Giáo trình Kinh tế quốc tế - Chương 3: Đầu tư quốc tế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế quốc tế - Chương 3: Đầu tư quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_kinh_te_quoc_te_chuong_3_dau_tu_quoc_te.pdf
Nội dung text: Giáo trình Kinh tế quốc tế - Chương 3: Đầu tư quốc tế
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Chương 3 ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 1- KHÁI NIỆM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm và nguyên nhân của đầu tư quốc tế 1.1.1. Khái niệm Đầu tư quốc tế là một hình thức của di chuyển quốc tế về vốn, trong đó vốn được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện một hoặc một số dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Thực chất, đầu tư quốc tế là sự vận động của tiền tệ và tài sản giữa các quốc gia nhằm điều chỉnh tỷ lệ giữa các yếu tố sản xuất, tạo điều kiện cho nền kinh tế các quốc gia phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu nói chung. 1.1.2. Nguyên nhân của đầu tư quốc tế Trong thực tế, đầu tư quốc tế được thực hiện với nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có thể tổng kết một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, sự mất cân đối về các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia nên có sự chênh lệch về giá cả các yếu tố, đầu tư quốc tế được thực hiện nhằm đạt được lợi ích từ sự chênh lệch đó (khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia). Thứ hai, do sự gặp gỡ về lợi ích của các bên tham gia, cụ thể là: + Đối với bên có vốn đầu tư: Cần tìm nơi đầu tư có lợi, cần tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch cũng như sự kiểm soát hải quan trong buôn bán quốc tế, cần khuyếch trương thị trường, uy tín, tăng cường vị thế và mở rộng quy mô kinh doanh. + Đối với bên tiếp nhận vốn đầu tư: Do thiếu vốn tích luỹ, do nhu cầu tăng trưởng nhanh, nhu cầu đổi mới kỹ thuật, công nghệ và tiếp nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên và tạo việc làm cho lao động trong nước, đầu tư quốc tế được thực hiện để đáp ứng các nhu cầu đó. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển, thực hiện tiếp nhận đầu tư quốc tế còn nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng các khu công nghiệp và khu công nghệ cao, góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá đất nước. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 82
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Thứ ba, trong nhiều trường hợp, đầu tư quốc tế nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng các công trình có quy mô vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều quốc gia. 1.2. Tác động của đầu tư quốc tế Thực tế cho thấy rằng, đầu tư quốc tế có những tác động mang tính hai mặt (tác động tích cực và tác động tiêu cực) cả đối với nước chủ đầu tư (nước chủ nhà) và nước tiếp nhận đầu tư (nước sở tại). 1.2.1. Đối với nước chủ đầu tư a) Tác động tích cực: + Khắc phục được xu hướng giảm sút lợi nhuận trong nước, có điều kiện thu được lợi nhuận cao hơn cho chủ đầu tư tự do tìm được môi trường đầu tư thuận lợi hơn. + Là biện pháp để vượt qua hàng rào bảo hộ mậu dịch nhằm mở rộng thị trường; tận dụng triệt để những ưu ái của nước nhận đầu tư. + Khuyếch trương được sản phẩm, danh tiếng, tạo lập uy tín và tăng cường vị thế của họ trên thị trường thế giới. + Khai thác được nguồn yếu tố đầu vào sản xuất với chi phí thấp hơn so với đầu tư trong nước. b) Tác động tích cực: + Nếu chiến lược, chính sách không phù hợp thì các nhà kinh doanh không muốn kinh doanh trong nước, mà chỉ lao ra nước ngoài kinh doanh, do đó quốc gia có nguy cơ tụt hậu. + Dẫn đến làm giảm việc làm ở nước chủ đầu tư. + Có thể xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám trong quá trình chuyển giao công nghệ. + Chủ đầu tư có thể gặp rủi ro lớn nếu không hiểu rõ về môi trường đầu tư 1.2.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư a) Tác động tích cực: + Góp phần giải quyết khó khăn do thiếu vốn. + Tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động trong nước. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 83
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện + Học tập kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc tiên tiến, tiếp nhận công nghệ hiện đại từ nước chủ đầu tư. + Tạo điều kiện để khai thác các nguồn tài nguyên một cách có hiệu quả. + Giúp cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. + Góp phần khắc phục những khó khăn do thiên tai, hoả hoạn và giải quyết các vấn đề xã hội. b) Tác động tiêu cực: + Có thể dẫn tới tình trạng khai thác tài nguyên thái quá, gây ô nhiễm môi trường. + Gây ra sự phân hoá, tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng và giữa các tầng lớp dân cư. + Có thể làm tăng các vấn đề về tệ nạn xã hội, bệnh tật. + Có thể bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc vào những yêu cầu từ phía chủ đầu tư. 1.3. Một số lý thuyết về đầu tư quốc tế Những nội dung trên đây đã hệ thống những nguyên nhân và tác động mang tính thực tiễn của đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó, thông qua nhiều công trình nghiên cứu, các nhà kinh tế học đã đưa ra những quan điểm khác nhau làm cơ sở lý luận để giải thích cho động cơ thực hiện đầu tư quốc tế ở các quốc gia. Trong đó, các lý thuyết tiêu biểu cần được kể tới là: Lý thuyết lợi ích cận biên, lý thuyết về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm, lý thuyết về quyền lực thị trường, lý thuyết về tính không hoàn hảo của thị trường và lý thuyết chiết trung. 1.3.1. Lý thuyết lợi ích cận biên Lý thuyết này được xây dựng dựa trên những giả định sau: + Thế giới có hai quốc gia: quốc gia 1 và quốc gia 2. + Tổng vốn đầu tư của toàn thế giới được biểu diễn trên hình vẽ là đoạn OO' (hình 1) và vốn được di chuyển tự do giữa các quốc gia. Với các giả định trên, hiệu quả của đầu tư quốc tế có thể được biểu diễn qua hình 1. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 84
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Hình 1. Ảnh hưởng phúc lợi của đầu tư quốc tế i i ' Quèc gia 1 F Quèc gia 2 J M N H E R C VMPK T 2 G O VMPK1 O ' B A Trong đó: OO' - tổng vốn đầu tư của thế giới. Oi O'i' - tương ứng là các trục biểu diễn giá trị sản phẩm cận biên tăng thêm của vốn đầu tư ở quốc gia 1 và quốc gia 2. OA - vốn đầu tư của quốc gia 1 O'A - vốn đầu tư của quốc gia 2 VMPK1 và VMPK2 là hai đường biểu diễn giá trị sản phẩm cận biên tăng thêm của quốc gia 1 và quốc gia 2 tương ứng với các mức vốn đầu tư khác nhau. Trong điều kiện cạnh tranh, giá trị đó biểu hiện thành lợi nhuận họăc cổ tức của vốn đầu tư. a) Xét trường hợp toàn bộ vốn ở mỗi quốc gia được sử dụng để đầu tư trong nước: - Đối với quốc gia 1: đầu tư toàn bộ vốn trong nước OA với mức lợi nhuận là OC. Khi đó, giá trị tổng sản phẩm (được đo bằng diện tích phía dưới của đường giá trị sản phẩm cận biên tăng thêm) là diện tích của hình OFGA. Trong đó, phần diện tích của OCGA là giá trị sản phẩm tạo ra từ vốn đầu tư và phần còn lại là diện tích tam giác CFG là giá trị sản phẩm tạo ra từ các yếu tố phối hợp như đất đai, lao động. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 85
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Đối với quốc gia 2: đầu tư toàn bộ vốn trong nước O'A với mức lợi nhuận O'H. Tổng giá trị sản phẩm tạo ra là diện tích của hình O'JMA, trong đó diện tích O'HMA là giá trị sản phẩm tạo ra từ vốn và phần còn lại là diện tích HJM - giá trị sản phẩm của các yếu tố phối hợp. b) Xét trường hợp vốn đầu tư di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia kia (có đầu tư quốc tế), khi đó hiệu quả của vốn đầu tư sẽ được xác định như sau: Do lợi nhuận của vốn đầu tư ở quốc gia 2 (O'H) cao hơn ở quốc gia 1 (OC) nên phần AB của vốn đầu tư sẽ chuyển từ quốc gia 1 sang đầu tư ở quốc gia 2 và cân bằng ở mức lợi nhuận BE (BE = ON = O'T). BE chính là mức tỷ suất lợi nhuận bình quân ở hai quốc gia. Khi đó, tổng giá trị sản phẩm tạo ra bởi quốc gia 1 là diện tích của OFEB (thu nhập từ đầu tư trong nước) cộng thêm phần diện tích ABER (tổng lợi nhuận thu được nhờ đầu tư ra nước ngoài). Như vậy, tổng thu nhậpp của quốc gia 1 là diện tích OFERA, trong đó diện tích ERG là phần thu nhập tăng thêm so với trước khi có đầu tư nước ngoài. Nhờ dòng vốn đầu tư quốc tế di chuyển tự do, tổng giá trị sản phẩm tạo ra (thu nhập) từ vốn của quốc gia 1 tăng lên đến diện tích ONRQ, còn tổng thu nhập từ các yếu tố phối hợp giảm xuống còn diện tích tam giác NFE. Dòng vốn đầu tư nước ngoài AB từ quốc gia 1 đổ vào quốc gia 2 làm cho tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư ở quốc gia này giảm từ O'H xuống còng O'T. Khi đó, tổng giá trị sản phẩm (tổng thu nhập) của quốc gia 2 tăng từ diện tích O'JMA lên diện tích O'JEB. Tổng giá trị sản phẩm tăng thêm là diện tích ABEM, trong đó phần diện tích ABER là phần thu nhập thuộc về nhà đầu tư nước ngoài (các nhà đầu tư đến từ quốc gia 1), còn diện tích ERM là thu nhập lợi ích thực sự của quốc gia 2 nhờ có đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, tổng giá trị sản phẩm thu nhập tạo ra từ vốn đầu tư trong nước giảm từ diện tích O'HMA xuống còn diện tích O'TRA, còn thu nhập từ các yếu tố phối hợp tăng từ diện tích HJM lên diện tích TJE. Qua phân tích trên, chúng ta có thể rút ra kết luận rằng từ quan điểm coi thế giới là một tổng thể gồm hai quốc gia, đầu tư quốc tế làm cho tổng giá trị sản phẩm của toàn thế giới tăng lên (biểu diễn qua phần diện tích EMG trong hình 1).Như vậy, đầu tư quốc tế đã góp phần tăng khả năng phân phối và hiệu quả sử dụng các nguồn lực của từng quốc gia cũng như của toàn nền kinh tế thế giới. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 86
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 1.3.2. Lý thuyết về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm Lý thuyết này được xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm. Theo quan điểm của lý thuyết về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm, người ta có thể giải thích tại sao các nhà sản xuất lại chuyển hướng hoạt động kinh doanh của họ từ chỗ sản xuất và xuất khẩu sản phẩm sang thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Lý thuyết giả định rằng, đầu tiên các nhà sản xuất đạt được lợi thế độc quyền xuất khẩu nhờ việc cho ra đời những sản phẩm mới, hoặc cải tiến những sản phẩm đang được sản xuất dành riêng cho thị trường nước ngoài. Trong giai đoạn đầu của vòng đời sản phẩm mới, giai đoạn thử nghiệm sản xuất được tiến hành tập trung tại chính quốc ngay cả khi chi phí sản xuất ở nước ngoài có thể thấp hơn. Ở giai đoạn này, để thâm nhập thị trường nước ngoài, các công ty có thể thực hiện xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, khi sản phẩm đã trở nên chuẩn hoá trong giai đoạn phát triển, các nhà sản xuất sẽ khuyến khích việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng lợi thế chi phí sản xuất thấp (với giá các yếu tố đầu vào rẻ, chính sách ưu đãi của Chính phủ nước sở tại) và quan trọng hơn là nhằm ngăn chặn khả năng để mất thị trường vào tay các nhà sản xuất địa phương. 1.3.3. Lý thuyết về quyền lực thị trường Lý thuyết về quyền lực thị trường cho rằng, đầu tư quốc tế được thực hiện do những hành vi đặc biệt của các công ty độc quyền nhóm trên phạm vi quốc tế, trong đó bao gồm: phản ứng của các công ty độc quyền nhóm, hiệu quả kinh tế nhờ quy mô và sự liên kết đầu tư quốc tế theo chiều dọc. Tất cả các hành vi đó đều nhằm hạn chế cạnh tranh, mở rộng thị trường và ngăn cản không cho đối thủ khác thâm nhập vào ngành và thị trường của các công ty độc quyền nhóm. Đầu tư quốc tế theo chiều dọc 1.3.4. Lý thuyết chiết trung Lý thuyết này phát biểu rằng, các công ty sẽ thực hiện đầu tư ra nước ngoài khi hội đủ ba lợi thế. Đó là lợi thế về địa điểm, lợi thế về sở hữu và lợi thế về nội hoá. Lợi thế về địa điểm là lợi thế có được do việc tiến hành hoạt động kinh doanh tại một địa điểm nhất định với những đặc thù riêng (do điều kiện tự nhiên hoặc được tạo ra). Lợi thế về địa điểm có thể gắn liền với sự giàu có của nguồn TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 87
