Giáo trình Công pháp quốc tế

pdf 71 trang Đức Chiến 05/01/2024 660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Công pháp quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_cong_phap_quoc_te.pdf
  • pdfgtkl0025_p2_0009_530017.pdf

Nội dung text: Giáo trình Công pháp quốc tế

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên ThS Trần Thị Vân Trà GIÁO TRÌNH CÔNG PHÁP QUỐC TẾ Vinh - 2011 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên ThS Trần Thị Vân Trà GIÁO TRÌNH CÔNG PHÁP QUỐC TẾ (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh – 2011 2
  3. Phân công biên soạn Chủ biên: ThS Trần Thị Vân Trà Từ Chương 1 đến Chương 11 3
  4. CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1. KHÁI NIỆM LUẬT QUỐC TẾ 1.1. Định nghĩa Theo kết quả nghiên cứu của khoa học pháp lý, nhà nước và pháp luật ra đời là hiện tượng lịch sử khách quan, và chúng có cùng những nguyên nhân ra đời giống nhau. Xét về mặt chủ quan, pháp luật là một trong những công cụ để nhà nước quản lý xã hội và là công cụ hữu hiệu nhất. Trong quá trình hoạt động của mình, nhà nước sử dụng pháp luật để duy trì quyền lực nhà nước và phát huy những tính năng quan trọng của bộ máy nhà nước. Để thực hiện hai chức năng cơ bản nhất của hoạt động nhà nước là đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng phổ biến hai công cụ pháp lý khác nhau là luật quốc gia và luật quốc tế. Mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng của mình, còn trong quan hệ với các quốc gia khác thì được điều chỉnh bởi hệ thống luật chung là luật quốc tế. Quá trình hình thành và phát triển của luật quốc tế gắn liền với sự phát triển chung của nhà nước cũng như pháp luật. Nhưng xét về thời điểm lịch sử thì luật quốc gia có trước và là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của luật quốc tế. Sự xuất hiện nhà nước và pháp luật ở các khu vực địa lý khác nhau trên thế giới đã nảy sinh nhu cầu liên kết, hợp tác nhằm thiết lập quan hệ giữa các quốc gia để giải quyết các vấn đề liên quan như xác định biên giới quốc gia, vấn đề về chiến tranh, hòa bình, thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa, Đây là nền móng, là cơ sở cho sự hình thành các quy tắc ứng xử giữa các quốc gia với nhau. Luật quốc tế ra đời xuất phát từ nhu cầu cần một hệ thống quy tắc xử sự do các quốc gia thỏa thuận thiết lập để điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Hệ thống quy tắc xử sự đó được các quốc gia thỏa thuận thừa nhận hoặc được các quốc gia thỏa thuận xây dựng nên. Thời kỳ sơ khai của luật quốc tế giải quyết quan hệ giữa các nước láng giềng, sau đó dần mở rộng ra khỏi phạm vi khu vực và phát triển thành luật quốc tế có tính chất liên khu vực và toàn cầu như hiện nay. Quan hệ pháp luật quốc tế hình thành từ thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng thuật ngữ luật quốc tế xuất hiện muộn hơn rất nhiều. Trong nhà nước La Mã cổ đại có một bộ phận bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa La Mã với các quốc gia khác, gọi là Luật vạn dân (Jus gentium). Đến thế kỷ XVI, ở Tây Ban Nha xuất hiện thuật ngữ Luật giữa các dân tộc (Jus inter gentes) do nhà luật học F.Victoria nêu ra và được một số luật gia chấp nhận. Phải đến năm 1843, nhà triết học người Anh J.Bentham mới đưa ra thuật ngữ Luật quốc tế (International law) trong tác phẩm “An introduction to the principles of moral and legislation” dùng để chỉ hệ thống pháp luật do các quốc gia thỏa thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh mối quan hệ liên quốc gia. Từ đó, thuật ngữ luật quốc tế được sử dụng rộng rãi và trở thành chính thống. Như vậy, có thể định nghĩa, luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên 4
  5. trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể đó trong đời sống quốc tế. 1.2. Các đặc trưng cơ bản 1.2.1. Chủ thể của luật quốc tế Trong khoa học pháp lý, vấn đề chủ thể quan hệ pháp luật có ý nghĩa quan trọng. Không có chủ thể thì không thể có quan hệ pháp luật nói riêng và sẽ không có cả pháp luật nói chung. Chủ thể quan hệ pháp luật, đó là những bên tham gia vào quan hệ pháp luật, có các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Phù hợp với lý luận cũng như với thực tiễn, quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể của luật quốc tế. Và trong số đó quốc gia là chủ thể cơ bản, phổ biến của luật quốc tế, tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể phái sinh và dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể đặc biệt của luật quốc tế. Trong hệ thống pháp luật quốc tế, quốc gia là chủ thể căn bản nhất. Đây là một thực thể được hình thành trên cơ sở lãnh thổ, dân cư và quyền lực nhà nước, cùng với thuộc tính chủ quyền bao trùm. Quá trình thiết lập và phát triển các quan hệ quốc tế được các quốc gia tự mình xác lập hoặc thông qua khuôn khổ các tổ chức quốc tế liên chính phủ mà quốc gia là thành viên tạo dựng nên trên cơ sở sự bình đẳng. Yếu tố chủ quyền quốc gia là nguyên nhân chính của sự bình đẳng về địa vị pháp lý quốc tế giữa các quốc gia, và nó có tính quyết định đến bản chất của luật quốc tế. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế, các chủ thể luật quốc tế đều bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế. Luật quốc tế vì thế mà chỉ có thể được các chủ thể của mình tuân thủ và thực hiện khi các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế do chính các chủ thể đó tạo dựng nên trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện. Trong thực tiễn, các cá nhân, pháp nhân của các quốc gia khác nhau vẫn tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định, nhưng sự tham gia của các đối tượng này rất hãn hữu và không mang bản chất của một chủ thể luật quốc tế. 1.2.2. Quan hệ pháp luật quốc tế Trong đời sống pháp luật quốc gia, quan hệ pháp luật giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Quan hệ pháp luật ở đây là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Các quan hệ này được thiết lập giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi quốc gia. Quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh là quan hệ giữa các quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế (các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập) nảy sinh trong tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Chúng là quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Vì vậy, quan hệ pháp luật quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia hoặc các chủ thể khác của luật quốc tế nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống quốc tế, được luật quốc tế điều chỉnh. Quan hệ pháp luật quốc tế không giống với quan hệ do pháp luật quốc gia điều chỉnh, chúng là những quan hệ có tính chất liên quốc gia, liên chính phủ phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống quốc tế. Các quan hệ này luôn chịu sự tác động và chi phối của yếu tố quyền lực công, của lợi ích của các chủ thể như lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc cùng với lợi ích chung của cả cộng đồng. 5
  6. Có nhiều dạng quan hệ pháp luật quốc tế khác nhau trong đời sống quốc tế, phụ thuộc vào tính chất, mục đích, nội dung, lĩnh vực hợp tác hay chủ thể tham gia vào quan hệ. Nếu căn cứ vào tính chất, nội dung thì có thể kể đến là quan hệ pháp luật ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, quan hệ pháp luật về biên giới, lãnh thổ, quan hệ pháp luật về ngoại giao và lãnh sự, Nếu căn cứ vào chủ thể thì có thể chia thành quan hệ pháp luật quốc tế của quốc gia, của tổ chức quốc tế liên chính phủ, của dân tộc đang đấu tranh giành độc lập. 1.2.3. Sự hình thành luật quốc tế Quan hệ pháp luật quốc tế được xây dựng và tồn tại trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, cũng như sự tồn tại của hệ thống luật quốc tế lấy quốc gia là trung tâm. Pháp luật quốc tế hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia, bởi vì các quốc gia có thuộc tính chủ quyền và mọi quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Chính sự bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia đã loại bỏ quyền lực “siêu quốc gia” đứng trên quốc gia và những khả năng áp đặt các quy tắc, quy phạm bắt buộc cho bất kỳ quốc gia nào khác. Trong quan hệ quốc tế, luôn hiện hữu sự tương quan giữa lợi ích của quốc gia này với lợi ích của quốc gia khác và thậm chí với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Vì thế có thể nói rằng các quy phạm pháp luật quốc tế là sản phẩm của sự đấu tranh, nhân nhượng lẫn nhau của các quốc gia trong quá trình hợp tác và phát triển. Trên thực tế, sự hình thành luật quốc tế khác hẳn với sự hình thành luật quốc gia. Pháp luật quốc gia do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí nhà nước, được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước và có tính bắt buộc chung. Như vậy, pháp luật quốc gia luôn mang tính cưỡng chế của nhà nước đối với các thực thể trong xã hội. Trong khi đó pháp luật quốc tế được hình thành thông qua quá trình hoàn toàn mang tính tự nguyện của các chủ thể, thể hiện ở sự tự điều chỉnh trong quan hệ lập pháp mà các chủ thể đó tiến hành bằng phương thức thỏa thuận công khai ở quan hệ điều ước hoặc bằng sự mặc nhiên thừa nhận quy tắc xử sự trong quan hệ tập quán. Việc hình thành luật quốc tế như vậy không nhằm tạo ra ý chí tối cao và duy nhất “đứng trên” các chủ thể mà nhằm dung hòa lợi ích giữa các chủ thể cũng như với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế thông qua quá trình thỏa thuận. 1.2.4. Thực thi luật quốc tế Tương tự như cơ chế xây dựng luật quốc tế, cơ chế thực thi pháp luật quốc tế cũng mang tính tự điều chỉnh với những đảm bảo về pháp lý do các chủ thể luật quốc tế thỏa thuận tạo ra hoặc tự nguyện đặt ra để tuân thủ. Chính vì thế mà trong hệ thống luật quốc tế, không tồn tại “cơ quan hành pháp” hay “cơ quan tư pháp” chuyên trách, với ý nghĩa là các cơ quan đứng trên các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế, mang quyền lực “siêu quốc gia” để tổ chức thực hiện hoặc cưỡng chế thực thi luật quốc tế. Thực thi luật quốc tế là quá trình các chủ thể áp dụng cơ chế hợp pháp, phù hợp để đảm bảo các quy định của luật quốc tế được thi hành và được tôn trọng đầy đủ trong đời sống quốc tế. Đây là quá trình mà các chủ thể của luật quốc tế thông qua các cơ chế quốc tế và cơ chế quốc gia do luật quốc tế quy định để thực thi các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế nhằm đảm bảo lợi ích riêng của từng chủ thể phù hợp với lợi ích chung của cả cộng đồng. 6
