Giáo trình Kinh tế nông thôn

doc 171 trang vanle 2600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế nông thôn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_kinh_te_nong_thon.doc

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế nông thôn

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA BẤT ĐỘNG SẢN VÀ KINH TẾ TÀI NGUYÊN BỘ MÔN KINH TẾ NÔNG NGHIÊP Đồng chủ biên: GS.TS. Hoàng Việt - PGS.TS. Vũ Đình Thắng GIÁO TRÌNH KINH TẾ NÔNG THÔN HÀ NỘI, 2013
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NÔNG THÔN VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 6 1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA NÔNG THÔN VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN. 6 1.1.1. Khái niệm nông thôn và bản chất phát triển nông thôn 6 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của nông thôn 9 1.1.3. Vai trò của nông thôn và phát triển nông thôn 10 1.1.4. Xu hướng đô thị hoá nông thôn 11 1.2. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN PHÁT TRỂN NÔNG THÔN 13 1.2.1. Phát triển tổng hợp và toàn diện đối với nông thôn 13 1.2.2. Coi trọng xây dựng và hoàn thiện các thể chế 14 1.2.3. Đa dạng hoá sinh kế bền vững của người dân: 16 1.2.4. Từ dưới lên, do cộng đồng, dựa vào cộng đồng 17 1.3. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM 18 1.3.1.Khái quát tình hình phát triển nông thôn mới ở Việt Nam 18 1.3.2. Nội dung xây dựng nông thôn mới ở nước ta 19 1.3.3. Tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam 23 1.4. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 24 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu của môn học 24 1.4.2. Nội dung nghiên cứu môn học 24 1.4.3. Phương pháp nghiên cứu. 25 CHƯƠNG 2 CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN 28 2.1. BẢN CHẤT CỦA CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG THÔN 28 2.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn: 28 2.1.2. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông thôn. 29 2.1.3. Chuyển dịch và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn 31 2.1.4. Các chỉ tiêu thể hiện cơ cấu và đánh giá kết quả và hiệu quả của cơ cấu kinh tế nông thôn. 32 2.2. NỘI DUNG CỦA CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN. 32 2.2.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn theo ngành. 33 2.2.3. Cơ cấu kinh tế nông thôn theo thành phần kinh tế. 35 2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CƠ CẤU VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN 36 2.3.1. Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên 36 2.3.2. Nhóm nhân tố kinh tế- xã hội. 37 2.3.3. Nhóm nhân tố về tổ chức - kỹ thuật 39 2.4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM 39 2.4.1. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam 39 2.4.2. Các giải pháp chủ yếu để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn 41
  3. CHƯƠNG 3 KINH TẾ PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH SẢN XUẤT VÀ DỊCH VỤ NÔNG THÔN 46 3.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN 46 3.1.1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế nông thôn 46 3.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá. 47 3.1.3. Các đặc điểm tăng trưởng và phát triển kinh tế nông thôn trong điều kiện hội nhập 49 3.2. Kinh tẾ phát triỂn nông nghiỆp (nông, lâm, thuỶ sẢn) 50 3.2.1. Bản chất, vai trò, đặc điểm của ngành nông nghiệp 50 3.2.2. Quy luật phát triển nông nghiệp từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa 52 3.2.3. Những đặc điểm cơ bản phát triển nông nghiệp trong điều kiện hội nhập 52 3.2.4. Vai trò của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp 54 3.3. KINH TẾ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN. 55 3.3.1. Bản chất, vai trò của công nghiệp nông thôn. 55 3.3.2. Nội dung chủ yếu phát triển công nghiệp nông thôn 57 3.3.3. Điều kiện phát triển công nghiệp nông thôn 63 3.3.4. Vai trò Nhà nước trong phát triển công nghiệp nông thôn 65 3.4. KINH TẾ DỊCH VỤ NÔNG THÔN 66 3.4.1. Bản chất, vai trò, đặc điểm kinh tế dịch vụ nông thôn. 66 3.4.2. Nội dung các hoạt động dịch vụ nông thôn. 68 3.4.3. Nguyên tắc tổ chức cung ứng dịch vụ phát triển nông thôn 70 3.4.4.Các hình thức tổ chức kinh doanh dịch vụ nông thôn. 71 CHƯƠNG 4 KINH TẾ PHÁT TRIỂN CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI NÔNG THÔN 75 4.1. BẢN CHẤT, VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN XÃ HỘI NÔNG THÔN 75 4.1.1. Bản chất phát triển xã hội nông thôn 75 4.1.2. Vai trò phát triển xã hội nông thôn 76 4.1.3. Đặc điểm và yêu cầu phát triển xã hội nông thôn 77 4.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ LĨNH VỰC XÃ HỘI CHỦ YẾU Ở NÔNG THÔN.79 4.2.1. Kinh tế phát triển giáo dục và đào tạo ở nông thôn 79 4.2.2. Kinh tế phát triển y tế ở nông thôn 87 4.2.3. Kinh tế phát triển văn hóa, thể thao ở nông thôn 91 4.2.4. Kinh tế phát triển dân số, lao động, việc làm ở nông thôn 94 CHƯƠNG 5 KINH TẾ XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG NÔNG THÔN 99 5.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG NÔNG THÔN 99 5.1.1. Khái niệm hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn 99 5.1.2. Vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn 100 5.1.3. Những đặc điểm chủ yếu của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn 102 5.2. NỘI DUNG HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG NÔNG THÔN 104 5.2.1. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật 104 5.2.2. Hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội 106 5.3. XÂY DỰNG HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG NÔNG THÔN 107
  4. 5.3.1. Quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn 107 5.3.2.Các nguồn vốn xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn 109 5.3.3. Các phương thức huy động vốn xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn 111 5.4. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH HẠ TẦNG NÔNG THÔN 118 5.4.1.Thẩm quyền quyết định đầu tư 118 5.4.2. Các bước tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng công trình hạ tầng 118 CHƯƠNG 6 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN. 121 6.1. .KHÁI NIỆM MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 121 6.1.1 Khái niệm môi trường và các yếu tố môi trường 121 6.1.2. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển. 122 6.2. TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN. 124 6.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường 124 6.2.2. Các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường trong phát triển nông thôn 124 6.3. QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 130 6.3.1. Quản lý phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái bền vững 130 6.3.2. Quản lý môi trường đất 133 6.3.3. Quản lý, bảo vệ môi trường nước trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn 134 6.3.4. Phát triển bền vững và sản phẩm sinh thái. 135 6.3.5. Quản lý việc thực hiện các quy định về tiêu chuẩn môi trường, pháp luật bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong nông thôn. 136 6.3.6. Đánh giá tác động môi trường 137 CHƯƠNG 7 TÀI CHÍNH NÔNG THÔN 139 7.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI CHÍNH NÔNG THÔN 139 7.1.1 Bản chất của tài chính và tài chính nông thôn 139 7.1.2 Đặc điểm tài chính nông thôn 140 7.1.3 Phân cấp quản lý tài chính nông thôn 140 7.1.4 Tài chính cấp xã 142 7.2 QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH XÃ 147 7.2.1 Các khoản thu ngân sách xã 147 7.2.2 Tổ chức thu ngân sách xã 147 7.2.3 Phân bổ thu ngân sách xã 148 7.3 QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH XÃ 149 7.3.1 Các khoản chi ngân sách xã 149 7.3.2 Tổ chức chi ngân sách xã 150 7.3.3 Cân đối thu chi ngân sách xã 151 7.4 QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG Ở XÃ 151 7.4.1 Khái niệm và phân loại tài sản công ở xã 151 7.4.2 Tổ chức quản lý các tài sản công ở xã 152
  5. CHƯƠNG 8 HỆ THỐNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN 155 8.1. VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LÀNG XÃ 155 8.1.1. Vai trò của làng xã 156 8.1.2. Đặc điểm của làng xã 156 8.1.3. Xu hướng phát triển của làng xã 158 8.2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN 160 8.2.1. Đảng bộ cơ sở 160 8.2.2. Hội đồng nhân dân xã 161 8.2.3. Uỷ ban nhân dân xã 162 8.2.4. Đơn vị hành chính làng, thôn (hoặc bản ở miền núi) 163 8.3. HỆ THỐNG TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI, VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN 163 8.3.1. Các tổ chức chính trị - xã hội 163 8.3.2.Các tổ chức xã hội 165 8.4. CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN 165 8.4.1. Công cụ pháp luật 166 8.4.2. Công cụ chính sách 167 8.4.3. Công cụ kế hoạch 168
  6. LỜI MỞ ĐẦU Đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nghiên cứu và học tập của giáo viên, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn thuộc trường Đại học kinh tế Quốc dân; góp phần phục vụ nghiên cứu, ứng dụng của cán bộ nghiên cứu, quản lý và chỉ đạo thực tiễn phát triển nông thôn cũng như một số lĩnh vực có liên quan khác, chúng tôi cho xuất bản cuốn Giáo trình kinh tế nông thôn Môn học Kinh tế nông thôn là môn học cơ sở của chuyên ngành, nhằm trang bị cho người học những kiến thức kinh tế học về phát triển khu vực nông thôn, đặc biệt là những kiến thức phát triển nông thôn Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sau khi đã qua giai đoạn thoát nghèo bước sang giai đoạn phát triển mới. Ngoài ra đối với một số chuyên ngành đào tạo khác, môn học này cũng là môn học tự chọn để giúp cho sinh viên sau khi ra trường thích ứng nhanh với những vị trí quản lý hoặc công tác thực tiễn có liên quan đến khu vực nông nghiệp nông thôn. Trong lần biên soạn này, chúng tôi đã kế thừa có chọn lọc những nội dung của giáo trình biên soạn năm 2002, đồng thời có tham khảo kết quả nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong 25 năm đổi mới vừa qua; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những kiến thức, phương pháp và kinh nghiệm về phát triển nông thôn từ các chuyên gia, các tổ chức khoa học, kinh tế trong và ngoài nước Giáo trình gồm 8 chương do GS.TS Hoàng Việt và PGS.TS Vũ Đình Thắng đồng chủ biên. Các tác giả tham gia biên soạn gồm: - PGS.TS Vũ Đình Thắng: Chương 1, 6 - GV Hoàng Văn Định : Chương 2 - PGS.TS Trần Quốc Khánh : Chương 3 - PGS.TS Phạm Văn Khôi: Chương 4 - GS.TS Hoàng Việt: Chương 5, 8 - PGS.TS Vũ Thị Minh : Chương 7 Do trình độ của tập thể tác giả còn có hạn nên “Giáo trình kinh tế nông thôn” chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc và xin chân thành cảm ơn Hội đồng khoa học Khoa Bất động sản & Kinh tế tài nguyên 5
  7. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ NÔNG THÔN VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Nông thôn là khu vực đặc thù của đất nước. Phát triển nông thôn giàu đẹp, văn minh sẽ góp phần quyết định trong phát triển đất nước nói chung. Mục tiêu chủ yếu của chương này là giúp người đọc nhận thức tổng quan về nông thôn, phát triển nông thôn, nắm được những đặc thù riêng của nông thôn Việt Nam trong phát triển hiện nay và chủ trương xây dựng nông thôn mới. Cuối chương dành mục riêng để trình bày về đối tượng, phương pháp nghiên cứu môn học. Nội dung chương này trình bày khái niệm, vai trò của nông thôn và phát triển nông thôn, những đặc điểm riêng để hiểu rõ những đặc thù trong chiến lược phát triển nông thôn mỗi nước trên nhiều phương diện như xác lập các quan điểm phát triển cơ bản, xây dựng mô hình phát triển, xác định lộ trình cũng như huy động các nguồn lực cho phát triển nông thôn. Quan điểm cơ bản phát triển nông thôn Việt Nam là: Phát triển tổng hợp và toàn diện; Phải coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện các thể chế; Chú trọng đa dạng hoá sinh kế của người dân và thấm nhuần nguyên tắc từ dưới lên, dựa vào cộng đồng và do cộng đồng. Việt Nam hiện nay đang thực hiện xây dựng nông thôn mới ở các vùng kinh tế sinh thái trên cả nước. Điểm cơ bản khác biệt trong việc xây dựng nông thôn mới hiện nay so với trước đây là: 1/. Địa bàn triển khai là ở quy mô thôn, làng, bản, ấp hay những địa bàn tương tự; và 2/ Nội dung chính thực hiện xây dựng nông thôn mới là: Nâng cao năng lực phát triển cộng đồng; Nâng cấp điều kiện sống cho người dân nông thôn; Hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập; Mỗi làng một nghề. 1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA NÔNG THÔN VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN. 1.1.1. Khái niệm nông thôn và bản chất phát triển nông thôn a. Khái niệm nông thôn Cho đến nay, đã có một số định nghĩa về nông thôn, nhưng chưa có định nghĩa nào được chấp nhận và sử dụng một cách rộng rãi. Để hiểu nông thôn là gì, người ta thường xuất phát từ hai cách tiếp cận chủ yếu sau đây: Thứ nhất, tiếp cận so sánh sự khác nhau giữa nông thôn và đô thị. - Trong từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 1994, nông thôn được định nghĩa là khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông. Còn trong từ điển Bách khoa của Nhà xuất bản Bách khoa Mátxcơva năm 1986 định nghĩa thành thị là khu vực dân cư làm các nghề ngoài nông nghiệp. Hai định nghĩa nêu trên phân biệt nông thôn với đô thị dựa theo dấu hiệu chủ yếu là đặc trưng nghề nghiệp của cư dân. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa nông thôn và đô thị không phải chỉ ở đặc điểm nghề nghiệp của cư dân, mà còn khác nhau cả về mặt tự nhiên, kinh tế và xã hội nữa. Về mặt tự nhiên, nông thôn là vùng không gian rộng lớn (còn gọi là không gian nông thôn), có quỹ đất đai rộng lớn, thường bao quanh các đô thị (các thành phố, thị trấn, khu công nghiệp). Những vùng nông thôn khác nhau có những khác nhau về quỹ đất, địa hình, khí hậu thuỷ văn, nguồn tài nguyên 6
