chuyển vốn trực tiếp cho người cần vốn mà không cần thông qua các trung gian tài chính (ngân hàng, công ty tài chính, các tổ chức tài chính trung gian, v.v ) với tư cách là một chủ thể riêng biệt, độc lập thực hiện huy động vốn nhằm đạt được những lợi ích riêng trong sản xuất kinh doanh. Thứ hai, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi cá nhân đều được tự do tham gia vào thị trường nếu có nhu cầu và đáp ứng được các điều kiện, thủ tục của thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên TTCK, giá cả giao dịch trên thị trường được xác định dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thông tin có liên quan đến chứng khoán - hàng hóa của thị trường. Các giao dịch trên TTCK được chuẩn hóa và được điều hành một cách công khai; các nghiệp vụ hỗ trợ như tư vấn, thanh toán, được thiết kế một cách chặt chẽ để phục vụ công bằng cho các chủ thể tham gia thị trường, v.v Tất cả những nét đặc thù đó đã làm cho TTCK không những là thị trường có tổ chức ở trình độ cao mà còn là thị trường trong đó cơ chế cung - cầu tự phát quyết định giá ở mức cao hơn các loại thị trường khác. Thứ ba, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục, sau khi các CK được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Nếu như trên hàng hóa thông thường, sau khi kết thúc việc mua bán thì hàng hóa đi vào tiêu dùng, đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu sinh hoạt của người mua. Ngược lại, trên TTCK, CK sau khi được phát hành và niêm yết
  34. 28 trên thị trường thì luôn tồn tại trên thị trường cùng với sự tồn tại của người phát hành. TTCK đảm bảo cho người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán mà họ nắm giữ thành tiền nếu muốn. Tuy nhiên, thời gian chuyển đổi sẽ không giống nhau với các loại CK khác nhau. Thứ tư, phương thức giao dịch trên TTCK cũng khá đặc thù. Ngoài một số giao dịch thỏa thuận giữa các định chế tài chính lớn, đa phần các giao dịch của NĐT cá nhân đều phải thực hiện thông qua các công ty môi giới. Để có thể vận hành được, TTCK yêu cầu trình độ tổ chức cao, trong đó các nguyên tắc trung thực, công khai và công bằng được đặt lên hàng đầu. Bởi vì các giao dịch CK thường liên quan đến những giá trị tài sản lớn, do đó nếu xảy ra gian lận, sẽ gây thiệt hại nặng nề cho những người liên quan. Do dó, khi tham gia giao dịch, các chủ thể phải đáp ứng yêu cầu trung thực, phải tuân thủ các nguyên tắc khắt khe của TTCK và hoạt động giao dịch phải được công khai để phòng ngừa gian lận. Thứ năm, một đặc điểm cố hữu nữa của thị trường tài chính, đặc biệt rõ nét trong TTCK là bất đối xứng về thông tin (đây là một trường hợp đặc biệt của tình trạng thông tin không đầy đủ). Bất đối xứng về thông tin xảy ra trong trường hợp những người tham gia thị trường có được các thông tin khác nhau liên quan đến các giao dịch tài chính. Một bên giao dịch thường không biết (đầy đủ) các thông tin cần thiết về đối tác để có những quyết định đúng đắn. Tình trạng bất đối xứng về thông tin có thể xảy ra trước, trong hoặc sau khi giao dịch tài chính được thực hiện. Tình trạng này làm cho TTCK không còn là cơ chế phân bổ các nguồn vốn một cách có hiệu quả. Bất đối xứng về thông tin có thể dẫn đến các vấn đề như lựa chọn ngược, rủi ro đạo đức, hành vi "bầy đàn" hay hành vi đám đông. * Vai trò của TTCK: Việc tạo lập và phát triển TTCK có ý nghĩa rất quan trọng, là kênh huy động, bổ sung, phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu không có đầy đủ các điều kiện cần thiết đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nó thì TTCK cũng có thể gây nên những tác động tiêu cực đối với sự phát triển ổn định của nền kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, nhận thức được đầy đủ vai trò cũng như những tác động bất lợi của TTCK có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý, sử dụng hiệu quả thị trường
  35. 29 Thứ nhất, TTCK là một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng trong nền kinh tế, chuyển hóa các nguồn vốn ngắn hạn thành nguồn vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho xây dựng và phát triển đất nước. Nhà nước và các doanh nghiệp có thể PHCK rộng rãi ra công chúng để huy động vốn. Nhà nước thông qua phát hành trái phiếu có thể giải quyết thiếu hụt ngân sách, tạo và tăng thêm nguồn vốn để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn, Doanh nghiệp thông qua phát hành cổ phiếu có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và có cơ hội thu được lợi nhuận nhiều hơn. Việc huy động vốn trên TTCK có thể làm tăng vốn chủ sở hữu của các công ty và giúp họ thoát khỏi các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. Thứ hai, TTCK điều hòa, phân bổ vốn đầu tư giữa các doanh nghiệp, các lĩnh vực, các ngành nghề trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy các nhà đầu tư, doanh n ghiệp sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nhà đầu tư chuyển dịch vốn của mình từ loại CK (danh mục đầu tư) kém hiệu quả sang loại CK (danh mục đầu tư) khác có hiệu quả hơn trên cơ sở sự lên xuống của giá CK và mức lợi nhuận kỳ vọng. Theo quy định của TTCK buộc các doanh nghiệp tham gia thị trường phải công bố