  7. Xuất phát từ việc luật quốc tế không có các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp chung cũng như những lợi ích thiết thân, sống còn mà các chủ thể luật quốc tế hướng tới khi tham gia vào quan hệ quốc tế và xuất phát từ nhu cầu hợp tác cùng phát triển của các quốc gia đã hình thành nên cơ chế tự nguyện trong quá trình thực thi luật quốc tế. Cơ chế quốc tế để thực thi nghĩa vụ pháp lý quốc tế do chính các thành viên của nghĩa vụ đó thỏa thuận tạo dựng nên và tiến hành kiểm tra, giám sát lẫn nhau. Song song với đó, các quốc gia thành viên đều xây dựng cơ chế quốc gia và duy trì hoạt động của cơ chế đó nhằm thực hiện nghĩa vụ của mình. Khi có sự vi phạm pháp luật quốc tế của một chủ thể, căn cứ vào tính chất và mức độ vi phạm của các chủ thể mà các chủ thể đó sẽ bị ràng buộc với các trách nhiệm pháp lý quốc tế cụ thể. Luật quốc tế có các chế tài nhưng việc áp dụng các chế tài do chính các chủ thể luật quốc tế tự thực hiện bằng những cách thức riêng lẻ hoặc tập thể. Chế tài trong luật quốc tế có thể là các biện pháp cưỡng chế phi vũ trang như đình chỉ toàn bộ hay một phần những quan hệ kinh tế, đường sắt, hàng hải, hàng không, bưu chính, điện tín, vô tuyến điện và các phương tiện giao thông khác, cắt đứt quan hệ ngoại giao, và cũng có thể là các biện pháp sử dụng hoặc đe dọa sử dụng lực lượng vũ trang. Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là thực thể được cộng đồng quốc tế trao quyền quyết định sử dụng biện pháp vũ trang khi thấy cần thiết thông qua khoản 1 điều 24 Hiến chương Liên hợp quốc, theo đó “Hội đồng bảo an có thể thi hành bằng các lực lượng hải, lục, không quân, mọi hành động xét thấy cần thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế. Hành động này có thể gồm những cuộc thị uy, những biện pháp phong tỏa và những cuộc hành binh khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của những hội viên Liên hợp quốc thực hiện” (điều 42 Hiến chương Liên hợp quốc). Ngày nay, để đảm bảo thực hiện một cách hiệu quả luật quốc tế, chủ thể luật quốc tế còn sử dụng nhiều cách thức và biện pháp khác nhau. Bên cạnh sử dụng điều ước quốc tế và các cách thức pháp lý khác, các chủ thể còn sử dụng sức mạnh của dư luận tiến bộ và sự đấu tranh của nhân dân trên toàn thế giới vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ và văn minh, hay sử dụng sức mạnh quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia, Từ nửa sau thế kỷ XX xuất hiện một loại hình mới tác động đến hoạt động thực thi luật quốc tế của các quốc gia. Đó là cơ chế kiểm soát quốc tế. Cơ chế này bao gồm việc yêu cầu các quốc gia trình bày báo cáo, bảo vệ báo cáo quốc gia về một lĩnh vực luật quốc tế trước cơ quan, thiết chế quốc tế được thiết lập thông qua các điều ước quốc tế mà các quốc gia đó là thành viên, điển hình là trong lĩnh vực quyền con người, kiểm soát năng lượng nguyên tử, Và trong một chừng mực nhất định, kiểm soát quốc tế có ý nghĩa quan trọng với tính chất là một công cụ nâng cao hiệu quả của luật quốc tế, phòng ngừa các hành vi vi phạm luật quốc tế của các quốc gia. 1.3. Quy phạm luật quốc tế 1.3.1. Khái niệm Quy phạm luật quốc tế là quy tắc xử sự do các chủ thể luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên hoặc cùng nhau thừa nhận giá trị pháp lý của chúng và có giá trị ràng buộc các chủ thể đó đối với các quyền, nghĩa vụ hay trách nhiệm pháp lý quốc tế khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế. 7
  8. Sự ràng buộc pháp lý của luật quốc tế với các chủ thể không được giải thích bằng sức mạnh của quyền lực đứng trên các chủ thể đó như trong quan hệ pháp luật quốc gia mà bằng sự thỏa thuận của chính các chủ thể trên cơ sở lợi ích. Sự ràng buộc pháp lý cho thấy sự khác nhau giữa quy phạm luật quốc tế với các quy phạm khác như quy phạm đạo đức, quy phạm chính trị quốc tế. Nội dung của quy phạm luật quốc tế chứa đựng quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế qua lại giữa các chủ thể. Từ đó các chủ thể luật quốc tế có cơ sở pháp lý để đánh giá tính pháp lý của các hành vi của các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật quốc tế. Những hành vi vi phạm luật quốc tế là cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với các chủ thể vi phạm. 1.3.2. Phân loại Hệ thống quy phạm luật quốc tế rất phong phú và đa dạng phản ánh đúng tính chất của các quan hệ quốc tế. Dựa trên những tiêu chí khác nhau lại có thể phân chia chúng thành các loại khác nhau. Tuy nhiên, có những cách phân loại phổ biến sau mà chúng ta có thể nghiên cứu: * Căn cứ vào nội dung và vị trí trong hệ thống luật quốc tế Theo tiêu chí này, quy phạm luật quốc tế được chia thành nguyên tắc và quy phạm. Trong đó, nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có giá trị pháp lý cao nhất và bắt buộc mọi chủ thể luật quốc tế phải tuân thủ thực hiện một cách triệt để, không do dự. * Căn cứ theo giá trị hiệu lực Căn cứ theo giá trị hiệu lực, hệ thống quy phạm luật quốc tế được chia thành quy phạm mệnh lệnh chung và quy phạm tùy nghi. Quy phạm mệnh lệnh chung (Jus cogens) là loại quy phạm có giá trị tối cao và hiệu lực bắt buộc chung đối với mọi chủ thể luật quốc tế trong mọi quan hệ pháp luật quốc tế. Các chủ thể của luật quốc tế không được quyền loại bỏ các quy phạm này ngay cả khi có sự thỏa thuận. Quy phạm Jus cogens còn quy định hiệu lực và tính hợp pháp của các quy phạm khác trong hệ thống luật quốc tế, tức là các quy phạm khác đó phải có nội dung không trái với nội dung của quy phạm Jus cogens. Tuy vậy, hiện nay luật quốc tế lại chưa ra danh mục thống kê về loại quy phạm này. Tuy nhiên các quốc gia trên thế giới cũng như trong khoa học luật quốc tế đều thừa nhận các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có hiệu lực là quy phạm Jus cogens. Quy phạm tùy nghi là quy phạm mà theo đó các chủ thể luật quốc tế có liên quan tự lựa chọn hoặc thỏa thuận để xác định phạm vi quyền, nghĩa vụ qua lại giữa các bên trong một quan hệ pháp luật quốc tế cụ thể. Điều này có nghĩa là thông qua quy phạm tùy nghi, các chủ thể có quyền lựa chọn cách thức xử sự cho mình trong khuôn khổ cho phép để vừa thỏa mãn lợi ích của mình mà không xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác cũng như đến lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Trong quá trình thực thi thì quy phạm mệnh lệnh chung được ưu tiên hơn so với quy phạm tùy nghi. Nhưng quy phạm tùy nghi lại tạo ra sự linh hoạt trong xử sự của các chủ thể luật quốc tế. Hơn thế nữa, với bản chất của luật quốc tế là xây dựng trên cơ sở 8
  9. thỏa thuận, tự nguyện thì rõ ràng quy phạm tùy nghi chiếm một số lượng áp đảo, cũng như điều chỉnh phong phú các quan hệ quốc tế hơn so với quy phạm Jus cogens. * Căn cứ theo hình thức thể hiện Theo căn cứ này, quy phạm luật quốc tế được chia thành quy phạm điều ước và quy phạm tập quán. Quy phạm điều ước còn được gọi là quy phạm thành văn và quy phạm tập quán gọi là quy phạm bất thành văn. 2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT QUỐC TẾ Sự hình thành, tồn tại và phát triển của luật quốc tế gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung, của nhà nước và pháp luật nói riêng. Căn cứ vào tiến trình lịch sử nhân loại, có thể phân chia quá trình phát triển của luật quốc tế thành các thời kỳ như sau: - Luật quốc tế cổ đại (tương đương với thời kỳ chiếm hữu nô lệ); - Luật quốc tế trung đại (tương đương với thời kỳ phong kiến); - Luật quốc tế cận đại (tương đương với thời kỳ chủ nghĩa tư bản); - Luật quốc tế hiện đại (tương đương với thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917). 2.1. Luật quốc tế cổ đại Luật quốc tế được hình thành vào khoảng cuối thế kỷ 40 trước Công nguyên ở khu vực Lưỡng Hà và Ai Cập cổ đại, sau đó là các quốc gia Hy Lạp và La Mã ở phương Tây và Trung Quốc, Ấn Độ ở phương Đông. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ là thời kỳ phôi thai của luật quốc tế. Hình thức tồn tại của luật quốc tế thời kỳ này do vậy mà chủ yếu là các tập quán quốc tế được các quốc gia thừa nhận và thực hiện trong các cuộc chiến tranh, trong phân định biên giới lãnh thổ, trong buôn bán ngoại thương, Khi có chữ viết xuất hiện thì các thỏa thuận của các quốc gia được ghi nhận bằng văn bản, mà thực chất chúng chính là các điều ước quốc tế. Trong thời kỳ này nền kinh tế của các quốc gia rất yếu kém, mối quan hệ giữa các quốc gia yếu ớt và rời rạc, lại bị cản trở bởi các điều kiện tự nhiên. Vì thế các quốc gia chủ yếu quan hệ với nhau trong phạm vi khu vực, luật quốc tế mang tính chất khu vực khép kín. Bên cạnh đó, luật quốc tế điều chỉnh chiến tranh có nội dung phát triển nhất, bởi các quốc gia thường xuyên gây chiến với nhau để tranh giành đất đai, tài sản và nô lệ. Ngoài ra còn có một số quy định của Luật nhân đạo như quy định cấm dùng vũ khí tẩm thuốc độc, vũ khí gây đau đớn quá mức cho đối phương. Luật ngoại giao và lãnh sự cũng đã manh nha xuất hiện với chế định “bất khả xâm phạm sứ thần” được ghi nhận trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia. Nguyên tắc Pacta sunt servanda cũng đã được hình thành với tiền đề là nguyên tắc “Tuân thủ điều ước quốc tế”. Tên gọi của luật quốc tế thời kỳ này chính là thuật ngữ Luật vạn dân (Jus gentium) được nhà nước La Mã đưa ra và sử dụng. Thời kỳ này chưa có một học thuyết chính thống nào về luật quốc tế nên chưa hình thành ngành khoa học pháp lý quốc tế. 2.2. Luật quốc tế trung đại Xã hội phong kiến đầy phức tạp, và luật quốc tế thời kỳ này phản ánh tính chất của xã hội đó. Đây là thời kỳ phân quyền cát cứ làm chiến tranh xảy ra liên miên, sự phát triển 9
  10. mạnh mẽ của tôn giáo cũng như sự ảnh hưởng của tôn giáo tới mọi hoạt động trong xã hội. Hoạt động buôn bán ngoại thương phát triển rộng khắp, dẫn tới việc hình thành các trung tâm buôn bán quốc tế. Luật quốc tế thời kỳ này xác định cả vua và lãnh chúa phong kiến là chủ thể của luật quốc tế. Chủ quyền quốc gia thuộc về nhà vua, bởi vì vua là người duy nhất nắm chủ quyền quốc gia. Việc tặng, cho, trao đổi, thừa kế lãnh thổ giữa các lãnh chúa được coi là mang tính chất quan hệ pháp luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh. Vào thời kỳ phong kiến, luật quốc tế còn mang đậm màu sắc tôn giáo. Học thuyết về chủ quyền của Giáo hoàng xuất hiện bởi vị trí đặc biệt quan trọng của Giáo hoàng trong quan hệ quốc tế, nhất là trong việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Khi chế độ phong kiến chuyển sang giai đoạn chuyên chế trung ương tập quyền thì nhiều nội dung luật quốc tế được tạo ra và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia đối với việc phát triển quan hệ quốc tế khi nhà nước đã đi vào ổn định. Có thể kể đến: quy định về chiến tranh và hòa bình giữa các quốc gia, nguyên tắc chủ quyền và bình đẳng quốc gia, nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế, nguyên tắc tự do biển cả, những quy định về quan hệ ngoại giao và lãnh sự, Do nền kinh tế thời kỳ này phát triển, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mà quan hệ quốc tế giữa các quốc gia đã vượt ra khỏi phạm vi khu vực và bắt đầu mang tính liên khu vực. Cũng trong giai đoạn này, khoa học luật quốc tế được hình thành mà người đặt nền móng là luật gia nổi tiếng người Hà Lan Hugo G.Rotius với các tác phẩm tiêu biểu là “Luật chiến tranh và hòa bình” xuất bản năm 1625 và “Tự do biển cả” xuất bản năm 1609. 2.3. Luật quốc tế cận đại Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, được đánh dấu bằng cuộc cách mạng tư sản Anh năm 1640 và sau đó lan ra khắp châu Âu. Các quốc gia này vì thế có một nhu cầu mang tính tất yếu và khách quan là thiết lập và phát triển các mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn hơn để bảo vệ lợi ích của mình và mở rộng hơn nữa lợi ích đó. Bên cạnh đó, các quốc gia này cũng giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng. Những đặc điểm này là tiền đề thúc đẩy luật quốc tế thay đổi và phát triển theo một chiều hướng mới. Luật quốc tế thời kỳ này do chính các nước châu Âu xây dựng nên, phản ánh mối quan hệ và hợp tác giữa các cường quốc châu Âu cũng như mối quan hệ bất bình đẳng giữa các quốc gia này với các quốc gia, dân tộc thuộc địa. Nhận định một cách khách quan, có thể khẳng định rằng luật quốc tế thời kỳ cận đại có sự phát triển vượt bậc so với những thời kỳ trước đó. Những nguyên tắc dân chủ tiến bộ đã được ghi nhận như nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, và dần dần chúng được thừa nhận rộng rãi, trở thành nguyên tắc của luật quốc tế. Xuất hiện những nội dung mới của luật ngoại giao và lãnh sự, luật về chiến tranh, Luật quốc tế còn phát triển phong phú các quy phạm, các ngành luật. Bên cạnh đó, kỹ thuật lập pháp cũng có sự tiến bộ, cũng như luật quốc tế ngày càng đáp ứng sự phù hợp giữa nội dung của pháp luật quốc tế với các quan hệ quốc tế luôn thay đổi và phát triển. 10