  8. Về kinh tế-xã hội, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân nông thôn là làm nông nghiệp và thu nhập chính là thu từ nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội ở nông thôn thường có diện mạo khác hơn và trình độ phát triển thấp hơn so với của đô thị. Trình độ phát triển về dân trí, về tư duy sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường của người dân nông thôn cũng thường thấp kém hơn. Ngoài ra, những di sản văn hoá truyền thống, những phong tục tập quán cổ truyền ở nông thôn là rất phong phú thể hiện rõ lối sống và cách sống riêng có của người dân nông thôn so với đô thị. Từ đó, có thể hiểu nông thôn là khu vực không gian lãnh thổ mà ở đó cộng đồng cư dân có cách sống và lối sống riêng, lấy sản xuất nông nghiệp làm hoạt động kinh tế chủ yếu và sống chủ yếu dựa vào nghề nông (nông, lâm, ngư nghiệp); có mật độ dân cư thấp và quần cư theo hình thức làng xã; có cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội kém phát triển, trình độ về dân trí, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như tư duy sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường là thấp kém hơn so với đô thị; có những mối quan hệ bền chặt giữa các cư dân dựa trên bản sắc văn hoá , phong tục tập quán cổ truyền về tín ngưỡng, tôn giáo - Từ khái niệm tổng quát nêu trên về nông thôn cho thấy, người ta phân biệt nông thôn với đô thị dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Đến lượt nó, việc phân biệt rõ sự khác nhau giữa nông thôn và đô thị nhằm chỉ rõ đặc điểm , tính chất của mỗi loại địa bàn kinh tế- xã hội này sẽ giúp cho việc hoạch định chiến lược phát triển nông thôn và đô thị của mỗi nước, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Người ta chú ý ba tiêu chí cơ bản để phân biệt đô thị với nông thôn, đó là: quy mô, mật độ dân số và cơ cấu lao động theo ngành. Theo Nghị định số72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị thì đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập. Theo Nghị định này, các tiêu chí cơ bản để phân loại đô thị gồm: + Chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định; + Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động tối thiểu là 65%; + Cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định đối với từng loại đô thị; + Quy mô dân số ít nhất là 4000 người; + Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị. Các đô thị được phân thành 6 loại, gồm: đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I, đô thị loại II, đô thị loại III, đô thị loại IV và đô thị loại V. Thị trấn là đô thị loại V thuộc Huyện quản lý, có các tiêu chuẩn chủ yếu là: Đô thị với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành về chính trị, kinh tế, văn hoá và dịch vụ, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của một huyện hoặc một cụm xã. Việc phân biệt nông thôn và đô thị theo các tiêu chí như trên là có tính chất tương đối. Bởi vì giữa nông thôn và đô thị trong nhiều trường hợp không hoàn toàn tách biệt nhau mà có sự xen ghép, nối tiếp nhau, chồng gối nhau về mặt không gian lãnh thổ, đất đai, về địa bàn dân cư và về các hoạt động kinh tế xã hội của nông thôn và đô thị. Từ đó có thể thấy khái quát các dạng nông thôn và đô thị như sau: 7
  9. + Nông thôn cổ truyền: Bao gồm các làng xã, bản, buôn, sóc chủ yếu mang tính chất thuần nông, dân cư làm nghề nông là chủ yếu, các hoạt động công nghiệp và dịch vụ không đáng kể; dân cư bố trí tương đối rải rác, phân tán. + Nông thôn - đô thị: Trong vùng nông thôn có những đô thị nhỏ, thị trấn, các phố làng, các tụ điểm dân cư tương đối tập trung. Trong nông thôn, ngoài các hoạt động nông nghiệp còn có các hoạt động công nghiệp và dịch vụ dưới dạng các phố làng, các làng nghề, các cụm công nghiệp nhỏ và vừa. +Đô thị: Đó là các thành phố, thị xã, thị trấn, các khu công nghiệp tập trung. Hoạt động kinh tế ở các đô thị chủ yếu là công nghiệp và các hoạt động dịch vụ. Gắn liền với quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, tất yếu sẽ diễn ra quá trình đô thị hoá nông thôn. Do vậy, việc nắm bắt và tạo ra các điều kiện thuận lợi thúc đẩy đô thị hoá là đòi hỏi khách quan của công cuộc công nghiệp hoá đất nước hiện nay. Thứ hai, tiếp cận phân biệt các khái niệm: nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất hay một khu vực của nền kinh tế. Với tính cách là một ngành sản xuất vật chất, nông nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Với tính cách là một khu vực hay là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nông nghiệp có mục tiêu phát triển là đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho quốc gia, và có một phần thặng dư để công nghiệp hoá. Muốn vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, phát triển nông nghiệp phải định hướng cho thị trường, đảm bảo thoả mãn nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, do đó nhất thiết phải thực hiện chuyên canh, chuyên môn hoá với trình độ ngày càng cao. Nông thôn là lãnh thổ mà ở đó có những cộng đồng cư dân sinh sống với những lối sống, cách sống cùng các hoạt động sống riêng. Những lối sống, cách sống và các hoạt động sống của mỗi cộng đồng dân cư khác nhau ở những vùng nông thôn khác nhau ít nhiều có những khác nhau. Tuy nhiên, nếu xét về nhu cầu phát triển của từng cá nhân con người cũng như của cộng đồng người, thì đối với bất kỳ vùng nông thôn nào cũng cần có một nền kinh tế nông thôn phát triển cân đối và toàn diện, một xã hội hài hoà và công bằng. Muốn vậy, phát triển nông thôn phải mang tính chất tổng hợp, toàn diện, có sự tham gia và cần phải dựa trên sự tham gia của người dân, do các cộng đồng dân cư địa phương thực hiện. Nông dân là những người dân sống ở nông thôn. Nông dân là chủ thể tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ở nông thôn, ngoài nông dân còn có những người buôn bán (tiểu thương), những người làm nghề tiểu thủ công nghiệp (tiểu chủ). Dù sống ở bất kỳ vùng nông thôn nào, thì người nông dân luôn cần có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao cùng với mức sống ở đô thị. Muốn vậy, người nông dân luôn tìm mọi cách để tăng thu nhập. Xu hướng có tính quy luật phổ biến là người nông dân cần đa dạng hoá sinh kế. Do vậy họ luôn cần việc làm, tăng thu nhập. Dưới tác động của xu hướng này, trong thực tiễn hoạt động kinh tế, người nông dân luôn hướng tới đa dạng hoá nông nghiệp, phát triển các hoạt động phi nông nghiệp. Trong điều kiện đó, để thực hiện phương châm” ly nông bất ly hương” trong quá trình công nghiệp hoá, cần phải tạo dựng và 8
  10. thường xuyên hoàn thiện môi trường thể chế và chính sách thuận lợi cho phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ trong nông thôn. b. Bản chất phát triển nông thôn. Mọi sự vật trong tự nhiên và xã hội đều luôn luôn vận động. Bản chất của vận động là quá trình tích luỹ về lượng và biến đổi về chất của sự vật. Sự tích luỹ dần dần về lượng trong quá trình vận động gọi là sự tăng trưởng; còn sự biến đổi về chất gọi là sự phát triển. Như vậy, sự tăng trưởng chính là quá trình thay đổi về kích thước, quy mô, độ lớn hay quá trình thay đổi về lượng, quá trình lớn lên của sự vật; còn sự chuyển biến hay còn gọi là sự “nhảy vọt” từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, sự thay đổi về chất của sự vật trong quá trình vận động gọi là sự phát triển. Tăng trưởng là sự lớn lên về số lượng còn phát triển là quá trình biến đổi về chất lượng hay phẩm chất của sự vật theo xu hướng tiến bộ. Trong kinh tế, người ta đã khái quát quá trình phát triển của nông nghiệp thường phải trải qua các giai đoạn từ trạng thái tự nhiên, tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá giản đơn rồi lên sản xuất hàng hoá lớn. Người ta cũng dùng thuật ngữ “không tăng trưởng” để chỉ sự vận động của sự vật mà quy mô về số lượng năm sau không tăng so với năm trước; thuật ngữ “tăng trưởng âm” để chỉ tình trạng vận động của sự vật nhưng lại giảm đi về số lượng và quy mô. Trong hoạt động thực tiễn, người ta thường coi trọng phát triển hơn là tăng trưởng, do vậy gần đây đã xuất hiện thuật ngữ “chất lượng của sự tăng trưởng”, nghĩa là gắn hai mặt số lượng và chất lượng với nhau, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Đối với nông thôn, phát triển nông thôn là sự tăng trưởng, trước hết là tăng trưởng về mặt kinh tế, cùng với sự biến đổi về chất các mặt văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội, an ninh nông thôn theo chiều hướng tiến bộ hơn. Đối với từng quốc gia, người ta dùng chỉ số phát triển con người (HDI) làm thước đo để đo lường trình độ phát triển của mỗi nước. Đây là chỉ số thể hiện tổng hợp ba chỉ số thành phần gồm: chỉ số thu nhập bình quân đầu người (tính bằng GDP bình quân đầu người); chỉ số tuổi thọ bình quân và tỷ lệ người biết chữ trong tổng số người trong độ tuổi đi học. Như vậy, mục tiêu của sự phát triển của mỗi quốc gia chính là sự phát triển toàn diện của con người của quốc gia đó. Ngược lại, để tạo ra sự phát triển, mỗi quốc gia cần có các yếu tố nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò quan trọng nhất. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của mỗi quốc gia. Suy rộng ra đối với khu vực nông thôn, phát triển toàn diện con người sống ở nông thôn chính là mục tiêu bao trùm và là động lực phát triển nông thôn trong điều kiện hội nhập hiện nay. Bản chất của phát triển nông thôn chính là sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn trên cơ sở thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của nông thôn. Để hiểu rõ thêm về bản chất của nông thôn, cần nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của vùng nông thôn. Đó là: a.Tính không đồng nhất về điều kiện phát triển giữa các vùng nông thôn: Không gian lãnh thổ vùng nông thôn khá rộng, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội rất phức tạp về tính chất và quy mô tạo nên tính không đồng nhất về điều kiện phát triển giữa những vùng nông thôn khác nhau trong một quốc gia cũng như giữa các quốc gia khác nhau. Với những xuất phát điểm phát triển khác nhau dẫn tới xu 9
  11. hướng tất yếu chênh lệch về thành tựu và trình độ phát triển qua mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Nhận thức rõ tính quy luật nêu trên, Chính phủ các nước thường có những chính sách hỗ trợ phát triển đối với những vùng có điều kiện bất thuận và những hỗ trợ này là hoàn toàn phù hợp với quy định của WTO. b. Sản xuất nông nghiệp là đặc trưng về nghề nghiệp của nông thôn truyền thống: Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của cộng đồng dân cư bao gồm chủ yếu là nông dân, hoạt động kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Có thể nói, sản xuất nông nghiệp là nét đặc trưng về nghề nghiệp của nông thôn truyền thống. Ngoài hoạt động nông nghiệp, các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ được phát triển trong nông thôn trước hết là những hoạt động nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển của nông nghiệp. Do vậy, để đảm bảo sự phát triển bền vững của vùng nông thôn, người ta thường chú ý lựa chọn các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ nào đó có nhiều mối liên hệ với đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp ở địa phương để phát triển. c. Tính tương đối đồng nhất của cộng đồng dân cư và đặc điểm cư trú: Đặc điểm cơ bản về cách cư trú của dân cư nông thôn là quần cư thành các làng (bản, buôn, sóc ). Cách bố trí dân cư là tương đối phân tán; vườn và ruộng thường xen kẽ với nhà ở tạo thành không gian nối tiếp giữa các nhà ở trong cùng một làng. Ở một số bản của đồng bào dân tộc, đôi khi mỗi nhà ở của một gia đình là trên một quả đồi để tiện canh tiện cư. Việc bố trí dân cư theo kiểu truyền thống như vậy của bản làng tạo nên những nét riêng trong xây dựng, quản lý và sử dụng các công trình hạ tầng kinh tế- xã hội của bản làng. Do tụ cư và sinh sống thành các làng, nên cư dân của làng thường có các mối quan hệ gắn bó, gần gũi. Các mối quan hệ này được xây dựng trên nền tảng của các mối quan hệ về địa giới, huyết thống, truyền thống, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng và được thử thách qua thời gian, tạo nên tính cố kết khá chặt chẽ của cộng đồng làng bản. Trong quá trình phát triển, dưới tác động của đẩy mạnh công nghiệp hoá, của mở cửa và hội nhập sẽ từng bước cải biến nông thôn cổ truyền thành nông thôn hiện đại, văn minh. Tuy vậy, những yếu tố tiến bộ vốn là nền tảng tạo nên lối sống và cách sống của cộng đồng làng bản sẽ vẫn được lưu giữ và làm sâu đậm thêm với tính cách là các yếu tố văn hoá bản địa. d. Về trình độ phát triển của nông thôn so với đô thị: Nói chung, trình độ phát triển kinh tế- xã hội của vùng nông thôn thường là thấp hơn so với đô thị. Biểu hiện tập trung nhất của tình trạng còn kém phát triển này là ở trình độ phát triển còn thấp hoặc còn thiếu đồng bộ các yếu tố kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội của một địa bàn nông thôn cụ thể. Tình trạng kém phát triển của nông thôn, nói đúng hơn là sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa nông thôn và đô thị sẽ tạo nên xu hướng di dân từ nông thôn ra thành thị. Việc người dân nông thôn đổ về các thành phố để tìm việc làm tạm thời lại gây ra nhiều tác động tiêu cực khác cho cả thành phố lẫn nông thôn trong quá trình phát triển. 1.1.3. Vai trò của nông thôn và phát triển nông thôn. Trong quá trình phát triển đất nước, nông thôn có vai trò rất to lớn trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Lịch sử phát triển trong quá khứ cho thấy đã từng có một số nước chỉ chú ý nhiều tới phát triển các đô thị, các khu công nghiệp hiện đại mà ít chú ý đến phát triển nông thôn. Đây là trường hợp các nước như Braxin, Mêhicô, Ấn Độ, 10
