Luận án Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong liên minh thuế quan miền nam Châu Phi (sacu)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong liên minh thuế quan miền nam Châu Phi (sacu)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_an_giai_phap_phat_trien_quan_he_thuong_mai_giua_viet_na.doc
Nội dung text: Luận án Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong liên minh thuế quan miền nam Châu Phi (sacu)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI TRẦN QUANG HUY GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC TRONG LIÊN MINH THUẾ QUAN MIỀN NAM CHÂU PHI (SACU) Chuyên ngành: Thương mại Mã số: 62.34.10.01 LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: Hướng dẫn 1: PGS.TS. Trần Công Sách Hướng dẫn 2: GS. TS. Đỗ Đức Bình HÀ NỘI - 2015
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Trần Quang Huy
- ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii MỤC LỤC iiii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT vi DANH MỤC CÁC BẢNG viii PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài luận án 1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu 4 5. Những đóng góp mới của luận án 5 6. Kết cấu nội dung của luận án 6 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIỀN CỨU 7 1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước có liên quan đến đề tài luận án 7 2. Những vấn đề còn tồn tại trong các nghiên cứu có liên quan và hướng nghiên cứu của luận án 14 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA MỘT QUỐC GIA VỚI CÁC NƯỚC TRONG MỘT LIÊN MINH THUẾ QUAN 16 1.1. Lý luận về quan hệ thương mại giữa các quốc gia 16 1.1.1. Khái quát lý thuyết về quan hệ thương mại quốc tế 16 1.1.2. Đặc điểm quan hệ thương mại quốc tế của một liên minh thuế quan 23 1.2. Nội dung, hình thức, các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan 27 1.2.1. Nội dung và hình thức phát triển quan hệ thương mại 27
- iii 1.2.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển quan hệ thương mại 32 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ thương mại 34 1.3 Kinh nghiệm của một số nước về phát triển quan hệ thương mại với các nước trong SACU và bài học rút ra cho Việt Nam 36 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển quan hệ thương mại với các nước trong SACU 36 1.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam 42 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC TRONG LIÊN MINH THUẾ QUAN MIỀN NAM CHÂU PHI (SACU) 45 2.1. Các nước SACU và chính sách thương mại đối với Việt Nam 45 2.1.1. Đặc điểm kinh tế của các nước SACU 45 2.1.2. Chính sách thương mại của SACU đối với Việt Nam 57 2.2. Chính sách thương mại của Việt Nam đối với các nước SACU 61 2.2.1. Khái quát về quan hệ chính trị, ngoại giao 61 2.2.2. Chính sách thương mại của Việt Nam đối với các nước SACU 63 2.3. Thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU 67 2.3.1. Phát triển quan hệ thương mại ở cấp độ thể chế 67 2.3.2. Phát triển quan hệ thương mại ở cấp độ thực thể 72 2.4. Đánh giá chung về thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU 86 2.4.1. Những thành quả đạt được 86 2.4.2. Một số hạn chế và nguyên nhân 88
- iv Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC TRONG LIÊN MINH THUẾ QUAN MIỀN NAM CHÂU PHI (SACU) 93 3.1. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU 93 3.1.1. Triển vọng hội nhập kinh tế khu vực của SACU 93 3.1.2. Triển vọng phát triển kinh tế của các nước SACU 96 3.1.3. Cơ hội và thách thức đối với việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU 99 3.1.4. Dự báo triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU 101 3.2. Quan điểm và định hướng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU thời kỳ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 105 3.2.1. Quan điểm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU 105 3.2.2. Định hướng phát triển quan hệ thương mại với giữa Việt Nam với các nước SACU 107 3.3. Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong SACU giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 110 3.3.1. Giải pháp ở cấp độ vĩ mô 110 3.3.2. Khuyến nghị cho doanh nghiệp 118 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 129 NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO
- v DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt tiếng Anh AfDB Africa Development Ngân hàng Phát triển châu Phi Bank AGOA African Growth and Đạo luật tăng trưởng và cơ hội cho Opportunity Act châu Phi ANC African National Đại hội dân tộc Phi Congress BRICS Brasil, Russia, India, Nhóm các nước gồm Brasil, Nga, Ấn China, South Africa Độ, Trung Quốc và Nam Phi BLNS Botswana, Lesotho, Nhóm các nước gồm Botswana, Namibia and Swaziland Lesotho, Namibia và Swaziland CET Common Effective Tarrif Thuế quan đối ngoại chung COMESA Common Market for Thị trường chung Đông và Nam châu Eastern and Southern Phi Africa CU Customs Union Liên minh thuế quan EPA Economic Partnership Hiệp định đối tác kinh tế Agreement EU European Union Liên minh châu Âu FAO Food and Agriculture Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc Organization FTA Free Trade Area Khu vực thương mại tự do IMF International Monetary Quĩ Tiền tệ quốc tế Fund
- vi MFN Most-Favored Nations Quy chế tối huệ quốc Treatment SACU South African Customs Liên minh thuế quan miền Nam châu Union Phi SADC Southern African Cộng đồng phát triển miền Nam châu Development Phi Community SITC Standard International Phân loại thương mại quốc tế tiêu Trade Classification chuẩn SWAPO South-West Africa Tổ chức Nhân dân Tây-Nam Phi People’s Organization TNC Trans-national Công ty xuyên quốc gia Cooperation UNCTAD United Nations Tổ chức Hội nghị Liên hợp quốc về Conference on Trade and thương mại và phát triển Development WTO World Trade Tổ chức thương mại thế giới Organization
- vii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Các chỉ số kinh tế của khối SACU, 2002-2012 47 Bảng 2.2. Kinh tế các nước SACU, 2012 49 Bảng 2.3. Ngoại thương khối SACU, 2002-2012 52 Bảng 2.4. Ngoại thương của các nước thành viên SACU, 2012 53 Bảng 2.5. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Nam Phi, 1992-1999 72 Bảng 2.6. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước SACU, 2000-2006 73 Bảng 2.7. Nhập khẩu của Việt Nam từ các nước SACU, 2000-2006 74 Bảng 2.8. Kim ngạch XNK Việt Nam – SACU, 2007-2014 75 Bảng 2.9. Xuất khẩu của Việt Nam sang SACU, 2007-2014 76 Bảng 2.10. Nhập khẩu của Việt Nam từ SACU, 2007-2014 77 Bảng 2.11: Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước SACU, 2007-2014 78 Bảng 2.12. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang SACU 79 Bảng 2.13. Mặt hàng xuất khẩu sang Nam Phi năm 2014 80 Bảng 2.14. Mặt hàng xuất khẩu sang Botswana năm 2014 80 Bảng 2.15. Mặt hàng xuất khẩu sang Lesotho năm 2014 81 Bảng 2.16. Mặt hàng xuất khẩu sang Namibia năm 2014 81 Bảng 2.17. Mặt hàng xuất khẩu sang Swaziland năm 2014 82 Bảng 2.18. Nhập khẩu của Việt Nam từ các nước SACU, 2007-2014 83 Bảng 2.19. Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ SACU 84 Bảng 2.20. Mặt hàng nhập khẩu từ Nam Phi năm 2014 84
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận án Mở rộng, đa dạng hóa quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các đối tác là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Chiến lược Phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020 được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng: “Đa dạng hóa thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định thương mại tự do và thị trường tiềm năng, tăng nhanh xuất khẩu ”[6]. Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030 được ban hành tại Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra mục tiêu: “Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 11–12%/năm trong thời kỳ 2011–2020, trong đó giai đoạn 2011–2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm; giai đoạn 2016–2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm”[51]. Để thực hiện được mục tiêu đó, Chiến lược đã đề ra định hướng phát triển thị trường, trong đó nhấn mạnh cần phải “đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống; tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng”[51]. Đối với thị trường Châu Phi, Chiến lược đề ra định hướng tới năm 2020 sẽ chiếm tỷ trọng khoảng 5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Để thực hiện, cụ thể hóa các chủ trương, sách lược của Đảng và Nhà nước ta trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thế giới có nhiều biến động, Việt Nam phải giảm sự lệ thuộc vào một số ít thị trường, tích cực mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó chú trọng các thị trường mới như thị trường Châu Phi. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập
- 2 kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh, giành giật thị trường đang diễn ra gay gắt đòi hỏi phải có những nghiên cứu thường xuyên cập nhật, chi tiết về thị trường Châu Phi. Châu Phi là một thị trường rộng lớn với 55 quốc gia. Mỗi quốc gia, khu vực thị trường đều mang những đặc điểm thị trường có tính đặc thù riêng, vì vậy rất cần phải có những nghiên cứu chi tiết, chuyên sâu từng thị trường và khu vực thị trường. Trong số các tổ chức kinh tế khu vực của Châu Phi, Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU) là tổ chức kinh tế khu vực thành công nhất của châu Phi và là đầu tầu tăng trưởng kinh tế của cả châu lục. SACU được thành lập từ năm 1910 và là Liên minh thuế quan được thành lập sớm nhất trên thế giới. Hiện nay khối liên minh này bao gồm 5 quốc gia thành viên đó là Nam Phi, Bostwana, Lesotho, Namibia và Swaziland. Thị trường các nước SACU được đánh giá có nhiều tiềm năng do kinh tế tăng trưởng khá ổn định, có nhu cầu hàng hóa lớn và đa dạng, chủ yếu là sản phẩm chất lượng vừa phải, giá rẻ. Bên cạnh đó, tình hình chính trị của các nước khu vực SACU khá ổn định; việc Mỹ, EU và một số nước cho phép nhiều sản phẩm các nước khu vực SACU tiếp cận tương đối tự do và thuận lợi hơn thị trường của họ cũng như nhiều chính sách thu hút đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn đã giúp thị trường các nước khu vực SACU ngày càng giành được sự quan tâm chú ý của nhiều nước trên thế giới. Các nước SACU là một khu vực thị trường còn khá mới lạ đối với các doanh nghiệp nước ta. Trao đổi thương mại với các nước khu vực này vẫn còn hạn chế. Năm 2014, trao đổi thương mại hai chiều mới đạt mức 1,014 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 814 triệu USD và nhập khẩu đạt 200 triệu USD. Một trong những nguyên nhân chính khiến cho trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU còn hạn chế đó các cơ quan quản lý nhà nước, các
- 3 doanh nghiệp chưa thực sự có nhiều giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy, phát triển quan hệ thương mại với các nước này. Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU) một cách có hệ thống sẽ góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu hoạch định chính sách và giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm thúc đẩy trao đổi thương mại của nước ta sang các nước SACU đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đây cũng chính là lý do cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận án. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nghiên cứu xác lập các quan điểm, định hướng phát triển và các giải pháp về thể chế và thực thể kinh doanh thương mại trong phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Tổng quan các công trình khoa học đã thực hiện liên quan đến việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU, những vấn đề đã được nghiên cứu, xác định những vấn đề chưa được nghiên cứu, hoặc nghiên cứu chưa sâu để tập trung nghiên cứu. - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quan hệ thương mại quốc tế nói chung và quan hệ thương mại giữa một quốc gia với các nước trong một liên minh thuế quan. - Phân tích, đánh giá chính sách thương mại và các giải pháp đã được triển khai nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong
- 4 SACU; phân tích, đánh giá thực trạng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước trong SACU để tổng kết những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và trong các nước SACU. - Phân tích triển vọng phát triển, đề xuất các quan điểm, định hướng và kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong SACU đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận án: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. * Phạm vi nghiên cứu của luận án: - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận về phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia; Nghiên cứu thực tiễn triển khai các chính sách thương mại và biện pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU và đề xuất các giải pháp phát triển hơn nữa mối quan hệ này. - Thời gian nghiên cứu: Thực trạng phát triển quan hệ thương mại, trong đó chủ yếu là trao đổi thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước SACU từ năm 1992, khi Việt Nam bắt đầu có quan hệ thương mại với các nước SACU - đến nay; các giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU cho giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 4. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành công trình nghiên cứu của mình, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- 5 * Phương pháp nghiên cứu thu thập dữ liệu sơ cấp Bên cạnh việc nghiên cứu lý luận tại bàn về các vấn đề liên quan đến quan hệ thương mại giữa các quốc gia, tác giả còn tiến hành trao đổi với đối tượng có liên quan trong và ngoài nước như các nhà quản lý, các cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại, đại diện một số doanh nghiệp và người tiêu dùng của Việt Nam và các nước SACU. * Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp Tác giả thu thập các văn bản, các công trình khoa học, đề tài, bài báo, sách, thông tin liên quan đến phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia nói chung và phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU nói riêng để nghiên cứu: - Phương pháp điều tra chéo Nhằm kiểm chứng tính chính xác của thông tin được thu thập, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra chéo để đưa ra số liệu, thông tin được sát thực với thực tế. - Chọn lọc, phân tích, đánh giá và tổng hợp Lựa chọn nguồn số liệu để tiến hành phân tích, đánh giá, tổng hợp nhằm đưa ra các nhận định, đánh giá và đề xuất giải pháp. - Phương pháp mô tả thống kê Căn cứ trên báo cáo, số liệu thống kê để đưa ra các tiêu chí và tổng hợp số liệu làm cơ sở cho các nhận định và đề xuất các giải pháp cho đề tài. 5. Những đóng góp mới của luận án - Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. Bên cạnh các cơ sở lý thuyết mang tính kinh điển, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU được xác lập trên cơ sở chính sách đa phương hóa, đa
- 6 dạng hóa quan hệ thương mại của hai bên trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. - Phân tích và đánh giá chính sách thương mại và các giải pháp đã được triển khai nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU; thực trạng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU, những kết quả đã đạt được cũng như các hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU, trong đó có các giải pháp đẩy mạnh trao đổi thương mại hàng hóa giữa hai bên, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường các nước SACU. - Bổ sung nguồn tư liệu cho công tác quản lý Nhà nước về thương mại, công tác nghiên cứu về việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. 6. Kết cấu nội dung của luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan các công trình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận án được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia với các đối tác trong liên minh thuế quan Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU). Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU).