  11. Các tổ chức quốc tế đầu tiên ra đời, như Liên minh Điện tín quốc tế (1865), Liên minh Bưu chính thế giới (1879), đã đánh dấu một bước phát triển mới của luật quốc tế, đó là sự liên kết và ràng buộc có tính cộng đồng của các quốc gia. Thông qua các quan hệ đa dạng không chỉ giữa các quốc gia cường quốc châu Âu mà còn giữa các quốc gia này với các quốc gia, dân tộc thuộc địa mà luật quốc tế ngày càng mở rộng phạm vi, không chỉ dừng lại ở liên khu vực mà bắt đầu mang tính toàn cầu. Khoa học luật quốc tế thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ. Xuất hiện nhiều trường phái, mà nổi tiếng nhất là trường phái luật tự nhiên và trường phái thực định. Tuy nhiên, luật quốc tế thời kỳ này do phản ánh mối quan hệ của các quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như bảo vệ quyền lợi của các đế quốc châu Âu mà còn có những hạn chế. Đó là tồn tại những quan điểm, những quy chế pháp lý phản động, bất bình đẳng, như chỉ công nhận các quốc gia văn minh là chủ thể của luật quốc tế, thừa nhận “quyền” được tiến hành chiến tranh của các quốc gia, 2.4. Luật quốc tế hiện đại Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi là một mốc lịch sử quan trọng, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người và cũng đã làm thay đổi sâu sắc quan hệ quốc tế trên mọi mặt. Thế giới phân chia thành hai hệ thống cơ bản là các quốc gia thuộc khối chủ nghĩa xã hội và các quốc gia thuộc khối tư bản chủ nghĩa. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và sự ra đời của Liên hợp quốc cùng với phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới đã làm xuất hiện những nguyên tắc và chế định dân chủ mới. Luật quốc tế hiện đại ghi nhận và yêu cầu các quốc gia tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, nguyên tắc dân tộc tự quyết, Các ngành luật độc lập của luật quốc tế đã xuất hiện trong thời kỳ trước thì nay được phát triển và củng cố bởi các nguyên tắc và chế định mới, tiến bộ hơn và phù hợp với quan hệ quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Bên cạnh đó là sự ra đời của những ngành luật mới như Luật vũ trụ, Luật môi trường quốc tế, Hàng loạt các tổ chức quốc tế liên chính phủ ra đời với tính chất, phạm vi, chức năng hoạt động rất phong phú và đa dạng. Các tổ chức quốc tế này ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng của chủ thể luật quốc tế cũng như đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của luật quốc tế hiện đại. Nửa sau của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, luật quốc tế gắn với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Đây là hai xu thế mà một mặt đưa các quốc gia xích lại gần nhau theo hướng gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia hay các vùng lãnh thổ, mặt khác làm tăng thêm tính cạnh tranh trong phát triển kinh tế, xã hội ở các khuôn khổ và cấp độ khác nhau. Luật quốc tế hiện đại vì thế vừa mang tính toàn cầu lại vừa tồn tại trong lòng nó những chế định, những thiết chế mang tính đặc trưng khu vực để điều tiết quan hệ vừa đấu tranh, vừa nhân nhượng lẫn nhau của các chủ thể luật quốc tế bình đẳng về địa vị pháp lý quốc tế. 3. NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 3.1. Khái niệm 11
  12. Nghiên cứu nguồn của pháp luật nói chung và của luật quốc tế nói riêng có ý nghĩa quan trọng về pháp lý và thực tiễn vì nó liên quan chặt chẽ đến việc xác định sự hình thành của quan hệ pháp luật và quá trình thực thi luật. Về mặt pháp lý, nguồn của luật quốc tế là hình thức chứa đựng các quy phạm luật quốc tế. Theo cách xác định truyền thống thì nguồn của luật quốc tế bao gồm điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Về mặt lý luận, nguồn của luật quốc tế là phạm trù pháp lý gắn với quá trình hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế. Dưới góc độ này có sự phân biệt giữa nguồn của luật quốc tế là hình thức chứa đựng các quy phạm luật quốc tế với những phương tiện bổ trợ cho nguồn là phương tiện hỗ trợ việc xác định quy phạm luật quốc tế. Theo quy định tại khoản 1 điều 38 Quy chế Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc thì nguồn bao gồm điều ước quốc tế và tập quán quốc tế; phương tiện bổ trợ cho nguồn bao gồm phán quyết của Tòa án công lý quốc tế, các học thuyết luật quốc tế của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất, những nguyên tắc pháp lý chung được các dân tộc văn minh thừa nhận. Ngoài ra phương tiện bổ trợ cho nguồn còn có một số hình thức khác hình thành trong thực tiễn luật quốc tế như là nghị quyết không bắt buộc của tổ chức quốc tế liên chính phủ, hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia. 3.2. Nguồn của luật quốc tế 3.2.1. Điều ước quốc tế Điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh. Các quy phạm pháp luật được ghi nhận trong điều ước quốc tế là minh chứng cho kết quả của quá trình vừa đấu tranh, vừa hợp tác giữa các chủ thể của luật quốc tế. Điều ước quốc tế có nhiều loại và được ký kết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Có điều ước quốc tế phổ cập hoặc không phổ cập, toàn cầu hoặc khu vực, đa phương hoặc song phương. Điều ước quốc tế là nguồn cơ bản của luật quốc tế bởi vì tuyệt đại đa số các quy phạm của luật quốc tế hiện đại đều nằm trong điều ước quốc tế. Nếu từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở về trước, hầu như chỉ có điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia thì hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều các điều ước quốc tế do các tổ chức quốc tế liên chính phủ ký kết với nhau hoặc do các quốc gia ký kết với các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Tuy vậy, không phải mọi điều ước quốc tế đều là nguồn của luật quốc tế mà chỉ có những điều ước quốc tế thỏa mãn các điều kiện sau mới trở thành nguồn cơ bản của luật quốc tế: Thứ nhất, điều ước quốc tế phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các chủ thể ký kết. Điều này có nghĩa là việc tham gia điều ước quốc tế phải trên ý chí, nguyện vọng và lợi ích của chính các chủ thể luật quốc tế. Nếu điều ước quốc tế được tạo dựng nên từ sự lừa dối, ép buộc, cưỡng bức hay đe dọa thì điều ước quốc tế đó sẽ không thể có giá trị pháp lý. Bên cạnh đó, các chủ thể của luật quốc tế bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý, xuất phát từ sự bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia nên điều ước quốc tế cũng phải là kết quả của quá trình thỏa thuận bình đẳng với nhau giữa các chủ thể. Hơn thế nữa, khi điều ước quốc tế được xây dựng trên sự tự nguyện và bình đẳng thì các 12
  13. chủ thể tham gia mới thể hiện được ý chí của mình và từ đó mới tự nguyện thực hiện những cam kết đó. Và lúc đó điều ước quốc tế mới có giá trị trên thực tiễn. Thứ hai, điều ước quốc tế được ký kết phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Trong hệ thống pháp luật quốc tế, các nguyên tắc cơ bản là cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống này, chúng là khuôn mẫu pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của luật quốc tế, là thước đo giá trị pháp lý cho tất cả các quy phạm pháp luật quốc tế. Vì vậy mà bất kỳ điều ước quốc tế nào có nội dung trái với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì không có giá trị pháp lý, và vì thế không thể trở thành nguồn của luật quốc tế. 3.2.2. Tập quán quốc tế Tập quán quốc tế ra đời sớm hơn rất nhiều so với điều ước quốc tế. Khi luật quốc tế ra đời, các quy phạm pháp luật của luật quốc tế tồn tại dưới dạng tập quán. Chỉ khi chữ viết ra đời thì dần dần mới hình thành các điều ước quốc tế. Hiện nay, dù phần lớn các quy phạm luật quốc tế được ghi nhận trong điều ước quốc tế thì tập quán quốc tế vẫn tồn tại và vẫn là loại nguồn quan trọng của luật quốc tế. Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng các quy tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật. Sự hình thành tập quán quốc tế dựa trên hai yếu tố: vật chất và tinh thần. Yếu tố vật chất ở đây là sự tồn tại của thực tiễn quốc tế, nghĩa là phải có quy tắc xử sự được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế. Thực tiễn này có hai cách hiểu. Với cách hiểu truyền thống, đó là sự lặp lại một cách thống nhất trong một thời gian dài các sự kiện và hành vi pháp lý. Đây là cách thức để tạo lập nên các tập quán quốc tế truyền thống. Các chủ thể của luật quốc tế đã áp dụng các quy tắc xử sự này trong một quá trình lâu dài, lặp đi lặp lại, liên tục trong thực tiễn quan hệ quốc tế. Với cách hiểu hiện đại, đó là những quy tắc xử sự được hình thành trên cơ sở ký kết, thực hiện điều ước quốc tế hay các thực tiễn khác. Đây là cách thức để tạo lập nên những tập quán quốc tế hiện đại. Các chủ thể của luật quốc tế thừa nhận và áp dụng rộng rãi các quy tắc xử sự này trên cơ sở tuân thủ điều ước quốc tế của các thành viên điều ước. Tức là các chủ thể không phải là thành viên của điều ước có thể lựa chọn khuôn mẫu xử sự nào đó được quy định trong điều ước quốc tế để áp dụng cho các quan hệ quốc tế tương tự. Ví dụ điển hình là các điều ước quốc tế phổ cập như Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc năm 1982 về luật biển quốc tế, Loại tập quán quốc tế này vì thế mà được hình thành rất nhanh chóng trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, tập quán quốc tế hiện đại còn được hình thành thông qua các con đường khác, như thông qua hành vi đơn phương của quốc gia, từ nghị quyết không bắt buộc của tổ chức quốc tế, Yếu tố tinh thần là việc các chủ thể luật quốc tế thừa nhận các quy tắc xử sự đã hình thành là quy phạm luật quốc tế. Điều này có nghĩa là các chủ thể đó nhận thức được rằng, việc áp dụng các quy tắc xử sự thực tiễn đó là đúng về mặt pháp lý, sự không tuân thủ các quy tắc đó là vi phạm pháp luật quốc tế. Và trong quá trình tuân thủ quy tắ xử sự này, các chủ thể luật quốc tế tự mình ràng buộc với các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế. * Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và tập quán quốc tế 13
