Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội

pdf 22 trang vanle 3270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfli_luan_chung_ve_bao_hiem_xa_hoi_va_quan_li_tai_chinh_bao_hi.pdf

Nội dung text: Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội

  1. Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
  2. Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Phiên bản trực tuyến:
  3. MỤC LỤC 1. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội 2. Quản lí tài chính bảo hiểm xã hội 3. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Tham gia đóng góp 1/20
  4. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội Tính tất yếu khách quan của bảo hiểm xã hội Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con người để chống lại những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy mô nhỏ, thường là trong một nhóm người chung quan hệ huyết thống. Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con người hướng thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau trong cuộc sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này đã mang tính có tổ chức và quy mô rộng rãi hơn. Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người nông dân không có đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách mạng công nghiệp thì lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn chung họ sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất việc làm, ốm đau, tai nạn lao động đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã nảy nở, cùng với đó là sự ra đời của các nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh tật trong quá trình sản xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến khích thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người lao động thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai nạn lao động, mất việc Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối với những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính trị của mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan tâm đến tình cảnh của người lao động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động dần được quy định thành các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước. Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp các địa phương thành lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi ro. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn từ đây, người được bảo hiểm phải tham gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới. BHXH ngày càng được hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952. BHXH ở nước ta đã manh nha 2/20
  5. hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau cách mạng tháng Tám, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống BHXH Việt Nam như hiện nay. Khái niệm bảo hiểm xã hội Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ mang tính chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bước phát triển rộng khắp. BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau: “ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.” Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau: • Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động, giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như đã nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời sống của người lao động. • Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước. • Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một cách hiệu quả nhất. Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) cũng đã đưa ra một định nghĩa khác như sau: “ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại tình 3/20
  6. trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết.” Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội đó. Bản chất và chức năng của bào hiểm xã hội Bản chất của bảo hiểm xã hội Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao động khi gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc tuổi già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay được coi là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, được nhà nước quan tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét về bản chất bao gồm những nội dung sau đây: BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày càng phát triển. Do vậy trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự đa dạng và tính hoàn thiện của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới hệ thống BHXH của mỗi nước. BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối quan hệ của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử dụng lao động (bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, thông thường thì do cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ, bên được BHXH chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo những nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội. Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động có thể là những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp ), cũng có thể là các rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, thai sản, ). Đồng thời các biến cố này có thể xảy ra trong quá trình lao động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập của người lao động bị giảm hay mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù đắp từ nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và có thêm sự hỗ trợ của NSNN. Chức năng của bảo hiểm xã hội Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của người lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay mất việc làm. 4/20
  7. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay dài hạn thì mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao động và cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho người lao động khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa người lao động khoẻ mạnh với người lao động ốm đau, già yếu , giữa những người có thu nhập cao phải đóng nhiều với người có thu nhập thấp phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng này BHXH còn có ý nghĩa góp phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia. Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc, nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa người lao động và xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã hội. Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động BHXH đã gắn bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, người lao động thì được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái, tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu quả nhất vì đã giải quyết những khó khăn về đời sống của người lao động và góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau: Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của người đang làm việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm là quỹ góp chung của số đông bù cho số ít là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong BHXH không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà còn có cả những rủi ro không mang tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản, 5/20