- 7 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIỀN CỨU 1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước có liên quan đến đề tài luận án 1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan về các nước SACU như: - Nghiên cứu của Colin Mc Carthy - The Southern African Customs Union (Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi) [33]. Nghiên cứu đã nêu khái quát quá trình hình thành và phát triển của SACU, những nội dung chính của các Hiệp định năm 1910, năm 1969 và năm 2002, những vấn đề phát sinh từ các Hiệp định này và ảnh hưởng của nó tới các nước thành viên. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã tập trung vào phân tích lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp của các nước SACU. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm phát triển sự hợp tác giữa các nước SACU trong việc phát triển kinh tế và nâng cao vai trò của các cơ quan thường trực của SACU. - Nghiên cứu của Gerhard Erasmus - New SACU Institutions: Prospects for Regional Integration (Các định chế mới của SACU – Triển vọng cho hội nhập khu vực) [35]. Nghiên cứu đã tập trung phân tích các nội dung của Hiệp định SACU năm 2002. Theo đó, các nước SACU đã bước vào một giai đoạn phát triển mới, với việc thành lập và vận hành các bộ máy thường trực của SACU, sự phối hợp chung về chính sách giữa các nước thành viên và sự bình đẳng hơn trong việc ra quyết định chung của khối giữa các nước thành viên.
- 8 Nghiên cứu cũng chỉ ra những thách thức mà các nước SACU cần phải giải quyết cũng như những hạn chế Hiệp định SACU năm 2002. - Nghiên cứu của Carine Zamay Kiala - The Politics of Trade in the Southern African Customs Union: Prospect of a SACU-China Free Trade Agreement (Vấn đề thương mại của SACU – Triển vọng của Hiệp định thương mại tự do SACU-Trung Quốc) [32]. Nghiên cứu đã phân tích những cơ sở lý luận cho việc phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và một liên minh quan thuế, trong đó nêu ra những nét đặc trưng của một liên minh quan thuế. Nghiên cứu cũng đã phân tích thực trạng nền kinh tế của các nước SACU và Trung Quốc, các lợi thế của mỗi bên và khả năng ký kết một Hiệp định thương mại tự do giữa hai bên. Những nghiên cứu bước đầu cho thấy, một Hiệp định như vậy nếu được ký kết sẽ có lợi hơn cho Trung Quốc vì hàng hóa xuất khẩu của nước này cạnh tranh và đa dạng hơn so với các nước SACU, vốn dựa vào xuất khẩu các tài nguyên thiên nhiên dưới dạng thô. - Nghiên cứu của Debesh Bhowmik - Regional Integration in Africa: a case study of SACU (Hội nhập khu vực ở châu Phi: nghiên cứu trường hợp của SACU) [31]. Nghiên cứu đã sử dung phương pháp phân tích định lượng để đánh giá về triển vọng thiết lập một khu vực đồng tiền trung giữa các nước thành viêc SACU, một bước phát triển cao hơn cho các mô hình hội nhập kinh tế khu vực ở châu Phi. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc thiết lập một khu vực đồng tiền chung giữa các nước SACU là hoàn toàn khả thi và nếu được triển khai sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập, hợp tác kinh tế hơn nữa giữa các nước thành viên SACU.
- 9 - Báo cáo của WTO - Trade Policy Review of the Southern African Customs Union (Rà soát chính sách thương mại của SACU) [43]. Đây là bộ tài liệu bao gồm báo cáo của Ban Thư ký WTO và báo cáo của các nước SACU về chính sách thương mại của khối SACU cũng như của các nước thành viên. Tài liệu đã phân tích tổng thể về tình hình phát triển kinh tế của cả khối cũng như của từng nước thành viên SACU. Tài liệu đã tập trung phân tích các chính sách thương mại của SACU và các nước thành viên, quan hệ thương mại giữa SACU và các đối tác. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các nước SACU đã thực hiện đúng các cam kết của mình trong khuôn khổ WTO về cắt giảm thuế quan cũng như áp dụng minh bạch các hàng rào phi thuế quan. - Nghiên cứu của Sukati Mphumuzi - The Economic Partnership Agreements (EPAs) and the Southern African Customs Union (SACU) Region – The Case for South Africa (Hiệp định đối tác kinh tế và các nước SACU – Trường hợp của Nam Phi) [41]. Nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp phân tích định lượng để so sánh lợi ích thu được của các nước SACU khi đàm phàn chung hoặc riêng rẽ với một Hiệp định đối tác kinh tế với EU, đối tác thương mại lớn nhất của cả khối. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu đàm phán chung là một khối thì các nước SACU sẽ thu được lợi ích từ Hiệp định, trong khi nếu đàm phán riêng rẽ thì các nước SACU sẽ bị thiệt hại từ việc ký kết và thực hiện Hiệp định. - Nghiên cứu của WTO - The WTO and Preferential Trade Agreements: From Co-existence to Coherence (WTO và các hiệp định ưu đãi thương mại – từ cùng tồn tại đến sự gắn kết) [44].
- 10 Nghiên cứu đã tổng kết và phân tích chi tiết xu hướng ký kết các hiệp định thương mại tự do trên thế giới, việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực, trong đó có các liên minh quan thuế và SACU là một ví dụ. Nghiên cứu cũng đã phân tích tác động của việc tham gia các liên kết kinh tế đối với các nước thành viên, vấn đề tạo lập và chuyển hướng thương mại; những ảnh hưởng của nó đến việc phát triển thương mại toàn cầu. - Báo cáo Africa Economic Outlook 2013 (Triển vọng phát triển kinh tế Châu Phi năm 2013) của Ngân hàng Phát triển châu Phi (AfDB) [28]. Báo cáo triển vọng kinh tế châu Phi năm 2013 của AfDB đưa ra đánh giá về tình hình phát triển kinh tế của các nước châu Phi, trong đó có các nước châu Phi trong giai đoạn gần đây và triển vọng trong thời gian tới. Nghiên cứu cho thấy kinh tế các nước SACU đã tăng trưởng trở lại sau khi bị ảnh hưởng nặng nề bởi tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, tuy nhiên tăng trưởng còn ở mức khiêm tốn. Triển vọng trung hạn cho thấy kinh tế và hoạt động ngoại thương của các nước SACU tiếp tục tăng trưởng ở mức trung bình, tuy nhiên vẫn sẽ chịu những tác động từ môi trường kinh tế thế giới. Các nghiên cứu nêu trên đã cho thấy quá trình hình thành và phát triển của khối SACU; sự phát triển kinh tế, chính sách thương mại của các nước SACU và quan hệ thương mại của các nước trong SACU và với một số đối tác thương mại trên thế giới. Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên không có nghiên cứu nào đề cập trực tiếp tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong SACU. 1.2. Các nghiên cứu ở trong nước Tại Việt Nam, cho tới nay mới chỉ có một số đề tài nghiên cứu về thị trường châu Phi, trong đó có đề cập đến các nước SACU, chủ yếu là Nam Phi.
- 11 - Trần Thị Lan Hương (2010), Cải cách kinh tế ở Cộng hòa Nam Phi giai đoạn 1994-2004, Luận án Tiến sĩ kinh tế [15]. Luận án đã phân tích những nét chính của cải cách kinh tế ở Cộng hòa Nam Phi, nền kinh tế chủ chốt của khối SACU, kể từ sau chế độ Apartheid đến năm 2004. Theo đó, những nội dung cốt lõi của cải cách kinh tế ở Nam Phi là: thay đổi thể chế kinh tế, trao quyền kinh tế lớn hơn cho người da đen, tái hội nhập khu vực và toàn cầu. Những cải cách này đã có tác động to lớn đến đường lối phát triển kinh tế và chính sách thương mại không chỉ của riêng Nam Phi mà còn của cả khối SACU do vai trò đặc biệt của Nam Phi trong việc hoạch định chính sách của cả khối. - GS.TS Nguyễn Văn Thường và nhóm tác giả (2006), Giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-Châu Phi, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội [21]. Đề tài đã có những đánh giá thực trạng thị trường Châu Phi về nhu cầu, khả năng xuất nhập khẩu, khả năng thanh toán, từ đó xác định vai trò của thị trường châu Phi trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đề tài cũng đã phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Châu Phi trong những năm gần đây, rút ra những thành công, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Châu Phi. Trên cơ sỏ đó, đề tài đã đề xuất định hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-Châu Phi trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Một kết quả rất có ý nghĩa của đề tài là đã tiến hành khảo sát các doanh nghiệp về việc phát triển quan hệ thương mại với châu Phi, từ đó giúp cho đề tài có các phân tích, đánh giá về vị trí, vai trò của thị trường châu Phi đối với các doanh nghiệp cũng như nhu cầu của các doanh nghiệp trong việc nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước.
- 12 - Bộ Thương mại (2003), Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và một số nước châu Phi, Đề tài cấp Bộ [1]. Trong đề tài này đã có đề cập đến các liên minh kinh tế ở châu Phi, trong đó có SACU. Tuy nhiên, đề tài mời chỉ dừng ở việc liệt kê các nước thành viên của SACU và nêu đặc điểm là các nước này đã áp dụng một biểu thuế đối ngoại chung. Đề tài cũng đã đề cập đến tình hình phát triển kinh tế và triển vọng phát triển quan hệ thương mại với các nước châu Phi, trong đó đã tập trung phân tích về Nam Phi và có nêu qua về các nước thành viên SACU khác là Botswana, Lesotho, Namibia và Swaziland. Đề tài đã nghiên cứu về quan hệ thương mại của Việt Nam với một số nước Châu Phi giai đoạn từ 1991-2001 và đề ra các giải pháp cho giai đoạn 2001-2010. Trong số các nước thành viên SACU, đề tài mới tập trung vào phân tích quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nam Phi. - Bộ Công Thương (2008), Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường châu Phi, Đề tài cấp Bộ [3]. Đề tài đã nghiên cứu về đặc điểm thị trường, nhu cầu nhập khẩu của các nước châu Phi và kinh nghiệm của các nước trong việc thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường châu Phi. Đề tài cũng đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi giai đoạn 2001-2007, nêu bật những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, đề tài đã đề xuất giải pháp và chính sách quản lý nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang châu Phi cho giai đoạn đến 2015. Trong đó, Nam Phi được xác định là cửa ngõ để hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước miền Nam châu Phi, trong đó có các nước SACU.
- 13 Đề tài cũng đưa ra nhận định rằng châu Phi là một lục địa rộng lớn với dân số đông, các quốc gia lại khác biệt nhau khá lớn về chính trị xã hội, kinh tế thương mại, văn hóa tôn giáo, nên để tìm ra những giải pháp cụ thể, chi tiết cho việc phát triển quan hệ thương mại với các nướctrong châu lục này, cần phải có nhiều nghiên cứu chuyên sâu. Đặc biệt, có một số quốc gia như Cộng hoà Nam Phi hay Ai Cập, hay một số tổ chức hợp tác khu vực như COMESA, SACU cần phải có những công trình nghiên cứu riêng biệt. - Bộ Công Thương (2010), Nghiên cứu giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp vào thị trường châu Phi, Đề tài cấp Bộ [4]. Đề tài đã nghiên cứu và phân tích các yếu tố thị trường, những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp khi xuất khẩu sang Châu Phi nói chung và xuất khẩu hàng công nghiệp sang thị trường nói riêng, phân tích và đúc rút kinh nghiệm của một số nước thành công tại thị trường Châu Phi thời gian qua để rút ra những bài học, đánh giá về thực trạng chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam để từ đó đưa ra những quan điểm, giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp sang thị trường Châu Phi trong thời gian tới. Theo kết quả nghiên cứu, nhằm thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp sang thị trường Châu Phi, cần một số biện pháp về chính sách như: tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp thông qua việc tăng cường quan hệ hợp tác cấp nhà nước giữa Việt Nam và các nước đối tác Châu Phi, phát triển công nghiệp phụ trợ hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp, tạo môi trường thông thoáng hơn nữa để thu hút FDI, đặt biệt FDI hướng vào xuất khẩu. Đầu tư và tổ chức tốt cơ sở hậu cần, thông tin tăng khả năng tổng hợp về tiếp cận thị truờng Châu Phi. Các chính sách hỗ trợ đồng bộ về tín dụng, về thuế, về hành chính để khuyến khích các công ty sản xuất và phân phối cho thị trường Châu Phi nói riêng và các thị trường còn nhiều khó khăn chưa khai phá nói chung.