  14. Xét về thời điểm lịch sử thì tập quán quốc tế ra đời sớm hơn điều ước quốc tế, nhưng chúng đều là những nguồn cơ bản và quan trọng của luật quốc tế. Giữa chúng có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau, cụ thể: Thứ nhất, quy phạm điều ước và quy phạm tập quán có giá trị pháp lý ngang nhau. Điều này có nghĩa là sự tồn tại của điều ước quốc tế không có ý nghĩa loại bỏ giá trị áp dụng của quy phạm tập quán quốc tế có nội dung tương đương. Tuy nhiên, điều ước quốc tế có những ưu thế hơn so với tập quán quốc tế như tính rõ ràng, sự hình thành nhanh chóng và áp dụng thuận lợi. Và về thực tiễn, nhiều trường hợp điều ước quốc tế có giá trị ưu thế hơn, bởi chúng là kết quả của sự thỏa thuận của các chủ thể luật quốc tế theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, chúng thể hiện tương quan lợi ích giữa các thành viên, nên dễ dàng được các thành viên thực thi trên cơ sở tự nguyện. Thứ hai, tập quán quốc tế có ý nghĩa là cơ sở để hình thành nên điều ước quốc tế và ngược lại. Trong quá trình xây dựng các điều ước quốc tế, có rất nhiều các quy phạm tập quán được các nhà làm luật tập hợp và pháp điển hóa thành các quy phạm điều ước. Trong khi đó nhiều điều ước quốc tế phổ cập được các quốc gia không phải là thành viên vận dụng và coi đó là những quy phạm pháp lý quốc tế ràng buộc mình dưới tư cách là tập quán quốc tế. Thứ ba, quy phạm tập quán có thể bị thay đổi, hủy bỏ bằng con đường điều ước quốc tế và cá biệt, cũng có trường hợp điều ước quốc tế bị thay đổi, hủy bỏ bằng con đường tập quán quốc tế. 3.3. Các phương tiện bổ trợ cho nguồn 3.3.1. Các nguyên tắc pháp lý chung Tại điểm c khoản 1 điều 38 Quy chế tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc quy định Tòa án áp dụng “các nguyên tắc pháp lý được các dân tộc văn minh thừa nhận”. Tuy nhiên trên thực tế lại chưa tồn tại bất kỳ một văn bản pháp lý quốc tế nào chỉ rõ việc hiểu như thế nào cho đúng về các nguyên tắc pháp lý chung. Quan điểm thứ nhất cho rằng, các nguyên tắc pháp lý chung này là những nguyên tắc chung cho tất cả các hệ thống pháp luật của tất cả các “dân tộc văn minh”. Chúng là những nguyên tắc đặc thù trong xã hội tư bản về tôn trọng quyền sở hữu cá nhân, coi quyền này là bất khả xâm phạm và Nhà nước không được quyền can thiệp vào. Theo quan điểm thứ hai, chúng chính là các nguyên tắc chung của luật tự nhiên và công bằng. Quan điểm thứ ba, các nguyên tắc pháp lý chung chính là các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Quan điểm thứ tư nhận định rằng, các nguyên tắc đó là các nguyên tắc áp dụng chung cho tất cả hệ thống pháp luật quốc gia. Tất cả các quan điểm này đều không phản ánh đúng bản chất của luật quốc tế. Hiện nay, xu hướng chung là quan niệm chúng là các nguyên tắc áp dụng cho cả luật quốc gia và luật quốc tế, như: luật không có hiệu lực hồi tố, không ai có thể trao quyền cho người khác hơn những quyền mà mình có, 3.3.2. Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc 14
  15. Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc có giá trị chung thẩm, bắt buộc các bên phải thực hiện. Về nguyên tắc, các phán quyết của Tòa chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp trong từng vụ việc nhất định. Tuy nhiên, các phán quyết này có thể làm sáng tỏ nội dung một hay một số quy phạm luật quốc tế hiện hành, tạo tiền đề pháp lý hình thành quy phạm mới của luật quốc tế. Bên cạnh đó, phán quyết của Tòa án quốc tế còn tác động tích cực đến quan niệm, cách ứng xử của các chủ thể trong quan hệ quốc tế cũng như trong một chừng mực có tác dụng bổ sung những khiếm khuyết của luật quốc tế. Chính vì thế mà phán quyết của Tòa án công lý quốc tế chỉ có tác dụng là phương tiện hỗ trợ cho hành vi của các chủ thể luật quốc tế khi áp dụng một quy phạm pháp luật quốc tế cụ thể. 3.3.3. Các học thuyết về luật quốc tế Các học thuyết về luật quốc tế là những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong các công trình nghiên cứu, tác phẩm và kết luận của các học giả - luật gia về những vấn đề lý luận cơ bản của luật quốc tế. Những học thuyết này có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nhận thức của con người về luật quốc tế, tác động và ảnh hưởng đến quan điểm và hành vi của các chủ thể luật quốc tế về các vấn đề pháp lý quốc tế. Trong nhiều trường hợp, chúng đưa ra những lý giải, phân tích về điều ước quốc tế, tập quán quốc tế để làm sáng tỏ nội dung của chúng, qua đó giúp cho việc áp dụng một cách đúng đắn hơn các quy phạm đó vào từng trường hợp cụ thể. Hơn thế nữa, các học thuyết về luật quốc tế của các học giả - luật gia danh tiếng còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự hình thành luật quốc tế. 3.3.4. Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ gồm hai loại: nghị quyết có tính bắt buộc và nghị quyết có tính khuyến nghị. Các nghị quyết bắt buộc của tổ chức quốc tế liên chính phủ là kết quả của sự thỏa thuận của các thành viên tổ chức và mang tính quy phạm. Loại nghị quyết này trở thành nguồn được các thành viên của tổ chức viện dẫn đến để giải quyết các quan hệ phát sinh giữa các thành viên này. Nghị quyết khuyến nghị là những văn kiện quốc tế có tính định hướng, chủ trương, biện pháp giải quyết từng vấn đề cụ thể trong quan hệ quốc tế và không mang giá trị bắt buộc thực hiện. Loại nghị quyết này không chứa đựng các quy phạm luật quốc tế mà có ý nghĩa giải thích, hướng dẫn áp dụng các quy phạm luật quốc tế hoặc tạo tiền đề cho việc hình thành các quy phạm luật quốc tế. 3.3.5. Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia là các hành vi pháp luật có tính chất quốc tế về cả hai phương diện hình thức và nội dung, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, với mục đích tạo ra các kết quả nhất định trong các quan hệ quốc tế. Đây là sự thể hiện ý chí một cách độc lập của loại chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Hành vi này sinh ra nghĩa vụ pháp lý quốc tế đối với quốc gia đã có hành vi nhưng không tạo ra quy phạm pháp lý ràng buộc các quốc gia khác. 15
  16. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có các loại hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia sau: Hành vi công nhận: là hành vi thể hiện một cách minh thị hay mặc thị xác nhận một tình hình hoặc một yêu cầu nào đó là phù hợp với pháp luật. Hành vi cam kết: là hành vi tạo ra các nghĩa vụ mới bằng cách đơn phương chấp nhận ràng buộc với một nghĩa vụ pháp lý quốc tế vì quyền lợi của chủ thể khác. Hành vi phản đối: là hành vi không công nhận một hoàn cảnh, một yêu cầu hoặc một thái độ xử sự của một chủ thể khác. Hành vi từ bỏ: là hành vi thể hiện ý chí độc lập của quốc gia tự nguyện từ bỏ các quyền hạn nhất định. 4. MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT QUỐC TẾ VÀ LUẬT QUỐC GIA 4.1. Cấu trúc hệ thống luật quốc tế Luật quốc tế là một hệ thống pháp luật cùng song song tồn tại với hệ thống pháp luật của các quốc gia. Tuy nhiên, khái niệm về hệ thống này cũng như cấu trúc của hệ thống vẫn còn là một vấn đề mới mẻ và phức tạp, dù luật quốc tế đã có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài. Khi xem xét khái niệm về cấu trúc hệ thống luật quốc tế, chúng ta xem xét nó ở hai góc độ, cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài. Hệ thống cấu trúc bên trong của luật quốc tế bao gồm các yếu tố sau: các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật, các ngành luật và chế định độc lập. Các nguyên tắc của luật quốc tế gồm: các nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc chuyên ngành và các nguyên tắc mang tính chất khu vực. Các quy phạm luật quốc tế được phân biệt căn cứ vào nội dung và vị trí trong hệ thống luật quốc tế, vào giá trị hiệu lực và vào hình thức thể hiện. Các quy phạm luôn ảnh hưởng đến nhau và bổ sung cho nhau. Sự liên kết thống nhất các quy phạm tác động đến chất lượng của luật quốc tế. Các ngành luật và chế định độc lập, như Luật điều ước quốc tế, Luật biển quốc tế, Luật hàng không quốc tế, Luật ngoại giao và lãnh sự, Hệ thống cấu trúc bên ngoài của luật quốc tế chính là sự tương thích với đặc thù quá trình hình thành và phương thức viện dẫn, áp dụng các loại nguồn của chủ thể luật quốc tế. Vì thế hệ thống cấu trúc của luật quốc tế dưới góc độ này có thể chia thành các nguồn chứa đựng quy phạm luật quốc tế và các phương tiện bổ trợ cho nguồn. 4.2. Mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và luật quốc gia 4.2.1. Cơ sở lý luận cho mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và luật quốc gia Trong khoa học pháp lý quốc tế, mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia không chỉ mang tính lý luận cơ bản mà còn có ý nghĩa lớn trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực hiện luật pháp quốc tế cũng như luật pháp quốc gia. Và trải qua quá trình phát triển của pháp luật, đây vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Thuyết nhất nguyên luận và Thuyết nhị nguyên luận là hai học thuyết tiêu biểu giải quyết mối quan hệ này. Thuyết 16
  17. nhất nguyên luận quan niệm pháp luật là hệ thống thống nhất, bao gồm hai bộ phận là luật quốc tế và luật quốc gia. Quy phạm của hai bộ phận pháp luật này được xếp theo thứ bậc trên dưới, và trong học thuyết lại chia thành trường phái ưu tiên luật quốc tế và trường phái ưu tiên luật quốc gia. Thuyết nhị nguyên luận quan niệm luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật khác nhau, tồn tại song song và độc lập với nhau, không tồn tại mối quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên, hai thuyết này vẫn là những học thuyết phiến diện, chưa nhìn nhận, đánh giá hai hệ thống pháp luật nói trên một cách khách quan. Cách tiếp cận hiện đại về mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia trên cơ sở làm sáng tỏ cơ sở lý luận, đồng thời chỉ ra tính chất của sự tác động qua lại giữa hai hệ thống pháp luật này. Nền tảng quyết định của mối quan hệ này chính là sự thống nhất, gắn bó giữa hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Xuất phát từ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp mà chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có mối liên hệ và tác động qua lại một cách biện chứng. Trong đó, chức năng đối nội giữ vai trò chủ đạo, có ý nghĩa quyết định đối với chức năng đối ngoại; và việc thực hiện chức năng đối ngoại có ảnh hưởng tới việc thực hiện chức năng đối ngoại. Để thực hiện hai chức năng này, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, phương tiện khác nhau mà trong đó nổi bật và có hiệu quả nhất chính là pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Mối quan hệ này còn hình thành từ một số chức năng chung của hai hệ thống pháp luật trong quá trình điều chỉnh các quan hệ pháp luật mà quốc gia là chủ thể. Đó là thể hiện ý chí của quốc gia và bảo vệ lợi ích của quốc gia mà cụ thể là ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị tại quốc gia đó, cũng như tính đến lợi ích chung của xã hội. 4.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và luật quốc gia * Luật quốc gia ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát triển của luật quốc tế Những ảnh hưởng có tính quyết định của luật quốc gia đối với luật quốc tế thể hiện ở nhiều nội dung, cấp độ và phương thức khác nhau. Xét về nguồn gốc hình thành, luật quốc gia có trước và là nền tảng cho sự hình thành và phát triển của luật quốc tế thông qua sự tham gia của các quốc gia vào các quan hệ quốc tế nhằm thực hiện chức năng đối ngoại của mình. Lịch sử đã chứng minh rằng, luật quốc tế tồn tại và phát triển mạnh mẽ như hiện nay là do sự phát triển của hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Ở góc độ từng quốc gia, mỗi quốc gia đều cố gắng đưa vào pháp luật quốc tế những ảnh hưởng và hướng điều chỉnh của mình xuất phát từ vấn đề lợi ích. Tức là mỗi quốc gia tham gia vào quan hệ quốc tế theo những cách riêng của mình trên cơ sở những lợi ích mà luật quốc tế và cộng đồng quốc tế có thể mang lại. Vì thế luật quốc tế hình thành và phát triển bằng sự hợp tác, liên kết, đấu tranh hay nhân nhượng lẫn nhau giữa các quốc gia. Ảnh hưởng của luật quốc gia tới luật quốc tế còn là sự bảo đảm về mặt pháp lý cùng với các điều kiện về vật chất, môi trường cho sự hình thành và phát triển của các ngành luật trong luật quốc tế, dù là các ngành luật truyền thống như Luật biển quốc tế, 17