  8. Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nước, song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kì khác nhau. Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách BHXH của các nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước (NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách năm 1995 của nước ta thì đây thực sự là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các bên tham gia BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có thể quản lí theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước khác nhau. Các chế độ của bảo hiểm xã hội Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác nhau. BHXH được xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống nhất trên toàn thế giới và phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về hệ thống chính sách BHXH. Trong Công ước 102 được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có quy định những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau: • Chăm sóc y tế. • Trợ cấp ốm đau. • Trợ cấp thất nghiệp. • Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. • Trợ cấp tuổi già. • Trợ cấp thai sản. • Trợ cấp tàn tật. • Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình. Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế độ nói trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây: • Trợ cấp tuổi già. • Trợ cấp thất nghiệp. • Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. • Trợ cấp tàn tật. • Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình. Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở điều kiện kinh tế, thu nhập, tiền lương, Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn phải tính đến các yếu tố 6/20
  9. sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, để quy định các mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối tượng hưởng cho hợp lí. Các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây: + Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước. + Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính. + Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH. + Phần lớn các chế độ là chi trả định kì. + Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. + Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH. + Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định. + Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế -xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội và phân loại quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ BHXH. Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ BHXH là một bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được hình thành từ các nguồn sau đây: • Người sử dụng lao động đóng góp, • Người lao động đóng góp, • Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm, • Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các hoạt động đầu tư quỹ nhàn rỗi). Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Sự đóng góp một phần quỹ của người sử dụng lao động cho người lao động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể hiện sự tự gánh chịu chính 7/20
  10. những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước. Hiện nay mức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước lại có những quy định khác nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí BHXH Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau: thứ nhất là chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn lại là chi trả cho chi phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì khoản chi thứ nhất là quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các khoản trợ cấp này cũng được quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng một cách cụ thể và có sự khác biệt đối với từng chế độ. Tại những nước khác nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được quy định khác nhau. Phân loại quỹ BHXH: Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên thế giới mà quỹ BHXH được phân loại khác nhau: • Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản. • Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả cho các chế độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho các chế độ như hưu trí, tử tuất. • Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà nước, quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh nghiệp, quỹ cho các đối tượng còn lại. Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh những tình trạng phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có sự bổ xung và hỗ trợ lẫn nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới những ảnh hưởng xấu đến việc chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên các cách tổ chức thực 8/20
  11. hiện các chế độ mà mỗi nước lại có những quy định khác nhau về các quỹ thành phần. Các quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ thống BHXH đó. 9/20
  12. Quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH. Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lí ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài chính BHXH tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí tài chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động yên tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là những biến động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi trường sống, môi trường kinh tế , những biến động tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa chọn và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp lí và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện mục tiêu của Nhà nước đặt ra. Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ yếu sau: • Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân đối trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động một cách thường xuyên nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới vấn đề này. Đây cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính đảo ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy có sự hỗ trợ của NSNN, song quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này một cách tốt nhất. • Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành Bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng có 10/20
  13. thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ quan BHXH phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu tư phần quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau: +An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH cho người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực để giảm thiểu rủi ro. + Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc này rất quan trọng và phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản chi mà còn góp phần cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. + Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù của nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư phải đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn khoản. Các hình thức đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước. + Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội, do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân, phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. Các hình thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ thống An sinh xã hội của mỗi nước. Nội dung quản lí tài chính BHXH. Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản sau: • Quản lí thu BHXH. • Quản lí chi BHXH. • Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. • Quản lí cân đối quỹ BHXH. 11/20