- 14 - Trịnh Huy Hóa (biên dịch) (2005), Đối thoại với các nền văn hóa: Nam Phi, NXB Trẻ [11]. Tác phẩm này đã giới thiệu vị trí địa lý, lịch sử, các thể chế, đặc trưng của nền kinh tế, đặc điểm văn hóa, tôn giáo, lễ hội, ẩm thực ở Nam Phi, thành viên chủ chốt của SACU. - Đỗ Đức Định (chủ biên) (2006), Tình hình chính trị, kinh tế cơ bản của Châu Phi, NXB Khoa học xã hội [8]. Tác phẩm giới thiệu khái quát tình hình chính trị, kinh tế của các nước Châu Phi, trong đó có các nước SACU. 2. Những vấn đề còn tồn tại trong các nghiên cứu có liên quan và hướng nghiên cứu của luận án Các công trình nghiên cứu trên đây có liên quan đến các vấn đề về châu Phi, thị trường châu Phi, về các nước SACU, quan hệ kinh tế và thương mại Việt Nam với các nước châu Phi Tuy rằng mỗi công trình đã nêu trên đây có những cách tiếp cận, đề cập một hoặc một số vấn đề riêng lẻ, với phạm vi nghiên cứu nhất định và mức độ nông sâu khác nhau liên quan đến vấn đề phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước thuộc SACU, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU ở cả hai cấp độ thể chế thương mại và thực thể thương mại. Do đó, có thể thấy rằng việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong SACU là một vấn đề hoàn toàn mới, cần được nghiên cứu một cách tổng thể và toàn diện. Luận án sẽ đi sâu nghiên cứu về vấn đề này, sẽ tập trung vào các nội dung chính sau: - Các lý luận cơ bản về việc phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia nói chung và những vấn đề cụ thể trong việc phát triển quan hệ
- 15 thương mại với các nước thuộc một liên minh thuế quan. Trong đó, phân tích kỹ những đặc điểm về chính sách thương mại của một liên minh thuế quan và tác động của nó tới việc phát triển quan hệ thương mại. - Thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU ở cấp độ thể chế thương mại và thực thể thương mại, trong đó tập trung quan hệ thương mại hàng hóa. - Triển vọng, định hướng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU.
- 16 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA MỘT QUỐC GIA VỚI CÁC NƯỚC TRONG MỘT LIÊN MINH THUẾ QUAN 1.1. Lý luận về quan hệ thương mại giữa các quốc gia 1.1.1. Khái quát lý thuyết về quan hệ thương mại quốc tế 1.1.1.1. Cơ sở lý thuyết về nguồn gốc và bản chất của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế được xác định là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ, hoạt động đầu tư giữa các quốc gia hoặc lãnh thổ. Các hình thức và nội dung hoạt động của thương mại quốc tế bao gồm: - Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa: Đây là hoạt động xuất hiện đầu tiên trong thương mại quốc tế, phát triển không ngừng và vẫn là hình thức phổ biến và quan trọng nhất hiện nay. - Hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ: Hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ là hình thức thương mại trong đó diễn ra việc mua bán, trao đổi các sản phẩm được xem là vô hình, phi vật thể như lao động, chuyển giao công nghệ, dịch vụ logistics, du lịch quốc tế, tài chính, tiền tệ Hoạt động thương mại dịch vụ hoạt động ngay càng phát triển và đóng một vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. - Hoạt động đầu tư quốc tế bao gồm việc đưa vốn đầu tư ra nước ngoài và tiếp nhận vốn đầu tư vào trong nước nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Có hai hình thức đầu tư là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Có hai nguyên nhân cơ bản được xem là nguồn gốc của thương mại quốc tế. Thứ nhất, xét ở bình diện quốc gia, nhu cầu của quốc gia là vô hạn trong khi nguồn lực của quốc gia là có giới hạn nên các quốc gia phải tiến
- 17 hành giao thương với nhau để thỏa mãn một cách tối ưu nhất các nhu cầu của mình. Thứ hai, hoạt động thương mại quốc tế mang lại rất nhiều lợi ích cho các quốc gia. Nhờ hoạt động thương mại quốc tế các quốc gia tạo thêm được nhiều công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân. Lợi ích vừa là mục tiêu và đồng thời là động lực thúc đẩy các quốc gia giao thương với nhau. Khác với thương mại nội địa, thương mại quốc tế là lĩnh vực hoạt động vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia. Do đó nhà nước sẽ tổ chức bộ máy quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ quá trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ nhằm đảm bảo những lợi ích quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế là rất phức tạp vì đây là hoạt động liên quan đến các quốc gia khác nhau, trong đó mỗi quốc gia có những ngôn ngữ riêng biệt, luật pháp khác nhau, tập quán khác nhau Do đó, giữa các quốc gia sẽ phải đàm phát để đạt được các thỏa thuận về thương mại quốc tế ở các cấp độ song phương, khu vực, đa phương và toàn cầu. Các học thuyết về thương mại quốc tế là những lý thuyết giải thích cơ sở khoa học hình thành thương mại quốc tế và lợi ích đạt được của các chủ thể tham gia quá trình này. Các học thuyết về thương mại quốc tế phát triển từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng hoàn thiện. Theo thời gian và tiến trình phát triển có thể chia thành hai nhóm lý thuyết: lý thuyết thương mại cổ điển và lý thuyết thương mại hiện đại. Lý thuyết thương mại cổ điển bắt đầu với những quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, tiếp đó là lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo và lý thuyết về chi phí cơ hội và đường giới hạn khả năng sản xuất của Gotfried Haberler.
- 18 Học thuyết kinh tế của trường phái trọng thương cho rằng con đường trở thành một quốc gia giàu có và hùng mạnh chính là thông qua xuất khẩu hàng hóa. Kết quả của xuất khẩu hàng hóa sẽ tạo ra nhiều vàng bạc cho các quốc gia, giúp quốc gia ngày càng giàu có và hùng mạnh. Do đó, chính phủ cần kích thích xuất khẩu và ngăn chặn nhập khẩu, nhất là nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng xa xỉ. Tuy nhiên, vì không phải tất cả các quốc gia đều có thể thu được thặng dư xuất khẩu và số lượng vàng bạc là có hạn nên nếu một quốc gia có lợi thì quốc gia khác sẽ bị thiệt. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối trong thương mại quốc tế được Adam Smith phát triển. Theo ông, mỗi quốc gia cần chuyên môn hóa những ngành sản xuất những ngành có lợi thế tuyệt đối dựa trên các điều kiện về địa lý, khí hậu, nguồn tài nguyên mà riêng quốc gia đó mới có. Thương mại quốc tế làm tăng khối lượng sản xuất và tiêu dùng toàn thế giới khi mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế và trao đổi với nhau. Ông ủng hộ tự do kinh doanh vì mỗi các nhân và doanh nghiệp đều có mục đích thu lợi nhuận tối đa. Do đó, cho phép tự do kinh doanh sẽ đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo lập luận rằng nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác trong sản xuất và xuất khẩu hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất các loại hàng hóa sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu loại hàng hóa nào mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu những loại hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng ở trong nước là bất lợi nhất. Khi mỗi nước chuyên môn hóa vào sản xuất sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, tổng sản lượng của mỗi sản phẩm trên thế giới sẽ gia tăng và kết quả là tất cả các nước trở nên giàu có hơn.
- 19 Lý thuyết chi phí cơ hội của Haberler đã chứng minh một cách rõ ràng cho lý thuyết về lợi thế so sánh. Theo lý thuyết này, chi phí cơ hội của một sản phẩm là số lượng của một sản phẩm khác mà người ta phải hy sinh để có đủ tài nguyên làm tăng thêm một đơn vị của sản phẩm thứ nhất. Như vậy, quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp hơn trong việc sản xuất một loại sản phẩm nào đó thì quốc gia đó có lợi thế so sánh trong việc sản xuất sản phẩm đó và không có lợi thế so sánh trong việc sản xuất sản phẩm thứ hai. Từ những năm đầu thế kỷ XX, nhiều học giả và các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra nhiều quan điểm và học thuyết quan trọng nhằm chỉ ra và tìm cách bổ sung, hoàn thiện hơn các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế. Các học thuyết này được gọi là học thuyết hiện đại về thương mại quốc tế, bao gồm các học thuyết nổi bật là lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckcher – Ohlin, lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter, lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm của Raymond Vernon, lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu. - Lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckscher – Ohlin (H - O) về lợi thế tương đối: Theo lý thuyết H – O, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào và rẻ của quốc gia đó và nhập khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố khan hiếm và đắt của quốc gia đó. Như vậy, một quốc gia dồi dào về lao động sẽ sản xuất và xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những sản phẩm thâm dụng vốn hay tư bản. - Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của M. Porter được xây dựng dựa trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của một ngành công nghiệp được
- 20 thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Điều này được khái quát cho một thực thể lớn hơn - một quốc gia. Lý thuyết của M.Porter đã kết hợp được các cách giải thích khác nhau trong các lý thuyết thương mại quốc tế trước đó và đồng thời đưa ra một khái niệm khá quan trọng là lợi thế cạnh tranh quốc gia. Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của bốn nhóm yếu tố. Các nhóm yếu tố đó bao gồm: (i) Điều kiện các yếu tố sản xuất; (ii) Điều kiện về cầu; (iii) Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; và (iv) Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành. Các yếu tố này tác động lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia. Ngoài ra, còn có hai yếu tố khác là chính sách của chính phủ và cơ hội. Đây là hai yếu tố có thể tác động đến bốn yếu tố cơ bản kể trên. Các thành phần của lợi thế cạnh tranh quốc gia sẽ cùng nhau tạo nên một hệ thống mạnh để duy trì lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, hệ thống này thường hướng theo một cơ cấu ngành nhất định [38]. - Lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm của Raymond Vernon: Lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm dựa trên ý tưởng cho rằng công nghệ luôn luôn thay đổi dưới hình thức ra đời các phát minh và sáng chế mới, và điều này tác động đến sự di chuyển công nghệ giữa các quốc gia và xuất khẩu của quốc gia. Sau khi một phát minh ra đời, một sản phẩm mới xuất hiện và trở thành mặt hàng mà quốc gia phát minh có lợi thế tuyệt đối tạm thời. Ban đầu doanh nghiệp phát minh sản phẩm giữ vị trí độc quyền, và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Sau một thời gian, nhu cầu từ phía nước ngoài xuất hiện và sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu. Dần dần các nhà sản xuất nước ngoài sẽ bắt chước, chuyển giao công nghệ và sản phẩm được sản xuất ngay tại nước ngoài một cách có hiệu quả hơn. Khi đó lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm này lại
- 21 thuộc về các quốc gia khác. Nhưng ở quốc gia phát minh một sản phẩm mới khác có thể ra đời và quá trình mô tả ở trên được lặp lại. - Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu: Chuỗi giá trị bao gồm nhiều khâu, nhiều bước được thực hiện để tạo ra một sản phẩm bắt đầu từ khi hình thành ý tưởng tới khi sản phẩm được tiêu thụ và bị thải loại. Các hoạt động này được liên kết với nhau tạo thành một chuỗi liên kết dọc từ nghiên cứu và phát triển - sở hữu trí tuệ đến sản xuất, xây dựng thương hiệu và thương mại. Chuỗi giá trị toàn cầu được xác định là chuỗi giá trị trong đó hoạt động của chuỗi có thể thực hiện tại nhiều doanh nghiệp và diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Chuỗi giá trị toàn cầu hướng đến việc sản xuất đạt hiệu quả cao hơn bằng cách thực hiện mỗi hoạt động, khâu, công đoạn trong chuỗi ở một quốc gia có lợi thế khác nhau trên thế giới. Quá trình toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ đã thúc đẩy quá trình sản xuất, kinh doanh mở rộng ra các nước có lợi thế so sánh như vận tải, công nghệ, nhân lực tạo thành một mạng lưới sản xuất toàn được chuyên môn hoá cao mang lại giá trị tối đa với chi phí thấp nhất. 1.1.1.2. Lý thuyết về chính sách thương mại quốc tế Chính sách thương mại quốc tế là hệ thống các quy định, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia trong những thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Mục tiêu của chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn có thể khác nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu chung khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, nâng cao lợi thế cạnh tranh và vươn ra thị trường quốc tế.
- 22 Lý thuyết về chính sách thương mại quốc tế (còn gọi là chính sách ngoại thương) là lý thuyết về sự can thiệp của chính phủ một nước nhằm đạt được mục đích nào đó về thương mại quốc tế. Nội dung nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế gồm có lý luận về chính sách thương mại tự do và lý luận về chính sách bảo hộ thương mại. Lý luận này nhấn mạnh sự phân tích quan điểm chính sách, mục tiêu chính sách, các công cụ và biện pháp chính sách, phương thức, loại hình và hiểu quả kinh tế của thương mại quốc tế; phân tích các mặt lợi, hại, được, mất của chính sách thương mại, lấy đó làm căn cứ đưa ra chính sách. Các công cụ và biện pháp thực hiện mục tiêu chính sách (có thể là để thúc đẩy thương mại, có thể là hạn chế thương mại) thường gồm các công cụ có tính chất kinh tế, công cụ có tính chất kỹ thuật và công cụ có tính chất hành chính. Thông thường việc phân loại chính sách thương mại quốc tế căn cứ và các công cụ chính sách, chia thành chính sách thuế quan và chính sách phi thuế quan. Theo mức độ tham gia can thiệp, điều tiết của nhà nước trong hoạt động thương mại quốc tế, chính sách thương mại được phân loại thành chính sách thương mại tự do và chính sách bảo hộ thương mại. Đối với chính sách thương mại tự do, nhà nước tạo điều kiện cho thương mại tự do phát triển trên cơ sở quy luật tự do cạnh tranh, mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa cho hàng hóa, dịch vụ và tư bản của nước ngoài tự do lưu thông. Đối với chính sách bảo hộ thương mại, nhà nước can thiệp sâu vào thương mại quốc tế, sử dụng các biện pháp bảo hộ để bảo vệ thị trường nội địa trước sự cạnh tranh của hàng hóa từ bên ngoài. Đồng thời, nhà nước cũng tìm cách hỗ trợ các doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài. Để thực thi chính sách thương mại, có hai công cụ chủ yếu là thuế quan và và các biện pháp phi thuế quan.