  12. Angêri, Ăngôla .Tình hình đó đã làm tăng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế và xã hội giữa nông thôn và đô thị, dẫn tới làm hạn chế sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nói chung của đất nước. Trong khi đó, một số nước và vùng lãnh thổ khác ở châu Á lại có tốc độ phát triển khá nhanh, đặc biệt nhiều nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất ngoạn mục như: Trung Quốc, Hàn Quốc, đảo Đài Loan, Thái Lan, Malayxia là những nước đã quan tâm tới phát triển nông nghiệp, nông thôn ngay từ đầu thời kỳ công nghiệp hoá; thường xuyên coi nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Phát triển nông nghiệp nông thôn không chỉ vì lợi ích riêng của khu vực này, mà còn vì lợi ích phát triển đất nước nói chung. Thậm chí trong thời đại ngày nay, phát triển nông thôn không chỉ là công việc riêng của từng quốc gia đang phát triển, mà còn là sự quan tâm chung của cả cộng đồng thế giới, trong đó có các nước phát triển thông qua các hoạt động của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ khác. Việt Nam là một nước đang phát triển, đang đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá để sớm thoát ra khỏi nhóm các nước nghèo. Dựa trên điểm xuất phát thấp như vậy nên việc coi trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn có vai trò to lớn trong phát triển đất nước nói chung. Vai trò của việc tập trung sức cho phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đối với phát triển đất nước thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: - Khu vực nông thôn, trong đó có ngành nông nghiệp, có đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng chung của nền kinh tế. Sự đóng góp này trước hết thể hiện ở tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của đất nước. Thông thường đối với một nước trong giai đoạn đầu của sự phát triển thì nông nghiệp có đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng. Sau này, ở những giai đoạn phát triển càng cao thì vai trò của nông nghiệp đóng góp vào tăng trưởng càng giảm đi, nhưng số lượng tuyệt đối của tăng trưởng nông nghiệp vẫn cứ tăng lên. - Ngoài ra, sự đóng góp của khu vực nông nghiệp nông thôn còn thể hiện ở việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia, cung cấp các yếu tố đầu vào nói chung như đất đai, tài nguyên khoáng sản, nguồn lao động cho phát triển công nghiệp nói chung, cung cấp nguồn nguyên liệu nông sản cho công nghiệp chế biến, tham gia vào xuất khẩu tạo thu nhập ngoại tệ cho đất nước và đặc biệt là vai trò bảo vệ môi trường sinh thái. 1.1.4. Xu hướng đô thị hoá nông thôn. Các lý thuyết kinh tế học phát triển đều chỉ ra rằng trong thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, nông nghiệp nông thôn vẫn là nơi cung cấp lao động và là thị trường tiêu thụ của công nghiệp. Tuy nhiên, vai trò của nông dân và nông nghiệp ngày càng ít quan trọng hơn trong nền kinh tế, do tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế thời kỳ công nghiệp hoá. Đây là một xu hướng có tính phổ biến. Tính phổ biến là khi công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh thì giá nông sản trên thị trường thế giới có xu hướng giảm thấp nhờ giảm được chi phí sản xuất bằng việc cải tiến công nghệ sản xuất, đẩy mạnh khuyến nông, nâng cao năng suất lao động. Trong điều kiện đó, biện pháp hữu hiệu để phòng và giảm thiểu rủi ro đối với nông dân là đa dạng hoá hoạt động sản xuất nông nghiệp và chú trọng phát triển các hoạt động phi nông nghiệp. Gần đây, trong các lý thuyết phát triển, người ta quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển bền vững ở cấp vùng hay cấp địa phương và cho rằng sự phát triển lãnh thổ là sự phát 11
  13. triển tổng hợp, phối hợp các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị và gắn liền đô thị với nông thôn. Trong việc phát triển lãnh thổ, vấn đề được bàn đến nhiều nhất là các cụm công nghiệp (industrial clusters) và các khu công nghiệp (industrial districts). Khái niệm cụm công nghiệp do A.Marshall (1917) phát hiện khi nhận ra rằng thị trường không phái chỉ do cạnh tranh điều khiển mà còn bị ảnh hưởng do sự hợp tác và tương trợ. Sau này, các nhà xã hội học còn cho rằng thị trường chịu tác động bởi cả các điều kiện xã hội và chính trị nữa. Các khu hay cụm công nghiệp này có ưu thế vì có ba sự gần gũi là sự gần nhau về địa lý, sự gần nhau về công nghệ và sự gần nhau về tổ chức (tổ chức lao động, dễ hình thành mạng lưới tương trợ, thị trường, chia sẻ các giá trị chung). Sự gần gũi này làm giảm chi phí trao đổi (vận tải, tiếp xúc thông tin, tiếp xúc với nhà cung ứng hoặc tiêu thụ), giảm rủi ro trong kinh doanh, dễ dàng thu hút vốn kể cả vốn con người nhờ các hình thức đa dạng cả chính thức và phi chính thức. Điều này làm cho các doanh nghiệp có môi trường thuận lợi trong trao đổi, đầu tư, tạo việc làm, sử dụng nguồn lao động hiệu quả và tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường. Tiếp theo, Schmizt (1992) đã tiếp tục nghiên cứu và cho rằng các cụm công nghiệp như là một nhóm các nhà công nghiệp của cùng một lĩnh vực hoạt động trong cùng một vùng lãnh thổ nào đó. Nhờ việc tập trung các doanh nghiệp trên một lãnh thổ đã tạo ra quy mô thị trường lớn hơn và sẽ có điều kiện phát triển năng động khi được sự hỗ trợ của Nhà nước. Trong một nghiên cứu cũng của Schmizt (1998) về các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Java-Inđônêxia, đã khái quát hai loại cụm “năng động” và “ngủ đông”. Cụm ngủ đông chủ yếu sản xuất các sản phẩm giá trị thấp cho thị trường nội địa, có ít sự hiệp tác vì các doanh nghiệp hoạt động độc lập. Ngược lại, cụm năng động tạo được nhiều mối liên kết thị trường, ngoài thị trường nội địa và khu vực, nên có động cơ đầu tư đổi mới công nghệ để tiếp cận thị trường mới. Như vậy, đối với các cụm ngủ đông, việc đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật hầu như không phát huy tác dụng do không có động lực bắt nguồn từ thị trường thúc đẩy. Trên cơ sở nghiên cứu các lý thuyết về phát triển, nhiều nước đang phát triển đã đề xuất mô hình phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ở nông thôn Trung Quốc, từ năm 1978 đã xuất hiện mô hình công- thương nghiệp- xây dựng, gọi là xí nghiệp hương trấn do nông dân lập nên với sự giúp đỡ của Nhà nước, sử dụng vốn tích luỹ của người dân để sản xuất kinh doanh, do người dân tự quản và hoạt động theo cơ chế thị trường. Gần đây ở Trung Quốc, một số địa phương lại có những cách làm độc đáo như ở Thượng Hải có phong trào “mỗi phố một sản phẩm”; ở Whusan có phong trào “ mỗi làng một kho báu” để khuyến khích phát triển công nghiệp và đô thị hoá nông thôn. Ở Nhật Bản có chủ trương đưa các xí nghiệp vừa và nhỏ phân tán về nông thôn, khuyến khích phát triển công nghiệp gia đình nông thôn. Bố trí sản xuất công nghiệp thành ba cấp: cấp thứ nhất là các xí nghiệp lớn ở đô thị còn gọi là các xí nghiệp mẹ; cấp thứ hai gồm các xí nghiệp nhỏ và vừa ở các xã, thị trấn ở các vùng nông thôn và cấp thứ ba là các cơ sở công nghiệp gia đình trong nông thôn. Các xí nghiệp ở ba cấp này không cạnh tranh nhau mà có quan hệ hợp tác, phân công trong việc sản xuất sản phẩm. Trong đó, các xí nghiệp nhỏ và vừa, các cơ sở công nghiệp gia đình sản xuất các đồ gia dụng, gia công các chi tiết hoặc cụm chi tiết, lắp ráp theo yêu cầu đặt hàng từ các xí nghiệp lớn, chế biến hoặc 12
  14. sơ chế các loại nông sản. Để phát triển các sản phẩm đặc trưng của mỗi vùng, năm 1974 Nghị viện Nhật Bản đã ban hành Luật phát triển nghề thủ công truyền thống. Năm 1979, một nhóm nông dân ở thị trấn Oyama thuộc quận Oita có phong trào “mỗi làng một sản phẩm”(viết tắt là OVOP) và sau 5 năm đã có 20 địa phương làm theo với các phong trào tương tự như: “sản phẩm của làng”, “chương trình làm sống lại địa phương”. Kết quả là một số sản phẩm truyền thống của địa phương, điển hình như của Oita, đã trở nên nổi tiếng ở Nhật Bản cũng như ở nhiều nước trên thế giới. Theo đánh giá của tổ chức năng suất Châu Á, có 3 nguyên tắc cơ bản để phát triển phong trào OVOP: hành động địa phương nhưng suy nghĩ toàn cầu; tự tin sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực. Mỗi địa phương, tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mình, lựa chọn ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của địa phương để phát triển. Yếu tố thành công chủ yếu của phong trào là việc nhận biết những nguồn lực chưa được sử dụng tại địa phương trước khi vận dụng nguồn lực một cách sáng tạo để cung cấp trên thị trường. Ở Thái Lan, bắt đầu từ năm 1999 có phong trào “mỗi làng một sản phẩm” (one tambon, one product). Trong phong trào này, Chính phủ hỗ trợ để mỗi làng làm ra một sản phẩm tiêu biểu, mang đặc trưng riêng và có chất lượng. Ở Hàn Quốc có mô hình xí nghiệp nhỏ và vừa, đáng chú ý là mô hình Seamaul Undong (xí nghiệp cộng đồng mới) nhằm đưa một số xí nghiệp công nghiệp từ các thành phố lớn như Seoul và Pusan về các vùng nông thôn. Các xí nghiệp này được ưu tiên cung cấp điện, nước, hạ tầng giao thông cũng như các hỗ trợ khác từ Hiệp hội phát triển công nghiệp vừa và nhỏ. Ở đảo Đài Loan, Nhà nước khuyến khích lập các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nhẹ (như dệt, may, đồ chơi trẻ em, chế biến nông sản thực phẩm ) phân tán ở các huyện lỵ, thị trấn rải rác trong các vùng nông thôn và gần nguồn nguyên liệu. Cùng với quá trình hình thành và phát triển sản xuất, mà trước hết là sản xuất công nghiệp trong nông thôn, sẽ kéo theo quá trình đô thị hoá nông thôn. Nghĩa là, trước hết có sự tập trung sản xuất dẫn tới tập trung các hoạt động dịch vụ và tập trung lao động, dân cư. Với sự trợ giúp của Nhà nước, quá trình đô thị hoá nông thôn sẽ được thực hiện một cách bền vững và hiệu quả. 1.2. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN PHÁT TRỂN NÔNG THÔN Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, nông thôn Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển to lớn; bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn, nhất là những vùng nông thôn ven các đô thị, các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung đã có diện mạo hoàn toàn mới; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao rõ rệt. Bước sang giai đoạn phát triển mới, trong điều kiện đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, để nông thôn nước ta tiếp tục phát triển bền vững với tốc độ nhanh, cần quán triệt các nguyên tắc chủ yếu sau đây: 1.2.1. Phát triển tổng hợp và toàn diện đối với nông thôn Chúng ta coi nông thôn là một khu vực lãnh thổ có mối quan hệ biện chứng với phần lãnh thổ còn lại của đất nước và cũng có tính độc lập tương đối trong quá trình phát triển. Bằng cách tiếp cận nhu cầu phát triển thì ta thấy rằng tự bản thân nó, việc phát triển nông thôn đòi hỏi phải được phát triển một cách tổng hợp và toàn diện. Nhu cầu phát triển tông hợp và toàn diện nông thôn xuất phát từ yêu cầu khách quan là thoả mãn nhu cầu phát triển toàn diện con người sống ở nông thôn. 13