  14. Quản lí thu BHXH. Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm được nội dung thu gồm hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là khoản thu lớn nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ bù đắp cho những trường hợp cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà công tác quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao động và người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối tượng chính sau đây: Quản lí đối tượng tham gia BHXH:Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số ít nên việc tham gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối tượng tham gia cần thực hiện các công việc sau: + Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH. + Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định. + Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình đóng góp, ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và một số thông tin khác. Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp:Theo những quy định hiện hành như ngày nay thì phí thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của doanh nghiệp và tiền lương tháng của người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của doanh nghiệp BHXH có thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện thu và chi trả trực tiếp cho một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí nói riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH nói chung. Quản lí tiền thu BHXH:Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông qua tài khoản của BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp. Việc nắm bắt tình hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho công tác chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu BHXH, tất cả các đóng góp BHXH sẽ được quản lí chung một cách thống nhất, dân chủ, công khai trong toàn hệ thống. 12/20
  15. Quản lí chi BHXH. Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi khác. Trong đó có thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện sự bảo đảm cuộc sống của chính sách BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính sau: Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ:Mục tiêu của hoạt động quản lí chi không với mục đích giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không đúng đối tượng vừa tránh lãng phí lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để đảm bảo chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp lí, tổ chức thực hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí hoạt động thu trước tiên chúng ta phải quản lí những đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản thân người lao động hoặc người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp là những người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các điều kiện hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, thường thì mức trợ cấp, loại trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật, và chính biến cố mà người lao động gặp phải. BHXH Việt Nam muốn quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa trên cơ sở đó để xử lí các trường hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm tránh tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được phân loại và phân cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện. Quản lí chi hoạt động bộ máy:Sau chi cho các chế độ thì đây là khoản chi lớn thứ hai cần được quản lí. Chi quản lí có thể hiểu đơn giản là khoản chi cho bộ máy tức là trả lương cho cán bộ, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm thiết bị và những tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức BHXH. Mức chi này có thể được quy định trong điều lệ BHXH hoặc cũng có thể được lập trong NSNN. Khoản chi này cần được quản lí tránh những lãng phí không cần thiết. Một số nước khoản chi này được NSNN chi trả, một số nước lại do quỹ BHXH đảm bảo. Song nhìn chung thì chi phí quản lí là phải phù hợp tránh những lãng phí không cần thiết, song chi phí quản lí cũng phải đủ lớn để đảm bảo cơ sở cho hoạt động quản lí của BHXH được thực hiện dễ dạng. Hơn nữa lương cho cán bộ nhân viên của ngành BHXH phải cân bằng với các ngành khác. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của những yêu cầu cần bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những cơ hội cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát triển quỹ lại trở thành nhu cầu 13/20
  16. bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có thể sẽ đứng trước tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để hoạt động đầu tư thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn, tránh rủi ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội. Quản lí hoạt động cân đối quỹ. BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo hiểm thương mại, BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục đích lớn nhất là ổn định cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng thu chi là trạng thái mong muốn của mỗi nước khi triển khai thực hiện BHXH. Để cân đối thu chi trên thực tế thường phải có sự hỗ trợ của NSNN, đồng thời thì quỹ phải tìm cho mình những nguồn thu khác để đảm bảo cân bằng quỹ. Trong đó các khoản chi và nguồn thu đã được trình bày ở trên. Quản lí cân đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng nhằm phát hiện ra những thay đổi dẫn đến mất cân đối để có những biện pháp khắc phục kịp thời. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lí tài chính BHXH. Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lí tài chính BHXH nói riêng thì việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới hoạt động của đối tượng quản lí là rất cần thiết. Các tác động của môi trường có thể mang đến những thách thức cũng như những cơ hội cho chính bản thân các hoạt động tài chính của BHXH. Muốn quản lí tốt, nhà quản trị cần nắm rõ những yếu tố này để đưa ra những quyết định hợp lí và có lợi nhất cho đối tượng quản lí. Các tác động của môi trường thường được chia làm hai loại là tác động của môi trường ngoài hệ thống và tác động từ môi trường trong hệ thống. Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ môi trường kinh tế- chính trị- xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra thì có thể là cả những ảnh hưởng của môi trường thế giới. Khi chúng ta xem xét các yếu tố của BHXH dưới giác độ của các công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) đã quy định. Nhưng các nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. BHXH không chỉ là thể hiện tính ưu việt của mỗi Nhà nước mà chính Nhà nước cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất trong xã hội. Các chính sách, quyết định của Nhà nước tác động trực tiếp tới hoạt động quản lí. Môi trường kinh tế như GDP, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức sống tối thiểu, các dịch vụ công cộng . Đây là các yếu tố tác động tới thu chi, cân đối quỹ BHXH sao cho phù hợp đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Bên cạch đó còn có các yếu tố như văn hoá, lối sống, truyền thống, trình độ nhận thức, nó tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá nhân trong xã hôi. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “lá lành đùm là rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai BHXH nên được 14/20