công khai thông tin theo yêu cầu giúp công chúng và nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Điều này tạo ra áp lực buộc lãnh đạo các doanh nghiệp phải chú trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh; hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của xã hội. Thứ ba, TTCK cung cấp nơi đầu tư cho công chúng, khuyến khích dân chúng tiết kiệm. TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng có suy nghĩ và tâm lý riêng. Với một hệ thống CK khác nhau, người dân có thể tự mình lựa chọn, hoặc thông qua những nhà tài chính chuyên môn, lựa chọn những hình thức đầu tư thích hợp nhất. Nhờ vậy, vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu hút, phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của xã hội. Như vậy, TTCK là nơi cung cấp các cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế của quốc gia. Thứ tư, TTCK là cơ chế định giá các DNNY, là tấm gương phản ánh thực trạng hoạt động và tương lai của các TCNY và của cả nền kinh tế. Giá trị doanh
  36. 30 nghiệp được phản ánh thông qua trị giá cổ phiếu trên TTCK. Các mức giá CK trên TTCK phản ánh thực trạng hoạt động và tương lai của các TCNY. Thực trạng của TTCK phản ánh thực trạng và tương lai chung của các doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế. TTCK là hàn thử biểu cho biết thể trạng của doanh nghiệp và nền kinh tế của một nước. Điều này vô hình chung tạo ra áp lực, thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn. * Mặt tiêu cực của TTCK: TTCK tuyệt nhiên không phải là công cụ vạn năng, bên cạnh những tác động tích cực, nó còn có những mặt hạn chế, và nếu không được quản lý chặt chẽ sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động của nền kinh tế và gây ra những diễn biến tiêu cực khó có thể lường hết. Cụ thể: Một là, TTCK luôn tiềm ẩn khả năng lũng đoạn thị trường và có thể gây nên khủng hoảng theo dây chuyền. Điều này nhiều lúc gây nên những tác hại khôn lường đối với thị trường, làm cho cả khu vực thị trường sụp đổ. Tác động của suy thoái kinh tế Mỹ năm 2008 tới cả thế giới là minh chứng rõ ràng nhất. Hai là, TTCK có thể tạo ra các giao dịch nội gián của cá nhân, tổ chức khi nắm được thông tin của tổ chức phát hành để trục lợi cho mình. Luật pháp về TTCK dù có những điều khoản nghiêm cấm hành vi giao dịch nội gián, nhưng trên thực tế rất khó kiểm soát hành động này, bởi vì trong điều kiện hiện nay công nghệ thông tin đã phát triển khá mạnh, các hành vi giao dịch cũng như cung cấp thông tin nội bộ rất tinh vi, phức tạp, khó phát hiện ngay được Ba là, TTCK có thể phát sinh các thông tin không đúng về hoạt động của doanh nghiệp hoặc một loại CK. Việc tung tin sai sự thật để gây thất thiệt cho các nhà đầu tư chân chính thường được gắn liền với các hành vi khác như đầu cơ, trục lợi, lũng đoạn thị trường Các hành vi này có thể tác động gây thiệt hại cho công chúng đầu tư, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK. Các hiện tượng tiêu cực trên đã làm suy giảm tính hoàn hảo của TTCK, bóp méo cung cầu và giá cả trên thị trường, làm cho giá cả chứng khoán không phản ánh đúng giá trị kinh tế cơ bản của tổ chức PHCK và không phản ánh đúng tác động của các yếu tố kinh tế trên TTCK. TTCK lại là thị trường rất nhạy cảm với các biến cố kinh tế, phi kinh tế và có tác động rất lớn đến nền kinh tế. Do đó, đây chính là một
  37. 31 trong những lý do dẫn đến việc Nhà nước phải quản lý, giám sát TTCK để giảm thiểu các tiêu cực, bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư và tạo ra tính hiệu quả của thị trường. 2.1.2. Các chủ thể tham gia và các hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán 2.1.2.1. Các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán Tham gia TTCK bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, song về cơ bản có: - Tổ chức phát hành chứng khoán: là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là người cung cấp hàng hóa cho TTCK, thường bao gồm: chính phủ và chính quyền địa phương (phát hành trái phiếu); doanh nghiệp (phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp); các tổ chức tài chính (phát hành chứng chỉ quỹ). - Nhà ĐTCK là những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia ĐTCK trên TTCK. Nhà ĐTCK là các chủ thể đại diện cho sức cầu trên TTCK đồng thời là chủ thể cung ứng vốn cho TTCK, là yếu tố quyết định đến sự mở rộng và phát triển của TTCK. Có thể chia nhà đầu tư thành nhiều nhóm như: nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư các nhân, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ CK trên thị trường là các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh và dịch vụ CK một cách chuyên nghiệp trên TTCK nhằm thu lợi nhuận. Họ là các CTCK, các CTQLQ, công ty môi giới, trung gian tài chính, nhà môi giới CK v.v Các chủ thể này có thể trực tiếp và gián tiếp tác động đến hành vi của người bán, người mua và trở thành tác nhân quan trọng trong việc kết nối giữa cung với cầu CK trên thị trường. Vì vậy, hoạt động của các chủ thể này luôn phải đặt dưới sự quản lý và giám sát của các cơ quan QLNN, cơ quan tổ chức thị trường và các hiệp hội nghề nhằm đảm bảo tính hợp pháp và ngăn chặn các vi phạm gây tác động xấu đến TTCK. - Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán (các đơn vị quản lý TTCK và tổ chức phụ trợ) như: Cơ quan quản lý nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