  18. Luật ngoại giao và lãnh sự, hay các ngành luật hiện đại như Luật hàng không quốc tế, Luật môi trường quốc tế, Luật vũ trụ, * Luật quốc tế tác động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện của luật quốc gia Luật quốc tế về bản chất, đó là kết quả của sự thỏa thuận giữa các quốc gia, cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế. Vì thế luật quốc tế thể hiện rất nhiều sự tiến bộ, thành tựu mới của khoa học pháp lý. Thông qua quá trình thực thi luật quốc tế, các quốc gia áp dụng những tiến bộ, thành tựu này vào đất nước mình, mang lại cho pháp luật quốc gia mình những giá trị mới. Tóm lại, mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa hai hệ thống pháp luật này mà không phụ thuộc vào cách quy quy định của mỗi quốc gia về quan hệ này. Trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện đại, với xu hướng toàn cầu hóa thì mối quan hệ này yêu cầu mỗi quốc gia phải nâng cao hiệu quả pháp luật, hiệu lực quản lý nhà nước để trở thành một bộ phận không thể thiếu của cộng đồng quốc tế cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia mình. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Phân tích khái niệm và đặc trưng của luật quốc tế. 2. Quy phạm luật quốc tế là gì? Các cách phân loại quy phạm luật quốc tế phổ biến? 3. Trình bày lịch sử phát triển của luật quốc tế? 4. Vấn đề nguồn của luật quốc tế? 5. Nêu và phân tích mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia? CHƯƠNG 2 18
  19. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1. KHÁI NIỆM CHUNG 1.1. Định nghĩa Một trong những đặc trưng của luật quốc tế chính là sự tồn tại các nguyên tắc cơ bản có hiệu lực pháp lý tối cao trong quan hệ pháp luật quốc tế. Không những thế, chúng còn có tác động đối với đời sống quốc tế khi mang trong mình cả sức mạnh về chính trị và đạo đức. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi chủ thể luật quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế gồm 7 nguyên tắc: nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực, nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác, nguyên tắc dân tộc tự quyết và nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế. Trong số này có hai nguyên tắc được hình thành trước thời kỳ luật hiện đại, đó là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế. Có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại với tiền thân là nguyên tắc “Tuân thủ điều ước quốc tế”, nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế là nguyên tắc có lịch sử ra đời sớm nhất. Còn nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia thì phải đến khi loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa thì nó mới ra đời, nhưng với cách hiểu và phạm vi áp dụng còn rất hạn hẹp. Phải đến khi Liên hợp quốc ra đời cùng với sự phát triển của luật quốc tế hiện đại thì nguyên tắc này mới có giá trị như hiện nay. Có năm nguyên tắc lần đầu tiên được ghi nhận là tại Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945. Trong đó hai nguyên tắc: các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác và dân tộc tự quyết thì phải đến Tuyên bố về những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc ngày 24/10/1970 (còn gọi là Tuyên bố 1970) mới được công nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại, còn trước đó dù được nhắc tới trong Hiến chương Liên hợp quốc nhưng với tư cách là tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức này. 1.2. Đặc điểm Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có bốn đặc điểm sau: * Tính mệnh lệnh bắt buộc chung Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những quy phạm có tính mệnh lệnh (Jus cogens) có giá trị pháp lý cao nhất, bắt buộc thực hiện đối với mọi chủ thể luật quốc tế, trong tất cả các quan hệ luật quốc tế. Các nguyên tắc này là cơ sở, nền tảng của toàn bộ hệ thống luật quốc tế, không một quy phạm luật quốc tế nào, dù là quy phạm điều ước hay quy phạm tập quán trái với nguyên tắc cơ bản lại được coi là hợp pháp. Bất kỳ hành vi nào của không tuân thủ triệt để nguyên tắc cơ bản đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế. Không một chủ thể hay một nhóm chủ thể nào của luật quốc tế có quyền hủy bỏ nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và hành vi hủy bỏ đó bị coi là vô hiệu ngay từ đầu. 19
  20. * Tính bao trùm Tính bao trùm của các nguyên tắc cơ bản luật quốc tế chính là việc chúng được thực hiện trong tất cả các quan hệ quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế. Chúng còn đóng vai trò tổng quát hóa toàn bộ nội dung các quy phạm khác của luật quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản thậm chí còn tác động đến cả những lĩnh vực quan hệ của các chủ thể luật quốc tế mà chưa được quy phạm cụ thể điều chỉnh. * Tính hệ thống Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có mối quan hệ qua lại với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Chỉ tồn tại trong sự tác động qua lại với nhau thì chúng mới có khả năng hoàn thành các chức năng của mình. Việc tôn trọng hay phá vỡ nguyên tắc này sẽ làm ảnh hưởng đến nội dung và việc tuân thủ nguyên tắc khác. Vì vậy, khi giải thích và áp dụng từng nguyên tắc cần phải xem xét, đối chiếu, so sánh nó trong mối quan hệ với tất cả các nguyên tắc còn lại. * Tính phổ cập Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Chúng được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng và có tính chất toàn cầu như: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên bố 1970, và trong rất nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương khác. 2. NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN 2.1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là một trong hai nguyên tắc cơ bản truyền thống của luật quốc tế và xuất hiện từ rất sớm trong đời sống quốc tế. Đây là nguyên tắc được hình thành trong thời kỳ loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa, và trở thành nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế từ thời tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi đó nguyên tắc này chỉ được áp dụng giữa các quốc gia “văn minh”, tức là các quốc gia đế quốc châu Âu thời bấy giờ mà không được áp dụng cho các quốc gia nhỏ, nghèo, bị xâm lược và “kém văn minh”. Đến năm 1945, khi Liên hợp quốc ra đời, với tôn chỉ và mục đích giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới, Hiến chương Liên hợp quốc đã ghi nhận nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia tại khoản 1 điều 2 “Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa tất cả các hội viên”. Đến Tuyên bố 1970 thì nguyên tắc này được ghi nhận một cách đầy đủ nội dung pháp lý. Sau này, nó được thể hiện tại rất nhiều văn kiện quốc tế toàn cầu cũng như khu vực, thậm chí là các điều ước quốc tế song phương. Đây là nguyên tắc xuất phát điểm của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Không những thế, nguyên tắc này còn đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập, xây dựng và duy trì trật tự pháp lý quốc tế. Chủ quyền là thuộc tính chính trị - pháp lý vốn có, không thể tách rời của quốc gia, bao gồm hai nội dung chủ yếu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia được toàn quyền thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, thông qua các quyết định về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Trong quan hệ quốc tế 20
  21. quốc gia được quyền tự quyết định mọi vấn đề đối ngoại của mình mà không có sự can thiệp, áp đặt từ chủ thể khác. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia có nghĩa là các quốc gia dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, có tiềm lực mạnh hay yếu đều hoàn toàn bình đẳng với nhau về chủ quyền. Tuy nhiên, sự bình đẳng này chỉ được trọn vẹn khi mỗi quốc gia vừa đạt được lợi ích của mình mà không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của quốc gia khác cũng như tôn trọng lợi ích của cộng đồng quốc tế. Tuyên bố 1970 nêu ra nội dung chính của bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia bao gồm: - Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý. - Mỗi quốc gia có chủ quền hoàn toàn và đầy đủ. - Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của quốc gia khác. - Sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập về chính trị là bất di bất dịch. - Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa của mình. - Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn tại hòa bình cùng các quốc gia khác. 2.2. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực Luật quốc tế trước thời kỳ hiện đại coi chiến tranh là phương tiện hữu hiệu để giải quyết mọi xung đột, mọi tranh chấp quốc tế. Nó được thừa nhận như một “quyền” của mỗi quốc gia – Quyền được tiến hành chiến tranh. Công ước Lahaye năm 1899 về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và Công ước năm 1907 về hạn chế sử dụng vũ lực đối với quốc gia vi phạm cam kết quốc tế là những công ước quốc tế toàn cầu đầu tiên đã không coi việc tiến hành chiến tranh là quyền của quốc gia, nhưng cũng chưa đưa ra quy định ngăn cấm chiến tranh, mà chỉ kêu gọi các quốc gia "với khả năng có thể" thì ngăn ngừa nguy cơ dùng vũ lực. Như vậy, trước Chiến tranh thế giới thứ hai những quy định về việc không sử dụng vũ lực chỉ là những quan điểm, ý tưởng và chưa trở thành nguyên tắc mang tính bắt buộc chung. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự ra đời của Liên hợp quốc, Hiến chương của tổ chức quốc tế này đã nghiêm cấm việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực tại khoản 4 điều 2 “Tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc từ bỏ đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc”. Vũ lực trước hết được hiểu là việc sử dụng lực lượng vũ trang chống lại một quốc gia độc lập có chủ quyền, hay là việc sử dụng lực lượng vũ trang để cưỡng bước, khống chế, đe dọa tấn công một quốc gia khác. Sau nữa, vũ lực còn được hiểu là việc sử dụng các sức mạnh phi vũ trang, như là các biện pháp chính trị, kinh tế, quân sự mà quốc gia này sử dụng để chống lại hay gây sức ép, đe dọa quốc gia khác. Nguyên tắc này nghiêm cấm mọi hình thức sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nội dung cụ thể của nguyên tắc này bao gồm: - Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của luật quốc tế. - Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực. 21
  22. - Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống quốc gia thứ ba. - Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia khác. - Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng phi vũ trang chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác. Tuy nhiên, luật quốc tế cho phép các quốc gia có quyền sử dụng lực lượng vũ trang để thực hiện quyền tự vệ hợp pháp. Cơ sở pháp lý cho quyền tự vệ này chính là điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc. Theo quy định của điều 51, quốc gia có quyền tự vệ bằng lực lượng vũ trang khi bị xâm lược vũ trang. Nhưng Hiến chương lại chưa có định nghĩa “xâm lược”. Phải đến năm 1974, Liên hợp quốc mới đưa ra định nghĩa đó trong Nghị quyết 3314 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về định nghĩa xâm lược. Theo đó xâm lược là việc một nước sử dụng lực lượng vũ trang tấn công, vi phạm đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của một nước khác hoặc dưới bất kỳ hình thức nào. Nghị quyết đưa ra một danh sách không giới hạn những hành vi bị coi là xâm lược, và đồng thời trao cho Hội đồng bảo an quyền được quyết định có hay không hành vi xâm lược trong những tình huống cụ thể. Từ điều 39 đến điều 42 của Hiến chương Liên hợp quốc đã trao cho Hội đồng bảo an quyền được sử dụng các biện pháp vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh thế giới khi thấy có sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược. Theo đó, khi những biện pháp phi quân sự được khuyến nghị không đủ để giải quyết tranh chấp thì Hội đồng bảo an có quyền thi hành, bằng các lực lượng hải, lục, không quân, mọi hành động nếu xét thấy cần thiết. Hành động này có thể gồm những cuộc thị uy, những biện pháp phong tỏa và những cuộc hành binh khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của các hội viên Liên hợp quốc thực hiện. 2.3. Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế gắn với sự hình thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực, và thực tế nó là hệ quả tất yếu của nguyên tắc này. Trong hệ thống Công ước Lahaye năm 1899 và 1907 có Công ước về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên Công ước này chỉ kêu gọi các quốc gia tự nguyện thực hiện các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng vũ lực. Với sự ra đởi của Liên hợp quốc, Hiến chương đã lần đầu tiên nâng vấn đề này lên thành nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, và ghi nhận tại khoản 3 điều 2 “Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, an ninh và công lý”. Để hiểu rõ nội dung của nguyên tắc thì chúng ta cần làm rõ khái niệm “tranh chấp quốc tế”. Đến nay, luật quốc tế lại chưa có định nghĩa chính xác và được thừa nhận rộng rãi về tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên có thể hiểu, tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế và những bất đồng về những vấn đề cơ bản của luật quốc tế. Nguyên tắc này yêu cầu các chủ thể luật quốc tế phải giải quyết các tranh chấp quốc tế của mình bằng các phương pháp hòa bình để không dẫn đến đe dọa hòa bình và 22