- 23 Thuế quan là một loại thế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của một quốc gia. Trong đó, thuế xuất khẩu đánh trên hàng hóa xuất khẩu và thuế nhập khẩu đánh trên hàng hóa nhập khẩu. Thuế nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, giảm bớt nhu cầu tiêu thụ hàng nhập khẩu, đồng thời sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước gia tăng, mở rộng quy mô sản xuất. Đối với xuất khẩu, thực tế là các nước không những không đánh thuế xuất khẩu, mà còn có các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu thường chỉ được áp dụng để hạn chế xuất khẩu các sản phẩm thô, khuyến khích chế biến trước khi xuất khẩu. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, thuế quan dần được cắt giảm trên cơ sở các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Bên cạnh thuế quan, các biện pháp phi thuế quan cũng được nhiều quốc gia sử dụng. Các biện pháp phi thuế quan bao gồm các biện pháp tác động vào giá, các biện pháp tác động vào lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu và các biện pháp hành chính, kỹ thuật. Trong xu hướng tự do hóa thương mại hiện nay, việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan được yêu cầu phải dần bị thu hẹp. Tuy nhiên, thực tế là không có quốc gia nào đơn phương từ bỏ việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan và vì nhiều lý do, mục tiêu khác nhau, các quốc gia tìm cách tạo ra và sử dụng các biện pháp phi thuế quan mới và tinh vi hơn. 1.1.2. Đặc điểm quan hệ thương mại quốc tế của một liên minh thuế quan Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu, là xu hướng không thể đảo ngược, với các mức độ liên kết kinh tế quốc tế ngày càng chặt chẽ. Theo nhà kinh tế học Balassa, có năm cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế từ thấp đến cao: (i) khu vực thương mại tự do (Free Trade Area – FTA); (ii) Liên minh thuế quan (Customs Union – CU); (iii) Thị trường chung (Common Market); (iv) Liên minh kinh tế (Economic Union) và (v) Liên minh kinh tế toàn diện (Comprehensive Economic Union) [23].
- 24 Ở góc độ thể chế, hội nhập kinh tế khu vực được mô tả là các hoạt động của chính phủ nhằm tự do hóa hoặc tạo thuận lợi cho thương mại trên nền tảng khu vực giữa một nhóm hai hay nhiều nước. Hội nhập khu vực là sự tự nguyện tham gia của các thành viên, không mang tính ép buộc mà phải dựa trên cơ sở những điều khoản đã thỏa thuận, bàn bạc rồi đồng thuận cam kết và ký kết thành những văn bản có tính pháp lý gọi là hiệp định hay hiệp ước. Các quốc gia thành viên sẽ sử dụng hiệp ước này để kiểm tra, giám sát, đôn đốc và điều chỉnh các hoạt động vì lợi ích chung của liên kết, của tất cả các quốc gia thành viên và lợi ích của chính bản thân quốc gia mình. Một tổ chức hội nhập khu vực phải xác định được những mục tiêu cơ bản là: - Xóa bỏ các rào cản trong thương mại để thúc đẩy phát triển thương mại giữa các thành viên; - Thúc đẩy quá trình tự do di chuyển các nguồn lực về vốn, lao động giữa các quốc gia thành viên, biến thị trường riêng rẽ của từng quốc gia trở thành một thị trường thống nhất cho cả khối; - Tạo nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, tăng phúc lợi xã hội cho người dân của các gia trong khối. Một tổ chức hội nhập khu vực thường phải có một cơ quan thường trực và các phương tiện để duy trì hoạt động của khối và gắn kết các nền kinh tế trong khối với nhau. Là một trong các hình thức hội nhập khu vực, một liên minh thuế quan được xác định là một tổ chức kinh tế khu vực, trong đó các quốc gia thành viên thống nhất loại trừ hàng rào thương mại giữa các quốc gia thành viên và chấp nhận một chính sách thương mại đối ngoại chung. Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU) chính là liên minh thuế quan đầu tiên trên thế giới, được thành lập từ năm 1910.
- 25 Theo quan điểm của J. Viner đưa ra trong cuốn sách “Vấn đề liên minh thuế quan” (1950) [42], Liên minh thuế quan là một cấp độ hội nhập thương mại khu vực từ hai nước trở lên, ký kết hiệp định thành lập khu vực liên minh thuế quan; trong đó đối với nội khối thì xóa bỏ thuế quan nhập khẩu giữa các thành viên đối với nhau, đối với quan hệ thương mại với các nước ngoài liên minh (ngoại khối) thì thực hiện cùng với mức thuế suất như nhau. Tác động về kinh tế của việc tham gia liên minh thuế quan đối với các nước thành viên được thể hiện ở các điểm sau: Thứ nhất, liên minh thuế quan vừa có hiệu ứng gia tăng thương mại trong nội bộ liên minh, vừa có hiệu ứng chuyển hướng thương mại. Nếu như thuế quan đối ngoại theo mức chung và tự do hóa thương mại nội bộ liên minh thuế quan dẫn đến việc chuyển dịch sản xuất từ nước có giá thành cao đến nước có giá thành thấp, tức là dùng hàng hóa nhập khẩu rẻ của nước thành viên khác thay thế các sản phẩm nếu sản xuất trong nước thì giá thành sẽ cao hơn, như vậy sẽ phát sinh hiệu ứng “tạo lập thương mại”. Ngược lại, nếu như việc xây dựng hàng rào thuế quan đối ngoại làm cho việc sản xuất và tiêu dùng của một hoặc một vài nước thành viên từ nguồn cung cấp của các nước không phải là thành viên với giá thành thấp chuyển sang người sản xuất của nước thành viên có giá thành cao, tức là dùng hàng hóa nhập khẩu có giá thành tương đối cao của thành viên trong liên minh thuế quan thay thế hàng hóa nhập khẩu tương đối rẻ của nước không phải là thành viên, như vậy sẽ sinh ra hiệu ứng “chuyển hướng thương mại”. Ví dụ, khi chưa thành lập liên minh thuế quan, một nước A sẽ nhập khẩu lúa mì của nước C do nước C có năng suất lúa mì cao, giá thành rẻ mà không mua của nước B có năng suất thấp hơn, giá thành cao hơn. Khi nước A và B gia nhập liên minh thuế quan thống nhất, mà nước C còn ở liên minh, do trong liên minh xóa bỏ thuế quan, so sánh tương đối thì giá lúa mì có thể thấp
- 26 hơn nước C, thế là kênh thương mại truyền thống giữa nước A và nước C sẽ gián đoạn, nước A chuyển sang mua của nước B. Khi đó xét về tình hình sản xuất và buôn bán lúa mì toàn thế giới thì năng suất lúa mì giảm và hiệu quả thương mại lúa mì giảm vì dòng thương mại sản xuất lúa mì có năng suất thấp (giữa nước A và nước B) sẽ tăng, ngược lại dòng thương mại lúa mì có năng suất cao (giữa A và C) sẽ giảm. Do hiện ứng tạo lập thương mại và hiệu ứng chuyển hướng thương mại trung hòa lẫn nhau nên xác định hiệu ứng thực tế của liên minh thuế quan phải xem hiệu ứng nào tương đối mạnh để đánh giá. Thứ hai, lợi ích kinh tế của liên minh thuế quan được quyết định bởi mức độ chênh lệch của thuế suất thuế quan và mức độ trùng lặp (hoặc tương đồng) của sản phẩm xuất nhập khẩu của các nước thành viên trước khi thành lập liên minh. Nếu như mức thuế suất thuế quan của các nước thành viên trước khi thành lập liên minh tương đối cao, sau khi thành lập liên minh thuế quan, do giá cả hàng hóa trong nội bộ liên minh thuế quan giảm xuống (do xóa bỏ thuế quan), lượng hàng hóa buôn bán giữa các nước thành viên sẽ tăng nhanh. Trước khi thành lập liên minh thuế quan, các nước có hệ thống sản phẩm trao đổi thương mại rất khác nhau thuộc mô hình bổ sung lẫn nhau sẽ thu thuế nhập khẩu tương đối thấp đối với các sản phẩm không cạnh tranh; các nước có hệ thống sản phẩm tương đối giống nhau và cạnh tranh lẫn nhau sẽ thu thuế nhập khẩu tương đối cao với các sản phẩm có tính cạnh tranh. Do đó, hiệu quả kinh tế của liên minh thuế quan do các nước cạnh tranh với nhau xây dựng lên càng rõ nét hơn hiệu quả kinh tế của các nước có hệ thống sản phẩm bổ sung cho lẫn cho nhau. Ngoài ra, do mức độ trung lặp về sản phẩm của các nước cạnh tranh nhau tương đối cao nên việc xây dựng liên thuế quan không những làm tăng cạnh tranh giữa các nước đó, mà còn cùng với việc sản phẩm của các nước thành viên có năng suất cao nhất chiếm lĩnh thị phần lớn
- 27 nhất trong liên minh thuế quan, các nước đều sẽ phát sinh quá trình phân bổ lại tài nguyên để đạt được hiệu quả cao hơn. Do vậy, năng suất lao động của toàn bộ liên minh sẽ nâng cao. Thứ ba, việc xây dựng liên minh thuế quan còn có thể sinh ra “hiệu ứng kinh tế động thái” đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước thành viên, chủ yếu biểu hiện ở các khía cạnh: (i) thông qua việc loại bỏ thuế quan giữa các nước thành viên, mở rộng buôn bán nội bộ có thể đem lại lợi thế kinh tế qui mô, việc mở rộng thị trường xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có năng suất tương đối cao trong các nước thành viên thực hiện hiệu quả kinh tế của sản xuất đại qui mô; (ii) nội bộ liên minh thực hành tự do hóa thương mại sẽ gia tăng mạnh mẽ mức độ cạnh tranh hữu hiệu của thị trường, kích thích tăng thêm đầu tư và khai thác kỹ thuật mới, thúc đẩy việc phân bổ tài nguyên hợp lý , đẩy mạnh nâng cao năng suất lao động; (iii) cùng với việc làm cho các nước thành viên được cạnh tranh với bên ngoài nhờ hàng rào thuế quan đối ngoại chung của liên minh thuế quan, cũng có thể tạo ra hiệu quả tiêu cực là tạo nên các doanh nghiệp lạc hậu, gia tăng sức ỳ nội bộ, làm chậm sự phát triển kinh tế của bản thân liên minh thuế quan. 1.2. Nội dung, hình thức, các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan 1.2.1. Nội dung và hình thức phát triển quan hệ thương mại Về cơ bản, việc phát triển quan hệ thương mại được tiến hành ở hai cấp độ là cấp độ thể chế thương mại và cấp độ thực thể thương mại. Ở cấp độ thể chế, thương mại quốc tế có sự tham gia chủ yếu của quốc gia và các thực thể công được hiểu là các quan hệ quốc tế ở cấp độ chính sách thương mại, ví dụ, chính sách thuế quan và phi thuế quan, chính sách thương mại tấn công hoặc phòng vệ, chính sách hội nhập kinh tế của một quốc gia;
- 28 hoặc sự lựa chọn hội nhập ở cấp độ toàn cầu, khu vực, song phương hoặc đơn phương trong hợp tác thương mại; hay mối quan hệ giữa việc thực hiện các cam kế thương mại quốc tế và pháp luật quốc gia. Chủ thể chủ yếu của các quan hệ thương mại quốc tế nêu trên là các quốc gia và các tổ chức kinh tế quốc tế. Bên cạnh các quốc gia, các tổ chức kinh tế quốc tế cũng tham gia mạnh mẽ vào các quan hệ thương mại quốc tế, có thể kể đến WTO, IMF, WB, EU, ASEAN Mặc dù WTO không phải là tổ chức quốc tế duy nhất có liên quan, nhưng nó đúng là tổ chức quốc tế lớn nhất và toàn diện nhất, điều chỉnh cả các hiệp định thương mại khu vực và song phương trong phạm vi nhất định. Quan hệ thương mại giữa các quốc gia hiện nay được phát triển dựa trên ba nền tảng chính, đó là: Luật WTO – điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế ở tầm toàn cầu; các hiệp định hội nhập kinh tế khu vực và các hiệp định hợp tác thương mại song phương. Ở cấp độ thể chế, nội dung của quan hệ thương mại bao gồm: - Quan hệ liên chính phủ trong lĩnh vực thương mại: Các chính phủ thiết lập các mối quan hệ về thương mại giữa các quốc gia, thành lập các cơ chế theo dõi việc phát triển quan hệ thương mại như Ủy ban thương mại hỗn hợp, Tiểu ban thương mại hỗn hợp, Nhóm công tác chung về thương mại - Đàm phán ký kết các hiệp định, quy chế thương mại song phương, đa phương: Các chính phủ tiến hành đàm phán, ký kết các hiệp định, quy chế thương mại ở cấp độ song phương và đa phương nhằm tạo thuận lợi cho phát triển quan hệ thương mại. - Hợp tác trong xúc tiến và hỗ trợ thương mại vĩ mô: Các chính phủ triển khai các hoạt động về hợp tác trong công tác xúc tiến thương mại và hỗ trợ thương mại ở cấp độ vĩ mô nhằm tạo điều kiện cho phát triển quan hệ thương mại.