  38. 32 2.1.2.2. Một số hoạt động cơ bản trên thị trường chứng khoán Trên TTCK diễn ra nhiều hoạt động khác nhau, song về cơ bản gồm một số hoạt động chủ yếu sau: - Phát hành chứng khoán (PHCK): là hoạt động chào bán CK của tổ chức phát hành trên TTCK. PHCK làm gia tăng lượng cung CK và giúp tổ chức PHCK thực hiện mục tiêu huy động vốn trên TTCK. Hoạt động này có liên quan chặt chẽ đến quyền lợi của công chúng đầu tư và sự ổn định, lành mạnh của thị trường; vì vậy chính phủ các nước đều quy định khá chặt chẽ các điều kiện, thủ tục phát hành, trách nhiệm công bố thông tin của tổ chức PHCK. Có hai hình thức PHCK trên thị trường sơ cấp: phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng. Trong đó: 1- Phát hành riêng lẻ là việc phát hành trong đó CK được bán trong phạm vi một số người nhất định với những điều kiện hạn chế; 2- Phát hành ra công chúng là việc phát hành rộng rãi ra cho một số lượng lớn công chúng đầu tư, trong đó một tỷ lệ nhất định CK phải được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ. - Niêm yết chứng khoán (NYCK): là thủ tục cho phép một CK nhất định được phép giao dịch trên SGDCK, là quá trình mà SGDCK chấp thuận cho công ty PHCK được phép niêm yết và giao dịch trên SGDCK nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về định lượng cũng như định tính mà sở giao dịch đề ra. Mục tiêu của việc niêm yết là hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định, xây dựng lòng tin của công chúng đối với TTCK bằng cách lựa chọn các CK có chất lượng cao để giao dịch. - Giao dịch chứng khoán (GDCK): có thể được hiểu là hoạt động tổ chức nghiệp vụ mua bán CK qua hệ thống giao dịch của TTCK. Hoạt động mua bán CK trên TTCK có thể diễn ra trên thị trường tập trung (trung tâm, sở GDCK) và thị trường phi tập trung. Mọi GDCK đã niêm yết đều phải qua hệ thống tại sở, trung tâm GDCK theo phương thức khớp lệnh hoặc phương thức thỏa thuận. - Công bố thông tin: một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc công khai, minh bạch trong đó công khai thông tin là vấn đề đặc biệt quan trọng. Thông tin thị trường được ví như mạch máu, nguồn năng lượng nuôi sống thị trường. Hệ thống thông tin thị trường đầy đủ, chính xác đối với nhà đầu tư là điều kiện cần thiết để thành công trong ĐTCK; đối với người kinh doanh, là cơ
  39. 33 sở để xây dựng kế hoạch kinh doanh, kế hoạch phát triển công ty; đối với cơ quan quản lý, là cơ sở để điều hành và quản lý đảm bảo thị trường công khai và hiệu quả và là cơ sở để hoàn thiện quy trình quy chế. - Thanh toán bù trừ, lưu ký và đăng ký CK là một hệ thống cụ thể các trang thiết bị, con người, các quy định và hoạt động về thanh toán, bù trừ, lưu ký và đăng ký CK. Đăng ký chứng khoán có thể được hiểu là việc ghi nhận và theo dõi những thông tin về người sở hữu chứng khoán, bao gồm các thông tin về loại chứng khoán, số lượng chứng khoán của từng người sở hữu. LKCK có thể được hiểu là hoạt động lưu giữ, bảo quản CK của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với CK lưu ký. Thanh toán bù trừ CK có thể được hiểu là hoạt động luân chuyển CK trên các tài khoản lưu ký dưới sự điều hành của TTLKCK. Đây là những hoạt động có vai trò bổ trợ cho hoạt động của TTCK đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả, bền vững và tuân thủ đúng pháp luật. 2.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2.2.1. Khái niệm, sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán 2.2.1.1. Khái niệm Trong các môn khoa học về quản lý, thuật ngữ quản lý được định nghĩa như sau: Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng bị quản lý) trên các khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách, nguyên tắc, quy định và bằng các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng bị quản lý [8]. Quy mô của quản lý có thể khác nhau: toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị Quy mô khác nhau thì tính chất quản lý cũng khác nhau. Về khái niệm QLNN đối với TTCK: hiện có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, quản lý thị trường nói chung và TTCK nói riêng là việc các cơ quan của chính phủ xây dựng, ban hành khuôn khổ, quy định pháp luật để thị trường hoạt động, và dựa trên đó để tiến hành giám sát, quản lý các hoạt động của thị trường. Trong khuôn khổ luận án, nội hàm của QLNN đối với TTCK được hiểu như sau:
  40. 34 QLNN đối với TTCK trong HNQT là việc nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách, nguyên tắc, quy định và các biện pháp cần thiết để tiến hành quản lý, giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia TTCK nhằm đảm bảo TTCK phát triển bền vững, hiệu quả, phục vụ mục tiêu nhất định của nền kinh tế quốc dân và phù hợp với cam kết hội nhập. Căn cứ vào khái niệm này, có thể rút ra một số nhận xét cơ bản sau: Thứ nhất, chủ thể QLNN đối với TTCK là các cơ quan nhà nước: từ Quốc hội là cơ quan lập pháp thông qua và ban hành Luật Chứng khoán tạo lập căn cứ pháp lý cho quản lý; Chính phủ là cơ quan hành pháp ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành luật, Quyết định cụ thể hóa các văn bản dưới luật và tổ chức các cơ quan chuyên môn để thực hiện chức năng quản lý. Ở một số nước trên thế giới, Bộ Tài chính, NHNN hay UBCK là cơ quan trực tiếp thay mặt Chính phủ thực hiện chức năng QLNN đối với TTCK. Thứ hai, đối tượng của quản lý là các cá nhân, tổ chức, các chủ thể tham gia đầu tư, kinh doanh liên quan đến TTCK, cụ thể là: các công ty chứng khoán, các doanh nghiệp niêm yết, các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức; các quỹ đầu tư chứng khoán, các tổ chức trung gian trên thị trường Thứ ba, mục đích của QLNN đối với TTCK là nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động công bằng, hiệu quả và công khai; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người tham gia vào TTCK phù hợp với các cam kết trong HNQT, đồng thời qua đó để phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội. Thứ tư, để quản lý TTCK, về căn bản cơ quan QLNN cần thực hiện những nội dung sau: (1) Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực chứng khoán; (2) Giám sát việc thực hiện tuân thủ pháp luật, pháp qui; (3) Điều tiết thị trường thông qua các hoạt động như cấp phép, phê duyệt ; và (4) Xử lý những vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán. 2.2.1.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Các học thuyết về kinh tế và quản lý kinh tế cho thấy, cơ chế thị trường không phải là vạn năng, thường xuất hiện tình trạng thất bại của thị trường. Thất bại của thị trường sẽ mang lại những ảnh huởng xấu tới nền kinh tế. Và nếu không có
  41. 35 sự can thiệp của nhà nước, bản thân thị trường không có khả năng tự khắc phục được những thất bại này. Đó chính là nguyên nhân căn bản nhất dẫn tới sự cần thiết phải có sự giám sát, quản lý TTCK của chính phủ. Cụ thể: Thứ nhất, QLNN xuất phát từ đòi hỏi của nền KTTT. Lý thuyết kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng, kinh tế thị trường không thể tự điều chỉnh, không thể tự khắc phục các khuyết tật vốn có của nó, thị trường không phải là nơi có thể đạt được sự hài hoà trong việc phân phối thu nhập xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, cũng như phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng Bên cạnh những ưu thế vượt trội, TTCK vẫn có những khuyết tật vốn dĩ của nền kinh tế thị trường như có thể xảy ra mất cân đối kéo dài, suy thoái đạo đức nghề nghiệp, trốn thuế, lừa đảo Đặc biệt, với đặc tính vốn có của mình, TTCK luôn tiềm ẩn khả năng bị lũng đoạn thị trường, giao dịch nội gián và nếu để nó tự thân vận động theo những quy luật kinh tế vốn dĩ (quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu ) mà thiếu vắng "bàn tay hữu hình" của nhà nước sẽ có thể gây nên khủng hoảng theo dây chuyền, tác động tiêu cực tới sự phát triển của cả xã hội. Khi đó, tất yếu như các loại thị trường khác, ngoài sự điều chỉnh của "bàn tay vô hình" - quy luật kinh tế tất yếu của thị trường, thì TTCK phải được Nhà nước thừa nhận và quản lý bằng pháp luật. Nếu thiếu sự định hướng của Nhà nước, quá trình xây dựng và phát triển TTCK có thể dẫn đến những sai lệch, không đúng hướng, không phù hợp với quy mô và xu thế phát triển chung của nền kinh tế trong nước và thế giới, tác động xấu tới các hoạt động kinh tế - xã hội. Thứ hai, ra đời trong một nền kinh tế thị trường phát triển bậc cao, TTCK có đặc trưng là phát triển không ổn định, mà có sự dao động rất mạnh và khó dự đoán. Có lúc thị trường rơi vào trạng thái tăng trưởng quá nóng nhưng cũng có lúc thị trường có thể sụp đổ rất nhanh khi các nhà đầu tư đánh mất niềm tin vào thị trường và bán tháo chứng khoán. Do đó, hơn bất kỳ thị trường nào khác, TTCK luôn phản ánh một cách quá mức hiện trạng của nền kinh tế. Điển hình là sự can thiệp của Chính phủ Mỹ vào TTCK sau sự sụp đổ của TTCK Mỹ năm 1929, kéo theo sự sụp đổ của nhiều TTCK khác, gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Từ đó tất cả các nước đều nhận thức được sự cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước đối với
  42. 36 hoạt động của TTCK, trong đó có việc thành lập cơ quan quản lý TTCK, ví dụ: ở Mỹ năm 1934; Nhật Bản năm 1947; Qua hơn 1 thập kỷ hoạt động, TTCK Việt Nam tuy đã đạt được những thành tích ấn tượng nhưng vẫn là thị trường nhỏ, đang trong giai đoạn khởi đầu phát triển, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn như: tính minh bạch trong công bố thông tin thấp, hoạt động mua bán nội gián còn diễn ra phổ biến, hàng hóa trên thị trường chưa đa dạng, Vì vậy, giống như những thị trường khác, trong thời kỳ sơ khởi vai trò quản lý nhà nước đối TTCK Việt Nam là đặc biệt quan trọng. Thứ ba, quản lý và giám sát thị trường chứng khoán nhằm hạn chế những gian lận phát sinh gây tác động xấu đến thị trường và các hoạt động kinh tế - xã hội. Các hoạt động kinh tế thông thường đều chứa đựng trong nó những khả năng phát sinh gian lận nhất định. Hoạt động càng phức tạp thì khả năng phát sinh gian lận càng lớn. TTCK là một định chế tài chính hoạt động phức tạp và tinh vi. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán là các giấy tờ có giá, và cách đánh giá giá trị của nó mang các đặc thù riêng. Với hàng hóa chứng khoán, chúng ta chỉ biết được giá trị thực của chúng bằng suy đoán, phân tích trên cơ sở xem xét thực trạng và triển vọng phát triển của tổ chức phát hành và những người đang nắm giữ hoặc muốn nắm giữ hàng hóa đó. Cạnh đó, giá cả của chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tâm lý của người mua, người bán, mức độ tin cậy của thông tin, niềm tin của nhà đầu tư, các nhân tố về môi trường pháp lý Đây chính là cơ sở cho việc xuất hiện các hành vi lừa đảo, gian lận như tung tin giả, thao túng thị trường, đầu cơ, mua bán nội gián, gây nhiễu giá, giao dịch lòng vòng, Với tính phức tạp và trừu tượng của các kỹ thuật giao dịch, sự hiện đại, tiên tiến của các máy móc và quy mô của thị trường, các hành vi gian lận rất khó bị phát hiện đối với các nhà đầu tư bình thường. Mặt khác, do lợi nhuận thu được từ kinh doanh chứng khoán là rất lớn nên khả năng xảy ra các hành vi gian lận, sự tinh vi và mức độ nghiêm trọng của các hành vi gian lận là rất cao. Các hiện tượng tiêu cực trên đã làm suy giảm tính hoàn hảo của TTCK, bóp méo cung cầu và giá cả trên thị trường, làm cho giá cả chứng khoán không phản ánh đúng giá trị kinh tế cơ bản của tổ chức PHCK và không phản ánh đúng tác động của các yếu tố kinh tế trên TTCK. Do đó, đây chính là một trong những lý do dẫn đến việc Nhà nước phải quản lý,
  43. 37 giám sát để đảm bảo phát triển ổn định, giảm thiểu các tiêu cực, tạo ra tính hiệu quả của thị trường. Thứ tư, quản lý và giám sát thị trường chứng khoán để bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của nhà đầu tư, dung hoà lợi ích của các chủ thể tham gia trên thị trường, đảm bảo tính ổn định tương đối của thị trường. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán thường có mục đích, quyền lợi hoặc trái ngược nhau hoặc triệt tiêu nhau một phần. Trên TTCK, nhà đầu tư dựa vào những thông tin có liên quan và tác động đến giá chứng khoán để ra các quyết định mua bán CK. Nếu những thông tin này thiếu chính xác, không trung thực và nếu xảy ra các hành vi tiêu cực như thao túng, gian lận thì nhà đầu tư sẽ bị thua thiệt. Nhìn chung, quyền lợi và mục tiêu của các chủ thể mặc dù có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ nhưng lại luôn bị chia sẻ. Mỗi chủ thể đều bằng cách này hay cách khác cố gắng tối đa hoá lợi ích của mình. Chính vì vậy, họ thực hiện những hoạt động đa dạng, phức tạp và cạnh tranh lẫn nhau và từ đó tạo nên động lực cho thị trường phát triển. Nhưng cũng chính sự cạnh tranh phức tạp này dễ dẫn đến những hành vi gian lận. Khi sự cạnh tranh quá lớn, nó sẽ chuyển sang một thái cực xấu, thị trường do đó sẽ hoạt động hỗn loạn, mất ổn định. Vì vậy, với những mâu thuẫn có chiều hướng trái ngược nhau trên thị trường chứng khoán nên nhà ĐTCK chỉ yên tâm khi có một chủ thể trung lập, không vì mục tiêu lợi nhuận đứng ra quản lý, giám sát quá trình cung cấp thông tin và các hoạt động trên thị trường nhằm hạn chế tối đa các tiêu cực để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của họ. Chủ thể đó chỉ có thể là Nhà nước. Thứ năm, trong quá trình triển khai luận án, nghiên cứu sinh tiến hành điều tra xã hội học, với việc phát phiếu thăm dò ý kiến về một số nội dung cụ thể của luận án. Số phiếu phát ra là 450, số phiếu thu về là 412. Kết quả thu được như sau (Phiếu và kết quả khảo sát xem Phụ lục 01). Trong số 450 người được hỏi, có 134/412 (tương đương 32,5%) người hiện giữ vị trí lãnh đạo (cấp phòng trở lên) tại các sở, ban, ngành, các công ty chứng khoán; số còn lại là nhân viên chiếm 67,5%; Về trình độ học vấn, tiến sĩ có 15/412 số phiếu (3,6%); thạc sỹ là 78/412 (18,9%); đại học là 226/412 (54,9%); cao đẳng là 39/412 (9,5%); trung cấp là 18/412 (4,4%).
  44. 38 3.6 13.3 Cần thiết Bình thường Không cần thiết 74 Biểu đồ 2.1: Mức độ cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam Biểu đồ trên cho thấy quan điểm của người dân đối với sự cần thiết của QLNN đối với TTCK. Với việc đưa ra 3 ý kiến trái ngược nhau để có thể đo mức đánh giá của người dân về sự cần thiết của QLNN đối với TTCK. Đối với nhận định đầu tiên, 74% số người được hỏi cho rằng cần thiết phải có sự quản lý của nhà nước đối với TTCK; ở nhận định không cần thiết phải quản lý nhà nước đối với TTCK, tỷ lệ đồng tình là 3,6% và ở nhận định cuối cùng, sự cần thiết của QLNN đối với TTCK ở mức bình thường là 13,3%. Các kết quả nghiên cứu có sự phân định rõ ràng, khẳng định được tính cấp thiết của QLNN đối với TTCK, một lĩnh vực của nền kinh tế hiện đại. 2.2.2. Chủ thể, mục tiêu và nội dung quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán 2.2.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Chủ thể QLNN đối với TTCK có thể bao gồm nhiều cơ quan chức năng khác nhau. Mỗi cơ quan liên quan giữ một vai trò, vị trí nhất định đối với quá trình phát triển của TTCK. Về nguyên tắc, các hoạt động quản lý nhà nước phải được tiến hành trên cơ sở pháp lý nhất định. Trong đó: - Cơ quan lập pháp (Quốc hội) giữ vai trò là chủ thể thông qua và ban hành các đạo luật làm căn cứ chung nhất để thực hiện các hoạt động quản lý TTCK.