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện tài nguyên thiên nhiên, sự sẵn có của lực lượng lao động với giá rẻ, lao động lành nghề, Lợi thế về sở hữu là lợi thế có được khi một công ty có cơ hội tham gia sở hữu một số tài sản đặc biệt nhất định, chẳng hạn như nhãn hiệu sản phẩm, bản quyền công nghệ hoặc cơ hội quản lý. Lợi thế nội hoá là lợi thế đạt được do việc nội hoá hoạt động sản xuất thay vì chuyển nó đến một thị trường kém hiệu quả hơn. Lý thuyết chiết trung khẳng định rằng, khi xuất hiện đầy đủ các lợi thế kể trên, các công ty sẽ tham gia vào đầu tư quốc tế. 2- ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI 2.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư gián tiếp nước ngoài 2.1.1. Khái niệm: Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia, trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Nói cách khác, đầu tư gián tiếp nước ngoài là một loại hình đầu tư quốc tế mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng đối với một tài sản đầu tư. Chủ đầu tư nước ngoài có thể đầu tư dưới hình thức cho vay và hưởng lãi suất hoặc đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu và hưởng lợi tức. 2.1.2. Đặc điểm - Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được cung cấp bởi các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ (NGO) và tư nhân. Nếu là vốn đầu tư của các tổ chức quốc tế thì thường có khối lượng lớn và kèm theo là các điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời gian (gồm thời hạn ân hạn và thời gian trả nợ). Ngoài ra, nó còn gắn liền với các yêu cầu mang sắc thái chính trị của các tổ chức quốc tế. Nếu là vốn đầu tư của tư nhân thì được thực hiện thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu và bị khống chế ở mức dưới 10-25% vốn pháp định. - Chủ đầu tư nước ngoài không trực tiếp tham gia điều hành hoạt động của đối tượng đầu tư. - Chủ đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận thông qua lãi suất cho vay hoặc lợi tức cổ phần. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 88
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 2.2. Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài Đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện từ nhiều nguồn khác nhau, dưới các hình thức sau: Viện trợ có hoàn lại và viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi hoặc không ưu đãi, mua cổ phiếu hoặc trái phiếu. Hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu là hình thức đầu tư của tư nhân. Chủ đầu tư sẽ lựa chọn các doanh nghiệp làm ăn có lãi hoặc có triển vọng phát triển trong tương lai để đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, nhưng số lượng cổ phần sẽ bị khống chế ở mức độ nhất định, tuỳ theo luật đầu tư của từng nước quy định. Chủ đầu tư sẽ được hưởng lợi tức cổ phần và giá trị của lợi tức thu được sẽ phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài các hình thức trên, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cũng có thể được coi là một bộ phận quan trọng của đầu tư gián tiếp nước ngoài. 2.2.1. Hỗ trợ phát triển chính thức - ODA a) Khái niệm: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ một nước với các Chính phủ nước ngoài, các Tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia. b) Các hình thức của ODA - ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn lại cho nhà tài trợ. - ODA cho vay ưu đãi (tín dụng ưu đãi): Là hình thức cung cấp ODA dưới dạng cho vay với lãi suất và điều kiện ưu đãi sao cho "yếu tố không hoàn lại" hay "thành tố hỗ trợ" đạt không dưới 25% của tổng giá trị khoản vay. - ODA hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản cho vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại, "yếu tố không hoàn lại" đạt không dưới 25% tổng giá trị các khoản đó. Ngoài ra còn bao gồm các khoản vay từ các Tổ chức Tài chính quốc tế có thành tố hỗ trợ dưới 25%. (IMF, Ngân hàng tái thiết phát triển quốc tế (IBRD) thuộc WB, Quỹ nguồn vốn thông thường (OCR) thuộc ADB). c) Các phương thức cung cấp ODA - Hỗ trợ cán cân thanh toán và ngân sách: Gồm các khoản ODA được cung cấp dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hoá để hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc ngân sách của nhà nước. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 89
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Hỗ trợ chương trình: Gồm các khoản ODA được cung cấp để thực hiện một tập hợp các hoạt động, các dự án có liên quan nhằm đạt được một hoặc một số mục tiêu thực hiện trong một thời hạn nhất định, tại các thời điểm cụ thể. - Hỗ trợ dự án: Là các khoản ODA cung cấp để thực hiện dự án xây dựng cơ bản bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp trang thiết bị, dịch vụ tư vấn, đào tạo cán bộ d) Các đối tác cung cấp ODA - Chính phủ nước ngoài; - Các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia, bao gồm: Các tổ chức phát triển của Liên hiệp quốc (LHQ) như: Chương trình phát triển của LHQ (UNDP); Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF); Chương trình Lương thực Thế giới (WFP); Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của LHQ (FAO); Quỹ Dân số LHQ (UNFPA); Quỹ Trang thiết bị của LHQ (UNDCF); Tổ chức Phát triển công nghiệp của LHQ (UNIDO); Cao uỷ LHQ về người tị nạn (UNHCR); Tổ chức Y tế thế giới (WHO); Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA); Tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của LHQ (UNESCO); Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD); Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF); Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) và Ngân hàng tái thiết phát triển quốc tế (IBRD) thuộc nhóm Ngân hàng thế giới (WB). Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Các Tổ chức tài chính quốc tế: Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); Quỹ các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC); Ngân hàng đầu tư Bắc Âu (NIB); Quỹ phát triển Bắc Âu (NDF); Quỹ Cô-oét. e) Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA Nhìn chung, ODA thường được sử dụng dựa trên kế hoạch phát triển của nước tiếp nhận và gắn với tính chất của nguồn vốn cung cấp. * Vốn ODA không hoàn lại thường được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực sau: - Xoá đói giảm nghèo, trước hết tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. - Y tế, dân số và phát triển. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 90
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Giáo dục, phát triển nguồn nhân lực. - Các vấn đề xã hội (tạo việc làm, cấp nước sinh hoạt, phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội). - Bảo vệ môi trường, bảo vệ phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nghiên cứu khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. - Nghiên cứu chuẩn bị các chương trình, dự án phát triển. - Cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương, địa phương và phát triển thể chế. - Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. * Vốn ODA vay được sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực. - Xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn. - Giao thông vận tải, thông tin liên lạc. - Năng lượng. - Cơ sở hạ tầng xã hội (các công trình phúc lợi công cộng, y tế, giáo dục và đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường). - Hỗ trợ cán cân thanh toán. - Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. g) Quy trình thu hút, quản lý và sử dụng ODA Quy trình thu hút, quản lý và sử dụng ODA được tiến hành theo các bước chủ yếu sau: - Xây dựng danh mục các chương trình, dự án ưu tiên vận động và sử dụng ODA. - Vận động ODA. - Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA. - Thông báo điều ước quốc tế khung về ODA. - Chuẩn bị văn kiện chương trình, dự án ODA. - Thẩm định, phê duyệt nội dung chương trình, dự án ODA. - Đàm phán, ký kết, phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế cụ thể về ODA. - Thực hiện chương trình, dự án ODA. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 91
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Theo dõi, đánh giá, nghiệm thu, quyết toán và bàn giao kết quả chương trình, dự án ODA. 2.2.2. Lợi thế và bất lợi của đầu tư gián tiếp nước ngoài a) Lợi thế - Bên tiếp nhận vốn đầu tư hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng vốn, do đó vốn đầu tư được phân bổ hợp lý cho các vùng, các ngành, các lĩnh vực. - Doanh nghiệp có khả năng phân tán rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu. - Chủ đầu tư nước ngoài ít chịu rủi ro vì lợi nhuận thu được luôn theo một tỷ lệ lãi suất cố định. b) Bất lợi - Hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư vì chủ đầu tư nước ngoài bị khống chế ở mức độ góp vốn tối đa. - Đầu tư gián tiếp nước ngoài hạn chế khả năng tiếp thu công nghệ, kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các chủ đầu tư nước ngoài. - Phạm vi đầu tư bị hạn chế do chủ đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh. - Hiệu quả sử dụng vốn không cao ở các nước tiếp nhận vốn đầu tư và thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài, có nước còn rơi vào tình trạng không có khả năng trả nợ. - Các nước tiếp nhận vốn đầu tư dễ bị các chủ đầu tư nước ngoài trói buộc vào vòng ảnh hưởng chính trị của họ. 3- ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 3.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 3.1.1. Khái niệm và nguồn vốn của đầu tư trực tiếp nước ngoài * Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình của đầu tư quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Về thực chất, FDI là sự đầu tư của công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là loại hình đầu tư, trong đó chủ đầu tư nước ngoài tham gia đóng góp một số vốn đủ lớn TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 92
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện vào việc sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành đối tượng đầu tư. * Nguồn vốn: FDI chủ yếu được thực hiện từ nguồn vốn tư nhân, vốn của các công ty nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao hơn qua việc triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài. 3.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài + Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật doanh nghiệp của mỗi nước. + Quyền quản lý, điều hành đối tượng đầu tư tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. + Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. + FDI được xây dựng thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp với nhau. 3.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong thực tiễn, FDI được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó những hình thức được áp dụng phổ biến bao gồm: + Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. + Doanh nghiệp liên doanh. + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, các hình thức đầu tư trên, được áp dụng ở mức độ khác nhau. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Chính phủ nước sở tại còn lập ra các khu vực ưu đãi đầu tư trong lãnh thổ nước mình như: Khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao và đặc khu kinh tế, đồng thời còn áp dụng các hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T), xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (B.T.O) và xây dựng chuyển giao (B.T). TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 93
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 3.3. Khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung 3.3.1. Khu chế xuất (Export Procesing Zone - EPZ) * Khái niệm: Trên thực tế, có nhiều khái niệm khác nhau về khu chế xuất, theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, khu chế xuất ngày nay là sự phát triển, hoàn thiện của các cảng tự do và khu vực mậu dịch tự do. Theo khái niệm của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO), khu chế xuất là một khu vực tương đối nhỏ, có phân cách về địa lý trong lãnh thổ một quốc gia nhằm thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các doanh nghiệp đó những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt, khu chế xuát cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu miễn thuế dựa trên kho quá cảnh. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu chế xuất được hiểu là "khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất khẩu, trong đó bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động, có ranh giới về mặt địa lý xác định, do Chính phủ quyết định thành lập. Như vậy, theo nghĩa rộng, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá chủ yếu vì mục đích xuất khẩu. Nó là khu vực biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng theo phương thức tự do, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quản của nước sở tại. Theo nghĩa hẹp, khu chế xuất là một khu vực riêng biệt, có ấn định ranh giới, ấn định cả sự kiểm tra riêng đối với các luồng hàng hoá vào và ra khu vực đó. * Đặc điểm của khu chế xuất + Đó là một khu vực lãnh thổ của một nước, được quy hoạch độc lập, thường được ngăn cách bằng tường rào kiên cố để hoạt động cách biệt với phần nội địa. + Mục đích hoạt động của khu chế xuất là thu hút các nhà sản xuất công nghiệp nước ngoài và trong nước hướng vào xuất khẩu thông qua những biện TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 94