  15. Sự phát triển tổng hợp và toàn diện nông thôn có hai khía cạnh. Trước hết, đó là kết quả của sự phát triển phải đạt được một cách tổng hợp và toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, văn hoá; sự tiến bộ cả về vật chất và tinh thần; sự thịnh vượng nhưng vẫn giữ vững dân chủ, văn minh và bình đẳng xã hội. Vì vậy, việc phát triển nông thôn đòi hỏi đồng thời phát triển cả kinh tế lẫn các lĩnh vực văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh. Phát triển nền kinh tế nông thôn cần chú ý cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; phát triển hệ thống thị trường đồng bộ; phát triển nguồn vốn con người (giáo dục, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ ) và giải quyết việc làm. Khía cạnh thứ hai là phải huy động và sử dụng một cách tổng hợp và toàn diện các yếu tố, các lực lượng bên trong và bên ngoài nông thôn cho phát triển nông thôn. Nghĩa là, sự phát triển nông thôn bền vững đòi hỏi phải kết hợp hài hoà sức mạnh về sự trợ giúp của Nhà nước và sự nỗ lực của người dân và toàn thể cộng đồng nông thôn. 1.2.2. Coi trọng xây dựng và hoàn thiện các thể chế. Bằng phương pháp tiếp cận hệ thống để phân tích hệ thống nông thôn, chúng ta thấy hệ thống này là một hệ thống tổng hợp của các hệ thống con tác động lẫn nhau một cách phức tạp để phát triển. Trong hệ thống kinh tế nông thôn lại bao gồm nhiều loại hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp với những thể chế phù hợp.(Theo Từ điển tiếng Việt năm 1996, thể chế là toàn bộ cơ cấu xã hội do luật pháp tạo nên. Cũng có thể hiểu một cách khái quát thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo). Trong hệ thống xã hội nông thôn cũng bao gồm nhiều hoạt động, nhưng để đảm bảo phát triển bền vững thì yếu tố quan trọng nhất là việc xây dựng các thể chế của ba khu vực: Nhà nước; Thị trường và các tổ chức xã hội ở nông thôn. - Thể chế Nhà nước: Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nên cần đổi mới và hoàn thiện thể chế Nhà nước. Hướng cơ bản đổi mới và hoàn thiện là thu hẹp các rào cản và tăng cường các hoạt động hỗ trợ bằng chính sách cho phát triển. Con đường cơ bản để thực hiện là phi tập trung hoá (chuyển giao một số chức năng của Nhà nước như khuyến nông, thông tin, tư vấn hỗ trợ cho các tổ chức dân sự và tư nhân);Thể chế hoá quyền của người dân trong phát triển nông thôn (tôn trọng quyền ra quyết đinh, hành động tập thể của họ trong các vấn đề phát triển, tôn trọng dân chủ, thể chế hoá vai trò về cả sở hữu và hoạt động vì mục tiêu phát triển nông thôn của các tổ chức trong công đồng làng xã). Các hoạt động hỗ trợ cho phát triển nông thôn, về nguyên tắc Nhà nước tăng cường các loại hỗ trợ phù hợp quy định đối với thành viên của WTO. - Thể chế thị trường: Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế được Đảng ta khởi xướng từ năm 1986, sự vận hành phát triển của nông nghiệp và nông thôn nước ta dần chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Xét về bản chất, đây là quá trình thay đổi thể chế kinh tế theo hướng giảm dần vai trò của Nhà nước và tăng dần vai trò của thị trường trong quá trình phát triển. Yêu cầu cơ bản của quá trình này là từng bước hình thành và phát triển được một hệ thống thị trường đồng bộ trong nông thôn để thay thế Nhà nước về cung ứng một số dịch vụ cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Hệ thống thị trường đồng bộ trong nông thôn bao gồm các thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, khoa học công nghệ, ) và thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành kinh tế nông thôn, cũng như thị trường dịch 14
  16. vụ cho phát triển các lĩnh vực khác. Dưới góc độ nghiên cứu lý thuyết về phát triển thị trường nông thôn, các nhà kinh tế đã đi theo hai hướng: Nghiên cứu ngành hàng nông sản và nghiên cứu chuỗi giá trị. Xây dựng và phát triển các ngành hàng nông sản với sự tham gia của các tác nhân kinh tế nắm giữ những chức năng kinh doanh khác nhau từ sản xuất nông sản thô trên đồng ruộng đến tận bàn ăn của người tiêu dùng là hướng cơ bản xây dựng hệ thống thị trường bền vững cho phát triển nông nghiệp và nông thôn ở nước ta. - Thể chế các tổ chức xã hội: Quá trình đổi mới cũng là quá trình chuyển biến sâu sắc và toàn diện thể chế xã hội trong nông thôn Việt Nam. Trong kinh tế, điểm khởi đầu là thực hiện khoán hộ theo tinh thần Chỉ thị 100/CT của Ban bí thư năm 1981, tiếp đến là việc thừa nhận hộ là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn theo tinh thần Nghị quyết 10 Trung ương Đảng khoá VI năm 1988 và đến nay là Nghị quyết của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại năm 2000. Việc chuyển biến từng bước từ nền tảng sở hữu duy nhất là sở hữu công cộng dưới hai hình thức toàn dân và tập thể sang nền tảng sở hữu đa dạng của nhiều thành phần kinh tế đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển những loại hình doanh nhân mới trong nông thôn gồm: kinh tế hộ, kinh tế trang trại, doanh nghiệp tư nhân và các loại hình tổ chức đa dạng khác của nông dân. Đồng thời, nhiều yếu tố văn hoá truyền thống tốt đẹp của nông thôn cũng được khôi phục và phát huy thông qua phong trào xây dựng nông thôn mới, xây dựng làng xã văn hoá. Người dân nông thôn tham gia vào các hình thức tổ chức đa dạng khác ngoài (hoặc không thuộc) Nhà nước và thị trường chính là các tổ chức xã hội. Như vậy, các tổ chức xã hội là nơi mà mọi người cùng hành động nhằm theo đuổi mục tiêu chung, không vì động cơ lợi nhuận hay quyền lực chính trị; là một mảng các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thích chung. Quá trình hình thành và phát triển các tổ chức xã hội mang các đặc điểm cơ bản sau đây: - Tự nguyện: Các thành viên có thể tham gia hoặc không tham gia vào tổ chức, phong trào; song không có sự ép buộc hay cưỡng bức hành chính. Đây là đặc điểm để phân biệt sự khác nhau giữa tổ chức xã hội và Nhà nước. Các tổ chức xã hội tồn tại trên cơ sở tự nguyện của người dân. - Tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Các tổ chức xã hội hoạt động độc lập với Nhà nước, trong khuôn khổ pháp luật, nhưng không chịu sự chi phối hay can thiệp của các tổ chức khác, kể cả Nhà nước, cho dù tổ chức xã hội đó có nhận tiền tài trợ của Nhà nước hay không. - Không vì mục tiêu lợi nhuận: Các tổ chức xã hội hoạt động thường có thể thu lợi nhuận, nhưng không chia cho các cá nhân mà đem phần lợi nhuận đó để phục vụ cho các mục tiêu chung, mục tiêu xã hội. Tức là các tổ chức này hoạt động phi lợi nhuận khi chúng không tham gia vào các hoạt động kinh doanh lợi nhuận; và không vì mục tiêu lợi nhuận khi chúng có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh để có lợi nhuận. Hơn nữa, lợi nhuận kiếm được không phải để phục vụ cho cá nhân mà phục vụ xã hội. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt sự khác nhau giữa tổ chức xã hội với doanh nghiệp. - Nguồn tài chính: Các tổ chức xã hội tồn tại và hoạt động do (hoặc có thể có) sự hỗ trợ của Nhà nước, hội phí, thu nhập từ các hoạt động kinh doanh và sự đóng góp của cá nhân. Ở một số nước trên thế giới, Nhà nước có đóng góp cho các tổ chức xã hội từ nguồn ngân sách, nhưng vẫn duy trì và tôn trọng các đặc điểm có tính nguyên tắc của các tổ chức xã hội. 15
  17. 1.2.3. Đa dạng hoá sinh kế bền vững của người dân: Thực tiễn phát triển nông thôn các nước trên thế giới trong điều kiện ngày nay cho thấy có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn tới xu hướng tất yếu phải tạo dựng sinh kế bền vững của người dân. Nguyên nhân cơ bản nhất thường được nói tới là sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên (thiên tai) và rủi ro của thị trường nông sản. Để giảm thiểu rủi ro, người nông dân thường có xu hướng đa dạng hoá sinh kế của họ. - Sinh kế của người dân được hiểu là toàn bộ các khả năng, các tài sản vật chất và xã hội, các hoạt động cần thiết cho việc mưu sinh. Để tồn tại và phát triển được, mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình đều có sinh kế cụ thể. Sinh kế mang lại cho mỗi cá nhân hay hộ gia đình những điều kiện để phát triển, mà trước hết là điều kiện về thu nhập. - Sinh kế bền vững là một sinh kế tương đối ổn định theo thời gian, ít hoặc hầu như không bị ảnh hưởng bởi tác động của các yếu tố tiêu cực trong quá trình phát triển. Nói cách khác, sinh kế bền vững ít bị ảnh hưởng bởi các cú sốc như: thiên tai; rủi ro bệnh tật,tai nạn; rủi ro do biến động của thị trường hay các rủi ro khác. -Sinh kế bền vừng có bốn nội dung cơ bản liên quan đến bốn khía cạnh: Kinh tế, thể chế, xã hội và môi trường. Về kinh tế, sinh kế bền vững đòi hỏi đa dạng hoá các hoạt động kinh tế bao gồm các hoạt động nông nghiệp, phi nông nghiệp và dịch vụ. Xu thế đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đã diễn ra ở hầu hết các vùng nông thôn nước ta trong những năm qua. Chỉ tính trong thời gian hai năm, từ năm 2002 đến năm 2004, cơ cấu thu nhập của hộ nông thôn đã có sự thay đổi đáng kể với những mức độ khác nhau ở các vùng nông thôn khác nhau. Xu hướng chung là thu nhập từ các ngành nghề đều tăng, tăng ít nhất là thu nhập từ nông nghiệp (tăng 2,8 triệu đồng), tăng nhiều nhất là thu nhập từ các ngành nghề khác (tăng 6,5 triệu đồng) làm cho cơ cấu thu nhập của hộ nông thôn thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng thu từ nông lâm ngư nghiệp, tăng tỷ trọng thu từ tiền công, tiền lương do quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Thu nhập từ tiền công, tiền lương có nơi tăng đến 83% như ở vùng núi Tây Bắc. Cơ cấu thu nhập của hộ nông thôn thay đổi phản ánh xu thế đa dạng hoá hoạt động kinh tế của hộ và chuyến dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Về thể chế của sinh kế bền vững: Yêu cầu cơ bản là mọi quan hệ kinh tế giữa các doanh nhân hoạt động trong nông thôn đều được thể chế hoá thành pháp luật. Do vậy, cần không ngừng nâng cao năng lực xây dựng pháp luật để nâng cao chất lượng của các văn bản luật; nâng cao năng lực triển khai và giám sát thực thi pháp luật; năng lực xử lý nghiêm minh đối với những vi phạm pháp luật của bộ máy quản lý nhà nước các cấp ở nông thôn cũng như tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Theo quan niệm truyền thống, nguồn lực cho phát triển bao gồm đất đai, nguồn nhân lực, nguồn vốn và hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển ở những trình độ nhất định. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nguồn lực cho phát triển ngoài các yếu tố nêu trên còn bao gồm yếu tố mới được gọi là “vốn xã hội”. Vốn xã hội là tổng thể các mối quan hệ xã hội và kinh tế của một doanh nhân, một ngành kinh tế hay một quốc gia tạo nên điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Nói cách khác, theo quan niệm hiện đại, các mối quan hệ hay “quan hệ” được coi là nguồn lực. Để có được loại nguồn lực mới này, ý thức tôn trọng kỷ cương luật pháp, ý thức trách nhiệm đối với xã hội của từng doanh nhân kinh doanh trong các lĩnh vực ở nông thôn 16
  18. có vai trò quyết định; ví dụ như ý thức thực hiện hợp đồng của các bên trong “ liên kết bốn nhà”, ý thức trách nhiệm sản xuất và cung ứng sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh cho nhu cầu xã hội Về xã hội, yêu cầu cơ bản của sinh kế bền vững là đảm bảo công ăn việc làm; đảm bảo sự bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội phát triển, kể cả cơ hội tiếp cận các nguồn lực để phát triển; đảm bảo trật tự an toàn xã hội; chống bóc lột, han chế phân hoá giàu nghèo; phòng chống tệ nạn xã hội, đảm bảo giữ vững an ninh nông thôn Về môi trường, sinh kế bền vững đòi hỏi sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng các hoạt động kinh tế không làm ảnh hưởng, ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng hoặc huỷ hoại cảnh quan nông thôn. Sinh kế bền vững về mặt môi trường sinh thái sẽ đáp ứng yêu cầu phát triển của thế hệ hôm nay và đảm bảo cho yêu cầu phát triển của các thế hệ mai sau. 1.2.4. Từ dưới lên, do cộng đồng, dựa vào cộng đồng Đây là nguyên tắc có tính chất chỉ đạo về mặt tư tưởng trong quản lý phát triển nông thôn. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây, mọi ý đồ về phát triển nông thôn đều xuất phát từ phía Nhà nước, tức là từ trên xuống và từ bên ngoài nông thôn. Cơ chế chủ yếu để thực hiện là việc giao - nhận các nhiệm vụ kế hoạch phát triển giữa bên giao là Nhà nước và bên nhận, thực thi nhiệm vụ là người dân và các cộng đồng nông thôn. Trong cơ chế mới, người ta nhấn mạnh vai trò của người dân và của cộng đồng nông thôn. Nghĩa là, sự phát triển nông thôn phải theo nguyên tắc từ dưới lên, do cộng đồng và dựa vào chính bản thân cộng đồng nông thôn. Yêu cầu cơ bản của nguyên tắc này trong phát triển nông thôn là: - Phải tạo dựng môi trường thể chế hoàn chỉnh và phù hợp. Các yếu tố cơ bản của môi trường thể chế này gồm có các luật lệ, các quy định hay quy ước, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với khu vực nông nghiệp nông thôn. - Xây dựng, củng cố các tổ chức cộng đồng. Việc xây dựng và củng cố này bao gồm cả việc xây dựng mới các tổ chức cộng đồng còn thiếu, nhất là các dạng hội, hiệp hội và thường xuyên tăng cường năng lực hoạt động của từng tổ chức cộng đồng để phát huy tối đa sức mạnh của mỗi tổ chức đóng góp vào phát triển nông thôn. - Tăng cường năng lực của các tác nhân. Các tác nhân quan trọng nhất trong nông thôn là các loại hình kinh tế hộ trong nông nghiêp, công nghiệp, dịch vụ; kinh tế trang trại; hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng khác trong nông thôn. Vai trò của Nhà nước trong việc tăng cường năng lực cho các tác nhân này là ở chỗ nắm bắt đúng những điểm yếu và thiếu của mỗi loại tác nhân so với yêu cầu hoạt động kinh doanh có hiệu quả, để từ đó có chính sách hỗ trợ phù hợp theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của đất nước. - Khuyến khích sáng tạo của người dân. Để phát triển cần phải sáng tạo. Để đảm bảo yêu cầu làm sao cho việc phát triển nông thôn là công việc của dân, do dân và dựa vào nhân dân thì cần khuyến khích tối đa mọi ý tưởng sáng tạo của người dân theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nền tảng cơ bản để thực hiện là cơ chế dân chủ. Thực hiện triệt để và không hình thức quy chế dân chủ ở cơ sở là phương thức đảm bảo chắc chắn nhất khuyến khích sáng tạo của người dân để phát triển nông thôn bền vững với tốc độ nhanh và hiệu quả cao. 17