- 29 - Cơ chế, chính sách giải quyết các tranh chấp về thương mại giữa các bên: Các chính phủ đàm phán, ký kết các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước ở cấp độ song phương và đa phương. Việc phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia với các nước trong một liên minh thuế quan được dựa trên mối quan hệ với từng thành viên cũng như quan hệ với cả khối. Thứ nhất, phát triển quan hệ thương mại dựa trên mối quan hệ song phương với từng nước thành viên. Quan hệ thương mại quốc tế của một quốc gia chủ yếu dựa trên các mối quan hệ thương mại song phương với các quốc gia khác. Điều đó được thực hiện bởi các mối quan hệ về xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và đầu tư do các thực thể kinh tế của mỗi quốc gia tiến hành. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quan hệ thương mại, chính phủ của các quốc gia sẽ tiến hành đàm phán, ký kết và triển khai thực hiện các thỏa thuận, hiệp định thương mại song phương cũng như các thỏa thuận, hiệp định hợp tác khác nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ thương mại như hiệp định về vận tải, thanh toán, tránh đánh thuế hai lần, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Trong đó, đáng lưu ý là khi đàm phán về rào cản phi thuế quan với một liên minh thuế quan thì việc đàm phán được tiến hành với từng thành viên và chỉ có giá trị với thành viên đó (nếu giữa các nước thành viên không có quy định khác). Thứ hai, phát triển quan hệ thương mại dựa trên mối quan hệ hợp tác đa phương với cả khối liên minh thuế quan. Bên cạnh các mối quan hệ song phương thì vai trò của các mối quan hệ đa phương có vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại quốc tế. Mối
- 30 quan hệ này về cơ bản được xây dựng dựa trên các thỏa thuận, hiệp định đa phương được ký kết. Đối với một liên minh thuế quan, do các nước thành viên có một biểu thuế đối ngoại chung, nên khi đàm phán thuế quan với một liên minh thuế quan thì việc đàm phán được tiến hành với cả khối theo một biểu cam kết chung. Ở cấp độ thực thể, thương mại quốc tế có sự tham gia chủ yếu của thương nhân, bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp. Trên thực tế, việc mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài thường nhằm mục đích tăng doanh số và lợi nhuận, tạo ra thị trường mới, nâng cao vị thế của doanh nghiệp ở phạm vi quốc tế hoặc đảm bảo nguồn nguyên liệu. Nội dung phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan, bao gồm: Thứ nhất là phát triển thương mại hàng hóa. Đây là nội dung quan trọng của phát triển quan hệ thương mại, nó là hình thức thể hiện cụ thể của việc một quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế, thể hiện mức độ mở cửa của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới và quy mô phát triển của nền kinh tế hương ngoại. Cùng với việc tăng kim ngạch xuất nhập khẩu thì cần đa dạng hóa mặt hàng xuất nhập khẩu và chuyển đổi cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa phù hợp với lợi thế cạnh tranh quốc gia. Để quan hệ thương mại phát triển theo chiều sâu thì cần thiết phải đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu. Số lượng và khối lượng các mặt hàng xuất nhập khẩu phải ngày càng tăng. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu cần phải phù hợp với lợi thế cạnh tranh của quốc gia trong từng thời kỳ. Nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa bao gồm các yếu tố, quá trình như: quá trình thâm nhập, khai thác và phát triển thị trường xuất – nhập khẩu của các thương nhân từ cả hai phía; mối quan hệ giữa thương nhân hai bên trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa; các dịch vụ hỗ trợ cho
- 31 thương mại (như cung cấp thông tin, thanh toán, quảng bá) Về hình thức thì bao gồm các chỉ tiêu như qui mô, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu thị trường, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai bên. Bên cạnh việc sản xuất ở trong nước, doanh nghiệp có thể quyết định sản xuất sản phẩm của mình ở nước ngoài thay vì sản xuất sản phẩm đó ở trong nước rồi xuất khẩu ra nước ngoài. Đây là trường hợp doanh nghiệp quyết định chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp khác ở nước ngoài và cho phép doanh nghiệp ở nước ngoài sản xuất và bán sản phẩm của mình. Các hoạt động chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ tồn tại dưới nhiều hình thức, như chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp, chuyển giao quyền tác giả, chuyển giao công nghệ, nhượng quyền thương mại Khi phát triển trao đổi thương mại hàng hóa với các quốc gia trong một liên minh thuế quan có một điểm thuận lợi là hàng hóa sau khi thông quan tại một nước thành viên sẽ được tự do lưu chuyển giữa các nước thành viên. Thứ hai là thúc đẩy trao đổi về thương mại dịch vụ. Bên cạnh việc phát triển quan hệ thương mại hàng hóa, cần phát triển trao đổi về thương mại dịch vụ. Trong đó chú trọng phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho phát triển thương mại hàng hóa như dịch vụ logistics, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ viễn thông Thứ ba là phát triển quan hệ hợp tác đầu tư. Hợp tác đầu tư sẽ giúp hai bên cùng hợp tác khai thác các thế mạnh của mình như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, nguồn vốn, công nghệ, trình độ quản lý và giúp gắn kết các nền kinh tế chặt chẽ hơn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được thực hiện dưới hình thức thành lập chi nhánh, công ty con, liên doanh, thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, sát nhập và mua lại doanh nghiệp nước ngoài.
- 32 Việc đầu tư vào một nước là thành viên của một liên minh thuế quan có thuận lợi là hàng hóa đó khi xuất khẩu sang các nước thành viên còn lại sẽ không chịu các loại thuế xuất nhập khẩu, do đó sẽ có tính cạnh tranh cao hơn đối với các sản phẩm được nhập khẩu từ bên ngoài liên minh thuế quan. 1.2.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển quan hệ thương mại Đánh giá sự phát triển quan hệ thương mại nói chung và quan hệ thương mại giữa một quốc gia với các nước trong một liên minh quan thuế quan nói riêng là vấn đề khó khăn, phức tạp. Theo phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn ở quan hệ xuất nhập khẩu hàng hóa đánh giá trên hai cấp độ là thể chế thương mại và thực thể thương mại. Ở cấp độ thể chế, sự phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan được đánh giá trên các tiêu chí sau: - Số lượng và cấp độ các mối quan hệ liên chính phủ trong lĩnh vực thương mại như các Ủy ban thương mại hỗn hợp, Tiểu ban thương mại hỗn hợp, Nhóm công tác về thương mại được thiết lập giữa một quốc gia với một liên minh thuế quan và với các nước thành viên của liên minh. - Số lượng và cấp độ các cam kết, thỏa thuận, hiệp định thương mại mà quốc gia đó ký kết với các nước thành viên cũng như với cả khối liên minh thuế quan để giảm bớt và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo điều kiện cho trao đổi thương mại. Đối với hàng rào thuế quan, do các nước thành viên của liên minh thuế quan có một biểu thuế đối ngoại chung nên các cam kết về thuế quan sẽ là cam kết đa phương giữa quốc gia với cả khối liên minh thuế quan với các mức độ ưu đãi tăng dần là đối xử tối huệ quốc (MFN), hiệp định ưu đãi thương mại (PTA) và hiệp định tự do thương mại (FTA). Về rào cản phi thuế quan, do từng nước của liên minh thuế quan sẽ có các quy định riêng của mình nên các cam kết về rào cản phi thuế quan sẽ là
- 33 các cam kết song phương với từng thành viên và chỉ có giá trị với thành viên đó (nếu giữa các nước thành viên không có quy định khác). - Số lượng các hoạt động hợp tác trong xúc tiến và hỗ trợ thương mại ở cấp độ vĩ mô. - Số lượng và cấp độ các cơ chế giải quyết các tranh chấp về thương mại giữa các bên. Ở cấp độ thực thể thương mại, sự phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan được đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng cụ thể, bao gồm: - Kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu: là lượng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia với các nước trong liên minh thuế quan trong thời kỳ nhất định (thường là 1 năm và đơn vị tính phổ biến là USD). Tiêu chí này cho biết quy mô của trao đổi thương mại giữa một quốc gia với các nước trong một liên minh thuế quan trong một thời kỳ nhất định. - Cán cân thương mại: là cán cân so sánh giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu (thường là 1 năm và đơn vị tính phổ biến là USD). Tiêu chí này cho biết một quốc gia xuất siêu hay nhập siêu trong quan hệ thương mại với các nước trong một liên minh thuế quan. - Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu: là lượng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của từng mặt hàng, từng nhóm hàng chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của một quốc gia với các nước trong liên minh thuế quan (thường là 1 năm và đơn vị tính phổ biến là USD, tỷ lệ % trên tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu với một quốc gia hoặc cả liên minh thuế quan). Tiêu chí này giúp đánh giá xem nhóm hàng, mặt hàng nào chiếm tỷ trọng lớn trong trao đổi thương mại giữa hai bên trong từng thời kỳ. - Cơ cấu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu: là tỷ lệ thị trường từng nước hoặc cả khối liên minh thuế quan so với cả châu lục hoặc toàn cầu (thường là 1 năm và
- 34 đơn vị tính phổ biến là USD, tỷ lệ % trên tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu với cả châu lục hoặc toàn cầu). Tiêu chí này giúp đánh giá mức độ quan trọng của từng khu vực thị trường trong hoạt động thương mại của cả nước. - Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu: là sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu (thường tính % theo năm so với một mốc thời gian nhất định). Tiêu chí này giúp đánh giá tốc độ phát triển trao đổi thương mại của một quốc gia với các nước trong một liên minh thuế quan. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ thương mại Việc phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan phụ thuộc cả vào các nhân tố khách quan và chủ quan. 1.2.4.1. Các nhân tố khách quan - Các cường quốc kinh tế vừa là đầu tầu, vừa giữ vai trò chi phối các quan hệ thương mại quốc tế. Bên cạnh các nền kinh tế đã phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản thì vai trò của các nền kinh tế mới nổi như các nước khối BRICS (gồm Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) cũng ngày càng được khẳng định. Sự phát triển kinh tế của các cường quốc kinh tế sẽ là động lực cho tăng trưởng kinh tế thế giới cũng như sự tăng trưởng của thương mại toàn cầu. - Các công ty đa quốc gia chi phối hầu hết nền kinh tế thế giới nói chung và quan hệ thương mại quốc tế nói riêng. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và sự hiện diện ngày càng sâu rộng trên quy mô toàn cầu, các công ty đa quốc gia đã thiết lập các dòng thương mại giữa các quốc gia. - Xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải phát triển quan hệ quốc tế và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Các tổ chức kinh tế thương mại khu vực và toàn cầu có vai trò ngày càng quan trọng, chi phối hoạt động thương mại toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia cần tích cực
- 35 tham gia các cơ chế hợp tác khu vực và toàn cầu để đảm bảo cho lợi ích quốc gia của mỗi nước. Một liên minh thuế quan là một tổ chức hợp tác kinh tế khu vực, trong đó các nước thành viên đã hội nhập ở mức độ khá cao, giúp cho các nước thành viên phát huy được lợi thế quốc gia của từng nước cũng như của cả khu vực. - Xu thế tự do hóa thương mại với sự dỡ bỏ dần các rào cản thương mại và hình thành các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế (các luật lệ của WTO) đòi hỏi các quốc gia phải tuân thủ một luật chơi chung. 1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan - Việc các Nhà nước lựa chọn chiến lược, xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách thương mại phù hợp là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Khi Nhà nước có các chính sách đúng đắn, phù hợp để tạo điều kiện cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển thì quan hệ thương mại của quốc gia đó với các nước trên thế giới sẽ có cơ hội phát triển. - Điều kiện và trình độ phát triển của nền kinh tế các nước là nhân tố vật chất có tính quyết định để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia, góp phần giúp các quốc gia phát huy tối đa lợi thế so sánh của mình. Hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia hoặc một liên minh thuế quan sẽ phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển kinh tế của quốc gia và các nước thành viên trong liên minh thuế quan. - Khả năng xúc tiến mở rộng quan hệ thương mại quốc tế là động lực thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Trong đó xúc tiến thương mại ở cấp độ vĩ mô và vi mô có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Hoạt động hợp tác trong xúc tiến thương mại ở cấp độ vĩ mô giữa các chính phủ sẽ tạo điều để các doanh nghiệp thúc đẩy các hoạt động hợp tác kinh doanh.