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện pháp đặc biệt như ưu đãi về thuế quan, về các điều kiện mậu dịch và các loại thuế khác. + Hàng hoá, tư liệu xuất - nhập khẩu của khu chế xuất được miễn thuế quan. * Vai trò của khu chế xuất Việc xây dựng và đưa các khu chế xuất vào hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu sau: + Tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. + Tiếp nhận khoa học - công nghệ và kinh nghiệm, tác phong làm việc tiên tiến của chủ đầu tư nước ngoài. + Tạo việc làm, tăng thu nhập, đồng thời nâng cao chất lượng làm việc của lao động ở nước sở tại. + Tăng thu ngoại tệ thông qua việc thu tiền các dịch vụ điện, nước, thông tin, thuê mặt bằng + Thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện cảnh quan của một số vùng lãnh thổ quốc gia. * Các bước hình thành và triển khai một khu chế xuất +Lựa chọn thời điểm để xây dựng khu chế xuất. + Lựa chọn địa điểm để xây dựng khu chế xuất. + Tìm nguồn vốn đầu tư cho việc xây dựng khu chế xuất. + Xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho khu chế xuất. + Thẩm định và ra quy định về thành lập khu chế xuất. + Triển khai hoạt động kinh doanh khu chế xuất. 3.3.2. Khu công nghiệp tập trung (KCNTT) * Khái niệm: Khu công nghiệp tập trung là một khu vực được xây dựng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có sẵn các nhà máy và các dịch vụ tiện nghi cho con người sinh sống. Mục tiêu xây dựng các khu công nghiệp tập trung của nước sở tại được thể hiện ở một số điểm sau: + Thu hút đầu tư trên quy mô và phát triển kinh tế. + Thúc đẩy xuất khẩu. + Tạo việc làm. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 95
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện + Tiếp nhận công nghệ kinh nghiệm quản lý và tác phong làm việc tiên tiến. + Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Phát triển cơ sở hạ tầng. + Cân đối sự phát triển giữa các vùng. + Kiểm soát sự ô nhiễm môi trường. * Đặc điểm của khu công nghiệp tập trung - Về mặt pháp lý, khu công nghiệp tập trung là một phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp tập trung chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Ví dụ, các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, trong đó bao gồm: Quy chế về khu công nghiệp và khu chế xuất, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật lao động - Về mặt kinh tế, khu công nghiệp tập trung là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, cụ thể là: + Huy động được các nguồn lực của nước sở tại, của nhà đầu tư nước ngoài đóng góp vào việc phát triển cơ cấu vùng và các ngành công nghiệp ưu tiên theo mục tiêu của nước sở tại. + Việc phát triển kinh tế của khu công nghiệp tập trung thuận lợi hơn so với các khu vực khác của đất nước. Đó là do các khu công nghiệp được áp dụng quy chế và các thủ tục thông thoáng, hấp dẫn hơn các khu vực khác (trừ khu chế xuất), chẳng hạn như: thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ; được hưởng các khuyến khích tài chính, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội, ) đồng thời có cơ sở hạ tầng phát triển hiện đại hơn. c) Phân biệt khu chế xuất (KCX) và khu công nghiệp tập trung (KCNTT) Từ khái niệm, các đặc điểm nêu trên và xuất phát từ quá trình triển khai thực tế của các KCX và KCNTT có thể rút ra một số điểm khác nhau cơ bản giữa chúng như sau: - Về hàng hoá sản xuất: KCNTT sản xuất các hàng hoá công nghiệp có thể phục vụ xuất khẩu, có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước, còn KCX sản xuất các hàng hoá chủ yếu phục vụ mục đích xuất khẩu. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 96
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Về các khuyến khích tài chính: Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ, mức độ ưu tiên cho từng khu, chính phủ nước sở tại ban hành các ưu đãi cụ thể khác nhau (dựa trên cơ sở khung ưu đãi đã công bố cho các nhà đầu tư) cho các KCX và KCNTT. Trong đó thường bao gồm các ưu đãi về thuế thu nhập công ty, thuế xuất - nhập khẩu, chế độ hoàn thuế, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài .v.v - Về mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế nước sở tại: Kinh nghiệm phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy, nhìn chung KCNTT tạo ra mối liên kết với nền kinh tế nước sở tại tốt hơn KCX thông qua tạo việc làm và mua nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp địa phương. Các KCX thường tìm nguồn nguyên liệu trong nội bộ công ty nên chúng chủ yếu mua nguyên liệu từ nước ngoài, do đó ít mua nguyên liệu từ nguồn địa phương hơn các KCNTT. - Về việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước sở tại Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam thường cũng gặp khó khăn tương tự như các nhà đầu tư nước ngoài về thủ tục hành chính và điều kiện được hưởng ưu đãi đầu tư. Do vậy, việc xây dựng các KCNTT sẽ giúp các doanh nghiệp này tận dụng được các ưu đãi về trước hết tập trung vào phát triển thị trường trong nước, sau đó là xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài khi đã đủ lực, còn các KCX đòi hỏi các doanh nghiệp phải thoả mãn yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu cao ngay từ khi mới tham gia. - Về vị trí xây dựng các KCX và KCNTT: Do sự định hướng phát triển sản xuất hàng hoá ở các khu này khác nhau nên việc lựa chọn địa điểm của chúng cũng khác nhau. Các KCX yêu cầu có trí thuận lợi để thực hiện hoạt động xuất khẩu (ở gần hoặc có điều kiện giao thông thuận tiện đến các cảng, bến bãi, hệ thống kho tập kết hàng ). Các KCNTT lại yêu cầu vị trí đảm bảo có hệ thống giao thông thuận tiện cả tới các địa điểm tiêu thụ nội địa. - Về tính thời gian của KCX và KCNTT: Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới qua xem xét các trường hợp của Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, các KCX chỉ đóng góp động lực ban đầu cho phát triển các hàng hoá chế biến xuất khẩu của nước sở tại (có hiệu quả trong ngắn hạn). Khi nền kinh tế phát triển, tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCX giảm dần và đóng góp của chúng đối với toàn bộ nền kinh tế nước sở tại cũng có xu hướng giảm. Trong khi TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 97
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện đó, khả năng đóng góp của các KCNTT đối với nền kinh tế nước sở tại mang tính lâu dài hơn vì chúng phát huy tốt hơn cả nguồn lực trong và ngoài nước, tận dụng cả sức tiêu thụ của thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. 3.4. Lợi thế và bất lợi của đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong quá trình triển khai thực hiện, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những điểm mạnh (lợi thế) và hạn chế (bất lợi) nhất định cả đối với nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. 3.4.1. Lợi thế * Đối với nước chủ đầu tư (nước chủ nhà) + Chủ đầu tư có khả năng kiểm soát hoạt động sử dụng vốn đầu tư và có thể đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do đó, vốn đầu tư thường được sử dụng với hiệu quả cao. + Giúp chủ đầu tư nước ngoài tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và chiếm lĩnh thị trường nước sở tại. + Chủ đầu tư nước ngoài có thể giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm do khai thác được nguồn nguyên liệu và lao động với giá cả thấp của nước sở tại. Vì vậy, thông qua thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, chủ đầu tư có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. * Đối với nước tiếp nhận đầu tư (nước sở tại) + Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể tiếp thu được kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý và tác phong làm việc tiên tiến của nước ngoài. + Giúp cho nước sở tại khai thác một cách có hiệu quả nguồn lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn vốn trong nước, từ đó góp phần mở rộng tích luỹ và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. 3.4.2. Bất lợi * Đối với nước chủ đầu tư + Chủ đầu tư có thể gặp rủi ro cao nếu không hiểu rõ về môi trường đầu tư của nước sở tại. + Có thể xảy ra tình trạng chảy máu chất xám nếu chủ đầu tư nước ngoài để mất bản quyền sở hữu công nghệ, bí quyết sản xuất trong quá trình chuyển giao. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 98
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện * Đối với nước tiếp nhận đầu tư + Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến hiện tượng đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng. + Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường với giá đắt làm thiệt hại lợi ích của nước sở tại. 4- MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 4.1. Những vấn đề chung về luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 4.1.1. Quá trình ban hành và sửa đổi Năm 1977, chính phủ Việt Nam đã ban hành "Điều lệ về đầu tư nước ngoài tại nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Do những khó khăn về môi trường kinh tế và chính trị ở nước ta lúc đó nên việc triển khai điều lệ này trên thực tế không có kết quả. Trên cơ sở những đổi mới tư duy kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý được đề ra tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1987 Quốc hội khoá VIII đã thông qua và ban hành "Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam" với mục tiêu tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng, cho đến nay "Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung và ban hành mới 4 lần". + Lần thứ nhất được Quốc hội thông qua vào tháng 6 năm 1990: Luật sửa đổi, bổ sung. + Lần thứ hai được Quốc hội thông qua vào tháng 12 năm 1992: Luật sửa đổi, bổ sung. + Lần thứ ba được Quốc hội thông qua vào tháng 12 năm 1996: Luật đầu tư nước ngoài (ban hành mới). + Lần thứ hai được Quốc hội thông qua vào tháng 6 năm 2000: Luật sửa đổi, bổ sung. Tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư, đây là luật điều chỉnh chung thống nhất cả hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 99
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Bên cạnh đó, chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan còn ban hành hệ thống các văn bản dưới luật nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 4.1.2. Tư tưởng chủ đạo của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có tư tưởng chủ đạo là tạo nên khu cảnh pháp thuận lợi và bình đẳng cho môi trường đầu tư tại Việt Nam (vừa tạo nên sự hấp dẫn, vừa bảo vệ lợi ích của đất nước và phù hợp với thông lệ quốc tế). Do vậy, Luật phải xử lý thoả đáng mối quan hệ lợi ích giữa các bên. Cụ thể là đảm bảo lợi ích chính đáng của bên nước ngoài là an toàn về vốn, thu lợi nhuận tương đối cao và được xét xử công khai khi có tranh chấp. Lợi ích của bên Việt Nam phải được nhìn nhận một cách toàn diện và lâu dài cả về kinh tế, chính trị và xã hội. 4.1.3. Quy định của Luật về đối tượng, lĩnh vực và hình thức đầu tư * Đối tượng đầu tư: Theo quy định của Luật hiện hành, đối tượng đầu tư tại Việt Nam là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài có đủ năng lực pháp lý được phép tham gia liên doanh với bên Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp tư nhân để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam. * Lĩnh vực đầu tư: Cho đến nay, các dự án FDI được phép triển khai trong hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, kể cả các ngành y tế và đào tạo. Trong đó có sự khuyến khích và ưu đãi đối với những dự án đầu tư vào các chương trình kinh tế lớn, sử dụng nhiều lao động, công nghệ cao và xây dựng cơ sở hạ tầng. * Hình thức đầu tư, bao gồm những hình thức chủ yếu sau: + Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là hình thức đầu tư, trong đó bên Việt Nam và bên nước ngoài, cùng nhau thực hiện hợp đồng được ký kết giữa hai bên, trong đó quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới. + Doanh nghiệp liên doanh: Bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng nhau góp vốn theo tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới (thường là dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn) có hội đồng quản trị và ban giám đốc TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 100
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện điều hành riêng. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh được chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Trong hình thức đầu tư này, bên nước ngoài chịu trách nhiệm đầu tư toàn bộ vốn để thành lập doanh nghiệp theo quy định của luật pháp Việt Nam (doanh nghiệp là một pháp nhân Việt Nam). Phía Việt Nam không góp vốn, chỉ thực hiện việc cung cấp các dịch vụ điện, nứơc, cho thuê đất, lao động đảm bảo cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, chủ đầu tư nước ngoài có toàn quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm cũng như hưởng lợi từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Luật còn quy định các hình thức đầu tư khác như: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT), Ngoài những vấn đề nêu trên, luật cũng quy định các biện pháp bảo hộ đầu tư, cơ quan quản lý đầu tư 4.2. Đánh giá tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 4.2.1. Những kết quả đạt được + Các dự án đầu tư đã và đang hướng vào một số ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Quy mô bình quân của một dự án đầu tư ngày càng lớn, trong đó có những dự án có số vốn hàng trăm triệu USD, ví dụ dự án phát triển viễn thông (230 triệu USD), nhà máy nhiệt điện khí Phú Mỹ 2 - 2 (400 triệu USD), dự án nhà máy nhiệt điện khí Phú Mỹ 3 (412,8 triệu USD), dự án trung tâm thương mại Sài Gòn (542 triệu USD) + Nhiều Công ty hàng đầu trên thế giới đến đầu tư tại Việt Nam chứng tỏ môi trường đầu tư tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn và đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động đầu tư quốc tế. + Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã thâm nhập vào quá trình sản xuất kinh doanh của nước ta. Cụ thể là, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần xây dựng một số cơ sở công nghiệp quy mô lớn và có trình độ công nghệ cao, khai thác tốt hơn lợi thế của Việt Nam như TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 101