  45. 39 - Cơ quan hành pháp (Chính phủ) chịu trách nhiệm ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức các hoạt động QLNN đối với TTCK trên cơ sở các văn bản pháp luật đã được cơ quan lập pháp ban hành. Với thẩm quyền của mình, chính phủ các nước thường thành lập và giao chức năng, nhiệm vụ cho cơ quan chuyên quản để triển khai các hoạt động quản lý TTCK. Bên cạnh đó, chính phủ còn có thể giao nhiệm vụ cho một số bộ, ngành có liên quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương, v.v tham gia thực hiện nhiệm vụ QLNN theo từng mảng hoạt động có liên quan đến lĩnh vực CK&TTCK. Tuy nhiên, cơ quan quản lý chuyên ngành CK&TTCK là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện các hoạt động QLNN đối với TTCK. 2.2.2.2. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Mục tiêu tổng quát trong QLNN đối với TTCK là tạo ra một thị trường hoạt động ổn định, hiệu quả, phát huy tốt nhất vai trò của TTCK đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó, có hướng tới những mục tiêu cụ thể sau: Một là, mục tiêu phát triển thị trường. Mục tiêu cuối cùng của QLNN nói chung và quản lý TTCK nói riêng là nhằm phát triển thị trường, cả thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, tăng khối lượng giao dịch và mức vốn hóa thị trường, đưa thị trường trở thành một trong những kênh quan trọng huy động vốn và nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế đất nước. Hai là, bảo vệ nhà đầu tư, ổn định thị trường và giảm thiểu rủi ro. IOSCO khuyến nghị: mục tiêu cơ bản trong quản lý TTCK là bảo vệ nhà đầu tư; đảm bảo thị trường công bằng, minh bạch và giảm thiểu rủi ro hệ thống; tăng cường ổn định thị trường trong nước; phối hợp, chia sẻ thông tin để ổn định thị trường khu vực, toàn cầu. Trong đó, bảo vệ NĐT; đảm bảo thị trường công bằng, hiệu quả, minh bạch và giảm rủi ro hệ thống là ba mục tiêu cơ bản được IOSCO khuyến nghị cho mọi thị trường có tính tới yếu tố môi trường của từng quốc gia. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT không chỉ là mục tiêu mà còn là nguyên tắc hoạt động của TTCK, thể hiện vai trò của QLNN. Mọi chính sách, quy định, cơ chế hoạt động đều phải thể hiện trách nhiệm bảo vệ nhà đầu tư và mang tính quyết định đến sự phát triển của TTCK. QLNN đối với TTCK cần hướng tới việc quản lý rủi ro có hệ thống, tránh những tác động dây chuyền của đổ vỡ thị trường, giảm thiểu tổn thất cho nền kinh tế khi khủng hoảng xảy ra.
  46. 40 Ba là, đảm bảo tính công bằng, minh bạch và hiệu quả của thị trường. TTCK chỉ có thể hoạt động ổn định và bền vững khi các thông tin cung cấp và các giao dịch trên thị trường bảo đảm được tính công bằng, minh bạch, trung thực, đầy đủ và kịp thời. Bởi vì đây chính là cơ sở giúp cho tổ chức phát hành và nhà đầu tư có được những quyết định đúng, giúp các tổ chức kinh doanh chứng khoán có được những kết quả phân tích và dự báo chính xác. Để góp phần tạo ra sự ổn định, năng động và hiệu quả của TTCK thì hoạt động quản lý của nhà nước phải tạo ra sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia TTCK trong khuôn khổ pháp luật và hướng tới lợi ích chung. Để thực hiện được các yêu cầu này, QLNN phải đảm bảo việc cung cấp thông tin về chứng khoán và TTCK được thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác làm cơ sở cho việc định giá chứng khoán; các quy luật của thị trường phải được tôn trọng. Đồng thời, việc sử dụng các công cụ và biện pháp quản lý để tác động, can thiệp vào thị trường cần có sự cân nhắc, tính toán cẩn trọng; tránh khuynh hướng sử dụng các biện pháp trái quy luật và can thiệp thô bạo bằng những biện pháp hành chính có thể đưa đến những hậu quả xấu với thị trường. 2.2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Cho đến nay không ai phản đối phải QLNN đối với TTCK nhưng quản lý thế nào với nội dung ra sao và bằng phương thức gì thì chưa có ý kiến thống nhất. Về cơ bản, có các cách tiếp cận sau về QLNN đối với TTCK [15]: * Xuất phát từ chức năng quản lý: QLNN đối với TTCK đòi hỏi Nhà nuớc phải quản lý thông qua hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển, tổ chức bộ máy quản lý, sử dụng các công cụ quản lý, thanh tra giám sát và điều hành thị truờng phát triển theo mục tiêu nhất định. Theo giác độ này, QLNN đối với TTCK theo chức năng bao gồm những nội dung sau: + Về chức năng tổ chức: Xây dựng mô hình và cơ cấu quản lý của Nhà nước đối với TTCK như UBCK, các SGDCK, các cơ quan quản lý, giám sát khác; bố trí cán bộ cho hệ thống QLNN, qui định chức năng, nhiệm vụ hoạt động cho các cơ quan này cũng nhu sự phân công quyền lực giữa các cơ quan trong hệ thống quản lý TTCK. + Về chức năng hoạch định: Cơ quan QLNN xây dựng chiến lược phát triển TTCK để xác định hướng phát triển phù hợp truớc mắt cũng như lâu dài cho TTCK;