- 36 - Việc kịp thời theo dõi, xử lý các vướng mắc trong quá trình phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia góp phần tạo điều kiện cho quan hệ thương mại giữa các quốc gia có môi trường thuận lợi để phát triển. Trong hoạt động thương mại quốc tế, việc xuất hiện các tranh chấp là điều không thể tránh khỏi. Nếu các tranh chấp được giải quyết kịp thời, thỏa đáng sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thương mại quốc tế được phát triển một cách thuận lợi. 1.3 Kinh nghiệm của một số nước về phát triển quan hệ thương mại với các nước trong SACU và bài học rút ra cho Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển quan hệ thương mại với các nước trong SACU 1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Việc phát triển quan hệ thương mại của Trung Quốc với các nước trong SACU nằm trong khuôn khổ mối quan hệ ngày càng phát triển giữa Trung Quốc với các nước Châu Phi. Ở cấp độ thể chế, nhận thức được tầm quan trọng của châu Phi trong sự nghiệp phát triển và xây dựng đất nước Trung Quốc trong giai đoạn mới, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách hoàn chỉnh của mình trong quan hệ với các nước châu Phi. Trong đó có các chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc sang thị trường châu Phi. Để tạo khuôn khổ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước sang thị trường châu Phi, Trung Quốc đẩy mạnh việc thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước châu Phi, ký kết các hiệp định với các điểu khoản thuận lợi cho hàng hoá Trung Quốc thâm nhập vào thị trường châu Phi. Đồng thời, thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi dành cho các nước châu Phi nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, Chính phủ
- 37 Trung Quốc đã tạo ra cơ hội để các doanh nghiệp Trung Quốc đưa máy móc, nguyên liệu, công nghệ sang thị trường châu Phi. Cuộc họp Thượng đỉnh Trung Quốc - Châu Phi tổ chức tại Bắc Kinh tháng 11 năm 2006 nhằm kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao của Trung Quốc với châu Phi và 6 năm ngày thành lập Diễn đàn hợp tác Trung Quốc – Châu Phi (FOCAC, Forum on China-Africa Co-operation) đã chứng kiến sự thăng hoa trong quan hệ Trung –Phi với sự tham dự của lãnh đạo 48 nước châu Phi. Tại hội nghị này, Trung Quốc đã cam kết dành 5 tỷ USD để hỗ trợ cho các nước châu Phi, trong đó có 2 tỷ USD để cho vay tín dụng xuất khẩu. Với các nước SACU, Trung Quốc có mối quan hệ ngoại giao khá phức tạp. Sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1949, Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì quan hệ ngoại giao với Nam Phi. Tuy nhiên, với việc Trung Quốc ủng hộ cho phong trào đấu tranh của Đại hội dân tộc Phi (ANC) chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chính quyền aparthaid đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc năm 1960. Năm 1975, Botswana thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Lesotho được thiết lập năm 1983. Ngay sau khi giành được độc lập năm 1990, Namibia đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Tới năm 1998, chính quyền mới tại Nam Phi thiết lập lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Trong khi đó, Swaziland vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với chính quyền Đài Loan kể từ năm 1968. Để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước SACU và Trung Quốc, ngay sau khi Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, Nam Phi và cùng với đó là các thành viên khác của SACU đã công nhận Trung Quốc là nước có nền kinh tế thị trường (trong khi theo thỏa thuận đàm phán gia nhập WTO thì nước này sẽ được công nhận có nền kinh tế thị trường vào năm 2015). Năm 2004, ông Jacob Zuma, khi đó là Phó Tổng thống Nam Phi, tuyên bố rằng SACU sẽ xem xét khả
- 38 năng đàm phán FTA với Trung Quốc [32]. Hiện nay, hai bên đang tiến hành các nghiên cứu về việc tiến hành đàm phán hiệp định này. Ở cấp độ thực thể thương mại, thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và Châu Phi tăng rất nhanh trong những năm vừa qua: từ 10 tỷ USD năm 2000 lên khoảng 50 tỷ USD năm 2006 và theo dự tính, đến năm 2010 sẽ đạt trên 100 tỷ USD. Trung Quốc hiện nay là bạn hàng lớn thứ 3 của Châu Phi, sau Mỹ và Liên minh Châu Âu. Các doanh nghiệp Trung Quốc, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, được khuyến khích và được hỗ trợ trong việc xuất khẩu sang thị trường Châu Phi. Hiện có khoảng 700 doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc có hoạt động xuất khẩu sang châu Phi và chiếm tỷ trọng lớn so với các loại hình doanh nghiệp khác vì các doanh nghiệp này có nguồn vốn lớn và nhận được nhiều sự hỗ trợ của Chính phủ Trung Quốc. Về phía các doanh nghiệp Trung Quốc, bên cạnh sự hỗ trợ và tạo điều kiện của Chính phủ, họ đã luôn quan tâm đầu tư đang dạng hoá ngành hàng xuất khẩu và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, chú trọng nghiên cứu thị trường để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường châu Phi. Trong kinh doanh với các đối tác châu Phi, các thương nhân Trung Quốc luôn kiên trì, linh hoạt và mềm dẻo. Họ sẵn sàng giảm giá, bán chịu cho các nhà nhập khẩu châu Phi để thâm nhập thị trường, chấp nhận mức lợi nhuận thấp để giữ chân khách hàng. Nhờ vậy, hàng hoá của Trung Quốc đã có chỗ đứng vững chắc tại thị trường Châu Phi. Trao đổi thương mại giữa Trung Quốc với các nước SACU tăng từ 1,3 tỷ USD năm 2000 lên 25,1 tỷ USD năm 2012, đưa Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của của các nước SACU. Trong đó xuất khẩu tăng từ mức 1tỷ USD năm 2000 lên 14,8 tỷ USD năm 2012, chiếm 13,56% tổng nhập khẩu của các nước SACU.
- 39 Các mặt hàng xuất khẩu chính là sản phẩm chế tạo, hàng công nghệ cao, máy móc thiết bị, sản phẩm điện tử, hàng dệt may, giày dép và sản phẩm nông nghiệp. Trong khi đó, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là quặng sắt, quặng mangan, quặng crom, bạch kim, kim cương, phôi thép, sản phẩm sắt thép, quặng đồng và nickel. Việc gia tăng nhập khẩu hàng giá rẻ từ Trung Quốc, đặc biệt là hàng dệt may và giày dép đã tác động tới sản xuất nội địa của các nước SACU. Sản phẩm dệt may và giày dép nhập khẩu từ Trung Quốc đã chiếm tới 50% đến 70% thị trường các nước SACU. Phản ứng trước tình trạng này, năm 2006, Nam Phi đã áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc. Để giải quyết vấn đề, hai bên đã ký thỏa thuận về việc Trung Quốc tự nguyện hạn chế xuất khẩu sản phẩm dệt may và giày dép sang Nam Phi (và cùng với đó là các nước SACU), giới hạn ở 100 sản phẩm của 31 nhóm mặt hàng, có thời hạn đến hết năm 2008. Đồng thời, hai bên thỏa thuận sẽ khuyến khích các doanh nghiệp dệt may và giày dép của Trung Quốc thành lập các cơ sở sản xuất tại các nước SACU nhằm giúp tạo việc làm và chuyển giao công nghệ. Về hợp tác đầu tư, có 20 công ty lớn của Nam Phi đã đầu tư kinh doanh ở Trung Quốc với tổng vốn đầu tư đến năm 2005 đạt khoảng 770 triệu USD. Trong khi đó có khoảng 200 doanh nghiệp Trung Quốc có hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh tại các nước SACU với số vốn đầu tư vào Nam Phi đến năm 2005 đạt 253 triệu USD. Đầu tư của Trung Quốc tại các nước SACU tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản. Cùng với hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp thì các thương nhân và người nhập cư Trung Quốc cũng hoạt động mạnh mẽ tại các nước SACU. Người Trung Quốc thường thiết lập các cơ sở sản xuất, dịch vụ, bán hàng với quy mô nhỏ khoảng từ 3 đến 5 lao động (phần lớn là họ hàng đến từ Trung Quốc) tại khắp mọi nơi trong các nước SACU. Bên cạnh đó, tại các thành
- 40 phố, khu đô thị ở các nước SACU, người Trung Quốc thiết lập các trung tâm bán buôn, trung tâm thương mại chuyên bán hàng nhập từ Trung Quốc, trong đó có các các trung tâm có quy lớn như Dragon City và China City tại thành phố Johannesburg của Nam Phi. Các nhà hàng và quán ăn nhanh của người Trung Quốc cũng được thành lập tại các thành phố của các nước SACU với những chuỗi cửa hàng như Bite Restaurant, Golden Dragon, Kung Fu Kitchen 1.3.1.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ Ở cấp độ thể chế, Chính phủ Ấn Độ đã đưa ra nhiều sáng kiến nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại với châu Phi, trong đó chú trọng việc tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Phi. Các sáng kiến của Chính phủ Ấn Độ bao gồm: - Mở cửa thị trường: Đến nay, Ấn Độ đã ký Hiệp định thương mại tự do với 19 quốc gia Châu Phi. - Hỗ trợ tín dụng: Ngân hàng xuất nhập khẩu Ấn Độ (EXIM Bank) cấp tín dụng cho các nước châu Phi để nhập khẩu hàng chế tạo từ Ấn Độ. - Dành quỹ tín dụng tuần hoàn cho Châu Phi: Năm 1996, Thủ tướng Ấn Độ Gowda tuyên bố tại Hội nghị thượng đỉnh G-15 dành quỹ tín dụng tuần hoàn trị giá 1 tỷ Pupee cho hợp tác khu vực với Châu Phi. - Sáng kiến Châu Phi (FA): Chương trình sáng kiến Châu Phi ra đời là một phần của Chính sách xuất nhập khẩu 2002-2003. Từ thành công của sáng kiến Châu Mỹ La tinh (FLA), Chính phủ Ấn Độ quyết định đưa ra sáng kiến Châu Phi theo đó các nhà xuất khẩu và doanh nhân Ấn Độ sang khảo sát và xúc tiến thương mại tại Châu Phi sẽ được hỗ trợ tài chính thành lập các trung tâm giao thương tại các nước này và chỉ phải trả một mức phí danh nghĩa. Giai đoạn đầu của sáng kiến Châu Phi sẽ tập trung vào các nước Ni-giê-ria, Nam Phi, Kê-ni-a, Mauritius,Ethiopia, Tanzania và Ghana. Các công ty xuất
- 41 khẩu sang những thị trường này với giá trị trên 50 triệu Rupee sẽ được hưởng quy chế “Nhà xuất khẩu” (Export House). Với các nước SACU, Ấn Độ và các nước SACU đã tiến hành đàm phán từ năm 2002 và dự kiến sẽ sớm ký kết Hiệp định ưu đãi thương mại (PTA) nhằm giảm thuế cho các mặt hàng xuất nhập khẩu của hai bên. Ấn Độ cũng đã cung cấp tín dụng xuất khẩu cho các nước SACU, trong đó dành cho Namibia 100 triệu USD và tăng thêm 100 triệu USD năm 2013; các doanh nghiệp của Nam Phi, Lesotho cũng được cấp tín dụng xuất khẩu của Ấn Độ để nhập khẩu hàng hóa của Ấn Độ. Ở cấp độ thực thể thương mại, các doanh nghiệp Ấn Độ cũng rất năng động trong việc khám phá thị trường Châu Phi. Kể từ giữa những năm 90, các tổ chức như Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ (CII), Liên đoàn các phòng thương mại và công nghiệp Ấn Độ (FICCI), Liên đoàn các Tổ chức xuất khẩu Ấn Độ (FIEO) đã xác định được tiềm năng vô cùng to lớn của Châu Phi và đã đưa ra hàng loạt các chương trình hợp tác kinh tế và trao đổi đoàn doanh nghiệp, bao gồm: trao đổi thông tin, tổ chức Hội thảo doanh nghiệp, và tổ chức trưng bày hàng Ấn Độ khắp lục địa Châu Phi. Các Liên đoàn và phòng thương mại của Ấn Độ cũng tiến hành ký kết các thoả thuận hợp tác doanh nghiệp với Mô-ri-xơ, Kê-ni-a, Dăm-bi-a, Uganda, Dim-ba-buê, Ni-giê-ria, Nam Phi và Ê-ti-ô-pia. Trao đổi thương mại giữa Ấn Độ với các nước SACU tăng từ 0,63 tỷ USD năm 2000 lên 8,5 tỷ USD năm 2012. Trong đó xuất khẩu tăng từ mức 263 triệu USD năm 2000 lên 4,7 tỷ USD năm 2012, chiếm 4,29% tổng nhập khẩu của các nước SACU. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Ấn Độ sang các nước SACU là phương tiện vận tải, thiết bị văn phòng, máy móc thiết bị, dụng cụ y tế, dược phẩm, nguyên phụ liệu dệt may, hàng may mặc
- 42 Về nhập khẩu, Ấn Độ nhập khẩu từ các nước SACU chủ yếu là các mặt hàng như than đá, khoáng sản, vàng, bạch kim Trong lĩnh vực đầu tư, các doanh nghiệp Ấn Độ đã đầu tư vào các ngành như du lịch, dược phẩm, điện tử, công nghệ thông tin, dệt may, khoán sản, chế biến thực phẩm tại các nước SACU. Cộng đồng Ấn kiều tại các nước SACU, trong đó tập trung đông nhất tại thành phố Durban của Nam Phi cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại giữa Ấn Độ và các nước SACU với việc hình thành các doanh nghiệp thương mại chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các nước SACU và Ấn Độ. 1.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam 1.3.2.1. Những bài học thành công có thể vận dụng Từ những kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ, có thể rút ra một số kinh nghiệm thành công có thể vận dụng cho Việt Nam trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU, cụ thể là: Thứ nhất, cần có sự quyết tâm và định hướng chiến lược của nhà nước đối với việc phát triển thị trường châu Phi nói chung và thị trường các nước SACU nói riêng. Thông qua việc phát triển quan hệ chính trị, ngoại giao và kinh tế với các nước SACU, nhà nước cần thiết lập môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập thị trường các nước SACU. Thứ hai, nhà nước cần sử dụng linh hoạt các công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm thị trường các nước SACU và trình độ phát triển của các doanh nghiệp trong nước. Trong đó, cần chú ý đến hỗ việc cung cấp hỗ trợ về tài chính vì đây là khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp khi kinh doanh với thị trường Châu Phi nói chung và các nước SACU nói riêng.