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện công nghiệp dầu khí, điện tử, lắp ráp ô tô, xe máy, viễn thông, công nghệ thông tin Điều đó góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Các dự án FDI đã có những đóng góp đáng kể vào tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao trình độ cho đội ngũ lao động Việt Nam. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tích cực vào tăng xuất khẩu, tạo nguồn thu cho ngân sách của chính phủ và duy trì tốc độc tăng trưởng kinh tế ổn định Tuy vậy, trong thời gian qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn có những tồn tại nhất định cần phải khắc phục. 4.2.2. Những mặt tồn tại + Còn có nhiều dự án bị rút giấy phép trước thời hạn dẫn đến thua thiệt về lợi ích cho cả bên nước ngoài và bên Việt Nam. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra sự phát triển mất cân đối không đồng bộ giữa các vùng, ngành, địa phương trong cả nước. + Tỷ lệ góp vốn trong nhiều dự án liên doanh của bên Việt Nam chỉ xấp xỉ 30% đã gây khó hhăn cho việc tổ chức, quản lý, do đó dễ dẫn đến sự thiệt thòi cho bên Việt Nam. + Một số hợp đồng liên doanh ở tình trạng bất hợp lý như: tiếp nhận công nghệ lạc hậu với giá cao hơn giá thị trường, vai trò của bên Việt Nam bị lấn át, công nhận bị ngược đãi + Một số văn bản chính sách liên quan đến đầu tư trong quá trình thực hiện vẫn đang còn không ít bất cập cần phải tiếp tục tháo gỡ. 4.3. Đánh giá tình hình thu hút, quản lý và sử dụng ODA tại Việt Nam thời gian qua Trong giai đoạn từ 1993 đến nay, nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã đóng vai trò quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam. ODA đã đem lại nhiều thành tựu, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề tồn tại. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 102
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 4.3.1. Những kết quả đạt được - Từ 1993 tới nay, Việt Nam đã kết hợp với cộng đồng các nhà tài trợ tổ chức thành công 9 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ và được cộng đồng các nhà tài trợ cam kết cung cấp ODA với giá trị là hơn 20 tỷ USD. - Chính phủ đã ký kết với các nhà tài trợ các Điều ước quốc tế cụ thể về ODA. - Vốn ODA giải ngân (thực hiện) đạt khoảng trên 50% so với tổng vốn ODA cam kết. - Nguồn vốn ODA đã góp phần đáng kể hỗ trợ cho Ngân sách Nhà nước, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện cải cách kinh tế. - Môi trường pháp lý để quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA đã từng bước được hoàn thiện với việc ban hành Nghị định 17/2001/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA và một số văn bản pháp quy khác quy định về thuế giá trị gia tăng (VAT), Quy chế vay và trả nợ nước ngoài, Quy chế chuyên gia đối với các dự án ODA - Vấn đề vốn đối ứng đã được đảm bảo kịp thời hơn. 4.3.2. Những vấn đề tồn tại - Vấn đề giải ngân ODA còn chậm, hiệu quả và chất lượng thực hiện các dự án thấp. - Việt Nam còn nhiều yếu kém ở các khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo dõi, đánh giá dự án. - Công tác đền bù giải phóng mặt bằng đang là vấn đề khó khăn, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện dự án. - Thiếu sự nhất quán về mặt thủ tục tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. - Năng lực thực hiện và quản lý các chương trình, dự án ODA của cán bộ Việt Nam từ cấp quản lý vĩ mô đến các Ban quản lý dự án còn nhiều hạn chế. 5- NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP ĐỂ THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong 5 năm tới mục tiêu đầu tư phát triển của Việt Nam là: tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 103
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Tạo điều kiện đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn. Trong đó, định hướng sử dụng nguồn vốn ODA: tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng tài trợ nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh, bền vững. Để thực hiện mục tiêu trên, Việt Nam cần thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau: - Đảm bảo sự ổn định vĩ mô nền kinh tế, phát huy lợi thế, tạo thế và lực trong xu thế hội nhập quốc tế. - Chủ động hội nhập, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc tế. - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp theo hướng đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, nhất quán hơn và minh bạch hơn. - Cải cách cơ chế quản lý theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, tránh lãng phí ngân sách Nhà nước và không sách nhiễu và tạo thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các hoạt động kinh tế. - Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát huy sức mạnh, đầu tư sản xuất kinh doanh. - Đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có đội ngũ cán bộ hạot động trên lĩnh vực hợp tác và đầu tư quốc tế. - Thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể về đầu tư, công tác này phải kết hợp chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư, giải quyết việc làm phải được chú trọng giải quyết kịp thời, thoả đáng hạn chế các tiêu cực phát sinh TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 104
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện CÂU HỎI ÔN TẬP 1- Đầu quốc tế là gì ? Nó có tác động như thế nào đối với nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư ? 2- Trình bày nội dung chủ yếu của các lý thuyết về đầu tư quốc tế ? 3- Phân tích lợi thế và bất lợi của hai loại hình đầu tư quốc tế (đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài) ? 4- So sánh hai loại hình đầu tư quốc tế ? Mối quan hệ giữa hai loại hình đầu tư này khi áp dụng tại Việt Nam ? 5- Phân tích nội dung của các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ? Trên thực tế, hình thức đầu tư nào được áp dụng phổ biến ? 6- Đánh giá những kết quả đạt được và vấn đề tồn tại trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua ? 7- Trình bày các giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ? 8- Di chuyển lao động quốc tế là gì ? Các loại hình di chuyển lao động quốc tế và xu hướng di chuyển lao động trên thế giới ? 9- Phân tích những tác động tích cực và hạn chế của xuất - nhập khẩu sức lao động đối với các nước có liên quan ? 10- Phân tích hiệu quả phúc lợi của di chuyển lao động quốc tế bằng đồ thị ? Rút ra những kết luận cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách và doanh nghiệp ? 11- Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam thời gian qua, những vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục ? TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 105
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Chương 4 CÁN CÂN THANH TOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ 1- CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm và các nguyên tắc hạch toán 1.1.1. Khái niệm Cán cân thanh toán là một bảng tổng kết ghi lại một cách hệ thống tất cả các giao dịch quốc tế giữa cư dân của một quốc gia với cư dân của các nước khác trên thế giới trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Các giao dịch quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và tài sản (nhà cửa, đất đai, cổ phiếu .v.v ) giữa cư dân của một quốc gia với cư dân của các quốc gia khác. Các cư dân của một quốc gia bao gồm tất cả các cá nhân thường trú trên lãnh thổ quốc gia đó, các tổ chức chính phủ, các Công ty hoạt động trong nước (không tính các chi nhánh nước ngoài của các Công ty đó) và các chi nhánh Công ty nước ngoài đang hoạt động trong nước. Giao dịch giữa các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới và cư dân của nước sở tại được coi như giao dịch quốc tế. 1.1.2. Nguyên tắc hạch toán trong cán cân thanh toán a) Nguyên tắc ghi có (credits) và ghi nợ (debits) Những giao dịch làm tăng dòng tiền vào trong nước thì việc ghi sổ sẽ là ghi có và được ký hiệu bằng dấu cộng (+). Những giao dịch dẫn đến tăng dòng tiền ra khỏi đất nước thì sẽ được ghi nợ và ký hiệu bằng dấu trừ (-). Chẳng hạn, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, nhận quà biếu từ người nước ngoài, đầu tư của người nước ngoài trong nước .v.v dẫn đến kết quả là quốc gia nhận được dòng tiền từ nước ngoài, cho nên được ghi có. Mặt khác, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, tặng quà biếu cho người nước ngoài, đầu tư của cư dân trong nước ra nước ngoài .v.v dẫn đến quốc gia phải chi trả cho nước ngoài nên được ghi nợ. Ví dụ 1: Giả sử người Mỹ mua cổ phần ở Việt Nam, tức là tài sản của nước ngoài ở Việt Nam tăng lên. Đó là dòng vốn đi vào Việt Nam và khoản này được ghi có trong cán cân thanh toán của Việt Nam. Ví dụ 2: Giả sử người dân Mỹ bán cổ phần của mình ở nước ngoài, tức là tài sản của Mỹ ở nước ngoài sẽ giảm xuống. Khoản giao dịch này cũng là nguồn TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 106
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện vốn đi vào Mỹ vì Mỹ nhận được sự chi trả của người nước ngoài. Như vậy, khoản này được ghi có trong cán cân thanh toán của Nhật Bản. b) Nguyên tắc ghi sổ kép (double - entry bookeeping) Cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia được xây dựng theo nguyên tắc ghi sổ kép giống như nguyên tắc kế toán thông thường. Mỗi một khoản giao dịch quốc tế đều được ghi chép hai lần, một lần ghi nợ (debit) và một lần ghi có (credit), với giá trị tuyệt đối bằng nhau nhưng ngược đầu. Nguyên tắc ghi chép này được dựa trên cơ sở là mỗi một giao dịch đều có hai mặt: Chúng ta bán một thứ gì đó chúng ta sẽ được thanh toán, chúng ta mua một thứ gì đó chúng ta sẽ phải thanh toán. Ví dụ 1: Giả sử một Công ty Dệt may của Việt Nam xuất khẩu lượng hàng hoá trị giá 8.000 USD sang Mỹ và khoản thanh toán được chuyển vào tài khoản của Công ty Dệt may của Việt Nam tại ngân hàng ở Mỹ. Hai mặt của giao dịch này được thể hiện trong cán cân thanh toán của Việt Nam như sau: Có (+) Nợ (-) Xuất khẩu hàng hoá 8.000 USD Gia tăng tài sản ngắn hạn 8.000 USD của tư nhân tại nước ngoài Ví dụ 2: Giả sử một cư dân của Việt Nam đi du lịch, tham quan ở Thái Lan một tuần và chi tiêu hết 250 USD cho việc ăn, ở, đi lại. Hai mặt của giao dịch này được thể hiện trong cán cân thanh toán của Việt Nam như sau: Có (+) Nợ (-) Mua dịch vụ du lịch của nước ngoài 250 USD Gia tăng tài sản ngắn hạn 250 USD của tư nhân tại nước ngoài tại Việt Nam 1.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán Cán cân thanh toán quốc tế của một nước bao gồm ba khoản mục chính: cán cân thường xuyên, cán cân luồng vốn và cán cân tài trợ chính thức. 1.2.1. Cán cân thường xuyên (current account) Cán cân thường xuyên ghi lại tất cả các giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ và các giao dịch chuyển giao đơn phương. Cán cân thường xuyên gồm các tiểu bộ phận là: TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 107
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Cán cân thương mại hàng hoá hoặc cán cân thương mại hữu hình. - Cán cân thương mại dịch vụ hay còn gọi là cán cân thương mại vô hình - Cán cân chuyển giao đơn phương. Tổng của cán cân thương mại hữu hình và vô hình được gọi là cán cân thương mại. Cán cân này cho thấy mức chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của quốc gia. Nếu giá trị xuất khẩu (giao dịch ghi có) vượt quá giá trị nhập khẩu (giao dịch ghi nợ) thì cán cân thương mại được gọi là thặng dư và ngược lại nếu nhập khẩu vượt quá xuất khẩu thì cán cân thương mại được coi là ở trong tình trạng thâm hụt. Các giao dịch của cán cân chuyển giao đơn phương gồm các giao dịch về thu nhập (nhận thu nhập của cư dân trong nước từ nước ngoài: Cổ tức trên cổ phiếu nước ngoài, lãi suất cho vay nước ngoài .v.v và trả thu nhập cho nước ngoài: Cổ tức trên cổ phiếu trong nước, lãi suất đi vay .v.v ) và các giao dịch chuyển tiền đơn phương (viện trợ nhân đạo, quà tặng, chuyển tiền và thân nhân .v.v ). Các giao dịch này nói chung không có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2.2. Cán cân luồng vốn (capital account) Cán cân luồng vốn ghi lại các giao dịch quốc tế có liên quan đến các dòng chảy của vốn vào và ra khỏi một nước. Trong cán cân luồng vốn, các cán cân bộ phận bao gồm: - Cán cân vốn dài hạn. - Cán cân vốn ngắn hạn. Các cân vốn dài hạn gồm có đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và vốn dài hạn khác bao gồm chủ yếu là tín dụng dài hạn thuộc khu vực Nhà nước và tín dụng thương mại dài hạn thuộc khu vực tư nhân (thường thời hạn trên 1 năm). Tổng của cán cân thường xuyên và cán cân vốn dài hạn được gọi là cán cân cơ sở. Cán cân cơ sở phản ánh những yếu tố tác động dài hạn lên nền kinh tế quốc gia và tỷ giá hối đoái. Cán cân thường xuyên phán ánh các tác động lên cán cân thanh toán của thu nhập quốc dân và tốc độ tăng trưởng, thói quen tiêu dùng của quốc gia, khả năng cạnh tranh quốc tế của quốc gia đó. Còn cán cân vốn dài hạn phản ánh sự đánh giá của các nhà đầu tư dài hạn về mức sinh lời tương đối giữa các cơ hội đầu tư trong nước và nước ngoài. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 108