  19. 1.3. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM 1.3.1.Khái quát tình hình phát triển nông thôn mới ở Việt Nam Nông thôn và phát triển nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng và ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước ở mọi giai đoạn cách mạng. Trong những năm gần đây đã có nhiều chủ trương chính sách ban hành nhằm hỗ trợ phát triển các vùng nông thôn trên cả nước. Những chính sách này đã có những tác động tích cực làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế xã hội của nhiều vùng nông thôn nước ta, nhưng chắc chắn cũng còn những hạn chế, những yếu điểm. Việc đánh giá những kết quả và hạn chế của mô hình phát triển nông thôn mới những năm qua sẽ là căn cứ chủ yếu để xây dựng mô hình phát triển nông thôn mới trong tương lai. Năm 2001, Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cùng với các Bộ, Ngành và các địa phương đã triển khai xây dựng mô hình thí điểm “Phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác hoá, dân chủ hoá”. Mô hình thí điểm này đã được triển khai ở 14 xã điểm của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (năm 2004 tăng lên 18 xã điểm) và khoảng 200 xã điểm của các địa phương. Sau hơn 3 năm thực hiện, chương trình phát triển nông thôn cấp xã đã thực hiện có kết quả ở các xã điểm về một số hoạt động như: đào tạo cán bộ; triển khai quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp xã; lồng ghép các chương trình khuyến nông , nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn ở 18 xã điểm. Bên cạnh đó, nhiều chương trình, dự án hỗ trợ phát triển nông thôn cũng đồng thời triển khai, tập trung chủ yếu vào hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp như: Chương trình giống; Chương trình khoa học công nghệ; Chương trình khuyến nông, khuyến công; Chương trình sản xuất nông sản xuất khẩu Một số chương trình, dự án mang tính chất phát triển nông thôn như: Dự án ngành cơ sở hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm); Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi; Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm nghèo và việc làm Việc triển khai và kết quả đạt được của các chương trình, dự án nêu trên đã góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn của vùng có dự án; điều kiện về ăn, ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khoẻ người dân được cải thiện đáng kể; đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao. Tuy vậy, Chương trình phát triển nông thôn cấp xã năm 2001 và các Chương trình, dự án phát triển nêu trên đã bộc lộ một số nhược điểm, chủ yếu là: Thứ nhất, giới hạn phạm vi không gian của địa bàn triển khai xây dựng nông thôn mới là địa bàn xã. Với quy mô cấp xã, vì nhiều lý do khách quan (như địa bàn là quá rộng nên người dân mỗi thôn ít quan tâm đến các hoạt động phát triển chung của xã; nhu cầu phát triển mỗi thôn có khác nhau nên nhiều khi khó dung hoà khi có những “xung đột” về trách nhiệm và quyền lợi) và lý do chủ quan (sự cục bộ của một bộ phận không nhỏ cán bộ chính quyền địa phương và của người dân từng thôn làng). Tình hình trên dẫn tới nảy sinh những cản trở trong thực hiện chương trình. Thứ hai, mô hình phát triển nông thôn mới cấp xã được xây dưng theo cách tiếp cận truyền thống là “tiếp cận nhu cầu”, tức là dựa vào nhu cầu, dựa trên cơ sở bù đắp sự thiếu hụt. Theo cách tiếp cận này, lô gích tự nhiên trong cách thức thực hiện là Nhà nước hình dung rằng một xã (hay vùng nông thôn) đang thiếu một nhu cầu nào đó (nước sạch chẳng 18
  20. hạn), Nhà nước sẽ hỗ trợ xây dựng công trình nước sạch từ nguồn vốn ngân sách rồi giao cho người dân sử dụng. Với phương pháp tiếp cận như vậy, mô hình phát triển nông thôn cấp xã đã nảy sinh tư tưởng cho cả cấp hỗ trợ và cấp thực hiện trong bộ máy quản lý cũng như người dân coi đây là các dự án đầu tư của Nhà nước, là công trình của Nhà nước cho; nên dự án lập xong thì người dân và cán bộ liên quan đều chờ đợi cơ hội đầu tư từ bên ngoài. Do vậy, việc huy động đóng góp từ cộng đồng và người dân đạt kết quả rất thấp, nhiều nơi chỉ đạt khoảng 10% tổng vốn đầu tư. Thậm chí có những công trình xây dựng xong, bàn giao cho người dân sử dụng sau một thời gian có nhu cầu sửa chữa và bảo dưỡng, nhiều người dân và một số cán bộ cơ sở lại trông chờ Nhà nước cấp tiền cho việc sửa chữa, bảo dưỡng nói trên. Như vậy, việc xây dựng cộng đồng nông thôn bền vững về mặt tổ chức nhằm phát huy các hỗ trợ cho người dân thực hiện các biện pháp tập thể để cải thiện điều kiện sản xuất và sinh hoạt hầu như rất hạn chế; chưa tạo ra được cơ chế để gắn kết các nỗ lực phát triển kinh tế xã hội tạo thành sức mạnh tổng hợp ở cấp thôn, bản theo hình thức cộng đồng dân cư bền vững. Nhược điểm lớn nhất và dễ thấy nhất là vai trò chủ đạo của người dân và của cộng đồng trong phát triển nông thôn chưa được phát huy. Thứ ba, đặc điểm chung nhất của các chương trình, dự án phát triển nông thôn đều nhấn mạnh vào phát triển kinh tế và đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa quan tâm thoả đáng tới đời sống văn hoá, tinh thần của người dân. Do sự lạc hậu về đời sống văn hoá, sự phát triển không tương ứng của đời sống tinh thần đã làm hạn chế các thành quả đầu tư (ý thức kém trong việc bảo quản, sử dụng công trình) cũng như tạo nên sự phát triển thiếu tính toàn diện của nông thôn. Thứ tư, từ những hạn chế nêu trên dẫn đến kết quả là sự phát triển chưa bền vững của nông thôn trong những năm qua. Tình trạng phổ biến ở các xã có dự án là sau khi kết thúc dự án, các hoạt động hầu như ngừng trệ. Nhìn khái quát toàn bộ khu vực nông thôn hiện nay, tình trạng thu nhập thấp và thiếu việc làm là khá phổ biến; các hoạt động kinh tế và thu nhập chưa được đa dạng hoá do sản xuất phi nông nghiệp và các hoạt động dịch vụ phát triển chậm; người dân nông thôn vẫn rất dễ bị tổn thương bởi những biến động kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới sau khi nước ta là thành viên chính thức của WTO từ cuối năm 2006. 1.3.2. Nội dung xây dựng nông thôn mới ở nước ta. Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thực hiện “Phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác hoá, dân chủ hoá” được thực hiện từ năm 2001 đến nay, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 2614/QD/BNN- HTX ngày 08/9/2006 về việc phê duyệt đề án thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới. Thời gian thực hiện thí điểm từ năm 2007 đến hết năm 2008 để tổng kết và nhân lên diện rộng từ năm 2009. Mô hình thí điểm xây dựng nông thôn mới theo tinh thần Quyết định trên có những nội dung chủ yếu sau: a. Nguyên tắc thực hiện: - Mô hình xây dựng nông thôn mới được thực hiện theo phương châm dựa vào nội lực và dựa vào cộng đồng địa phương. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần làm động lực phát huy sự đóng góp của người dân và của cộng đồng. 19
  21. - Các hoạt động cụ thể của từng mô hình sẽ do chính người dân của thôn, bản tự đề xuất và thiết kế trên cơ sở bàn bạc dân chủ, công khai và tự quyết định thông qua cộng đồng. Ban quản lý dự án, chính quyền các cấp chỉ đóng vai trò tư vấn hay hướng dẫn về kỹ thật; tổng hợp các đề xuất, kiến nghị; phê duyệt kế hoạch phát triển; tạo các điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện vai trò làm chủ thông qua cộng đồng. - Các mô hình thí điểm thực hiện phải đảm bảo phát triển nông thôn bền vững, hài hoà với môi trường, bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương. b. Địa bàn thực hiện: Địa bàn thực hiện mô hình là cộng đồng nông thôn cấp thôn, bản, xóm, ấp (gọi chung là thôn). Đơn vị quản lý dự án ở cơ sở là Xã. Việc thực hiện mô hình xây dựng nông thôn mới ở địa bàn cấp thôn có ưu điểm cơ bản là: Thôn có quy mô nhỏ, trong đó mọi hộ dân có quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau tạo nên thuận lợi cho họ cùng tham gia, bàn bạc, xây dựng kế hoạch phát triển cộng đồng và cùng nhau huy động các nguồn lực để thực hiện. Hơn nữa cho đến nay, các Chương trình, dự án đầu tư của Trung ương hầu như mới chỉ vươn tới cấp xã, chưa đến được cấp thôn và chưa thể hiện được tác động trực tiếp tới đời sống của người dân và cộng đồng. Tuy vậy, do thôn không phải là một cấp hành chính trong bộ máy quản lý nhà nước, không có con dấu, nên hạn chế cơ bản của việc lấy thôn làm địa bàn thực hiện mô hình là không mở được tài khoản để tiếp nhận ngân sách Nhà nước. Để khắc phục hạn chế này, cộng đồng thôn sẽ thành lập một Ban phát triển thôn có sự tham gia của đại diện chính quyền cấp xã (thường là phó chủ tịch UBND) và đặt dưới sự giám sát của UBND xã. Các căn cứ để thôn được lựa chọn xây dựng mô hình thí điểm là: - Không thuộc xã, thôn thuộc Chương trình 135 giai đoạn II và chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006- 2010; -Thôn có trình độ sản xuất ở mức trung bình khá và đại diện cho tiểu vùng sinh thái ở địa phương; - Nhân dân nhất trí cao và hăng hái , tự nguyện xây dựng mô hình; - Có cam kết của người dân, cộng đồng và chính quyền về tỷ lệ nguồn vốn đóng góp do mô hình đặt ra đối với từng dự án thành phần; được sự đồng ý và có đề nghị của Xã, Huyện, Tỉnh và được các cấp chính quyền tập trung chỉ đao, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện; - Có đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình với công tác của thôn; - Có các tổ chức xã hội trong thôn hoạt động tích cực, tận tụy, sâu sát với đời sống của người dân trong thôn. c. Các hoạt động chủ yếu thực hiện xây dựng nông thôn mới: Việc xây dựng mô hình cụ thể sẽ do người dân và cộng đồng thôn quyết định tuỳ theo điều kiện cụ thể và thế mạnh của mỗi nơi. Để định hướng cho các hoạt động chủ yếu thực hiện xây dựng nông thôn mới, Quyết định 2614/ BNN- HTX đã xác định các hoạt động theo 4 nhóm (còn gọi là 4 hợp phần của mô hình thí điểm), cụ thể như trình bày sau đây: Thứ nhất, đào tạo nâng cao năng lực phát triển cộng đồng. - Mục đích: Nâng cao năng lực về phát triển nông thôn cho cán bộ cơ sở, cán bộ phát triển nông thôn và năng lực phát triển cộng đồng của người dân thông qua tạo điều kiện cho cộng đồng tự thiết kế, triển khai, theo dõi và giám sát các dự án hỗ trợ phát triển một cách hiệu quả. 20
  22. - Nội dung: + Đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở và cán bộ phát triển nông thôn. Đối tượng đào tạo để tăng cường năng lực là cán bộ chủ chốt của cơ sở tại xã, thôn, cán bộ hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội ở nông thôn. Các năng lực chủ yếu cần được nâng cao gồm các kiến thức và kỹ năng về : Lập, quản lý, thực hiện dự án phát triển nông thôn; Phát hiện nhu cầu của công đồng thôn; Phương pháp huy động sự tham gia của người dân và của cộng đồng; Phương pháp huy động nguồn lực ở cộng đồng; Theo dõi, giám sát việc thực hiện các hoạt động của dự án; Thu thập thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu về phát triển nông thôn; Vận hành và bảo dưỡng các công trình quy mô nhỏ bằng việc thiết lập các tổ, nhóm quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng công trình; Quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; Nội dung và phương pháp xây dựng thôn, xã văn hoá. + Nâng cao năng lực cộng đồng. Để nâng cao năng lực cộng đồng nông thôn, cần thực hiện các nội dung chủ yếu là: Bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn về cộng đồng cho người dân nông thôn để phát triển năng lực thể chế của cộng đồng; Hỗ trợ cộng đồng nâng cao thể chế quản lý, năng lực tự quản cộng đồng như xây dựng các quy ước, nội quy về việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, việc xây dựng và thực hiện hương ước; Phát huy vai trò của trưởng thôn, trưởng dòng họ, các tổ chức tôn giáo tại địa phương; Xây dựng phương pháp và thực hiện hỗ trợ người dân nông thôn tổ chức các cuộc họp cộng đồng để cùng nhau bàn bạc và thực hiện. Thứ hai, nâng cấp điều kiện sống cho người dân nông thôn. - Mục đích: Hỗ trợ người dân nông thôn phát huy nội lực tự cải thiện điều kiện ở của thôn và của chính gia đình mình. Trên cơ sở đó người dân gắn bó với cộng đồng nơi họ sinh sống và có trách nhiệm tham gia vào các hoạt động cộng đồng. - Nội dung: + Quy hoạch lại các khu dân cư nông thôn: Trên cơ sở đào tạo để nâng cao năng lực cộng đồng, mỗi thôn tự xây dựng một bản kế hoạch triển khai qui hoạch của thôn về các khu dân cư gồm nhà ở, các công trình phúc lợi công cộng phù hợp với điều kiện của địa phương, đảm bảo vệ sinh môi trường và phù hợp với quy hoạch chung của Xã, Huyện, Tỉnh. Bản quy hoạch phát triển của thôn cần được trình Xã phê duyệt trước khi được xem xét phê duyệt và quyết định hỗ trợ. + Cải tạo điều kiện sinh hoạt của các khu dân cư: Trên quy hoạch các khu dân cư, thông qua bàn bạc trong cộng đồng mà người dân đưa ra quyết định lựa chọn một hoặc một số việc để triển khai trong số các công việc như: đường làng; đường kết nối giữa các đường nội bộ làng; hệ thống tiêu thoát nước; hệ thống cấp nước đơn giản như bể nước chung chẳng hạn ; phục hồi các công trình văn hoá-lịch sử; sửa chữa, nâng cấp trạm y tế, phòng học mầm non, nhà văn hoá thôn; làm sân thể thao hay xây dựng cổng làng + Cải thiện nhà ở của các hộ nông dân: Phát động và vận động thực hiện phong trào xoá nhà tạm, nhà tranh tre nứa lá; Hỗ trợ người dân xây dựng, cải tạo các công trình vệ sinh trong gia đình như bếp ăn, nhà tắm, nhà tiêu, hầm biogas cho khu chăn nuôi Thứ ba, hỗ trợ người dân phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, dịch vụ nông thôn để nâng cao thu nhập. 21