- 43 Thứ ba, về phía các doanh nghiệp, cần hết sức nỗ lực trong việc thâm nhập thị trường các nước SACU, cần nghiên cứu kỹ nhu cầu và thị hiếu của thị trường để tạo ra được những sản phẩm phù hợp, có sức cạnh tranh về chất lượng và giá thành. Đồng thời, để tiếp cận thị trường các nước SACU nói riêng và Châu Phi nói chung cần phải kiên trì, linh hoạt và mềm dẻo do thị trường các nước này có tính thay đổi cao và ít tính nhất quán. 1.3.2.2. Những bài học không thành công cần tránh Bên cạnh những thành công đạt được, Trung Quốc và Ấn Độ cũng gặp phải một số khó khăn trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU. Đối với Trung Quốc, việc các doanh nghiệp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng giá rẻ, có chất lượng không cao sang thị trường các nước SACU đã làm giảm uy tín của hàng hóa Trung Quốc tại thị trường này. Đồng thời, việc xuất khẩu sản phẩm dệt may và giày dép sang thị trường Nam Phi tăng quá nhanh, tác động tiêu cực đến các ngành sản xuất các mặt hàng này của Nam Phi đã dẫn đến việc Nam Phi áp đặt hạn ngạch đối với việc nhập khẩu các mặt hàng này từ Trung Quốc. Đối với Ấn Độ, mặc dù đã tiến hành đàm phán PTA với các nước SACU từ năm 2002 nhưng do thiếu quyết tâm chính trị và sự linh hoạt trong đàm phán của Ấn Độ nên đến nay hiệp định này vẫn chưa được ký kết. Điều này đã làm giảm khả năng tiếp cận thị trường SACU một cách thuận lợi cho các doanh nghiệp Ấn Độ. Đây là những bài học cần phải được nghiên cứu, xem xét để khắc phục và tránh bị lặp lại trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU. * * *
- 44 Qua nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan, chương 1 của luận án đã đạt được kết quả và những đóng góp sau: Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về thương mại quốc tế từ các lý thuyết thương mại cổ điển như trường phái trọng thương, lý thuyết lợi thế tuyệt đối, lý thuyết lợi thế tương đối, lý thuyết về chi phí cơ hội đến các lý thuyết thương mại hiện đại như định lý H-O, lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia, lý thuyết về vòng đời sản phẩm và lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ hai, đã làm rõ nội dung và hình thức của việc phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan, dựa trên các mối quan hệ song phương với từng nước thành viên cũng như quan hệ với cả khối. Thứ ba, qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của phát triển quan hệ thương mại của Trung Quốc và Ấn Độ với các nước Châu Phi nói chung và các nước SACU nói riêng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm để Việt Nam có thể vận dụng trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU. Những kết quả nghiên cứu trên đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết cho việc đề ra các giải pháp để phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU trong thời gian tới.
- 45 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC TRONG LIÊN MINH THUẾ QUAN MIỀN NAM CHÂU PHI (SACU) 2.1. Các nước SACU và chính sách thương mại đối với Việt Nam 2.1.1. Đặc điểm kinh tế của các nước SACU 2.1.1.1. Khái quát về SACU Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi được thành lập từ năm 1910 và là liên minh thuế quan được thành lập sớm nhất trên thế giới. Hiện nay khối liên minh này bao gồm 5 quốc gia thành viên đó là Nam Phi, Bostwana, Lesotho, Namibia và Swaziland. Với việc Namibia giành được độc lập năm 1990 và việc chấm dứt chế độ Apartheid tại Nam Phi năm 1994, các nước thành viên SACU đã đàm phán lại hiệp định SACU và ký hiệp định mới năm 2002. Hiệp định mới (Hiệp định SACU 2002) được ký ngày 21 tháng 10 năm 2002 và có hiệu lực từ ngày 15 tháng 7 năm 2004. Mục tiêu của Hiệp định SACU năm 2002 là (i) tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới giữa các quốc gia thành viên; (ii) thiết lập thể chế hiệu quả, minh bạch và dân chủ để đảm bảo thương mại bình đẳng giữa các quốc gia thành viên; (iii) thúc đẩy điều kiện cạnh tranh lành mạnh trong khu vực quan thuế chung; (iv) gia tăng các cơ hội đầu tư trong khu vực quan thuế chung; (v) tăng cường phát triển kinh tê, đa dạng hóa, công nghiệp hóa và tính cạnh tranh của các quốc gia thành viên; (vi) thúc đẩy hội nhập của các thành viên vào nền kinh tế toàn cầu thông qua tăng cường thương mại và đầu tư; (vii) tạo thuận lợi cho việc phân phối công bằng nguồn thu từ thuế hải quan và thuế tiêu thụ đặc biệt của các quốc gia thành viên; và (viii) tạo thuận lợi cho việc phát triển các chính sách và chiến lược chung.
- 46 Một số quy định chính của Hiệp định SACU 2002 là: - Cơ cấu tổ chức Hiệp định SACU 2002 quy định việc thành lập 6 cơ quan cần thiết để vận hành liên minh thuế quan: Hội đồng Bộ trưởng; Ủy ban Liên minh thuế quan; Ban Thư ký; Ban Thuế quan; các Ủy ban liên lạc kỹ thuật; và Trọng tài. Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan ra quyết định cấp cao nhất của SACU, chịu trách nhiệm về định hướng chính sách chung và hoạt động của các cơ quan của SACU. Hội đồng bao gồm ít nhất một bộ trưởng từ mỗi nước thành viên với cơ chế chủ tịch luân phiên hàng năm. Ủy ban Liên minh thuế quan chịu trách nhiệm về việc thực thi Hiệp định SACU; giám sát việc quản lý Quỹ thu nhập chung theo định hướng do Hội đồng Bộ trưởng quyết định và giám sát hoạt động của Ban thư ký. Ban thư ký chịu trách nhiệm về công việc hàng ngày của Liên minh thuế quan, do một Tổng thư ký điều hành đứng đầu. - Quỹ thu nhập chung và công thức phân chia giữa các nước thành viên Theo Hiệp định SACU 2002, tất cả các nguồn thu từ thuế hải quan, thuế tiêu thụ đặc biệt và phụ thu thu được trong khu vực thuế quan chung sẽ được tập hợp về Quỹ thu nhập chung. Theo công thức phân chia mới, mỗi nước thành viên sẽ được hưởng một phần nhất định từ Quỹ thu nhập chung dựa chủ yếu vào kim ngạch xuất nhập khẩu và GDP của mỗi nước. - Các chính sách chung Trong nỗ lực nhằm thúc đẩy hội nhập kinh tế, Hiệp định SACU 2002 quy định việc áp dụng chính sách chung giữa các nước thành viên về phát triển công nghiệp, nông nghiệp, chính sách cạnh tranh và các hoạt động thương mại không công bằng.
- 47 2.1.1.2. Kinh tế các nước SACU - Khái quát chung Các nước SACU có tổng diện tích là 2,7 triệu km 2 và dân số năm 2012 là 56,3 triệu người, trong đó Nam Phi chiếm đến 86,4%. Kể từ 2002, nền kinh tế của các nước SACU tăng trưởng trung bình hàng năm ở mức 4-5%. Tăng trưởng kinh tế ở một số nước bị hạn chế bởi cơ sở hạ tầng kém phát triển, thiếu điện, sản lượng khai khoáng biến động, tỷ giá hối đoái thay đổi và tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Quy mô GDP của cả khối năm 2012 đạt 423 tỉ USD trong đó Nam Phi chiếm tới 92,1% GDP của toàn khối và là quốc gia có tiếng nói rất quan trọng và sức ảnh hưởng tới mọi hoạt động của Liên minh. Về cơ cấu kinh tế của SACU năm 2012, khu vực dịch vụ chiếm tới 64,0%, công nghiệp là 32,% và nông nghiệp là 2,6%. Tuy nhiên, trong khi kinh tế Nam Phi tương đối đa dạng thì các nước còn lại phụ thuộc vào một số sản phẩm chính. Đối với Botswana là kim cương và thịt bò; Namibia là kim cương, cá và thịt; Lesotho là nước và dệt may và Swaziland là đường và hóa chất dùng trong công nghiệp thực phẩm. Bảng 2.1. Các chỉ số kinh tế của khối SACU, 2002-2012 2007/2002 2012/2007 Chỉ số 2002 2007 2012 (%) (%) Dân số (triệu người) 53,3 55,7 56,3 104,5 101,1 GDP (tỷ USD) 121,7 306,8 423,0 252,1 137,9 GDP/người (USD) 2.284 5.510 7.528 241,2 136,6 Cơ cấu GDP: -Nông nghiệp 3,9 3,0 2,6 76,9 86,7 -Công nghiệp 37,8 37,7 32,4 99,7 85,9 -Dịch vụ 58,3 59,3 64,0 101,7 107,9 Nguồn: WTO và CIA World Factbook
- 48 Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước SACU còn ở mức khiêm tốn. Dòng vốn đầu tư chủ yếu vào các ngành khai thác mỏ, chế tạo (lớn nhất là dệt may), viễn thông, dịch vụ tài chính và bán lẻ. Các nhà đầu tư chủ yếu đến từ EU, Hoa Kỳ và một số nước Châu Á. Bên cạnh việc là nước đầu tư hàng đầu vào các nước SACU khác, Nam Phi cũng là nước thu hút được nhiều vốn đầu tư từ các nước Châu Phi khác. Chính sách tiền tệ của các nước SACU về cơ bản phụ thuộc vào Nam Phi. Các nước Lesotho, Namibia và Swaziland đã thiết lập khu vực đồng tiền chung với Nam Phi và neo đồng nội tệ của mình với đồng rand của Nam Phi. Botswana áp dụng tỷ giá linh hoạt dựa trên rổ tiền tệ bao gồm đồng rand của Nam Phi và SDR. Không có sự đồng bộ trong chính sách tài khóa giữa các nước SACU. Botswana, Lesotho, Namibia và Swaziland có nguồn thu từ thuế ít, chủ yếu là từ thuế hải quan và thuế tiêu thụ đặc biệt (được phân bổ từ Quỹ thu nhập chung của khối) trong khi các nguồn thu này chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong thu ngân sách của Nam Phi. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực trong khuôn khổ SACU đã giúp cho kinh tế các nước thành viên SACU phát triển tương đối ổn định kể từ năm 2002, khi Hiệp định mới của SACU được kí kết. Tuy nhiên, năm thành viên của SACU – Botswana, Lesotho, Namibia, Nam Phi và Swaziland tiếp tục cho thấy sự khác biệt lớn về mức độ và trình độ phát triển kinh tế. Botswana và Nam Phi được xếp là các nước có thu nhập trung bình ở mức cao, trong khi Namibia và Swaziland là các nước có thu nhập trung bình ở mức thấp, thì Lesotho lại là nước kém phát triển. Tuy nhiên, các nước SACU đều cùng phải đối mặt với một số thách thức như thất nghiệp, bất bình đẳng thu nhập, nghèo đói và bệnh AIDS.
- 49 Bảng 2.2. Kinh tế các nước SACU, 2012 Chỉ số Botswana Lesotho Namibia Nam Phi Swaziland SACU Diện tích (km2) 581.730 30.355 824.292 1.219.090 17.364 2.672.831 Dân số (người) 2.127.825 1.936.181 2.182.852 48.601.098 1.403.362 56.251.318 GDP (tỷ USD) 14,98 2,62 12,15 390,09 3,65 423 GDP/người (USD) 7.040 1.353 5.566 8.026 2.601 7.528 Cơ cấu GDP: Nông nghiệp 2,1 6,7 7,3 2,4 8,2 2,6 Công nghiệp 43,7 34,6 34,3 32,1 47,0 32,4 Dịch vụ 50,2 58,7 58,4 64,5 44,8 63,6 Nguồn: CIA World Factbook - Về kinh tế của từng nước + Kinh tế Botswana: Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm 2009 (tăng trưởng âm 5,2%) nhưng nhìn chung Bốt-xoa-na duy trì được mức tăng trưởng đều đặn ở mức 4-5%/năm. Nhờ có sự ổn định tương đối về chính trị, việc quản lý tài chính – ngân sách chặt chẽ, với nguồn tài nguyên khoáng sản giàu có và một số dân tương đối nhỏ, Bốt-xoa-na, từ một trong số những nước nghèo nhất thế giới đã trở thành một nước có thu nhập bình quân đầu người vào bậc trung. Về cơ cấu kinh tế, năm 2012, đóng góp trong GDP ngành nông nghiệp là 2,1%, công nghiệp là 43,7% và dịch vụ là 50,2%. Khai thác khoáng sản, đặc biệt là kim cương, là ngành công nhiệp chủ chốt, đóng góp trên 70% giá trị xuất khẩu của Botswana. Thách thức đối với Botswana là giảm sự phụ thuộc vào khai thác kim cương, động lực chính của tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Nước này cũng cần đẩy nhanh việc tái cấu trúc để cải thiện năng suất và tính cạnh tranh của nền kinh tế. Chính sách nông nghiệp hiện nay là nhằm đảm bảo an ninh lương thực và đa dạng hóa, giảm sự phụ thuộc vào ngành nuôi bò.