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Cán cân vốn ngắn hạn bao gồm các dòng chảy của vốn ngắn hạn (thường là dưới 1 năm), chủ yếu là tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối .v.v Trong môi trường tự do hoá tài chính hiện nay, các luồng vốn đầu cơ tăng lên nhanh chóng, làm cho cán cân vốn ngắn hạn trở lên có ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thanh toán quốc tế của mỗi quốc gia nói chung. 1.2.3. Cán cân tài trợ chính thức (official reserve account) Cán cân tài trợ chính thức ghi lại những giao dịch quốc tế do các tổ chức của Nhà nước thực hiện để điều chỉnh tất cả những giao dịch khác được khi trong cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân tài trợ chính thức bao gồm các bộ phận: - Thay đổi dự trữ ngoại hối của quốc gia. - Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác. - Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân thanh toán. Cán cân tài trợ chính thức đóng vai trò quan trọng để làm công cụ giúp phân định các giao dịch tự định với các giao dịch hỗ trợ. Tất cả các giao dịch của tư nhân và thậm chí của chính phủ nếu không nhằm mục đích điều tiết tỷ giá hối đoái (như vay và cho vay vốn nước ngoài, nhận viện trợ) đều là giao dịch tự định. Do vậy phần giao dịch hỗ trợ ở đây chính là cán cân tài trợ chính thức sẽ cho biết chính phủ cần phải can thiệp ở mức độ nào vào thị trường nhằm bù đắp sự mất cân bằng của tổng các giao dịch tư nhân và các giao dịch chính phủ không liên quan đến thực thi chính sách tiền tệ. Như vậy, cán cân này có chức năng làm cân bằng cung cầu về ngoại tệ và cho biết mức độ của các dòng tiền được đưa vào và rút ra khỏi nền kinh tế từ các giao dịch với người nước ngoài, cũng như áp lực của hoạt động kinh tế với nước ngoài của một quốc gia lên dự trữ ngoại hối của quốc gia đó. 1.2.4. Cân bằng cán cân thanh toán Với nguyên tắc ghi sổ kép thì về mặt lý thuyết cán cân thanh toán của một quốc gia phải cân bằng, tức tổng của cột giao dịch ghi có (dấu +) phải bằng với tổng của các giao dịch ghi nợ (dấu -). Nói cách khác tổng ghi sổ của tất cả các TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 109
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện giao dịch phải bằng 0. Nhưng trên thực tế thì cán cân thanh toán của các quốc gia rất hiêm khi ở trạng thái cân bằng. Những nguyên nhân chủ yếu là do nguyên tắc ghi sổ kép thực ra chỉ là hình thức và hai vế ghi sổ của một giao dịch thường được ghi tách rời nhau. Số liệu về xuất nhập khẩu hàng hoá có thể thu được tại cơ quan hải quan ngay sau khi hàng hoá được xuất đi hay nhập vào, nhưng số liệu về thanh toán cho hoạt động xuất nhập khẩu đó lại do các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức khác cung cấp một cách độc lập. Hơn nữa, không thể biết ngay được hoạt động đó được tài trợ bởi vay tín dụng hay thanh toán bằng chuyển khoản. Hầu hết các giao dịch đều ghi hai vế vào các thời điểm khác nhau và được đo lường ở các cơ quan chuyên trách một cách khác nhau (chẳng hạn như áp dụng các tỷ giá hối đoái khác nhau khi xuất nhập khẩu và khi thanh toán). Ngoài ra, có rất nhiều giao dịch quốc tế về mua bán dịch vụ ở một số nước (như vận tải, kho bãi) bị bỏ qua không ghi lại trong khi tiền chuyển thanh toán (chẳng hạn qua hệ thống ngân hàng tư nhân) thì vẫn được tính. Cuối cùng là các lỗi sai sót thông thường về mặt hành chính khi nhập và xử lý số liệu. Vì những lý do trên đây nên cán cân thanh toán rất ít khi cân bằng và người ta thường đưa thêm vào một mục nữa làm mục sai số thống kê với mục đích làm cân bằng cán cân thanh toán. Cũng nên chú ý rằng các hoạt động kinh tế ngầm giữa các quốc gia như buôn lậu hay chuyển tiền bất hợp pháp có thể dẫn đến một số chênh lệch khi tính toán tài trợ của chính phủ (ví dụ nếu một lượng lớn ngoại tệ bị chuyển ra nước ngoài để mua hàng lậu chuyển về theo đường bất hợp pháp và không được ghi chép lại ở bất kỳ đâu thì sẽ dẫn đến sự can thiệp của chính phủ thông qua bán ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối ra sẽ phải nhiều hơn so với tính toán). Tuy nhiên điều này không phải lý do để cán cân thanh toán bị mất cân bằng vì cả hai vế ghi có và ghi nợ đều không hạch toán. 1.3. Mối quan hệ giữa cán cân thường xuyên và thu nhập quốc dân Tầm quan trọng của cán cân thường xuyên thể hiện ở chỗ nó phản ánh việc thu nhập của quốc gia được hình thành và sử dụng như thế nào. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, thu nhập đầu tư từ nước ngoài chính là nguồn thu nhập của quốc gia. Cư dân và chính phủ sau đó sử dụng nguồn thu nhập thường xuyên của mình để nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, và thanh toán thu nhập đầu tư cho nước TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 110
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện ngoài. Mối liên hệ giữa cán cân thường xuyên và thu nhập quốc dân có thể được thể hiện qua đẳng thức cơ bản trong kinh tế học vĩ mô sau đây: Y = C + I + G + (X - M) (1) Trong đó Y = tổng thu nhập, C = chi tiêu cho tiêu dùng, I = chi tiêu cho đầu tư, G = chi tiêu của chính phủ, X = xuất khẩu + thu nhập nhận từ nước ngoài và M = nhập khẩu + thu nhập trả cho người nước ngoài. Như vậy X bao gồm không chỉ thu nhập từ xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, mà cả thu nhập từ các khoản đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp ở nước ngoài. Tương tự, M bao gồm tất cả các khoản ghi nợ trong cán cân thường xuyên, chứ không chỉ mình nhập khẩu hàng hoá nói riêng. Tổng (C + I + G) chính là tổng chi tiêu của quốc gia, gồm có chi tiêu của các cá nhân, chi tiêu của các doanh nghiệp và chi tiêu của chính phủ. Đẳng thức (1) có thể được viết lại như sau: Y - (C + I + G) = X - M (2) Đẳng thức (2) chỉ ra rằng cán cân thường xuyên chính là chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu của quốc gia. Nếu cán cân thường xuyên bị thiếu hụt (X - M < 0) thì điều đó có nghĩa (C + I + G) lớn hơn Y: quốc gia chi tiêu nhiều hơn thu nhập của mình. Ngược lại nếu cán cân thường xuyên có dư thì quốc gia chi tiêu ít hơn so với thu nhập của mình. Ngoài biểu thức (1) nói trên thì thu nhập còn có thể được biểu thị như là tổng của chi tiêu (C), tiết kiệm (S), và thu nhập từ thuế (T): Y = C + S + T (3) Từ (1) và (3) có thể rút ra: C + I + G + (X - M) = C + S + T hoặc: X - M = (S - I) + (T - G) (4) Nếu (S - I) là tiết kiệm ròng của tư nhân và (T - G) là tiết kiệm ròng của chính phủ thì cán cân thường xuyên biểu thị cho tổng tiết kiệm ròng của quốc gia (chính là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của quốc gia đó). Cán cân thường xuyên thâm hụt có nghĩa là quốc gia tiết kiệm ít hơn đầu tư và ngược lại nếu cán cân thường xuyên có dư thì quốc gia tiết kiệm nhiều hơn so với đầu tư. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 111
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 2- THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2.1. Thị trường ngoại hối 2.1.1. Khái niệm thị trường ngoại hối Hiện nay, trong mọi hoạt động buôn bán quốc tế, ít nhất phải có một bên tham gia sử dụng đến ngoại tệ. Còn nếu như đồng tiền của tất cả các bên tham gia đều không đổi được thì họ phải thoả thuận sử dụng đến một ngoại tệ chuyển đổi tự do nào đó để giao dịch với nhau. Để thực hiện các giao dịch này, các bên tham gia mua bán phải tìm gặp gỡ nhau để thương lượng. Do vậy cần phải có một thị trường để thực hiện chuyển đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác, tức là đòi hỏi phải có thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán nếu giá trị như ngoại tệ. Các giao dịch thực hiện trên thị trường ngoại hối sẽ quyết định các mức tỷ giá theo đó các đồng tiền được trao đổi với nhau, và từ đó tác động tới chi phí của các giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ và tài sản. Hiện nay có hai hệ thống tổ chức thị trường ngoại hối khác nhau: (1) theo hệ thống Anh - Mỹ, thị trường ngoại hối có tính chất biểu tượng, các giao dịch ngoại hối chỉ được xảy ra thường xuyên giữa một số ngân hàng và người môi giới, chủ yếu thông qua điện thoại, telex; (2) theo hệ thống ngoại hối châu Âu, thị trường ngoại hối có địa điểm nhất định, giao dịch hàng ngày. Các ngân hàng thương mại cỡ lớn có các chi nhánh, đại lý ở nước ngoài giữ vai trò kinh doanh chủ yếu, chi phối các ngân hàng khác trên thị trường ngoại hối. 2.1.2. Các chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối Thông qua các giao dịch mua bán ngoại tệ mà thị trường ngoại hối thực hiện các chức năng cơ bản sau đây: - Thị trường ngoại hối là cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho chu chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại và phi thương mại quốc tế. - Thị trường ngoại hối là công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu chính phủ. Chẳng hạn, chính phủ muốn khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu nhằm giảm thiểu sự thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 112
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện chính phủ có thể yêu cầu ngân hàng trung ương can thiệp thông qua thị trường ngoại hối bằng cách mua ngoại tệ vào. Ngược lại, nếu ngoại tệ lên giá quá cao so với nội tệ đến mức có thể tạo áp lực gây ra lạm phát, chính phủ có thể yêu cầu ngân hàng trung ương can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra để nâng giá nội tệ lên. - Thị trường ngoại hối có chức năng tín dụn. Tín dụng là sự cần thiết thường xuyên khi hàng hoá được quá cảnh và cho phép người mua có thời gian bán lại hàng hoá và thanh toán cho nhà xuất khẩu. Thông thường nhà xuất khẩu cho phép nhà nhập khẩu khoảng thời gian thanh toán là 90 ngày. Tuy nhiên, nhà xuất khẩu thường yêu cầu nhà nhập khẩu thanh toán ở phòng ngoại hối của ngân hàng thương mại nơi mà nhà sản xuất có tài khoản. Nhà xuất khẩu luôn nhận được khoản thanh toán đúng hạn và ngân hàng thu sẽ được khoản thanh toán từ nhà nhập khẩu khi đến hạn. - Ngoài ra, thị trường ngoại hối còn có chức năng cung cấp các công cụ cho các nhà kinh doanh nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro hối đoái trong trao đổi ngoại tệ. Đồng thời giúp cho các nhà đầu cơ nghiên cứu để có thể thu được lợi nhuận nếu như dự đoán trước được sự biến động của tỷ giá hối đoái trong tương lai. 2.1.3. Các thành viên tham gia thị trường ngoại hối Về nguyên tắc, bất cứ một cá nhân hay một chủ thể kinh tế nào muốn đổi từ một đồng tiền này sang một đồng tiền khác đều trở thành chủ thể tham gia vào thị trường hối đoái. Song tuỳ theo những luật lệ riêng của mỗi nước quy định, chủ thể tham gia vào thị trường ngoại hối có thể khác nhau. Nhưng nói chung, các thành phần tham gia vào thị trường ngoại hối bao gồm những chủ thể sau: a) Các ngân hàng Các ngân hàng trung ương: Ở hầu hết các nước, ngân hàng trung ương là người đóng vai trò tổ chức, kiểm soát điều hành và ổn định sự hoạt động của thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá cả và tỷ giá hối đoái. Các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư: tham gia vào thị trường ngoại hối nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh hay cung cấp các dịch vụ cho khách hàng khi đóng vai trò môi giới. Mức độ tham gia vào thị trường ngoại hối của các ngân hàng phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như quy mô, uy tín, mạng lưới các chi nhánh ở nước ngoài, tình trạng mạng lưới thông tin liên lạc tại nơi TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 113