  23. - Mục đích: Hỗ trợ trực tiếp cho các hộ nông dân những kiến thức, kỹ năng về: Xây dựng kế hoạch; thực hiện tổ chức sản xuất và hoạt động dịch vụ hợp lý; áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng thu nhập bền vững. - Nội dung: + Hỗ trợ người dân để xác định cơ cấu sản xuất hợp lý, có hiệu quả. Cụ thể là: Lựa chọn và tập trung phát triển loại cây trồng, vật nuôi có lợi thế, có thị trường tiêu thụ, có thể tạo ra khối lượng hàng hoá lớn và đồng thời đa dạng hoá sản xuất trên cơ sở phát huy các nguồn lực của địa phương; Tổ chức cung ứng các dịch vụ sản xuất và đời sống như cung ứng giống, phân bón, dịch vụ tín dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật , cung cấp nước sạch cho sinh hoạt và nước cho sản xuất + Trang bị các kiến thức và kỹ năng cho người dân về: Ra quyết định sản xuất kinh doanh; xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp yêu cầu thị trường, điều kiện tự nhiên và lợi thế cạnh tranh của địa phương; Đánh giá, dự báo tác động của sản xuất và hoạt động dịch vụ nông thôn đến môi trường + Hỗ trợ việc xây dựng và tổ chức hoạt động của các tổ chức tự quản của người dân như tổ khuyến nông tự quản, nhóm tín dụng - tiết kiệm, nhóm nông dân cùng sở thích, nhóm sử dụng nước Tăng cường hoạt động của các hợp tác xã và các tổ hợp tác; Tăng cường thực hiện “liên kết 4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Thứ tư, mỗi làng một nghề. - Mục đích: Cộng đồng dân cư mỗi thôn tự xây dựng được dự án phát triển ngành nghề cụ thể với mục tiêu sát thực nhằm khôi phục hay tạo dựng và phát triển ít nhất một nghề sản xuất phi nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và hướng phát triển của địa phương. - Nội dung: + Đối với thôn chưa có nghề thì xây dựng dự án khôi phục nghề cũ (nếu có) hoặc cấy nghề mới. Chú trọng các nghề gắn với sản xuất và đời sống ở nông thôn. Đối với những thôn đã có nghề nhưng chưa đạt tiêu chí làng nghề thì trong số các nghề hiện có, chọn ra ít nhất một nghề được cho là đặc trưng của địa phương, có lợi thế nhất để lập kế hoạch phát triển dài hạn và tập trung sức phát triển như: ưu tiên nguồn lực; có chính sách ưu đãi thích hợp; củng cố và hiện đại hoá kỹ thuật truyền thống; xây dựng và quảng bá thương hiệu, tiếp thị; quan tâm vấn đề môi trường trong phát triển nghề + Nội dung phát triển các loại hình ngành nghề nông thôn: Đối với các ngành nghề mang bản sắc văn hoá, truyền thống dân tộc cần đa dạng hoá theo hai hướng phát triển để thích nghi với thị trường mới. Một là những sản phẩm dựa chủ yếu trên kỹ thuật truyền thống để phục vụ thị hiếu truyền thống như: sưu tầm, làm quà tặng, trưng bày ở gia đình hoặc cơ quan văn hoá, phục vụ sinh hoạt hội hè, tín ngưỡng, tôn giáo Hai là những sản phẩm phục vụ thị hiếu hiện đại như hội hoạ, điêu khắc tạo hình, với cách thể hiện hiện đại nhưng dựa trên nguyên liệu cổ truyền độc đáo, kỹ thuật công nghệ truyền thống. Đối với nghề chế biến nông sản, thực phẩm tại các hộ gia đình, cần tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh; cần tổ chức thành các hiệp hội để mở rộng nghề và đảm bảo phát triển bền vững. 22
  24. Đối với hoạt động dịch vụ nông thôn ở trong mỗi làng xã, cần nâng cao mức độ chuyên môn hoá các hoạt động dịch vụ cơ giới hoá sản xuất, vận chuyển; dịch vụ cung ứng vật tư gắn với tiêu thụ nông sản theo hợp đồng; sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị; sản xuất vật liệu và dịch vụ xây dựng; dịch vụ du lịch giải trí và các dịch vụ đa dạng khác tuỳ điều kiện cụ thể mỗi địa phương. 1.3.3. Tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam Để có căn cứ cho việc xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; cho việc chỉ đạo thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời làm căn cứ để kiểm tra, đánh giá công nhận Xã, Huyện, Tỉnh đạt nông thôn mới; Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 491 TTg ngày 16/4/2009 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Bộ tiêu chí có 19 tiêu chí, được phân thành 5 nhóm. Các nhóm đó là: - Nhóm tiêu chí về quy hoạch: có 1 tiêu chí; - Nhóm tiêu chí về hạ tầng kinh tế-xã hội: có 8 tiêu chí từ số 2-9; - Nhóm tiêu chí về kinh tế và tổ chức sản xuất: có 4 tiêu chí từ số 10-13; - Nhóm tiêu chí về văn hoá xã hội môi trường: có 4 tiêu chí từ 14-17; - Nhóm tiêu chí về hệ thống chính trị: có 2 tiêu chí 18 và 19. Các tiêu chí được đánh số thứ tự theo phân nhóm như trên, bao gồm: 1) Quy hoạch và thực hiện quy hoạch; 2) Giao thông; 3) Thuỷ lợi; 4) Điện; 5) Trường học; 6) Cơ sở vật chất văn hoá; 7) Chợ nông thôn; 8) Bưu điện; 9) Nhà ở dân cư; 10) Thu nhập bình quân đầu người/năm; 11) Tỷ lệ hộ nghèo; 12) Cơ cấu lao động; 13) Hình thức tổ chức sản xuất; 14) Giáo dục; 15) Y tế; 16) Văn hoá; 17) Môi trường; 18) Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và 19) An ninh trật tự xã hội. 23
  25. Mỗi tiêu chí đều được quy định mức cụ thể đối với từng xã để được công nhận Xã nông thôn mới. Ví dụ: về tiêu chí giao thông, một xã thuộc ĐBSH và ĐNB phải đạt 100% đường trục thôn, xóm được cứng hoá đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT; tiêu chí này đối với xã vùng BTB, DHNTB và TN là 70%, còn đối với xã vùng TDMNPB và ĐBSCL chỉ là 50%. v.v Bộ tiêu chí cũng quy định, tất cả các Xã nông thôn mới đều phải có hệ thống thuỷ lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh; có nhà văn hoá và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ VHTT&DL; có điểm phục vụ bưu chính viễn thông; có internet đến thôn; có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả và không có nhà tạm, dột nát. Để được công nhận là Huyện nông thôn mới, phải có 75% số xã trong Huyện đạt nông thôn mới. Để đạt Tỉnh nông thôn mới phải có 80% số Huyện nông thôn mới. 1.4. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu của môn học. Phát triển nông thôn có vai trò rất to lớn trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Tuy vậy, do nông thôn là khu vực rộng lớn của đất nước, bao gồm nhiều vùng khác nhau (đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển) có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội rất khác nhau nên phát triển nông thôn là vấn đề phức tạp và rộng lớn. Việc nghiên cứu những vấn đề về nông thôn và phát triển nông thôn, đòi hỏi phải nghiên cứu toàn diện các vấn đề kinh tế xã hội và văn hoá, trên cơ sở lý luận khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phát triển nông thôn trên thế giới và trong nước để vận dụng vào thực tiễn phát triển mỗi vùng nông thôn cụ thể ở mỗi địa phương của nước ta. Môn Kinh tế nông thôn là môn học lý thuyết cơ sở của chuyên ngành, có chức năng làm cầu nối giữa các môn học cơ bản và cơ sở của khối ngành Kinh tế với hệ thống các môn học chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Do vậy, điều kiện để tiếp thu có kết quả những kiến thức của môn học này là người học đã được trang bị những kiến thức của các môn hoc khác như: Kinh tế Việt Nam, Kinh tế vĩ mô, Kinh tế vi mô, Kinh tế phát triển và một số môn học chung khác của khối ngành kinh tế. Đối tượng của môn học Kinh tế nông thôn là những vấn đề có tính quy luật về kinh tế và tổ chức phát triển kinh tế - xã hội nông thôn bền vững trong điều kiện hội nhập hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của môn học chủ yếu là những vấn đề ở tầm vĩ mô của sự phát triển nông thôn, nhưng trong chừng mực có nghiên cứu những vấn đề ở tầm vi mô như xã, làng, thôn, bản và một số vấn đề gắn với các doanh nghiệp các hộ gia đình, nhưng không đi chi tiết mà chỉ những vấn đề khái quát nhằm phục vụ hay làm rõ những vấn đề vĩ mô của phát triển nông thôn. 1.4.2. Nội dung nghiên cứu môn học. Với đối tượng môn học được xác định một cách khái quát như trên, trong thực tiễn tuỳ theo mục đích phục vụ việc chỉ đạo hay quản lý phát triển nông thôn mà người ta sẽ lựa chọn để nghiên cứu theo những vấn đề chuyên sâu trong số các vấn đề chủ yếu thuộc nội dung của môn học, bao gồm: - Tổng quan về nông thôn trong mối quan hệ biện chứng của vấn đề “tam nông” để nhận rõ bản chất, đặc điểm của nông thôn; chỉ rõ vai trò và xu hướng có tính quy luật phát 24
  26. triển đô thị hoá nông thôn. Trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở những nước đang phát triển như nước ta hiện nay, việc xác định rõ và có căn cứ khoa học những quan điểm cơ bản, mô hình phù hợp là có ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn; - Nghiên cứu những vấn đề kinh tế của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; trong đó tập trung nghiên cứu nội dung, các nhân tố ảnh hưởng, chỉ rõ định hướng và tìm kiếm giải pháp khả thi cho việc chuyển dịch một cách có hiệu quả cơ cấu kinh tế nông thôn cả nước và ở từng vùng cụ thể; - Trên cơ sở vận dụng những kiến thức kinh tế học phát triển để nghiên cứu tính quy luật của sự phát triển các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn có tính đến các yếu tố đặc thù của mỗi vùng nông thôn điển hình trong cả nước để đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững; - Điều kiện cơ bản để phát triển nông thôn bền vững là hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ; được quản lý, sử dụng có hiệu quả và thường xuyên coi trọng việc bảo vệ môi trường sinh thái. Do vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về kinh tế và quản lý hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, quản lý tài chính và quản lý môi trường là những nội dung không thể thiếu được trong cơ cấu kiến thức của môn học; - Về hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với nông thôn, nội dung nghiên cứu chủ yếu là hệ thống tổ chức ở cấp cơ sở làng xã để thấy rõ vai trò của bộ máy quản lý nhà nước, của các tổ chức xã hội dân sự ở nông thôn trong phát triển bản thân các cộng đồng nông thôn ở nước ta. 1.4.3. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp khoa học chung được vận dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa học kinh tế, trong đó có môn học Kinh tế phát triển nông thôn. Việc quán triệt và vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử sẽ cho phép nghiên cứu những vấn đề phát triển nông thôn một cách khách quan từ thấp đến cao, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, trong sự thống nhất mâu thuẫn giữa các mặt đối lập: cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi khi nghiên cứu môn học Kinh tế nông thôn phải liên hệ chặt chẽ giữa lý luận với thực tế, thống nhất giữa lý luận với thực tế và gắn lý luận với thực tế, trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của quá trình vận động và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Trên cơ sở quán triệt và vận dụng phương pháp nghiên cứu chung nêu trên, tuỳ mục đích nghiên cứu từng nội dung cụ thể của môn học sẽ vận dụng những pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: -Phương pháp thống kê: Được sử dụng rộng rãi khi nghiên cứu hàng loạt các sự vật hiện tượng trong phát triển nông thôn bằng cách thu thập, tổng hợp và xử lý các số liệu thống kê để so sánh, phân tích, làm rõ những vấn đề có tính quy luật, những đánh giá và nhận xét đúng đắn, khoa học. Yêu cầu cơ bản để vận dụng phương pháp thống kê là các số liệu thống kê phải đảm bảo chính xác và có độ tin cậy cao. -Phương pháp điều tra: Được sử dụng khi cần nghiên cứu, đánh giá, lựa chọn những hiện tượng, tình hình cụ thể một cách chính xác. Tuỳ theo tình hình thực tế và yêu cầu của mỗi nghiên cứu cụ thể, người ta có thể thực hiện điều tra từng mặt hoặc nhiều mặt, từng 25