  47. 41 đồng thời, thiết lập khung khổ luật pháp, tạo lập hành lang pháp lí cho các hoạt động và các tổ chức, các thành viên trên TTCK. + Về chức năng điều tiết: Các cơ quan QLNN thông qua hệ thống chính sách hoặc các mệnh lệnh hành chính để điều phối hoạt động, cân bằng lợi ích giữa các chủ thể trên thị trường; kiểm tra tình hình chấp hành qui định trong hoạt động của các đối tượng quản lý; nhanh chóng điều chỉnh thị trường trở lại trạng thái ổn định theo đúng định hướng. + Về chức năng thanh tra, giám sát: Trên cơ sở các tiêu chuẩn, định mức, qui định đã ban hành, cơ quan QLNN giám sát hoạt động của tất cả các đối tượng trên thị trường và cả hoạt động QLNN của các cơ quan chức năng nhằm đảm bảo TTCK được giám sát công khai và minh bạch. + Về chức năng giáo dục, đào tạo: Cơ quan QLNN đối với TTCK có nhiệm vụ phổ biến kiến thức cơ bản, đào tạo kỹ năng cần thiết cho các đối tượng tham gia trên thị truờng đặc biệt là các cán bộ quản lý và công chúng đầu tư. Ngoài ra, việc tuyên truyền giáo dục về pháp luật chứng khoán là cần thiết để ngăn ngừa nguy co xâm phạm pháp luật trong tương lai. * Xuất phát từ nghiệp vụ trên TTCK: QLNN đối với TTCK trước hết là quản lý các hoạt động nghiệp vụ của thị trường, nghĩa là phải quản lý phát hành, niêm yết, giao dịch chứng khoán, quản lý kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của các CTCK, CTQLQ, quản lý lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ Theo giác độ này, quản lý TTCK đòi hỏi phải quản lý các nghiệp vụ chuyên ngành theo những chuẩn mực chung của thế giới, bao gồm quản lý các hoạt động nghiệp vụ sau: + Quản lý đối với hoạt động phát hành, niêm yết CK: cơ quan QLNN qui định các điều kiện được phát hành như công bố công khai thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. + QLNN đối với hoạt động trung gian tài chính trên TTCK, chủ yếu là các CTCK. Đặc điểm của TTCK là việc mua bán chứng khoán phải thông qua các CTCK. Hoạt động của các tổ chức trung gian này ảnh hưởng đến sự công khai, minh bạch trên thị trường. Bởi vậy, Nhà nước qui định các tiêu chuẩn tối thiểu về
  48. 42 vốn, về các chuẩn mực và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ trong các tổ chức này để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư. + Quản lý nhà nước đối với các qũy đầu tư chứng khoán và hoạt động của các tổ chức này: Cơ quan QLNN qui định các chuẩn mực về cấp phép, hình thức pháp lí, cấu trúc các qũy đầu tư, các qui định về công bố thông tin để bảo vệ tài sản của NĐT. + Quản lý nhà nước đối với hoạt động giao dịch chứng khoán: Nhà nước qui định niêm yết phải được giao dịch qua các TTGDCK hoặc các SGDCK theo phương thức khớp lệnh hoặc thỏa thuận; qui định cơ sở cho thực hiện giao dịch, công bố các chỉ số đánh giá thị trường làm căn cứ tính toán của các NĐT. Nhà nước công bố hoạt động giám sát giao dịch chứng khoán của các Trung tâm hoặc SGDCK. + QLNN đối với hoạt động lưu ký, đăng ký, giao dịch và thanh toán bù trừ chứng khoán: Các cơ quan QLNN phải xây dựng và ban hành các cơ sở pháp lí cần thiết cho các hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán như qui định qui trình thanh toán, qui định mô hình tổ chức và giám sát hoạt động của tổ chức này. * Xuất phát từ các yếu tố cấu thành thị trường: QLNN đối với TTCK đòi hỏi Nhà nước phải quản lý các yếu tố của TTCK. Đó là quản lý để tăng cung, tăng cầu, quản lý sự biến động giá cả trên thị trường và quản lý sự cạnh tranh đảm bảo sự phát triển lành mạnh của TTCK. QLNN đối với TTCK dựa trên các yếu tố của thị trường, bao gồm: 1, Quản lý cung trên thị trường nhằm mục đích tăng cung cho thị trường: nguồn cung chủ yếu từ trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu chào bán ra thị trường của các doanh nghiệp cổ phần hóa; 2, Quản lý cầu trên thị trường nhằm mục đích kích cầu, khuyến khích đầu tư dài hạn và đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK; 3, Quản lý giá trên thị trường nhằm tạo sự ổn định cần thiết để mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, tránh những giao dịch nội gián không phản ánh đúng giá cả của thị trường; 4, Quản lý cạnh tranh trên thị trường nhằm giám sát các hoạt động kinh doanh và dịch vụ chứng khoán, xử lý các vi phạm của các chủ thể hoạt động trên TTCK. Như vậy, về cơ bản có 3 cách tiếp cận đến hoạt động QLNN đối với TTCK: (1) quản lý theo chức năng quản lý; (2) quản lý theo nghiệp vụ chứng khoán và; (3) quản lý theo các yếu tố của thị trường. Trong khuôn khổ của luận án này, người viết