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện ngân hàng đặt trụ sở .v.v Do vậy, phần lớn các giao dịch về ngoại tệ thuộc vào các ngân hàng hàng đầu, chẳng hạn như ngân hàng Châu Mỹ, Citybank, các ngân hàng Clearing ở Anh, các ngân hàng của Canada. b) Các nhà môi giới Các nhà môi giới là chủ thể trung gian trong các giao dịch ngoại hối. Do có nhiều mối quan hệ nên hộ cung cấp cho ngân hàng những thông tin tức thời về thị trường một cách thường xuyên, đồng thời giúp ngân hàng có được khả năng tìm thấy bạn hàng ngay khi cần thiết. Thông thường trên thế giới, người ta áp dụng cách phân chia phí môi giới trả cho người môi giới, trong đó bên bán và bên mua phải trả một nửa. c) Các Công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp Từ cuối những năm 1960, vai trò của các Công ty xuyên quốc gia (XQG) trên thị trường ngoại hối đã tăng lên mạnh mẽ. Nguyên nhân là do các Công ty này thi hành chính sách mở rộng các nguồn dự trữ ngoại tệ, giảm bớt nguy cơ thiệt hại do sự mất giá của các nguồn vốn tính bằng các đồng tiền không ổn định, đồng thời tích cực chạy đua vì lợi nhuận trên cơ sở thu chênh lệch tỷ giá. Nếu như tỷ giá của một đồng tiền nào đó có xu hướng giảm xuống thì các Công ty XQG có quy mô lớn hơn cả một vài ngân hàng cỡ trung bình. Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu vì các doanh nghiệp này vừa là chủ thể cần ngoại tệ, vừa là chủ thể cung ngoại tệ trong các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại hối lớn nhất trên thị trường ngoại hối. d) Các cá nhân Nhóm này bao gồm những công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối khi đầu tư, cho vay, đi công tác hay du lịch ở nước ngoài hoặc khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền. 2.2. Tỷ giá hối đoái 2.2.1. Khái niệm Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ giữa các nước về kinh tế, chính trị, văn hoá, ngày càng được mở rộng, cho nên phát sinh những quan hệ thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế, vàng được dùng làm tiền tệ thế TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 114
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện giới. Nhưng trong giao dịch quốc tế nói chung, người ta không dùng vàng để chi trả trực tiếp mà dùng đơn vị tiền tệ của một nước nào đó thông qua các phương tiện thanh toán quốc tế như séc, hối phiếu, kỳ phiếu, thẻ tín dụng.v.v Phương tiện thanh toán dùng trong giao dịch quốc tế ghi theo đơn vị tiền tệ của một nước hay là ngoại hối đối với nước khác. Đồng tiền của một nước là công cụ chi trả bắt buộc và chỉ có giá trị lưu thông trên lãnh thổ nước đó. Vì thế, để có thể mua bán hàng hoá, dịch vụ, chi trả nợ nần cho nhau .v.v đòi hỏi phải đổi tiền nước này ra tiền nước khác, từ đó phát sinh ra vấn đề tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ của một nước khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của các nước khác nhau. Ví dụ: Tỷ giá hối đoái giữa đô la Mỹ và đồng Việt Nam là 1 USD = 16.000 VND (biểu thị bằng 16.000 VND có thể mua được 1 USD). Theo tập quán kinh doanh tiền tệ, tỷ giá hối đoái thường được yết giá theo hai phương pháp như sau: Phương pháp thứ nhất: Lấy đồng nội tệ làm đơn vị so sánh với số lượng ngoại tệ. Ví dụ: Ngân hàng National Anh công bố: 1 GBP = 1,0556 USD. Trong đó: GDP (đồng nội tệ) đóng vai trò là đồng tiền yết giá, còn USD (đồng ngoại tệ) đóng vai trò là đồng tiền định giá. Phương pháp này được sử dụng ở một quốc gia như Mỹ, Anh và Úc. Phương pháp thứ hai: Lấy ngoại tệ làm đơn vị so sánh với số lượng nội tệ ? Ví dụ: Ngân hàng Vietcombank công bố 1 USD = 16.200 VND Trong đó: USD (đồng ngoại tệ) đóng vai trò là đồng tiền yết giá, còn VND (đồng nội tệ) đóng vai trò là đồng tiền định giá. Phương pháp này được sử dụng ở các nước còn lại, trong đó có Việt Nam. Sự biến động của tỷ giá hối đoái diễn ra khi có sự tăng giá hoặc giảm giá các đồng tiền, (hoặc gọi là nâng giá hay phá giá trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định). Sự tăng giá (nâng giá) cho thấy giá trị đồng tiền tăng lên. Ví dụ: Ban đầu 1 USD = 1,2 CAD Sau đó 1 USD = 1,5 CAD TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 115
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Như vậy, USD tăng giá 25% so với CAD hoặc CAD giảm giá 20% so với USD hay nói cách khác tỷ giá hối đoái tăng lên. 2.2.2. Phân loại Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: Là mức giá thị trường của một đồng tiền tính bằng đồng tiền khác vào một thời điểm nhất định. Tuy có giá trị tham khảo nhất định nhưng tỷ giá hối đoái danh nghĩa chưa phản ánh được tương quan thực sự giữa các đồng tiền do sự tác động của giá cả hàng hoá, lạm phát và các nhân tố khác. Tỷ giá này thường được công bố hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh .v.v do ngân hàng Nhà nước công bố. Tỷ giá hối đoái thực tế: Là tỷ giá phản ánh tương quan sức mua giữa hai đồng tiền trong tỷ giá. Khi giá hàng hoá và dịch vụ trong hoặc ngoài nước tăng lên hoặc giảm xuống thì không thể xác định được giá cả tương quan của hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài nếu như chỉ căn cứ vào tỷ giá hối đoái danh nghĩa mà không tính đến các biến động giá cả đó. 2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái Ngày nay, trong điều kiện lưu thông tiền giấy và tình trạng lạm phát tiền giấy đang trở thành phổ biến thì tỷ giá hối đoái biến động rất thường xuyên và thất thường. Sự tăng hay giảm của nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau, trong đó phải kể đến một số nhân tố chủ yếu như: mức chênh lệch lạm phát, mức độ tăng hay giảm thu nhập quốc dân giữa các nước, mức chênh lệch lãi suất, những kỳ vọng về tỷ giá hối đoái và sự can thiệp của chính phủ .v.v 2.2.3.1. Mức chênh lệch lạm phát giữa các nước Nếu như mức độ lạm phát giữa hai nước khác nhau, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ dẫn đến giá cả hàng hoá ở hai nước đó sẽ có những biến động khác nhau, làm cho ngang giá sức mua của hai đồng tiền đó bị phá vỡ, tức là làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Chẳng hạn, Việt Nam và Mỹ đang duy trì tỷ lệ lạm phát thấp, nhưng sau đó tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam tăng lên một cách tương đối so với tỷ lệ lạm phát ở Mỹ. Vậy, tỷ giá hối đoái giữa USD và VND sẽ thay đổi như thế nào trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi ? TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 116
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Ở Mỹ, vì tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam cao hơn, giá cả hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu từ Việt Nam sẽ tăng lên và bởi vậy, nhu cầu về các hàng hoá và dịch vụ này ở Mỹ sẽ giảm xuống. Cùng với sự giảm nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ này, nhu cầu về VND ở Mỹ cũng sẽ giảm xuống. Sự giảm nhu cầu về VND ở Mỹ tương đương với sự giảm cung USD trên thị trường ngoại hối. Ngược lại, ở Việt Nam, vì tỷ lệ lạm phát ở Mỹ thấp hơn, nhu cầu về các hàng hoá và dịch vụ của Mỹ sẽ tăng lên. Điều này có nghĩa là nhu cầu về USD sẽ tăng lên. Sự tăng lên nhu cầu về USD xảy ra đồng thời với sự giảm xuống cung về USD sẽ gây nên sự tăng giá USD (tức là tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên). Giá của USD sẽ tăng lên đến tận khi bù đắp hoàn toàn mức chênh lệch lạm phát giữa hai quốc gia. Tương tự, nếu tỷ lệ lạm phát ở Mỹ tăng lên so với tỷ lệ lạm phát của Việt Nam thì tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. 2.2.3.2. Mức độ tăng hay giảm thu nhập quốc dân giữa các nước Thu nhập quốc dân của một nước tăng lên hay giảm xuống so với nước khác, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hoặc giảm xuống. Giả sử thu nhập quốc dân của Mỹ tăng lên trong khi mức thu nhập quốc dân của Việt Nam không thay đổi. Điều này dẫn đến nhu cầu nhập khẩu hàng hoá Việt Nam ở Mỹ sẽ tăng lên. Do đó, cung về USD sẽ tăng lên trên thị trường ngoại hối vì những nhà nhập khẩu cần bán USD để mua ngoại tệ dùng thanh toán hàng nhập khẩu. Vì mức thu nhập quốc dân của Việt Nam không đổi, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá Mỹ không đổi và bởi vậy, nhu cầu về USD sẽ không đổi. Kết quả là, USD sẽ giảm giá, tức là tỷ giá hối đoái giữa USD và VND sẽ giảm xuống. Tương tự, nếu tỷ lệ tăng thu nhập quốc dân của Mỹ giảm xuống so với của Việt Nam dẫn đến tỷ giá hối đoái giữa USD và VND sẽ tăng lên. 2.2.3.3. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước Khi mức lãi suất ngắn hạn của một nước tăng lên một cách tương đối so với các nước khác, trong những điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, thì TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 117
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện vốn ngắn hạn từ nước ngoài sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra đó. Điều này làm cho cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, dẫn đến sự thay đổi tỷ giá. Giả sử Mỹ nâng lãi suất tiền gửi trong khi Việt Nam vẫn giữ nguyên mức lãi suất như cũ, các nhà kinh doanh ở Việt Nam sẽ mua các tín phiếu ngắn hạn ở Mỹ để nhằm thu tiền lãi cao hơn. Do đó, cầu về USD sẽ tăng lên để đổi lấy các tín phiếu đó. Đồng thời, các nhà kinh doanh Mỹ muốn giữ tiền gửi ở các ngân hàng hoặc các chứng từ có giá ở nước mình hơn là đầu tư ở Việt Nam với lãi suất thấp. Do vậy cung USD sẽ giảm xuống trên thị trường hối đoái. Như vậy, sự tăng lãi suất tiền gửi ở Mỹ so với Việt Nam sẽ làm tăng cầu USD nhưng đồng thời làm giảm cung USD dẫn đến giá USD sẽ tăng lên, tức là tỷ giá hối đoái giữa USD và VND sẽ tăng lên. Tương tự, sự giảm lãi suất tiền gửi của USD so với VND sẽ dẫn đến giá USD sẽ giảm xuống, tức là tỷ giá hối đoái giữa USD và VND sẽ giảm xuống. 2.2.3.4. Những kỳ vọng về tỷ giá hối đoái Kỳ vọng của những người tham gia vào thị trường ngoại hối về triển vọng lên giá hay xuống giá của một đồng tiền nào đó có thể là một nhân tố rất quan trọng quyết định tỷ giá. Những kỳ vọng về giá cả của các đồng tiền có liên quan rất chặt chẽ đến những kỳ vọng về biến động tỷ lệ lạm phát, lãi suất và thu nhập giữa các quốc gia. Giả sử rất nhiều người tham gia vào thị trường ngoại hối, đặc biệt là các nhà đầu cơ lớn cho rằng đồng tiền USD sẽ giảm giá trong thời gian tới, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi. Điều này sẽ dẫn đến cung về USD sẽ tăng lên trên thị trường ngoại hối vì nhiều người muốn bán chúng để mua ngoại tệ trước USD bị mất giá. Đồng thời, cầu về USD sẽ giảm xuống đến tận sau khi sự giảm giá USD xảy ra. Kết quả là tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. 2.2.3.5. Sự can thiệp của chính phủ Bất kỳ một chính sách nào của chính phủ mà có tác động đến tỷ lệ lạm phát, thu nhập thực tế hoặc lãi suất trong nước đều có ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Chính phủ có thể sử dụng ba loại hình can thiệp chủ TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 118
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện yếu: (1) can thiệp vào thương mại quốc tế, (2) đầu tư quốc tế và (3) can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối. Đối với loại hình thứ nhất, sự can thiệp của chính phủ nhằm khuyến khích xuất khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu. Chính phủ có thể sử dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như trợ cấp sản xuất xuất khẩu hoặc áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu như áp dụng thuế nhập khẩu, hạn ngạch, cấm nhập khẩu .v.v Việc áp dụng các biện pháp trên sẽ có ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái vì chúng ảnh hưởng đến nhu cầu xuất khẩu hoặc nhập khẩu và bởi vậy ảnh hưởng đến cầu hoặc cung về nội tệ trên thị trường ngoại hối. Đối với loại hình hai, chính phủ có thể can thiệp dòng đầu tư quốc tế bằng biện pháp cấm đầu tư ra nước ngoài, đánh thuế thu nhập lợi tức của công dân nước mình ở nước ngoài hoặc của công dân nước ngoài ở nước mình .v.v Cuối cùng, chính phủ có thể can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua hay bán trực tiếp nội tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu đặt ra. Ngoài ra tỷ giá hối đoái còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng ngoại thương, khủng hoảng ngoại hối, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh, thiên tai, đình công, các quyết sách lớn của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, tiền tệ. Điều này có thể giải thích hiện tượng tại sao tỷ giá của một đồng tiền tăng lên ngay cả khi sức mua của nó bị giảm sút. 2.2.4. Các chế độ tỷ giá hối đoái Quá trình phát triển của các chế độ tỷ giá hối đoái cũng là quá trình chọn lựa các vật ngang giá chung giữa các đồng tiền khác nhau cho phù hợp với quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá giữa các nước. Thế giới đã trải qua nhiều chế độ tỷ giá khác nhau, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của lịch sử về chế độ tiền tệ của một nước, quan hệ thương mại v.v Nếu căn cứ vào tiêu thức về sự phát triển của hệ thống tài chính thế giới, thì trong lịch sử tồn tại của mình, tỷ giá hối đoái đã trải qua các thời kỳ cơ bản: (1) chế độ tỷ giá hối đoái cố định lấy vàng làm bản vị (hay còn gọi là chế độ bản vị vàng); (2) chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods; (3) chế độ tỷ giá hối đoái Giamaica; (4) chế độ tỷ giá hối đoái bán thả nổi đặc trưng hiện nay. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 119