  23. an ninh quốc tế cũng như sự công bằng. Các phương pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp quốc tế có thể kể đến là: đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, hoặc sử dụng các tổ chức hoặc hiệp định khu vực, hay sử dụng bất kỳ biện pháp hòa bình nào khác. Như vậy, các bên trong tranh chấp quốc tế có toàn quyền tự do lựa chọn hay sáng tạo biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp của mình. Bên cạnh đó các bên tranh chấp phải từ bỏ bất kỳ hành vi nào có thể sẽ làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại, đe dọa hoặc phá hoại hòa bình và an ninh thế giới. Các bên phải giải quyết tranh chấp trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, của các chủ thể khác và của cả cộng đồng quốc tế. 2.4. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác Nguyên tắc này xuất hiện từ thời kỳ cách mạng tư sản với sự công nhận của một số quốc gia trong các văn bản pháp luật của mình. Ví dụ, Hiến pháp của Pháp quy định: “nước Pháp không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác và không cam chịu để các quốc gia khác can thiệp vào công việc nội bộ của mình”. Dần dần nó trở thành một nguyên tắc pháp lý quốc tế nhưng vẫn chưa được áp dụng rộng rãi mà bị hạn chế bởi nguyên tắc vũ lực “lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” và cho phép sử dụng các hình thức can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Và phải đến khi Liên hợp quốc ra đời thì Hiến chương tổ chức này đã lần đầu tiên thể hiện rõ ràng nội dung của nguyên tắc này và nâng nó lên thành một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế tại khoản 7 điều 2. Để hiểu đúng nội dung của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác thì cần phải hiểu đúng khái niệm “công việc nội bộ của mỗi quốc gia”. Khái niệm này được hiểu là các phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước dựa trên cơ sở chủ quyền của quốc gia, bao gồm toàn bộ những hoạt động mang tính chất đối nội và đối ngoại của quốc gia, được tiến hành phù hợp với luật quốc gia và luật quốc tế. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng trong thời kỳ hiện đại, ranh giới giữa công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của quốc gia và công việc có sự tham gia của cộng đồng quốc tế trong nhiều trường hợp không hoàn toàn độc lập với nhau mà có sự đan xen nhất định. Thế thì can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác được tiến hành như thế nào? Thực tế can thiệp được các quốc gia thực hiện theo hai cách, can thiệp trực tiếp và can thiệp gián tiếp. Can thiệp trực tiếp là việc một hoặc một nhóm quốc gia dùng áp lực quân sự, chính trị, kinh tế và các biện pháp khác nhằm khống chế quốc gia khác trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền, nhằm ép buộc quốc gia đó phụ thuộc vào mình. Can thiệp gián tiếp là các biện pháp quân sự, kinh tế, do quốc gia tổ chức để khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố lật đổ chính quyền hợp pháp của quốc gia khác hoặc gây mất ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của nước này. Nội dung của nguyên tắc chính là không cho phép bất kỳ quốc gia nào được quyền can thiệp vào các lĩnh vực thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia xuất phát từ chủ quyền của mình. Cụ thể: - Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia. - Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc vào mình. 23
  24. - Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác. - Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ ở quốc gia khác. - Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa phù hợp với nguyện vọng của dân tộc. Các chủ thể của luật quốc tế thừa nhận việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác trong các trường hợp sau: Thứ nhất, khi có xung đột vũ trang xảy ra trong nội bộ của quốc gia và cuộc xung đột đạt đến mức độ nghiêm trọng, có thể gây ra mất ổn định trong khu vực, đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế thì cộng đồng quốc tế - thông qua Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, được quyền hành động để đảm bảo hòa bình và an ninh quốc tế. Thứ hai, khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh quốc tế thì Liên hợp quốc có quyền can thiệp. 2.5. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác Sự hợp tác giữa các quốc gia đã hình thành từ khi xuất hiện những nhà nước ở trong cùng một khu vực địa lý. Và dần dần, cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại nói chung và của nhà nước nói riêng mà sự hợp tác đó gia tăng cả số lượng và chất lượng. Ngày nay, trong xu thế tất yếu của toàn cầu hóa càng đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia trên cơ sở các bên cùng có lợi. Sự hợp tác của các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực còn nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Lần đầu tiên, ý tưởng về nguyên tắc này được thể hiện tại khoản 3 điều 1 của Hiến chương Liên hợp quốc nhưng mới chỉ dưới góc độ là mục đích hoạt động của Liên hợp quốc. Phải đến Tuyên bố năm 1970 thì nó mới được thể hiện là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác đóng vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh vực hợp tác của các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Nội dung cụ thể của nguyên tắc như sau: - Quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. - Các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung và tuân thủ quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các hình thức phân biệt tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc. - Các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, thương mại và kỹ thuật, công nghệ theo các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. - Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải thực hiện các hành động chung hay riêng trong việc hợp tác với Liên hợp quốc theo quy định của Hiến chương. - Các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa, khoa học, công nghệ nhằm khuyến khích sự tiến bộ về văn hóa, giáo dục, phát triển kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. 2.6. Nguyên tắc dân tộc tự quyết 24
  25. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, nguyên tắc dân tộc tự quyết chỉ là một nguyên tắc có tính chính trị trong phạm trù ý thức pháp luật của các dân tộc. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nguyên tắc này được khẳng định và ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế và là cơ sở pháp lý cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới mà đỉnh điểm là giai đoạn 1945 – 1960. Nó được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến chương Liên hợp quốc, tại 2 điều 1, nhưng không phải dưới vai trò là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mà chỉ là một mục đích của Liên hợp quốc. Đến Tuyên bố 1970 thì nó mới trở thành một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” chỉ việc một dân tộc hoàn toàn tự do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường lối phát triển đất nước. Đây không phải là quyền tự quyết của dân tộc theo nghĩa là sự tập hợp của các sắc tộc hay quyền tự quyết của dân tộc thiểu số trong các quốc gia. Quyền dân tộc tự quyết ở đây chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân cư thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định – chủ thể của luật quốc tế. Nội dung nguyên tắc dân tộc tự quyết: - Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện. - Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế xã hội. - Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài. - Quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự. - Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý. Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân tộc đều phải được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng. 2.7. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda) Đây là nguyên tắc có lịch sử lâu đời nhất trong số các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Tiền thân của nó là nguyên tắc “Tuân thủ điều ước quốc tế” xuất hiện từ thời La Mã cổ đại và tồn tại rất lâu dưới dạng tập quán quốc tế trước khi được ghi nhận trong điều ước quốc tế. Ngày nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong rất nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương, quan trọng nhất phải kể đến là tại khoản 2 điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế, Tuyên bố 1970 của Liên hợp quốc về các nguyên tắc của luật quốc tế, Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế có nội dung như sau: - Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện, có thiện chí, trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ điều ước quốc tế của mình. - Mọi quốc gia đều phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự. - Các quốc gia thành viên không được viện dẫn các quy định của pháp luật trong nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. 25
  26. - Các quốc gia không có quyền ký kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia ký kết hoặc tham gia ký kết trước đó với các quốc gia khác. - Không cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại điều ước quốc tế. Hành vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ và được xem xét hợp pháp theo sự thỏa thuận của các bên là thành viên điều ước. - Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự giữa các quốc gia thành viên của điều ước quốc tế không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự này là cần thiết cho việc thực hiện điều ước. Nguyên tắc này cho phép các quốc gia có thể không thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên trong các trường hợp sau: Thứ nhất, các quốc gia không phải thực hiện điều ước quốc tế nếu trong quá trình ký kết các bên có sự vi phạm pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục ký kết. Thứ hai, khi điều ước quốc tế có nội dung trái với mục đích các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Thứ ba, khi có sự vi phạm nghiêm trọng của một bên thì bên hoặc các bên còn lại có quyền từ chối thực hiện điều ước quốc tế trên cơ sở có đi có lại. Thứ tư, khi có sự thay đổi cơ bản hoàn cảnh (điều khoản Rebus sic stantibus) dẫn đến việc các bên không thể tiếp tục thực hiện điều được điều ước quốc tế. Những thay đổi được coi là thay đổi cơ bản hoàn cảnh khi mà thay đổi này các bên không thể thấy trước được vào thời điểm ký kết điều ước quốc tế, và: - Sự tồn tại của hoàn cảnh đó là cơ sở chủ yếu của sự đồng ý của các bên chịu sự ràng buộc của điều ước. - Sự thay đổi đó làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên vẫn phải thi hành theo điều ước. Khi đó các bên có thể lựa chọn: chấm dứt điều ước quốc tế hoặc rút khỏi điều ước quốc tế hay tạm đình chỉ thi hành việc thi hành điều ước quốc tế. Tuy nhiên, các thay đổi của hoàn cảnh không được chấp nhận làm lý do cho việc đình chỉ thực hiện hoặc rút khỏi điều ước quốc tế: - Nếu đó là một điều ước quy định về đường biên giới; hoặc - Nếu sự thay đổi cơ bản là kết quả của một sự vi phạm của chính bên nêu lên nó. Thứ năm, khi nảy sinh một quy phạm bắt buộc chung (Jus cogens) mới thì mọi điều ước quốc tế hiện hữu mâu thuẫn với quy phạm đó sẽ trở thành vô hiệu và sẽ chấm dứt. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Trình bày khái niệm và đặc điểm của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế? 2. Nêu và phân tích nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia? 3. Nêu và phân tích nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực? 26