  49. 43 tập trung đi vào nghiên cứu các khía cạnh của QLNN đối với TTCK theo chủ thể tham gia trên TTCK, tức là đề xuất một quan điểm thứ tư (trong đó, có một phần trùng lặp với cách tiếp cận thứ 2). Theo đó cần quản lý các tổ chức phát hành; các tổ chức và NĐT tham gia trên TTCK; các tổ chức kinh doanh dịch vụ và các tổ chức có liên quan (SGDCK, Trung tâm lưu ký chứng khoán, công ty định mức tín nhiệm). - Ở góc độ thứ nhất, quản lý nhà nước đối với tổ chức PHCK trên thị trường: cơ quan QLNN quy định các điều kiện được phát hành như công bố công khai thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. - Ở góc độ thứ hai, quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh doanh dịch vụ trên TTCK. Đây là những đối tượng có ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động của TTCK. Vì vậy, nhà nước sẽ quy định các tiêu chuẩn tối thiểu đối với tổ chức trung gian trên thị trường; quy định về mức vốn ban đầu, các chuẩn mực về tổ chức nội bộ và đạo đức nghề nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi cho NĐT. - Ở góc độ thứ ba, quản lý nhà nước đối với các tổ chức có liên quan trên TTCK (đơn vị quản lý và tổ chức phụ trợ). Trong đó, cần xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý, đảm bảo: Cơ quan quản lý cần có vị thế độc lập, có đủ quyền lực, các nguồn lực cần thiết và năng lực thực hiện các chức năng và thẩm quyền của mình; Có quy trình quản lý rõ ràng và nhất quán; Đội ngũ cán bộ và nhân viên của cơ quan quan quản lý TTCK cần chấp hành các chuẩn mực nghề nghiệp cao nhất, bao gồm cả việc bảo mật. - Ở góc độ thứ tư QLNN đối với các qũy đầu tư chứng khoán và hoạt động của các tổ chức này: Cơ quan QLNN qui định các chuẩn mực về cấp phép, hình thức pháp lí, cấu trúc các qũy đầu tư, các qui định về công bố thông tin để bảo vệ tài sản của khách hàng. 2.2.2.4. Tiêu chí đánh giá nội dung quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Các tiêu chí đánh giá nội dung hoạt động quản lý TTCK xoay quanh các vấn đề cơ bản của quản lý TTCK: tổ chức phát hành và niêm yết CK, quỹ ĐTCK, các tổ chức kinh doanh dịch vụ trên thị trường, thị trường thứ cấp. Cụ thể: * Đối với tổ chức bộ máy quản lý TTCK: Hoạt động của cơ quan quản lý
  50. 44 TTCK phụ thuộc chủ yếu vào vị thế và thẩm quyền mà cơ quan đó có được. Các tiêu chí đánh giá một cơ quan quản lý TTCK hiệu quả bao gồm: Vị thế của cơ quan quản lý phải được rõ ràng. Hoạt động của cơ quan quản lý chỉ có thể đạt hiệu quả cao nhất nếu cơ quan quản lý có vị thế độc lập nhất định. Do đó, tiêu chí đánh giá vị thế của cơ quan quản lý TTCK bao gồm các tiêu chí để đánh giá mức độ độc lập của cơ quan quản lý, thể hiện ở các đặc điểm sau: 1- Trách nhiệm của cơ quan quản lý cần được xác định rõ ràng và được quy định khách quan; 2- Cơ quan quản lý cần có vị thế độc lập trong hoạt động và chịu trách nhiệm trong thực hiện chức năng và thẩm quyền của mình; 3- Cơ quan quản lý cần đạt được mức độ độc lập nhất định trong hoạt động; 4- Cơ quan quản lý TTCK cần có đầy đủ thẩm quyền, các nguồn lực cần thiết và năng lực để thực hiện các chức năng và thẩm quyền của mình; 5- Cơ quan quản lý cần áp dụng các quy trình quản lý thống nhất/nhất quán, rõ ràng. Đội ngũ cán bộ và nhân viên của cơ quan quản lý TTCK phải đạt được các chuẩn mực nghề nghiệp cao nhất, bao gồm cả việc bảo mật. Thực tế là, chỉ khi nào trách nhiệm được xác định đúng đắn, rõ ràng, có vị thế độc lập trong quản lý, có thẩm quyền đầy đủ, có quy trình quản lý minh bạch, nhất quán, có đủ năng lực và nguồn lực cần thiết để thực hiện các chức năng và thẩm quyền, có đội ngũ cán bộ và nhân viên đạt các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp thì hoạt động của cơ quan quản lý đầu ngành CK & TTCK mới có thể đạt được chất lượng và hiệu quả tốt nhất. * Đối với tổ chức phát hành: Tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý phát hành và NYCK trên TTCK tập trung vào đánh giá chế độ công bố thông tin. Lý do là việc công bố thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác là yêu cầu quan trọng nhất đối với việc xác lập giá CK trên một thị trường công bằng, minh bạch và hiệu quả. TTCK là thị trường của "thông tin" và thị trường của "niềm tin". Thông tin đầy đủ giúp nhà đầu tư đánh giá được đúng đắn đối với khoản đầu tư được chào mời trên thị trường. Một cơ chế quản lý đảm bảo việc công bố thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác giúp duy trì và củng cố lòng tin của nhà đầu tư vào TTCK. Thông tin được công bố bao gồm các thông tin bắt buộc và tự nguyện, trong đó, thông tin bắt buộc là yêu cầu cần được tuân thủ nghiêm ngặt. * Đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ trên thị trường: Tiêu chí đánh giá