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Nếu căn cứ vào tiêu thức những điều kiện đang tồn tại trong nền kinh tế quốc tế, có thể phân chia thành hai chế độ tỷ giá hối đoái: (1) chế độ tỷ giá hối đoái cố định; (2) chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. 2.2.4.1. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định Trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá được hình thành trên cơ sở ấn định mức tỷ giá trung tâm (hay còn gọi là mức ngang giá chính thức) và cho phép nó dao động trong một giới hạn nhất định. Chẳng hạn, nếu tỷ giá trung tâm là 1 USD = 1,6 CAD thì tỷ giá hối đoái sẽ dao động trong khoảng từ 1,584 CAD đến 1,616 CAD ăn 1 USD ( 1%). Để đạt được điều này, ngân hàng trung ương Canada phải can thiệp vào thị trường ngoại hối, cụ thể là luôn sẵn sàng mua USD với giá 1,584 CAD và bán USD với giá 1,616 CAD để giá USD không vượt ra khỏi giới hạn ( 1%). Đây là những giao dịch về các nguồn dự trữ chính thức, và nếu xuất hiện các mất cân đối về các nguồn dự trữ này thì đó là kết quả của sự biến động quy mô nguồn dự trữ, chứ không phải do biến động tỷ giá. 2.2.4.2. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do Trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do, tỷ giá hối đoái được xác định hoàn toàn dựa trên tương quan cung cầu giữa các đồng tiền trên thị trường ngoại hối mà không cần đến bất kỳ sự can thiệp nào của ngân hàng trung ương. Khi xảy ra những biến động về cung cầu của các đồng tiền thì các đồng tiền đó sẽ có xu hướng tăng hoặc giảm giá một cách tự động và từ đó làm đảo ngược những biến động nói trên. Chẳng hạn, mức tỷ giá cân bằng giữa USD và CAD trên thị trường hối đoái ở Canada là 1 USD = 2CAD, và vì lý do nào đó nhu cầu đối với hàng hoá Mỹ ở Canada tăng lên khiến cho nhu cầu đối với USD cũng tăng lên. Kết quả là, USD có xu hướng tăng giá so với CAD. Nhưng khi USD tăng giá thì giá hàng hoá của Mỹ tính bằng CAD sẽ tăng lên. Do vậy nhập khẩu của Canada giảm đi, nhu cầu đối với USD ở Canada hạ xuống. USD giảm giá sẽ đẩy tỷ giá giữa hai đồng tiền lại quay trở lại mức cân bằng ban đầu. Đối với những nước có nền kinh tế đã có thị trường ngoại hối tương đối hoàn chỉnh thì việc chính phủ thả nổi tự do tỷ giá đồng tiền của nước mình cho thị trường điều tiết có tác dụng tốt trong việc để cho quan hệ cung cầu tự điều chỉnh thế cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế. Ngược lại, đối với đại bộ phận các nước đang phát triển, thực trạng yếu kém của nền kinh tế đất nước dễ TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 120
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện bị biến động trước những yếu tố bất thường từ bên ngoài, các nước này đã lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Trên thực tế không có thị trường thuần tuý nên càng không có chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn tự do. Hình 1 minh hoạ sự cân bằng trên thị trường ngoại hối dưới các chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi và tỷ giá hối đoái cố định. Đường cầu đối với USD (D) cho thấy mức cầu đối với USD tại các mức tỷ giá khác nhau. Đường này có độ dốc đi xuống và vì vậy khi giá USD tính bằng CAD tăng lên, mức cầu đối với USD giảm xuống. Đường cung đối với USD (S) cho thấy mức cung đố với USD tại các mức tỷ giá khác nhau. Độ dốc đi lên của S chỉ ra rằng khi tỷ giá hối đoái tăng lên (USD trở nên đắt hơn) thì mức cung USD cũng sẽ tăng lên. Với các đường cung và cầu như trên thì điểm cân bằng sẽ là E, nơi hai đường cắt nhau. Tại mức tỷ giá cân bằng (1 USD = 2 CAD) sẽ có 100 triệu USD được đem ra trao đổi. Hình 1: Cân bằng trên thị trường ngoại hối S 2,00 E A B 1,60 Ngang gi¸ Tû USD gi¸ CADvµ D O 80 100 120 TriÖu USD/ngµy Dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do, tại mức tỷ giá cao hơn mức tỷ giá cân bằng, mức cung đô la sẽ vượt quá mức cầu nên tỷ giá sẽ có xu hướng giảm xuống. Ngược lại, tại mức tỷ giá thấp hơn thì mức cầu USD sẽ vượt quá mức cung, và khi đó tỷ giá sẽ có xu hướng tăng lên. Tỷ giá cân bằng sẽ thay đổi (tăng hoặc giảm tuỳ thuộc vào sự dịch chuyển của các đường cung và cầu đối với USD). Khi tỷ giá cân bằng tăng lên thì USD được coi là tăng giá so với TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 121
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện CAD (vì số lượng CAD cần thiết để mua 1 USD tăng lên), hoặc CAD giảm giá so với USD. Dưới chế độ tỷ giá hối đoái cố định, giả sử tỷ giá được "neo" tại mức 1USD = 1,6 CAD (tức tỷ giá trung tâm hay ngang giá chính thức). Để đơn giản hoá phần minh hoạ, chúng ta giả định rằng không tồn tại giới hạn dao động xung quanh mức ngang giá chính thức này. Do mức ngang giá chính thức thấp hơn mức tỷ cân bằng nên sẽ có tình trang dư cầu đối với USD (được đo bằng đoạn AB). Để duy trì tỷ giá hối đoái tại mức ngang giá chính thức, ngân hàng trung ương (của Mỹ hoặc Canada) sẽ phải giải quyết tình trạng dư cầu nói trên bằng cách bán ra mỗi ngày 40 triệu USD tại mức 1 USD = 1,6 CAD. Do dự trữ ngoại tệ có hạnh, ngân hàng trung ương không thể thực hiện giao dịch này một cách dài hạn. Chính vì vậy, trên thực tến chính phủ thường theo đuổi các công cụ chính sách nhằm dịch chuyển các đường cung và cầu đối với USD cho đến khi chúng cắt nhau đúng tại mức ngang giá chính thức. Nếu như các biện pháp chính sách này thất bại trong việc thủ tiêu tình trạng mất cân bằng thì ngân hàng Trung ương sẽ buộc phải thay đổi mức ngang gia chính thức. Nếu mức ngang giá chính thức tăng lên thì đồng nội tệ (CAD) được coi là phá giá, và ngược lại nếu mức ngang giá chính thức giảm xuống thì đồng nội tệ được coi là được nâng giá. Phá giá (hay nâng giá) đồng tiền cũng được coi tương đương như đồng tiền tăng giá (hoặc giảm giá). Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa phá giá hay nâng giá đồng tiền là các biện pháp chính sách của chính phủ nhằm phản ứng lại các biến động trên thị trường, còn việc đồng tiền tăng giá hay giảm giá lại là kết quả của biến động về tương quan cung cầu giữa các đồng tiền trên thị trường hối đoái. Việc cố gắng kết hợp những ưu điểm của hai chế độ tỷ giá hối đoái nói trên có thể dẫn đến hình thành một số chế độ tỷ giá hối đoái khác nằm giữa hai hệ thống đó. Thứ nhất, tỷ giá cố định có điều chỉnh, theo đó tỷ giá cố định được duy trì, nhứng khi xảy ra tình trạng "mất cân đối cơ bản" thì mức ngang giá chính thức có thể được thay đổi. Chế độ tỷ giá dưới hệ thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods (1944 - 1971) là ví dụ điển hình. Thứ hai, chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, theo đó về cơ bản tỷ giá được thả nổi nhưng chính phủ có thể can TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 122
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện thiệp nhằm đạt tời những mục tiêu nhất định. Từ năm 1973 trở đi, phần lớn các quốc gia trên thế giới đã theo đuổi dạng chế độ tỷ giá hối đoái này. 2.2.5. Tác động của tỷ giá hối đoái đến các quan hệ kinh tế quốc tế Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị tương đối giữa các ngoại tệ và từ đó có tác động như một công cụ trong cạnh tranh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Một nền kinh tế càng mở ra bên ngoài bao nhiêu, quy mô và vị trí của nền kinh tế đó càng mở rộng và tăng trưởng trong phân công lao đọng quốc tế bao nhiều thì vai trò của đồng tiền nước đó, sức mua của nó so với các đồng tiền khác trong quan hệ kinh tế quốc tế càng lớn bấy nhiêu. Cụ thể tỷ giá hối đoái có những tác động sau đây: 2.2.5.1. Tác động đến thương mại quốc tế Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, có nghĩa là động nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, sẽ có tác động bất cho nhập khẩu nhưng lại có lợi cho xuất khẩu. Trong trường hợp này, tỷ giá tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, khi tỷ giá hối đoái tăng lên, hàng nhập khẩu đặt hơn, nên các nhà nhập khẩu hạn chế kinh doanh hàng nhập, gây nên tình trạng khan hiếm nguyên liệu, vật tư, hàng hoá ngoại nhập, làm tăng giá các mặt hàng này, gây khó khăn cho các nhà sản xuất trong nước, nhất là những cơ sở chỉ sử dụng nguyên liệu nhập. Đồng thời lưu lượng ngoại tệ vận chuyển vào trong nước có xu hướng tăng lên, khối lượng dự trữ ngoại hối dồi dào, tạo điều kiện cho sự ổn định cán cân thương mại quốc tế. Trong trường hợp tỷ giá giảm xuống có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tế thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít hơn đồng nội tệ, Tuy nhiên, đây là cơ hội tốt cho các nhà nhập khẩu, nhất là nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, để phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước. Đồng thời lưu lượng ngoại tệ chuyển vào tron gnưcớ có xu hướng giảm xuống làm cho khối lượng dự trữ ngoại tệ ngày càng bị xói mòn vì khuynh hướng gia tăng nhập khẩu để có lợi nhuận, có thể gây nên tình trạng mất cân đối cán cân thương mại quốc tế. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 123
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 2.2.5.2. Tác động đến hoạt động đầu tư quốc tế Khi tỷ giá hối đoái tăng lên trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ hạn chế sự bành trướng ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước, vì họ sẽ không có lợi nếu chuyển ra nước ngoài các khoản vốn đầu tư bằng đồng nội tệ đa bị mất giá để đổi lấy ngoại tệ tăng giá. Các khoản vốn đầu tư này nếu được tái đầu tư hoặc để mua hàng hoá trong nước dành cho xuất khẩu tới thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Tương tự, tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ kích thích sự bành trướng ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước vì việc chuyển ra nước ngoài các khoản vốơn đầu tư bằng nội tệ tăng giá để đổi lấy ngoại tệ bị mất giá sẽ có lợi hơn. Ngoài ra, sự biến động của tỷ giá hối đoái còn tác động đến các hoạt động kinh tế quốc tế khác như các hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học - công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ. Việc xác định tỷ giá hối đoái đúng đắn, hợp lý có phối hợp với các biện pháp kinh tế khác có ý nghĩa rất lớn đối với Nhà nước trong việc sử dụng nó làm công cụ quản lý và điều tiết những mất cân đối trong hoạt động kinh tế trong nước, cũng như mất cân đối trong quan hệ kinh tế quốc tế. 3. HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ 3.1. Những vấn đề chung về hệ thống tiền tệ quốc tế 3.1.1. Khái niệm Hệ thống tiền tệ quốc tế là tập hợp các quy tắc, thể lệ và các tổ chức nhằm tác động tới các quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia trên thế giới. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế là tất yếu và có tác động lớn đến kinh tế thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng. 3.1.2. Mục đích hoạt động Hệ thống tiền tệ quốc tế nhằm điều chỉnh các mối quan hệ tiền tệ quốc tế, baỏơ đảm sự ổn định cho các mối quan hệ đó, từ đó tạo cơ sở cho các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung phát triển. Tính liên hệ phụ thuộc giữa các nền kinh tế mở, một mặt, thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa các nước, nhưng mặt khác, gây ra những trở ngại đối với các quốc gia trong việc hoạch định chính sách và đạt được các mục tiêu đối nội. Do vậy, cần thiết phải có những thoả thuận thống nhất giữa các quốc gia về lĩnh vực tiền tệ - tài chính và tỷ giá hối đoái nhằm TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 124
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện giúp các quốc gia đó vừa đạt được những mục tiêu đối nội (sử dụng tối đa các yếu tố sản xuất, ổn định giá cả) và đối ngoại (cân bằng cán cân thanh toán), vừa hạn chế tối đa những mâu thuẫn có thể nảy sinh. 3.1.3. Phân loại Hoạt động hệ thống tiền tệ quốc tế gắn liền với các giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi một hệ thống chỉ có thể vận hành có hiệu quả khi có những điều kiện thích hợp về kinh tế chính trị và xã hội nhất định. Một khi những điều kiện đó thay đổi thì sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ quốc tế là tất yếu. Điều này giải thích cho sự ra đời và phát triển của các hệ thống tiền tệ quốc tế khác nhau. Sự phân biệt giữa các hệ thống tiền tệ quốc tế dựa vào hai yếu tố cơ bản sau đây: (1) việc xác định chế độ tỷ giá hối đoái, và (2) các dạng dự trữ tiền tệ quốc tế (là công cụ để giúp các quốc gia tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán). Mỗi hệ thống tiền tệ quốc tế có thể kết hợp một hay vài dạng chế độ tỷ giá với một hay nhiều hình thức dự trữ quốc tế khác nhau. Chẳng hạn chế độ bản vị vàng là chế độ tỷ giá cố định với nguồn dự trữ duy nhất là vàng. Một chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh, hoặc chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý có thể đồng thời gắn với vàng và một đồng tiền nào đó, hoặc chỉ dựa vào một đồng tiền duy nhất nào đó có chức năng là phương tiện dự trữ quốc tế. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, xét về mặt lý thuyết, không cần đến nguồn dự trữ vì những thay đổi tỷ giá sẽ tự động thủ tiêu tình trạng mất cân đối trong cán cân thanh toán một khi tình trạng đó xuất hiện. 3.1.4. Các đặc trưng của một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả Một hệ thống tiền tệ quốc tế được coi là có hiệu quả nếu nó góp phần đạt được hai mục tiêu sau đây: (1) tối đa hoá sản lượng và mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất của thế giới, và (2) phân phối công bằng các lợi ích kinh tế giữa các quốc gia cũng như giữa các tầng lớp xã hội trong mỗi quốc gia. Người ta thường sử dụng ba tiêu thức cơ bản để đánh giá hiệu quả hoạt động của một hệ thống tiền tệ quốc tế. Điều chỉnh là tiến trình tái lập cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia. Một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả là hệ thống có khả năng giúp các quốc gia giảm một cách tối đa thời gian và chi phí điều chỉnh cán cân thanh toán của mình. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 125