  27. hiện tượng hay nhiều hiện tượng, ở một thời điểm, một địa bàn không gian hoặc nhiều thời điểm trên nhiều địa điểm khác nhau. -Phương pháp chuyên khảo: Được sử dụng khi người ta không cần nghiên cứu toàn bộ tình hình hoặc tất cả mọi hiện tượng, mà chỉ cần nghiên cứu một số điển hình tiêu biểu. Bằng phương pháp chuyên khảo, người ta có thể đánh giá, đưa ra những kết luận và đề xuất những phương hướng, những giải pháp xử lý đúng đắn. Điều cốt lõi để vận dụng thành công phương pháp này là lựa chọn chính xác các điển hình, tiêu biểu cho cho các hiện tượng hoặc tình hình chung. Nói cách khác là việc lựa chọn mẫu điều tra phải đảm bảo tính khoa học. -Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này dựa vào sự thăm dò, hỏi ý kiến của những nhà khoa học, những nhà quản lý có kinh nghiệm và những người lao động tiêu biểu. Trên cơ sở những ý kiến đó mà lựa chọn, tổng hợp, phân tích để rút ra những kết luận, đánh giá hoặc đưa ra những kiến nghị đúng đắn. Hình thức thực hiện có thể là trực tiếp trao đổi, toạ đàm, hội nghị, hội thảo hoặc gián tiếp bằng cách phát phiếu thăm dò, phiếu phỏng vấn chuyên gia Để đảm bảo thành công, đòi hỏi phải lựa chọn đúng những chuyên gia có am hiểu nhất tuỳ theo từng lĩnh vực nghiên cứu. -Phương pháp khảo nghiệm: Trong quá trình lựa chọn các tiến bộ khoa học công nghệ hoặc các phương án tổ chức quản lý áp dụng trong nông nghiệp, nông thôn người ta phải thực hiện việc khảo nghiệm hay thử nghiệm để kiểm tra tính phù hợp, tính hiệu quả trước khi đưa vào áp dụng đại trà. Khi khảo nghiệm cần nắm chắc những điều kiện khảo nghiệm cụ thể, từ đó cho phép rút ra những đánh giá, kết luận đúng đắn. Trên đây là những phương pháp chủ yếu được vận dụng để nghiên cứu môn học Kinh tế nông thôn, trong đó có những phương pháp chung được vận dụng phổ biến trong nghiên cứu kinh tế và có những phương pháp riêng của môn học. Trong nhiều trường hợp nghiên cứu, người ta phải vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp đồng thời để đạt kết quả cao. Câu hỏi ôn tập: 1. Phân tích và làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của nông thôn và bản chất phát triển nông thôn? Hãy liên hệ với thực tiễn địa phương hoặc thực tiễn Việt Nam? 2. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là những khái niệm khác nhau. Bạn hãy tham gia thảo luận nhóm để làm rõ sự khác nhau đó? 3. Có thể tăng trưởng kinh tế mà không có sự phát triển hay không? Có thể phát triển kinh tế mà không có sự tăng trưởng kinh tế? 4. Tại sao nói tính không đồng nhất về điều kiện phát triển giữa các vùng nông thôn là đặc trưng cơ bản nhất quy định “cách nghĩ, cách làm” trong hoạt động thực tiễn phát triển nông thôn? 5. Bạn có nhận thức như thế nào về vai trò của các tổ chức xã hội trong xây dựng nông thôn mới hiện nay ở nước ta? Hãy lấy ví dụ về một tổ chức xã hội cụ thể ở địa phương nơi Bạn đang sống hoặc làm việc để minh họa? 26
  28. 6. Sinh viên A phát biểu: “Do sản xuất nông nghiệp có nhiều rủi ro, nên người nông dân thường có xu hướng đa dạng hóa sinh kế của họ. Xu hướng này là có mâu thuẫn với yêu cầu về nội dung xây dựng nông thôn mới hiện nay ở nước ta”. Bạn hãy cho kết luận là đúng hay sai đối với phát biểu trên và hãy giải thích rõ lý do? 7. Hãy mô tả về một địa bàn nông thôn cụ thể mà Bạn biết? Trên cơ sở đó hãy trình bày những quan điểm cơ bản để phát triển vùng nông thôn này trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế hiện nay? 8. Sinh viên A nói: “Đề án xây dựng mô hình nông thôn mới của Bộ NN&PTNT ban hành theo quyết định số 2614/QĐ/BNN-HTX ngày 08/9/2006 có nhiều khác biệt so với Chương trình phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa, dân chủ hóa được thực hiện từ năm 2001“. Bạn hãy chỉ ra những khác biệt và phân tích cơ sở khoa học của từng khác biệt đó? 9. Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới có những tiêu chí cụ thể như thế nào? Hãy dự kiến khả năng hoàn thành xây dựng nông thôn mới ở địa phương nơi Bạn đang sống và làm việc hoặc địa phương bất kỳ mà Bạn biết? 10. Trình bày những hiểu biết của Bạn về mô hình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay? Hãy liên hệ vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương mà Bạn biết? 11. Trình bày đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học Kinh tế nông thôn? Tài liệu tham khảo: 1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn (1998). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB.CTQG-ST, Hà Nội. 2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn, (1993), NXBNN, Hà Nội. 3. E. Wayne Nafziger, Kinh tế học của các nước đang phát triển (1998). Chương 2 (tr27-31), NXB TK, Hà Nội. 4. Michael P.Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba, (1998). Chương 5 (tr 119- 138); Chương 16 (tr 319-332), NXB GD, Hà nội. 5. Michael Dower (2004). Cẩm nang phát triển nông thôn. Trang Web của Bộ NN&PTNT 6. Nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, (1997). NXB CTQG-ST, Hà Nội. 7. Một số tài liệu cập nhật khác do giảng viên giới thiệu (nếu cần). 27
  29. Chương 2 CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá là một trong những nội dung cơ bản của phát triển kinh tế- xã hội và xây dựng nông thôn mới ở nước ta. Mục tiêu nghiên cứu của chương 2 là giúp người học hiểu rõ và nắm vững những vấn đề cơ bản về kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhằm mục tiêu trên chương này đề cập đến những nội dung chủ yếu sau: Bản chất của cơ cấu kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; Nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn; các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông thôn; phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Để nghiên cứu nắm vững các nội dung trên người nghe giảng, người học cần đọc các tài liệu tham khảo và tích cực tham gia thảo luận trên lớp. 2.1. BẢN CHẤT CỦA CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG THÔN. 2.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn: Khu vực kinh tế nông thôn là một trong hai khu vực kinh tế đặc trưng của nền kinh tế quốc dân, đó là khu vực kinh tế nông thôn và khu vực kinh tế thành thị. Kinh tế nông thôn là một khái niệm dùng để thể hiện tổng thể các hoạt động kinh tế diễn ra trên địa bàn nông thôn, nó bao gồm sự hoạt động của các ngành như: Nông nghiệp (nông, lâm, thủy sản) công nghiệp, xây dựng và thương mại dịch vụ trên địa bàn nông thôn . Khi nói tới nền kinh tế nông thôn, chúng ta thường liên tưởng tới một địa bàn mà ở đó chủ yếu là hoạt động nông nghiệp. Nhưng ngày nay do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội thì nông thôn không chỉ đơn thuần là khu vực hoạt động nông nghiệp là chủ yếu mà ngày càng phát triển mạnh các hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và thương mại dịch vụ. Trong quá trình phát triển, tỷ trọng ngành nông nghiệp có xu hướng giảm, còn tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ có xu hướng tăng, hình thành cơ cấu ngành kinh tế trong nông thôn. Đồng thời do đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội trên từng vùng, từng địa bàn khác nhau nên hình thành cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ hay tiểu vùng lãnh thổ . Mặt khác, do kết quả của quá trình phát triển và đổi mới các thành phầm kinh tế trong nông thôn ngày nay xuất hiện nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng đan xen, tham gia vào các hoạt động sản xuất lưu thông trên địa bàn nông thôn. Vì vậy kinh hình thành theo thành phần kinh tế. Kinh tế nông thôn tồn tại và không ngừng phát triển, luôn gắn liền với tổng thể các quan hệ kinh tế nhất định. Các bộ phận cấu thành của cơ cấu kinh tế nông thôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo những tỉ lệ nhất định cả về lượng và chất giữa các ngành, nội bộ ngành, giữa các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế trong nông thôn. Như vậy: Cơ cấu kinh tế nông thôn là cấu trúc bên trong của kinh tế nông thôn. Nó bao gồm các bộ phận cấu thành cơ cấu kinh tế nông thôn, các bộ phận đó có mối quan hệ hữu cơ với nhau theo tỷ lệ nhất định về mặt số lượng, liên quan chặt chẽ về mặt chất 28
  30. lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong điều kiện thời gian và không gian nhất định tạo thành một hệ thống kinh tế nông thôn. Việc xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn là giải quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tự nhiên và con người trong khu vực nông thôn, theo từng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Các mối quan hệ trong cơ cấu kinh tế nông thôn phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, của quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá, của trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức lao động. Các mối quan hệ kinh tế trong nông thôn càng phát triển phong phú cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, càng phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và phân công lao động trong khu vực nông thôn. 2.1.2. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông thôn. a. Cơ cấu kinh tế nông thôn mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đồng thời còn mang tính chủ quan chịu tác động nhất định của con người. Với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội thì sẽ có một cơ cấu kinh tế cụ thể thích ứng. Điều đó khẳng định rằng việc xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn cần phải tôn trọng tính khách quan của nó và không thể áp đặt một cách tuỳ tiện. Một cơ cấu kinh tế cụ thể trong nông thôn như thế nào và xu hướng chuyển dịch của nó ra sao chủ yếu phụ thuộc vào sự chi phối của những điều kiện kinh tế- xã hội, những điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên nhất định chứ không tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Tuy nhiên không giống các qui luật tự nhiên, các qui luật kinh tế lại biểu hiện và vận động thông qua hoạt động của con người. Con người có thể tác động để góp phần thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý và ngược lại. Nhằm đạt được hiệu quả và phù hợp với mục tiêu thì sự tác động đó phải tôn trọng tính khách quan của cơ cấu kinh tế. Sự hình thành và vận động của cơ cấu kinh tế nông thôn còn phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên và sự khai thác cải tạo các điều kiện tự nhiên của con người. Vì vậy cơ cấu kinh tế nông thôn chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các điều kiện tự nhiên của mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương khác nhau, nhất là đối với những nước mà trình độ phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn thấp. Một cơ cấu kinh tế nông thôn có hiệu quả phải đạt được năng suất ruộng đất năng suất lao động cao và góp phần giải quyết các vấn đề về kinh tế xã hội trong nông thôn. Vì vậy cơ cấu kinh tế nông thôn phải lợi dụng được tối đa các yếu tố các nguồn lực tự nhiên tham gia vào quá trình phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải theo xu hướng ngày càng lợi dụng được cả điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội để khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả b. Cơ cấu kinh tế nông thôn mang tính lịch sử, xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế nông thôn là tổng thể các mối quan hệ kinh tế được xác lập theo những tỉ lệ nhất định về mặt lượng trong thời gian cụ thể. Tại thời điểm đó, do những điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội và tự nhiên, các tỉ lệ đó được hình thành và xác lập theo một cơ cấu 29
  31. nhất định. Song một khi có những biến đối trong các điều kiện nói trên thì các mối quan hệ này cũng thay đổi và hình thành một cơ cấu kinh tế mới thích hợp hơn. Cơ cấu kinh tế nông thôn phản ánh trình độ phát triển kinh tế- xã hội nông thôn và nó được biểu hiện cụ thể trong những không gian cụ thể và thời gian cụ thể khác nhau. Mặt khác xã hội loài người ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng cao, nhu cầu của con người về sản phẩm để tiêu dùng càng ngày càng nhiều cả về số lượng, đa dạng về chủng loại, mẫu mã và đòi hỏi chất lượng tốt hơn. Chính sự phát triển tất yếu đó đã đòi hỏi phải xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn mới để thoả mãn những nhu cầu có tính xã hội hoá nói trên. Tính xã hội của cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng là ở chỗ nhằm đảm bảo và thoả mãn tập quán, sở thích tiêu dùng của con người. Tuỳ hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi địa phương mà xác định cơ cấu kinh tế nông thôn phù hợp trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Không thể có cơ cấu kinh tế mẫu làm chuẩn mực cho mọi vùng nông thôn. c. Cơ cấu kinh tế nông thôn không ngừng vận động phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện hợp lý và có hiệu quả hơn. Quá trình phát triển và biến đổi cơ cấu kinh tế nông thôn luôn gắn bó chặt chẽ với sự biến đổi cuả các yếu tố của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại, phân công lao động ngày càng tỷ mỉ và phức tạp, tất cả điều đó tất yếu dẫn tới cơ cấu kinh tế ngày càng hoàn thiện. Chính vì cơ cấu kinh tế là cái phản ánh trực tiếp mối quan hệ của các yếu tố luôn luôn vận động của lực lượng sản xuất dưới sự tác động, chi phối của các qui luật tự nhiên và sự vận động của xã hội con người, nên sự vận động và biến đổi của cơ cấu kinh tế nông thôn cũng gắn liền với sự vận động và biến đổi không ngừng của các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong kinh tế nông thôn nói riêng. Cơ cấu kinh tế nông thôn cũng sẽ vận động, biến đổi và phát triển thông qua sự chuyển hoá của ngay bản thân nó. Cơ cấu cũ hình thành và mất đi để ra đời cơ cấu mới, cơ cấu mới ra đời lại tiếp tục vận động, phát triển rồi lại lạc hậu, nó lại được thay thế bằng cơ cấu mới tiến bộ hơn và hoàn thiện hơn. Đó là sự vận động biến đổi tất yếu của quá trình phát triển không ngừng. d. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một quá trình và cũng không thể có một cơ cấu hoàn thiện, bất biến. Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng vận động phát triển và chuyển hoá từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới đòi hỏi phải có một thời gian và phải qua những bước phát triển tích luỹ nhất định về lượng, rồi đến một độ nhất định nào đấy sẽ tất yếu dẫn đến sự biến đổi về chất. Đó là quá trình từng bước chuyển hoá dần từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới hoàn thiện và hiệu quả hơn. Quá trình chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự tác động của con người có ý nghĩa quan trọng thông qua các giải pháp, các cơ chế chính sách quản lý thích ứng để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự nóng vội hay bảo thủ, trì trệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều gây tác hại đến việc phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng. 30