  27. 4. Nêu và phân tích nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế? 5. Nêu và phân tích nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác? 6. Nêu và phân tích nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác? 7. Nêu và phân tích nguyên tắc dân tộc tự quyết? 8. Nêu và phân tích nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế? CHƯƠNG 3 CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ 1. KHÁI NIỆM CHỦ THỂ LUẬT QUỐC TẾ 27
  28. 1.1. Định nghĩa Trong khoa học pháp lý nói chung, khi đề cập đến bất kỳ ngành luật nào của pháp luật quốc gia hay chính hệ thống pháp luật quốc gia cũng như hệ thống luật quốc tế đều phải nhắc đến chủ thể của pháp luật. Về phương diện khoa học và pháp lý, để xác định được chủ thể của luật quốc tế phải căn cứ vào các dấu hiệu cơ bản sau: - Là những thực thể tham gia một cách thực tế vào những quan hệ quốc tế được luật quốc tế điều chỉnh. - Là những thực thể tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế với ý chí độc lập của mình. Điều này có nghĩa là các thực thể này không bị chi phối, lệ thuộc hay bị áp đặt từ bất kỳ chủ thể nào khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế mà phải xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của thực thể đó. - Là những thực thể có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế. Các chủ thể khác nhau khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế khác nhau phụ thuộc vào việc chủ thể đó thiết lập mối quan hệ với chủ thể nào, bằng mối quan hệ gì, thuộc lĩnh vực nào, - Là những thực thể có khả năng độc lập gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà mình gây ra. Như vậy, chủ thể luật quốc tế là thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ, có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể đó thực hiện. Các loại chủ thể của luật quốc tế bao gồm: quốc gia được xác định là chủ thể cơ bản và phổ biến của luật quốc tế, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể đặc biệt và tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể phái sinh của luật quốc tế. Trong xu thế của hợp tác và phát triển kinh tế trong thời đại ngày nay, các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức quốc tế phi chính phủ có vai trò ngày càng tăng trong các quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó là sự tham gia nhất định của các cá nhân vào những quan hệ quốc tế đặc thù. Tuy nhiên, cá nhân, pháp nhân hay tổ chức quốc tế phi chính phủ không thể và không phải là chủ thể của luật quốc tế. Bởi vì trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, những thực thể này không thể có vị trí bình đẳng với các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Chúng luôn chịu sự điều chỉnh và chi phối của hệ thống pháp luật quốc gia, điển hình là các quyền và nghĩa vụ pháp lý, xuất phát từ chủ quyền quốc gia. 1.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế Quyền năng chủ thể luật quốc tế là những phương diện thể hiện khả năng pháp lý đặc trưng của những thực thể pháp lý được hưởng những quyền và gánh vác những nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ quốc tế theo quy định của luật quốc tế. Quyền năng này có thể xem xét dưới hai góc độ: Về lý luận, thuộc tính chủ quyền gắn với địa vị pháp lý quốc tế của quốc gia trong các quan hệ pháp luật quốc tế, tạo ra sự phân biệt về địa vị pháp lý giữa quốc gia với chủ thể do quốc gia tạo thành là các tổ chức quốc tế liên chính phủ (liên quốc gia). Cách tiếp cận này cho phép phân loại chủ thể luật quốc tế thành các chủ thể có chủ quyền và chủ thể có quyền năng phái sinh. 28
  29. Về pháp lý, quốc gia, dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và tổ chức quốc tế được thừa nhận là những thực thể có những quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản từ chính khả năng thực tế của những thực thể này khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế. Trong các chủ thể nói trên, quốc gia là chủ thể đặc biệt với đặc trưng nổi bật là sự tồn tại có tính quyết định của yếu tố chủ quyền. Chủ quyền đem lại cho quốc gia vị trí trung tâm của mọi mối quan hệ pháp lý quốc tế, là chủ thể tự xác định phạm vi quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý quốc tế cho chính mình và cho các chủ thể hay thực thể khác. Vì vậy, sự tham gia của các chủ thể khác vào quan hệ pháp luật quốc tế đều bị chi phối, ảnh hưởng bởi vai trò trung tâm của quốc gia. 2. QUỐC GIA – CHỦ THỂ CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 2.1. Quan niệm về quốc gia và vấn đề chủ quyền quốc gia Trong hệ thống pháp luật quốc tế, quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu, có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng. Xem xét về khái niệm quốc gia phải gắn liền với các yếu tố hình thành và phát triển của quốc gia. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất trên bình diện quốc tế về quốc gia. Tuy nhiên, đã có những tiêu chí được thừa nhận rộng rãi về thực thể mang danh nghĩa quốc gia. Theo quy định của điều 1 Công ước Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia thì các tiêu chí đó là: dân cư thường xuyên, lãnh thổ xác định, chính phủ và khả năng tham gia vào các quan hệ với các chủ thể luật quốc tế khác. Dân cư là là một bộ phận không thể thiếu được của quốc gia bởi vì quốc gia trước hết là một tập thể con người, sinh sống và cư trú trên một khu vực lãnh thổ nhất định. Một quốc gia phải có dân cư thường xuyên, tức là đại bộ phận dân cư sinh sống, cư trú ổn định, lâu dài trên lãnh thổ quốc gia là công dân của quốc gia đó, họ được quốc gia quy định và đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Lãnh thổ là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành quốc gia bởi không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được xác định là một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Về phương diện pháp lý, lãnh thổ xác định tức là quốc gia phải có đường biên giới để phân định lãnh thổ với quốc gia khác. Lãnh thổ quốc gia phải được xác định và được thể hiện trên bản đồ hành chính và trên thực địa. Xác định lãnh thổ chính là xác định không gian mà trong đó chủ quyền và quyền lực của quốc gia được thiết lập và thực hiện. Vấn đề kích thước lãnh thổ rộng hay hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia. Quốc gia phải có chính phủ - cơ quan đại diện hợp pháp của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập, không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác. Luật quốc tế không có bất kỳ quy định nào về hình thức tổ chức, cơ cấu quyền lực chính trị của một chính phủ cầm quyền của quốc gia mà vấn đề này hoàn toàn do mỗi quốc gia tự xác định và được thể hiện trong Hiến pháp. Năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể luật quốc tế khác của quốc gia xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại của mình. Thuộc tính chính trị - pháp lý đặc thù của quốc gia là chủ quyền, với thuật ngữ phổ cập là chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của quốc gia trong phạm 29
  30. vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền lực chính trị tối cao, thể hiện qua các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia và quyền quyết định mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, mà các quốc gia khác không có quyền can thiệp. Trong quan hệ quốc tế, quốc gia hoàn toàn độc lập, không bị lệ thuộc vào các quốc gia khác trong việc giải quyết các vấn đề đối ngoại của mình. Thuộc tính chủ quyền là xuất phát điểm của tư cách chủ thể luật quốc tế của quốc gia. Điều đó có nghĩa là quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia xuất phát từ yếu tố tự thân của quốc gia – chủ quyền mà không phải do bất kỳ thực thể nào khác trao cho. 2.2. Quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia Quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia được quy định trong rất nhiều văn bản pháp lý quốc tế, và các quyền, nghĩa vụ này được hình thành và phát triển hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của luật quốc tế. Theo các văn bản pháp lý đó, các quyền cơ bản của quốc gia bao gồm: - Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi. - Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tập thể. - Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập. - Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ. - Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế. - Quyền được trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế phổ biến. Các nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia là: - Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia. - Tôn trọng sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ của các quốc gia khác. - Không áp dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực. - Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. - Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. - Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế. - Tôn trọng những quy phạm Jus cogens và những cam kết quốc tế. - Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, quốc gia có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình trong những lĩnh vực và phạm vi nhất định, với điều kiện không trái với các quy ước quốc tế. Cũng có những trường hợp các quốc gia gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ quốc tế bổ sung nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế mà điển hình chính là các thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. 3. CÁC CHỦ THỂ KHÁC CỦA LUẬT QUỐC TẾ 3.1. Dân tộc đang đấu tranh giành độc lập – chủ thể đặc biệt của luật quốc tế Trong khoa học pháp lý quốc tế, hông phải dân tộc nào cũng được xem là chủ thể của luật quốc tế, mà phải là những dân tộc đáp ứng được các điều kiện sau: 30