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Dự trữ là toàn bộ số lượng tiền tệ dự trữ quốc tế sẵn có để điều chỉnh mức thâm hụt tạm thời trong cán cân thanh toán quốc tế. Một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả là hệ thống có khả năng cung cấp đủ dự trữ quốc tế nhằm giúp các quốc gia có thể điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế của mình mà không gây ra giảm phát trong nền kinh tế các quốc gia đó hoặc lạm phát trên phạm vi thế giới. Độ tin cậy là khả năng duy trì cả giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối của dự trữ quốc tế. Một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả là hệ thống hoạt động một cách suôn sẻ, không để xảy ra khủng hoảng về độ tin cậy của hệ thống. 3.2. Các hệ thống tiền tệ quốc tế 3.2.1. Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ nhất (1867 - 1914) Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ nhất ra đời vào năm 1867 tại Paris và kéo dài đến năm 1914. Hệ thống này đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử các quan hệ tiền tệ quốc tế. Trong giai đoạn này, vàng đóng vai trò đặc biệt và tạo nên nền tản hoạt động của hệ thống. Vì vậy hệ thống tiền tệ quốc tế thứ nhất còn được gọi là chế độ bản vị vàng. a) Nguyên tắc hoạt động của chế độ bản vị vàng Dưới chế độ bản vị vàng, mỗi quốc gia gắn đồng tiền của mình với vàng bằng cách quy định giá vàng tính bằng đồng tiền đó và cho phép việc mua hàng tự do theo mức giá quy định trên (được gọi là mức ngang giá vàng). Vàng còn được phép trao đổi tự do giữa các nước và trở thành nguồn dự trữ quốc tế chính thức. Do nội dung vàng của mỗi đồng tiền là cố định cho nên tỷ giá hối đoái được thiết lập trong khuôn khổ chế độ bản vị vàng cũng cố định. b) Sự vận động của vàng và sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái được thiết lập bằng cách đối chiếu nội dung vàng của các đồng tiền với nhau. Tương quan giữa nội dung vàng của hai đồng tiền nào đó được gọi là mức ngang giá chính thức giữa chúng. Trên thực tế, các đồng tiền không phải lúc nào cũng được trao đổi với nhau theo mức ngang giá chính thức này. Do những yếu tố liên quan đến cung cầu nên tỷ giá hối đoái thường xuyên dao động trượt khỏi mức ngang giá chính thức. Tuy nhiên, các mức dao động này thường rất nhỏ mặc dầu chính phủ không sử dụng các biện pháp can thiệp trực tiếp trên thị trường hối đoái nhằm kiểm soát các mức tỷ giá. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 126
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Về lý thuyết, sự trao đổi vàng tự do giữa các nước là yếu tố cơ bản giữ cho tỷ giá hối đoái luôn sát với mức ngang giá chính thức. Giả sử xét tương quan giữa đồng bảng Anh và đồng đô la Mỹ, khi mức cầu đối với đồng bảng tăng lên, khi đó tỷ giá giữa hai đồng tiền vượt quá mức ngang giá chính thức làm nảy sinh cơ hội cho các công dân Mỹ (hoặc Anh) kiếm được lợi nhuận bằng cách dùng đô la mua vàng ở Mỹ theo mức giá chính thức, chở vàng sang Anh bán lấy đồng bảng và sau đó bán số đồng bảng đó trên thị trường hối đoái để thu về số đô la lớn hơn so với số lượng bỏ ra ban đầu để mua vàng. Do đồng bảng được bán đi để đổi lấy đồng đô la cho nên đồng bảng lại có xu hướng hạ giá so với đồng đô la, và vì vậy đẩy mức tỷ giá quay trở lại mức ngang giá chính thức. Lập luận hoàn toàn tương tự trong trường hợp tỷ giá giữa đồng bảng và đồng đô la hạ xuống dưới mức ngang giá chính thức. Tuy nhiên, việc vận chuyển vàng đòi hỏi phải có những khoản chi phí nhất định, thường được ước tính bằng một tỷ lệ phần trăm nào đó của giá trị vàng chuyên chở và người ta lấy luôn mức chi phí đó để quy định giới hạn dao động của tỷ giá về hai phía so với mức ngang giá chính thức. Các giới hạn này được gọi là các điểm vàng và cơ chế hoạt động nhằm giữ cho tỷ giá không vượt quá khỏi các điểm đó được gọi là cơ chế các điểm vàng. c) Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng Trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đã tìm mọi cách vơ vét, dự trữ vàng để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh. Vì thế tiền vàng trong lưu thông bị giảm mạnh, các dấu hiệu tiền tệ, tiền giấy tăng lên. Đến cuối năm 1913, toàn thế giới có 10 tỷ đô la vàng, thì 7 tỷ đã nằm trong tay 5 nước: Anh, Pháp, Mỹ, Canada và Nga. Ở các nước này, phần lớn vàng bị hút vào kho dự trữ của Nhà nước, số còn lại trong tay bọn đầu cơ. Các ngân hàng đình chỉ đổi kỳ phiếu lấy vàng, đồng thời lạm phát kỳ phiếu không đổi được vàng tăng lên. Trong quan hệ mậu dịch giữa các nước, chế độ mậu dịch tự do bị chế độ bảo hộ mậu dịch thay thế, các quốc gia đã ngừng việc chuyển đổi các đồng tiền ra vàng, áp đặt việc cấm xuất khẩu vàng để duy trì nguồn dự trữ vàng của mình. Điều này đánh dấu sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng. Cho đến khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ (1914), chế độ bản vị vàng hoàn toàn sụp đổ. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 127
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 3.2.2. Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ hai (1922 - 1939) a) Lĩnh vực tài chính - tiền tệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ nhất Những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ giá hối đoái được thả nổi hoàn toàn, dao động với quy mô và tần số rất lớn. Các quốc gia đều cho rằng sự thả nổi như vậy chỉ là tạm thời và cần phải cải tổ lại hệ thống tiền tệ quốc tế theo hướng phục hồi chế độ bản vị vàng. Tuy nhiên, để khắc phục những yếu điểm của chế độ bản vị vàng trước đây, các quốc gia cho rằng bên cạnh vàng phải có ít nhất một đồng tiền mạnh nào đó đóng vai trò là đồng tiền dự trữ và thanh toán quốc tế. Vì vậy hệ thống tiền tệ quốc tế mới ra đời, thực chất là một chế độ bản vị vàng hối đoái. b) Nguyên tắc hoạt động của chế độ bản vị vàng hối đoái Năm 1922, tại hội nghị quốc tế ở Giơ - noa (Italia), một nhóm các nước gồm Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản đã kêu gọi các nước quay trở lại chế độ bản vị vàng và thực hiện sự hợp tác giữa các ngân hàng trung ương để đạt được đồng thời các mục tiêu đối nội và đối ngoại. Hội nghị đã đưa ra kế hoạch hình thành chế độ bản vị vàng hối đoái nhằm cho phép các quốc gia tiết kiệm được nguồn dự trữ vàng hạn chế của mình. Thực chất của chế độ bản vị vàng hối đoái là đồng thời vàng và một số đồng tiền chủ chốt được gọi là các "ngoại tệ vàng" (chủ yếu là đồng bảng Anh, ngoài ra còn có đồng đô la Mỹ và franc Pháp) được sử dụng làm phương tiện thanh toán và dự trữ quốc tế. Các "ngoại tệ vàng" được đổi ra vàng theo mức giá quy định trước chiến tranh thế giới thứ nhất. Các đồng tiền khác thì chỉ đượơc phép chuyển đổi ra một trong số các "ngoại tệ vàng" nói trên (không được phép trực tiếp đổi ra vàng). Năm 1925, Anh tái lập khả năng chuyển đổi ra vàng của đồng bảng và xoá bỏ mọi hạn chế đối với việc xuất khẩu vàng. Sau đó các quốc gia khác cũng lần lượt quay lại chế độ bản vị vàng. Riêng Mỹ thì đã thực hiện điều đó từ năm 1919. Tuy nhiên hoạt động của hệ thống tiền tệ này quá ngắn ngủi. Yếu tố trực tiếp đầu tiên dẫn tới sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng hối đoái là việc Pháp quyết định chuyển, đầu tiên, là mức dư trong cán cân thanh toán và sau đó, là toan bộ số bảng Anh tích luỹ được ra vàng (1928) với ý định biến Pari thành một TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 128
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ. Vào năm 1931, Anh đã buộc phải tuyên bố ngừng đổi đồng bảng ra vàng và tiến hành phá giá đồng bảng để tránh sự thất thoát nguồn dự trữ của mình. Tiếp sau hành động của Anh, các nước khác cũng lần lượt tuyên bố thủ tiêu chế độ bản vị vàng hối đoái của mình: Canada vào năm 1931, Mỹ - 1933 và Pháp - 1936 .v.v c) Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng hối đoái Các lý do dẫn đến sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng hối đoái cũng tương tự như trường hợp đối với chế độ bản vị vàng. Ngoài ra có thể do tác động sâu sắc của chiến tranh thế giới thứ nhất và đặc biệt Đại khủng hoảng kinh tế những năm 1929 - 1933. Do mức lạm phát cao ở các nước nhưng giá vàng vẫn được duy trì một cách bất hợp lý ở các mức giá áp dụng trong thời gian trước chiến tranh. Nước Anh bị suy yếu và do đó không còn khả năng kiểm soát được dòng vận động của các nguồn vốn ngắn hạn bằng chính lãi suất của mình. Trong khi đó các quốc gia khác đặc biệt là Mỹ nổi lên và dần dần lấn át địa vị của Anh trong nền kinh tế thế giới. 3.2.3. Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ ba (1944 - 1971) Ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước đồng minh đã bắt đầu việc xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhằm thúc đẩy các quan hệ tiền tệ và thương mại quốc tế. Vào năm 1944, một hội nghị quốc tế được nhóm họp tại Bretton Woods, New Hampshire (Mỹ) với sự tham gia của đại diện của 44 quốc gia đã đưa ra một loạt các biện pháp liên quan đến lĩnh vực tài chính - tiền tệ, dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới với tên gọi là hệ thống Bretton Woods. a) Những đặc trưng cơ bản Hệ thống tiền tệ quốc tế mới được xây dựng chủ yếu trên cơ sở kế hoạch do đoàn đại biểu Mỹ đưa ra (một kế hoạch khác do Anh đưa ra đã không được chấp thuận), theo đó hệ thống phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau đây: - Các tổ chức quốc tế: hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đòi hỏi phải thành lập một tổ chức quốc tế với những chức năng và quyền hạn nhất định. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 129
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Chế độ tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái phải được ấn định cố định về mặt ngắn hạn, nhưng có thể được điều chỉnh khi xuất hiện tình trạng "mất cân đối cơ bản". - Dự trữ quốc tế: để giúp chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh hoạt động một cách có hiệu quả, các quốc gia cần tới một số lượng dự trữ quốc tế lớn, và vì vậy phải có sự gia tăng vàng và các nguồn dự trữ bằng tiền. - Khả năng chuyển đổi của đồng tiền: vì sự hoà hợp về chính trị và lợi ích kinh tế chung mà tất cả các quốc gia phải tham gia vào mọi hệ thống thương mại đa phương tự do, sử dụng các đồng tiền tự do chuyển đổi. b) Chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh Hội nghị Bretton Woods đã thống nhất việc áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái có khả năng kết hợp những ưu thế của chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi, với tên gọi là chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh. Các quốc gia hy vọng là chế độ tỷ giá mới, một mặt, đưa lại sự ổn định về tỷ giá xét về ngắn hạn (tương tự như trong chế độ bản vị vàng), nhưng mặt khác cho phép khả năng điều chỉnh tỷ giá khi cán cân thanh toán của đất nước lâm vào tình trạng mất cân đối cơ bản (tương tự như sự điều chỉnh tự động của tỷ giá dưới chế độ tỷ giá linh hoạt nhằm duy trì cán cân đối ngoại). Chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh tương tự như chế độ bản vị vàng xét về khía cạnh xác định và duy trì tỷ giá hối đoái giao ngay trong ngắn hạn. Theo thoả thuận ban đầu, đồng đô la Mỹ được coi là đồng tiền chủ chốt được gắn giá trị với vàng với giá cố định 35 USD = 1 auxơ (1 auxơ = 31,1035g vàng nguyên chất). Mỹ có nghĩa vụ đổi đô la ra vàng cho các ngân hàng trung ương một cách không hạn chế. Tỷ giá hối đoái chính thức giữa các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh với hàm lượng vàng chính thức của USD và không được phép biến động quá phạm vi 1% của tỷ giá chính thức được đăng ký tại Quỹ. Để duy trì được tỷ giá trong phạm vi cho phép này, các quốc gia đó phải tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối bằng cách dùng đồng tiền của mình để mua hoặc bán đô la khi tỷ giá vượt quá 1% so với ngang giá. Tuy một số nước vẫn gắn đồng tiền của mình với đồng bảng nhưng trên thực tế đồng bảng lại được gắn với đồng đô la. Do vị trí thống trị của đồng đô la nên hệ thống còn được gọi là chế độ bản vị vàng - đô la. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 130