  32. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một quá trình tất yếu. Nhưng quá trình đó không phải là quá trình vận động tự phát, mà con người cần phải có tác động để thúc đẩy quá trình chuyển dịch này nhanh và hiệu quả hơn. Trên cơ sở nhận thức và nắm bắt được qui luật vận động khách quan, con người tìm và đưa ra các biện pháp đúng đắn tác động để làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra đúng mục tiêu và định hướng đã vạch ra. 2.1.3. Chuyển dịch và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là quá trình chuyển từ trạng thái cơ cấu kinh tế nông thôn cũ sang cơ cấu kinh tế kinh tế nông thôn mới cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội của mỗi vùng và của cả nước, nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn biểu hiện về mặt lượng là sự thay đổi tương quan tỷ lệ của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế so với tổng thể của ngành, vùng và thành phần kinh tế. Sự thay đổi đó là do các yếu tố tác động như quy mô, số lượng và mối tương quan về tốc độ phát triển giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế có sự thay đổi. Về mặt chất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn được thể hiện sự thay đổi về phương án bố trí, vị trí của từng ngành, từng vùng , từng thành phần kinh tế trong chiến lược phát triển và cơ cấu phát triển để chuyển sang trạng thái cân bằng đổi mới có trình độ và hiệu quả cao hơn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là vấn đề mang tính chiến lược và ảnh hưởng đến mức độ và tính bền vững của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nông thôn. b. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đúng hướng có ý nghĩa hết sức to lớn. nó cho phép đầu tư một cách đúng đắn , hợp lý, hiệu quả, cho phép thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nông thôn, khai thác tốt mọi tiềm năng lợi thế của vùng nông thôn nhằm đảm bảo cho kinh tế nông thôn tăng tưởng và phát triển nhanh, bền vững. Vì vậy cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo xu hướng phát triển nhanh sản xuất hàng hoá có chất lượng ngày càng cao, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng trong cả nước và hội nhập kinh tế thế giới ngày một sâu. Trên cơ sở đó làm cho thu nhập và đời sống kinh tế của dân cư nông thôn ngày sàng phát triển, sức mua của thị trường nông thôn tăng góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp trước hết là công nghiệp nông thôn phát triển thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo xu hướng tăng dần tỷ trọng giá trị sản xuất và giá trị sản xuất hàng hoá ngành công nghiệp và ngành dịch vụ nông thôn , đồng thời giảm dần tỷ trọng giá trị sản xuất và giá trị sản xuất hàng hoá ngành nông nghiệp trên cơ sở nâng cao năng suất và chất lượng ngành nông nghiệp đảm bảo cho ngành nông nghiệp phát triển, giữ vững an ninh lương thực, sản xuất ra nhiều hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu góp phần ổn định đời sống kinh tế -xã hội đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn còn chuyển dịch theo xu hướng giảm dần tỷ trọng lao động và diện tích đất đai ở vùng nông thôn đáp ứng yêu cầu phát triển của công nghiệp hoá, đô thị hoá, phân công lao động xã hội và xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. 31
  33. 2.1.4. Các chỉ tiêu thể hiện cơ cấu và đánh giá kết quả và hiệu quả của cơ cấu kinh tế nông thôn. a. Các chỉ tiêu thể hiện cơ cấu kinh tế nông thôn. - Cơ cấu kinh tế nông thôn được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: - Cơ cấu giá trị sản xuất sản phẩm và dịch vụ. - Cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. - Cơ cấu lao động. - Cơ cấu vốn đầu tư - Cơ cấu sử dụng đất Các chỉ tiêu cơ cấu giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá là những chỉ tiêu phản ánh trực tiếp sự phối hợp giữa các ngành sản xuất trong nông thôn cũng như phản ánh trực tiếp tình độ và tính hợp lý của cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Còn 3 chỉ tiêu sau là cơ cấu lao động, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu sử dụng ruộng đất biểu hiện bằng cơ cấu đất nông nghiệp, cơ cấu diện tích gieo trồng là những chỉ tiêu gián tiếp ảnh hưởng từng mặt của cơ cấu kinh tế kinh tế nông thôn và tính hợp lý của từng mặt trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Các chỉ tiêu trên thể hiện trình độ cơ cấu kinh tế nông thôn cho cả nước, từng vùng kinh tế lãnh thổ hay từng địa phương. Tùy theo mục đích và phạm vi nghiên cứu mà sử dụng các chỉ tiêu và phương pháp tính các chỉ tiêu cho phù hợp. Nếu đem so sánh các chỉ tiêu trên qua các thời kỳ khác nhau trên cùng một địa bàn nghiên cứu sẽ cho ta thấy được mức độ hay trình độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trên địa bàn đó. b. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của cơ cấu kinh tế và kết quả, hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Các chỉ tiêu sau thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả của cơ cấu kinh tế và kết quả, hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn: - Năng suất ruộng đất. - Năng suất cây trồng và năng suất vật nuôi - Năng suất lao động nông thôn và một số ngành chủ yếu. - Hiệu quả vốn đầu tư - Giá trị sản xuất phẩm và giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. - Thu nhập bình quân một lao động, một nhân khẩu ở vùng nông thôn. Các chỉ tiêu trên khi xem xét ở từng thời điểm phản ánh chất lượng và hiệu quả của cơ cấu kinh tế, khi si sánh giữa các thời điểm phản ánh kết quả, hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. 2.2. NỘI DUNG CỦA CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN. Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm những nội dung chủ yếu: Cơ cấu kinh tế theo ngành, cơ cấu kinh tế theo vùng kinh tế lãnh thổ và cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế. 32
  34. 2.2.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn theo ngành. a. Thực chất và ý nghĩa cơ cấu kinh tế ngành: Ngành là một tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một loại chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội. Ngành phản ánh một loại hoạt động nhất định của con người trong quá trình sản xuất xã hội, nó được phân biệt theo tính chất và đặc điểm của quá trình công nghệ, đặc tính của sản phẩm sản xuất ra và chức năng của nó trong quá trình tái sản xuất. Các ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển của loài người đã trải qua 3 cuộc phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội lần thứ nhất, tách chăn nuôi ra khỏi ngành trồng trọt; phân công lao động lần thứ hai, tách thủ công nghiệp (tiền thân của ngành công nghiệp ngày nay) khỏi nông nghiệp; phân lao động xã hội lần thứ ba, tách dịch vụ lưu thông ra khỏi khu vực sản xuất vật chất. Như vậy phân công lao động theo ngành là cơ sở hình thành các ngành và cơ cấu ngành. Phân công lao động càng phát triển ở trình độ cao thì sự phân chia các ngành càng đa dạng sâu sắc và chi tiết. Các ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm: * Trước hết là ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) bao gồm: nông nghiệp lâm nghiệp và thuỷ sản. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có sớm nhất, tồn tại và phát triển như một ngành chủ yếu trong khu vực nông thôn. Ngành nông nghiệp phát triển gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Từ sản xuất mang tính chất tự cung tự cấp, với những ngành rộng, đến chuyên môn hóa và sản xuất hàng hoá tạo ra nhiều sản phẩm cung cấp cho xã hội và từ đó phân ra các ngành hẹp hơn và chi tiết hơn. * Các ngành công nghiệp nông thôn bao gồm: sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác, dệt may, chế biến, thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống. Xu hướng của sự phát triển các ngành công nghiệp nông thôn là ngày càng phát triển nhanh và chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu kinh tê nông thôn. * Các ngành dịch vụ nông thôn bao gồm: Dịch vụ tài chính, dịch vụ thương mại, dịch vụ kỹ thuật và dịch vụ đời sống. Các ngành dịch vụ trong nông thôn ngày càng phát triển để đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống trong nông thôn và tỉ trọng của ngành dịch vụ càng ngày lớn trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Cơ cấu ngành là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học - công nghệ và phân công lao động xã hội Cơ cấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn là tập hợp các bộ phận- các ngành sản xuất và dịch vụ trong nông thôn, cấu thành tổng thể các ngành trong kinh tế nông thôn và mối tương quan tỉ lệ giữa các bộ phận cấu thành so với tổng thể. Mối quan hệ tỉ lệ này do yêu cầu phát triển cân đối giữa các ngành chi phối. Cơ cấu ngành là một nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển các ngành nói chung và là hạt nhân của cơ cấu kinh tế. Việc xác lập cơ cấu ngành hợp lý thích ứng với từng giai đoạn phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của ngành: + Tạo điều kiện thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trọng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của cả nước và khu vực nông thôn. 33
  35. + Đảm bảo đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường và khai thác sử dụng có hiệu quả tiềm năng của một vùng và cả nước. + Tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tiến bộ khoa học - công nghệ trong các ngành sản xuất và dịch vụ ở nông thôn. b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và các nhân tổ ảnh hưởng. Chuyển dịch cơ cấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn là một quá trình chuyển từ trạng thái cơ cấu cũ sang cơ cấu mới phù hợp với sự phát triển tiến bộ khoa học công nghệ, nhu cầu thị trường và nhằm sử dụng hiệu quả mọi yếu tố nguồn lực của đất nước. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành biểu hiện dưới mặt lượng là sự thay đổi mối tương quan tỉ lệ của mỗi ngành so với tổng thể ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Còn về mặt chất sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện ở sự thay đổi phương án bố trí các ngành trong chiến lược phát triển và vị trí của từng ngành trong cơ cấu với sự thay đổi tính cân đôí để chuyển sang trạng thái cân đối mới cao hơn. Như vậy thực chất chuyển dịch cơ cấu ngành là thực hiện phân công lại lao động giữa các ngành cho phù hợp với yêu cầu khách quan. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành và nội bộ ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn là phải hướng tới một cơ cấu ngành hợp lý, đa dạng, trong đó cần phát triển các ngành chủ lực có nhiều lợi thế để đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu. Đồng thời phải kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: nhu cầu thị trường, điều kiện tự nhiên và tài nguyên, tiến bộ khoa học - công nghệ, chính sách kinh tế các nhân tố này được phân tích ở phần sau. 2.2.2. Cơ cấu kinh tế nông thôn theo vùng kinh tế lãnh thổ. Sự phân công lao động theo ngành dẫn đến sự phân công lao động theo lãnh thổ, đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên một vùng lãnh thổ nhất định. Vì vậy cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ chính là sự bố trí các ngành sản xuất và dịch vụ theo không gian, nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của vùng. Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ là theo hướng đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung có hiệu quả cao, mở rộng mối quan hệ với các vùng chuyên môn hoá khác, gắn bó cơ cấu kinh tế của từng vùng với cả nước. Trong từng vùng lãnh thổ phải coi trọng phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá. Các ngành sản xuất và dịch vụ, trên cơ sở phát huy lợi thế của vùng để định hướng chuyên môn hoá, nhờ đó nâng cao được trình độ sản xuất hàng hoá của vùng. Thực tiễn cho thấy, để hình thành cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ hợp lý trước hết cần hướng vào những khu vực có điều kiện phát triển hàng hoá lớn. Đó là khu vực có nhiều lợi thế so sánh về thời tiết khí hậu, đất đai, vị trí địa lý và giao thông thuận lợi, các cơ sở hạ tầng khác Trên cơ sở đó xây dựng phương án sản xuất kinh doanh nhằm trả lời câu hỏi trên mỗi vùng đó sản xuất cái gì? số lượng là bao nhiêu? theo một cơ cấu nào hợp lý, để khai thác tốt nhất lợi thế của vùng, khai thác tổng hợp và có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của vùng nhằm phát triển nhanh kinh tế của vùng. 34