- 50 Lĩnh vực nông nghiệp quy mô nhỏ đang nhận được sự hỗ trợ của chính phủ thông qua việc bảo hộ bằng hàng rào thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu (đối với một số sản phẩm) cũng như là trợ giá cho đầu vào của sản xuất. Để thúc đẩy dịch vụ tài chính xuyên biên giới, Botswana đã thành lập Trung tâm Dịch vụ Tài chính quốc tế. Cơ chế cấp phép cho dịch vụ viễn thông đã được cải tiến để tăng tính cạnh tranh trong lĩnh vực này. Cơ sở hạ tầng giao thông đã được đầu tư phát triển hơn nhưng một số quy định về hạn chế giao thông đã làm giảm tính cạnh tranh của quốc gia không có biển này. + Kinh tế Lesotho: Lesotho đang trong quá trình thực hiện Chương trình hành động quốc gia về đảm bảo an ninh lương thực 2007-2017 nhằm giảm nghèo đói tại khu vực nông thôn và tăng năng suất nông nghiệp thông qua thâm canh, đa dạng hóa và thương mại hệ thống sản xuất nông nghiệp. Khu vực tư nhân được kỳ vọng sẽ là động lực của tăng trưởng thông qua việc thực hiện Kế hoạch Công nghiệp hóa, một số doanh nghiệp nhà nước đã được tư nhân hóa. Về cơ cấu kinh tế, năm 2012, đóng góp trong GDP ngành nông nghiệp là 6,7%%, công nghiệp là 34,67% và dịch vụ là 58,7%. + Kinh tế Namibia: Namibia có nguồn tài nguyên thiên nhiên quí hiếm như kim cương (đứng thứ 5 thế giới), uranium, đồng, kẽm. Ngành khai khoáng đóng góp chính cho kinh tế Nam-mi-bi-a (chiếm 8% GDP, 50% nguồn thu ngoại tệ), tiếp theo là ngành đánh cá, chăn nuôi gia súc, du lịch. Các ngành kinh tế chủ yếu và đất đai vẫn do người da trắng thiểu số nắm giữ. Trong khi đó 60 – 65% người da đen vẫn sống trong nghèo khổ. Chính sách cải cách ruộng đất theo hướng nhà nước mua lại đất đai của người da trắng hiện vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi tại Nam-mi-bi-a (khoảng 44% đất đai do khoảng hơn 4000 chủ đồn điền da trắng nắm giữ).
- 51 Kinh tế Nam-mi-bi-a từ năm 2002 tăng trưởng tốt nhờ tăng sản lượng đánh bắt cá và sản lượng khoáng sản (kẽm, đồng và uranium). Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây giảm do: (i) sản lượng cá cũng như nhu cầu về kim cương giảm sút, (ii) chi phí khai khoáng tăng; (iii) chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Đối với Namibia, chiến lược “Tầm nhìn Namibia 2030” đã đặt ra các mục tiêu lớn cho phát triển kinh tế xã hội. Một chính sách quan trọng để phát triển công nghiệp là một loạt các ưu đãi về thuế để thu hút đầu tư vào lĩnh vực chế tạo, nhất là thông qua các khu chế xuất. Các lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản và khai thác mỏ không được hưởng các ưu đãi này. Namibia đã áp dụng việc hạn chế nhập khẩu để khuyến khích sản xuất trong nước đối với một số sản phẩm cơ bản. Namibia cũng có khu vực tài chính cũng như ngành du lịch được tổ chức và phát triển tốt. + Kinh tế Nam Phi: Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, tiềm năng kinh tế dồi dào và khoa học kỹ thuật tiên tiến, Nam Phi là nước phát triển nhất ở châu Phi và là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của các nước SACU. Nền kinh tế Nam Phi khá đa dạng. Vai trò quan trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế đang giảm dần nhưng đây vẫn là nơi thu hút chủ yếu nguồn lao động không có kỹ năng. Nhà nước đã giảm sự can thiệp trong khu vực nông nghiệp nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng trong các ngành chế tạo, khai thác mỏ, năng lượng và dịch vụ. Ngành chế tạo được hưởng lợi từ một loạt các cơ chế ưu đãi. Một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực khai thác mỏ và năng lượng. Những chính sách này dẫn đến việc lợi nhuận thấp trong ngành chế tạo, thiếu điện do thiếu đầu tư, lĩnh vực dịch vụ kém hiệu quả và chi phí cao.
- 52 + Kinh tế Swaziland: Tại Swaziland, an ninh lương thực và năng suất nông nghiệp được thúc đẩy thông qua các hoạt động nhằm đa dạng hóa và thương mại hóa khu vực nông nghiệp trong khi vẫn đảm bảo sự tham gia của cộng đồng cũng như phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngành chế biến dựa chủ yếu vào việc sản xuất đường và các sản phẩm liên quan như bánh kẹo và đồ uống, vốn được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang EU và Hoa Kỳ. Mặc dù được hưởng ưu đãi theo đạo luật AGOA nhưng xuất khẩu dệt may của nước này sang Hoa Kỳ đang suy giảm. Các quy định đối với hoạt động tài chính đã được cải thiện và thị trường thông tin di động đã được mở để cho phép cạnh tranh. 2.1.1.3. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các nước SACU Nền kinh tế các nước SACU phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. Xuất nhập khẩu hàng hóa so với GDP tăng từ 45% năm 2002 lên 56% năm 2012. Trong những năm trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu của cả khối gia tăng mạnh mẽ. Năm 2012 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 236,77 tỉ USD trong đó xuất khẩu là 113,43 tỉ USD, nhập khẩu là 123,34 tỉ USD và nhập siêu ở mức 9,91 tỷ USD. Bảng 2.3. Ngoại thương khối SACU, 2002-2012 2007/2002 2012/2007 Chỉ số 2002 2007 2012 (%) (%) Xuất khẩu (tỷ USD) 27,204 71,665 113,43 263,4 158,3 Nhập khẩu (tỷ USD) 27,56 82,011 123,34 297,6 150,4 Xuất nhập khẩu (tỷ USD) 54,764 153,676 236,77 280,6 154,1 Nguồn: WTO và CIA World Factbook Trừ Nam Phi, các nước SACU có danh mục hàng xuất khẩu khá đơn điệu. Botswana và Namibia xuất khẩu chủ yếu là kim cương và khoáng sản; Lesotho là sản phẩm dệt và Swaziland là đường. Các sản phẩm công nghiệp
- 53 thâm dụng lao động, nhất là dệt may, phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt ở thị trường nước ngoài. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của SACU là EU, sau đó là Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với Lesotho và Swaziland thì Hoa Kỳ là thị trường đơn lẻ quan trọng nhất bên ngoài SACU, do những ưu đãi thu được từ đạo luật AGOA. Xuất khẩu của SACU sang Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng cao. Các sản phẩm xuất khẩu chính của SACU là khoáng sản, kim loại, kim cương, thịt, cá, dệt may và đường. SACU nhập khẩu chủ yếu từ EU, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc và thiết bị vận tải, nhiên liệu và hóa chất. Thương mại nội khối đã tăng đáng kể từ năm 2003 và Nam Phi vẫn giữ vai trò là trung tâm của cả khối, liên quan tới 95% tổng lưu chuyển thương mại nội khối. Trao đổi thương mại nội khối của Bostwana, Namibia, Lesotho, Swaziland với Nam Phi chiếm gần 60% kim ngạch trao đổi thương mại của những quốc gia này với các nước trên thế giới. Trong khi đó trao đổi thương mại với các nước trong SACU chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong kim ngạch ngoại thương của Nam Phi, thể hiện sự đa dạng hơn về thị trường xuất nhập khẩu của nước này so với các thành viên khác trong khối. Giống như hoạt động kinh tế, ngoại thương của các nước thành viên SACU có sự khác biệt lớn về quy mô. Nam Phi tiếp tục chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của các nước SACU. Năm 2012, nước này chiếm tới 89,2% xuất khẩu và 86,6% nhập khẩu của cả khối. Bảng 2.4. Ngoại thương của các nước thành viên SACU, 2012 Chỉ số Botswana Lesotho Namibia Nam Phi Swaziland Tổng Xuất khẩu (tỷ USD) 4,55 1,04 4,66 101,20 1,99 113,43 Nhập khẩu (tỷ USD) 6,20 2,47 5,76 106,80 2,11 123,34 XNK (tỷ USD) 10,74 3,51 10,42 208,00 4,10 236,77 Cán cân (tỷ USD) -1,65 -1,43 -1,11 -5,60 -0,13 -9,91 Nguồn: WTO và CIA World Factbook
- 54 - Ngoại thương của Botswana: Kim ngạch xuất khẩu của Botswana tăng từ 2,345 tỷ USD năm 2002 lên 4,55 tỷ USD năm 2012. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là kim cương, than đá, đồng niken, dệt may, da thú. Nhập khẩu năm 2012 đạt 6,2 tỷ USD, chủ yếu là thiết bị máy móc, phương tiện giao thông, thực phẩm, xăng, dược phẩm. Thương mại nội khối có vai trò quan trọng trong hoạt động ngoại thương của Botswana. Năm 2011, thương mại nối khối chiếm 14,2% xuất khẩu và 66,8% nhập khẩu của nước này. - Ngoại thương của Lesotho: Kim ngạch xuất khẩu của Lesotho tăng từ 0,47 tỷ USD năm 2002 lên 1,04 tỷ USD năm 2012. Các mặt hàng xuất khẩu chính: quần áo, giày dép, phương tiện vận tải đường bộ, len, thực phẩm, động vật sống. Nhập khẩu tăng từ 0,99 tỷ USD năm 2002 lên 2,47 tỷ USD năm 2012. Các mặt hàng nhập khẩu chính là thực phẩm, vật liệu xây dựng, xe cộ, máy móc, thuốc, các sản phẩm dầu mỏ. Ngoại thương của Lesotho phụ thuộc chặt chẽ vào thương mại nội khối. Năm 2011, thương mại nội khối chiếm tới 75,1% xuất khẩu và 79,3% nhập khẩu của nước này. - Ngoại thương của Namibia: Namibia xuất khẩu chủ yếu là kim cương, khoáng sản, thịt bò, gia cầm, cá. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 1,07 tỷ USD năm 2002 lên 4,66 tỷ USD năm 2012. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nông sản, vật liệu xây dựng, sản phẩm hóa dầu, thiết bị máy móc, dược phẩm. Kim ngạch nhập khẩu tăng từ 1,28 tỷ USD năm 2002 lên 5,76 tỷ USD năm 2012.
- 55 Thương mại nội khối chiếm 20,9% xuất khẩu và 76,6% nhập khẩu của Namibia năm 2011. - Ngoại thương của Nam Phi: Xuất khẩu của Nam Phi năm 2012 đạt 101,2 tỷ USD so với mức 31,77 tỷ USD năm 2002. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là vàng, kim cương, platin, khoáng sản, máy móc thiết bị. Nam Phi nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, sản phẩm hoá chất, hoá dầu, thực phẩm với kim ngạch năm 2012 đạt 106,8 tỷ USD so với mức 27,01 tỷ USD. Thương mại nội khối của Nam Phi mặc dù chiếm tới 95% tổng thương mại nội khối của cả Liên minh nhưng chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong hoạt động ngoại thương của nước này. Năm 2011, thương mại nội khối chiếm 8,1% xuất khẩu và 2,8% nhập khẩu của Nam Phi. - Ngoại thương của Swaziland: Xuất khẩu của Swaziland tăng chậm từ 1,38 tỷ USD năm 2002 lên 1,99 tỷ USD năm 2012. Mặt hàng chính đường, bột giấy, lông ngỗng, tủ lạnh và một số loại quả đóng hộp. Kim ngạch nhập khẩu từ mức 1,28 tỷ USD năm 2002 lên 2,11 tỷ USD năm 2012. Mặt hàng nhập khẩu chính của nước này là xe máy, máy móc các loại, thiết bị vận tải, lương thực, thực phẩm, xăng dầu và hoá chất. Swaziland gần như phụ thuộc hoàn toàn vào thương mại nội khối. Năm 2011, thương mại nội khối chiếm tới 68,2% xuất khẩu và 86% nhập khẩu của nước này. 3.1.1.4. Đặc điểm thị trường của các nước trong SACU Các nước trong khối SACU là thành viên của một liên minh thuế quan. Các chính sách thương mại nội khối tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc trao