  17. mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những yếu tố kể trên tác động tới nội dung của những quy định trong các quy chế quản lí tài chính BHXH Việt Nam. Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý thức tự giác của các đối tượng tham gia là người lao động và đặc biệt là chủ sử dụng lao động. Yếu tố trình độ của các cán bộ trong ngành BHXH, điều kiện làm việc, trang thiết bị phục vụ công tác, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lí tài chính BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cang đầy đủ và hiện đại thì công tác quản lí tài chính BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả. 15/20
  18. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính BHXH. Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH, trong đó số các nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực hiện các chế độ là tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung hiện nay là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối với lịch sử phát triển của ngành BHXH trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước. Quản lí tài chính BHXH ciủa Cộng hoà Liên bang Đức. So với các nước trên thế giới, Cộng hoà Liên bang Đức là nước có lịch sử phát triển được coi như sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện từ những năm 1850. Cho đến nay, chính sách BHXH ở Đức bao gồm 6 chế độ sau: + Bảo hiểm thất nghiệp. + Bảo hiểm y tế. + Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người già và người tàn tật. + Bảo hiểm ốm đau. + Bảo hiểm tai nạn lao động. + Bảo hiểm hưu trí. Hoạt động BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức thực hiện theo ba trụ cột chính là: • Hệ thống BHXH bắt buộc. • Hệ thống BHXH tư nhân. • Hệ thống BHXH ở các xí nghiệp. Trong đó hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự quản, bảo đảm tài chính theo phương pháp lấy thu bù chi. Hệ thống BHXH tư nhân và hệ thống BHXH ở các xí nghiệp hoạt động theo Bộ luật Lao động của Liên bang. Tự chịu là hình thức quản 16/20
  19. lí tương đối độc lập với sự chỉ đạo của cơ quan quản lí Nhà nước cao nhất. Có thể hiểu rõ thông qua cơ chế quản lí chung của Quỹ hưu trí sau. Cơ quan quản lí cao nhất là một Hội đồng, hội động này bổ nhiệm Ban điều hành, từ Ban điều hành sẽ điều hành mọi hoạt động của tổ chức. Hoạt động tài chính trong năm của Quỹ hưu trí viên chức Liên bang diễn ra như sau: Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của Chính phủ Liên bang, tổ chức BHXH, Tổng cục Thống kê sẽ dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới theo phương pháp ước tính. Từ đó đưa ra dự kiến số thu, dự kiến số chi, trên cơ sở này xác định tỉ lệ thu cho năm tới và tiến hành đưa ra bằng một văn bản có hiệu lực pháp luật. Quỹ thu thường là đủ dùng chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ, chi hoạt động của bộ máy quản lí và còn một khoản để dự trữ gọi là khoản dự trữ trần. Do sự ổn định của nền kinh tế mà khoản dự trữ này thường chỉ ở mức đủ chi cho các đối tượng do quỹ đảm bảo trong một tháng, từ năm 2001 đã rút xuống khoản 0,8 tháng. Cách này có những ưu điểm như: hạn chế được những tác động của môi trường kinh tế, dễ dàng cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh nặng cho NSNN, . Cộng hoà Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng một lúc nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm thu, chi cho một loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở nước này là những công chức Nhà nước ( những người được đề cử vào bộ máy quản lí Nhà nước) không phải đóng BHXH, nhưng họ được nhận lương hưu khi hết tuổi lao động. Khoản chi này được lấy từ nguồn thu thuế để trả. Có nhiều tổ chức cùng tham gia thực hiện các chế độ BHXH, đặc biệt là sự có mặt của các tổ chức BHXH tư nhân, có thể mang lại sự cạnh tranh giúp cho hoạt động ngày càng hiệu quả. Quản lí tài chính BHXH của Trung Quốc. Ngay sau khi thành lập nước, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng một hệ thống an toàn xã hội, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội, trợ giúp xã hội. Trong các chế độ đó BHXH giữ vai trò quan trọng nhất. Đến năm 1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Luật Lao động, trong đó chương IX có những quy định cải cách hệ thống BHXH. Các chế độ BHXH chỉ được áp dụng ở các khu vực thành thị và trong các doanh nghiệp. Tại các địa phương ở Trung Quốc đã cụ thể hoá các chế độ, trong đó hai chế độ là hưu trí và thất nghiệp đã được xây dựng thành Điều lệ, các chế độ khác về cơ bản còn là quy định tạm thời song có hiệu lực khá cao. Về nguyên tắc mỗi chế độ có một quỹ riêng. Nguồn quỹ gồm hai khoản: Một khoản do chủ sử dụng lao động nộp và một khoản do người lao động đóng. Riêng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động thì chỉ do chủ sử dụng lao động đóng. NSNN sẽ hỗ trợ khi mất cân đối thu chi do các nguyên nhân bất khả kháng, còn các trường hợp khác tự người lao động và người sử dụng lao động bảo đảm. Các quỹ nhìn chung được chia làm hai phần: Phần thứ nhất được đưa vào tài khoản cá nhân gồm toàn bộ số tiền do người lao động đóng và một phần do chủ sử dụng lao động đóng; Phần thứ hai được đưa vào quỹ chi chung 17/20
  20. trong trường hợp cần thiết là phần đóng góp còn lại của chủ sử dụng lao động. Qua đây chúng ta nhận thấy hiện nay có khá nhiều nước quản lí quỹ theo từng chế độ, đây là phương pháp quản lí mang tính mở dễ thích nghi với nhiều điều kiện của từng khu vực, từng tầng lớp lao động. Đặc biệt việc hình thành tài khoản cá nhân, bản thân người lao động có thể nắm bắt được số dư cũng như họ được hưởng hoàn toàn nên có những sự điều chỉnh tránh tình trạng mất công bằng. Cách quản lí quỹ như vậy đã phân định được rõ trách nhiệm của mỗi bên do vậy tránh tình trạng lẫn lộn giữa các quỹ, sử dụng sai mục đích hay thất thoát. 18/20
  21. Tham gia đóng góp Tài liệu: Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: 19/20
  22. Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources – VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0 do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội. Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của độc giả. Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring. Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới. 20/20