  31. - Dân tộc đó đang bị dân tộc khác hay quốc gia khác đô hộ, có nghĩa là đang bị các dân tộc hay quốc gia khác chi phối về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. - Dân tộc đó phải đang tồn tại một cuộc đấu tranh nhằm mục đích giành độc lập, là cuộc đấu tranh nhằm thoát khỏi ách bóc lột để thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền. - Dân tộc đó phải thành lập được một cơ quan lãnh đạo phong trào đại diện cho mình trên trường quốc tế. Cơ quan đại diện đó phải do đa số nhân dân của dân tộc đó bầu ra và ủng hộ. Cơ quan này phải đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Khi tham gia quan hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền độc lập được luật quốc tế hiện đại thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Nói cách khác, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể quá độ lên chủ thể cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, với tính chất chủ thể như vậy, nên các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các quốc gia đều là những chủ thể chủ yếu của luật quốc tế hiện đại và là những chủ thể bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết phát sinh từ chủ quyền dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết. Dân tộc đang đấu tranh giành độc lập có các quyền pháp lý quốc tế cơ bản sau: - Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị mình. - Được pháp luật quốc tế bảo vệ và các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các tổ chức quốc tế, giúp đỡ. - Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại. - Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên chính phủ. - Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập trong quá trình thực thi luật quốc tế. Những nghĩa vụ quốc tế cơ bản của chủ thể này là: tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại. 3.2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ - chủ thể phái sinh của luật quốc tế Các tổ chức quốc tế liên chính phủ đầu tiên xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XIX, nhưng vấn đề quyền năng chủ thể luật quốc tế của thực thể này chỉ được đặt ra trong lý luận và thực tiễn sinh hoạt quốc tế từ nửa sau thế kỷ XX. Cùng với sự phát triển của quá trình quốc tế hóa mọi mặt của đời sống xã hội, số lượng của các tổ chức quốc tế liên chính phủ ngày càng tăng, đến nay lên đến con số trên 300, và có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống quốc tế. Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế, có quyền năng chủ thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan để duy trì hoạt động thường xuyên theo đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức đó. Từ khái niệm, có thể rút ra các đặc điểm của tổ chức quốc tế liên chính phủ như sau: 31
  32. - Là liên kết của các chủ thể luật quốc tế: thành viên của mô hình liên kết tạo thành tổ chức quốc tế chủ yếu là các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Tư cách của các thành viên tổ chức quốc tế liên chính phủ cho phép phân biệt nó với các tổ chức phi chính phủ và các nhà nước liên bang. - Hình thành trên cơ sở một điều ước quốc tế ký kết giữa các thành viên tham gia tổ chức đó: đây là cơ sở pháp lý để hình thành nên tổ chức quốc tế liên chính phủ và duy trì sự phối hợp giữa các quốc gia thành viên bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi. Các điều ước quốc tế này có nhiều tên gọi khác nhau như Hiến chương, Quy chế, Hiệp ước, Công ước, nhưng bản chất của chúng là điều lệ một tổ chức quốc tế cụ thể với những quy định về mục đích, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và hoạt động của tổ chức quốc tế đó. Ngoài ra là các quy định về quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế của các quốc gia thành viên và của chính tổ chức quốc tế trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. Do tính chất của tổ chức quốc tế là một liên kết mang tính chất lâu dài nên các điều lệ của tổ chức quốc tế thường là các điều ước quốc tế vô thời hạn. - Có cơ cấu thường trực để duy trì mọi hoạt động chức năng: các tổ chức quốc tế phải có cơ cấu tổ chức nhất định. Các cơ quan của tổ chức gồm có cơ quan chính và cơ quan bổ trợ. - Có quyền năng chủ thể của luật quốc tế: tư cách chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ không phải là thuộc tính vốn có của tổ chức mà do các quốc gia thừa nhận trao cho. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế dựa trên điều lệ của mỗi tổ chức, trong đó quy định rõ phạm vi quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của các tổ chức quốc tế liên chính phủ dựa trên điều lệ của tổ chức. Do đó các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác nhau sẽ có phạm vi quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế khác nhau. Nhưng nhìn chung, loại chủ thể này có các quyền cơ bản bao gồm: - Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế. - Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử đến. - Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao. - Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau. - Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp quốc. - Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau và giữa thành viên với tổ chức quốc tế. - Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký kết với các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khác. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng có các nghĩa vụ quốc tế nhất định theo các điều ước quốc tế ký kết với các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác. 4. CÔNG NHẬN QUỐC TẾ 4.1. Khái niệm 4.1.1. Định nghĩa 32
  33. Sự xuất hiện và tồn tại trên trường quốc tế những quốc gia trẻ, mới giành được độc lập và việc thành lập tại nhiều quốc gia những chính phủ mới có quy chế pháp lý hoàn toàn khác với quy chế pháp lý của chính phủ đã tồn tại trước đó trong cộng đồng quốc tế tất yếu sẽ gây nên những phản ứng khác nhau cho các quốc gia, các chính phủ khác. Trước các sự kiện trên, các quốc gia, các chính phủ khác thường có những hành động nhất định nhằm thể hiện thái độ, phản ứng của mình, qua đó bày tỏ quan điểm của mình đối với sự kiện này - công nhận trong luật quốc tế. Những hành động như thế thường đưa đến những hệ quả pháp lý nhất định, làm thay đổi hoặc củng cố các mối quan hệ giữa các quốc gia. Công nhận quốc tế là hành vi chính trị - pháp lý của quốc gia công nhận, dựa trên nền tảng các động cơ nhất định, nhằm xác nhận sự tồn tại của thành viên mới trong cộng đồng quốc tế, khẳng định quan hệ của quốc gia công nhận đối với chính sách, chế độ chính trị, kinh tế, của thành viên mới và thể hiện ý định muốn được thiết lập các quan hệ bình thường, ổn định với thành viên mới của cộng đồng quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế. Trong khoa học pháp lý quốc tế, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về ý nghĩa của công nhận quốc tế đối với thành viên mới của cộng đồng quốc tế, hay mối quan hệ giữa công nhận quốc tế với quyền năng chủ thể luật quốc tế. Trong số đó, có hai học thuyết chính về công nhận quốc tế, gồm thuyết cấu thành và thuyết tuyên bố. Thuyết cấu thành ra đời vào đầu thế kỷ XIX và hiện nay vẫn nằm trong cơ sở thực tiễn ngoại giao và hành pháp của nhiều nước. Học thuyết này quan niệm quốc gia mới được thành lập chỉ có thể trở thành chủ thể luật quốc tế nếu được các quốc gia khác công nhận. Có nghĩa là hành vi công nhận có tính quyết định để một quốc gia mới trở thành chủ thể của luật quốc tế. Đây là một học thuyết phản động mà nhiều quốc gia sử dụng cản trở phong trào dân tộc, cản trở các quốc gia mới giành độc lập và tham gia vào quan hệ quốc tế. Thuyết tuyên bố ra đời vào cuối thế kỷ XIX và được hình thành như một trào lưu chống lại thuyết cấu thành. Nội dung của học thuyết chính là quan niệm tất cả các quốc gia mới thành lập đều là chủ thể luật quốc tế và điều đó được xác định thông qua bằng chứng là các quốc gia này đã xuất hiện và đang tồn tại trên thực tế. Việc công nhận quốc gia mới thành lập không thể tại ra chủ thể mới của luật quốc tế mà chỉ đóng vai trò tuyên nhận sự tồn tại trên thực tế của một quốc gia. Và đây là học thuyết được các luật gia dân chủ, tiến bộ ủng hộ. 4.1.2. Các thể loại công nhận quốc tế Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có những thể loại khác nhau như công nhận các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, công nhận các chính phủ lưu vong, công nhận các bên tham chiến, công nhận các bên khởi nghĩa, Nhưng hai thể loại công nhận quốc tế cơ bản, phổ biến và có ý nghĩa lớn đối với thực tiễn ngoại giao cũng như lý luận luật quốc tế là công nhận quốc gia và công nhận chính phủ mới thành lập. * Công nhận quốc gia mới thành lập Từ trước đến nay, câc quốc gia được thành lập theo một trong các trường hợp sau: 33
  34. - Quốc gia thành lập theo con đường cổ điển: là một tập thể người thành lập quốc gia một cách hòa bình do sự định cư của họ trên một lãnh thổ vô chủ hoặc trên lãnh thổ chưa có một tổ chức chính trị phù hợp. Trường hợp này hiện nay hầu như không còn gặp nữa. - Quốc gia được thành lập do kết quả của phong trào giải phóng dân tộc. Đây là trường hợp khá phổ biến ở các nước Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. - Quốc gia được thành lập do kết quả hoạt động của các quốc gia đã hoặc đang tồn tại vào thời điểm thành lập đó. Có thể kể đến là sự phân chia một quốc gia đang tồn tại thành hai hoặc nhiều quốc gia độc lập, sự hợp nhất hai hay nhiều quốc gia độc lập thành một quốc gia mới, Các quốc gia mới được thành lập là những chủ thể mới của luật quốc tế ngay từ thời điểm mới được thành lập. Sự công nhận quốc gia ở đây chỉ đóng vai trò tuyên bố sự tồn tại trên trường quốc tế của quốc gia đó mà thôi. * Công nhận chính phủ mới thành lập Khi công nhận một quốc gia mới thành lập thì đồng thời chính phủ của quốc gia mới đó cũng được công nhận. Đây là trường hợp có sự trùng lặp của hai trường hợp công nhận, còn thông thường chúng là hai trường hợp khác nhau và độc lập với nhau. Công nhận chính phủ mới có nghĩa là công nhận người đại diện hợp pháp cho quốc gia trong quan hệ quốc tế chứ không phải là công nhận chủ thể mới của luật quốc tế. Dựa vào cơ sở pháp lý hình thành chính phủ thì có hai loại chính phủ, là chính phủ hợp hiến – chính phủ de jure và chính phủ không hợp hiến – chính phủ de facto. Việc công nhận chính phủ mới chỉ được đặt ra đối với trường hợp chính phủ de facto bởi vì việc thành lập nên chính phủ de jure là công việc nội bộ của mỗi quốc gia mà các quốc gia khác không có quyền can thiệp. Tuy nhiên, không phải mọi chính phủ de facto đều được công nhận, mà xuất phát từ nguyên tắc hữu hiệu, công nhận quốc tế chỉ đặt ra đối với các chính phủ de facto thỏa mãn các điều kiện sau: - Yếu tố không gian: chính phủ đó phải kiểm soát toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ quốc gia một cách độc lập. - Yếu tố thời gian: chính phủ đó phải có khả năng để duy trì quyền lực của mình trong một thời gian dài. Tức là chính phủ này phải có đủ năng lực để duy trì và thực hiện quyền lực nhà nước trong một thời gian dài, ổn định. Khả năng đó thể hiện thông qua sự vận hành của bộ máy chính phủ, sự tuân thủ luật pháp, sự ổn định và phát triển của toàn xã hội. - Chính phủ đó phải được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng. Thực tế có những chính phủ không hợp hiến nhưng lại nhận được sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân vì chính phủ tiền nhiệm không đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người dân. 4.2. Các vấn đề pháp lý của công nhận quốc tế 4.2.1. Các hình thức công nhận quốc tế Trong khoa học pháp lý quốc tế cũng như trong thực tiễn quốc tế, chưa có một hình thức công nhận thống nhất cho mọi trường hợp. Nhưng căn cứ vào mức độ và phạm 34
  35. vi các quan hệ được xác lập giữa bên công nhận và bên được công nhận, có thể chia công nhận quốc tế thành các loại sau: Công nhận de jure là công nhận quốc tế chính thức, ở mức độ đầy đủ nhất và trong một phạm vi toàn diện nhất. Công nhận de facto là công nhận quốc tế thực tế nhưng ở mức không đầy đủ, hạn chế và trong một số phạm vi không toàn diện. Quan hệ giữa quốc gia công nhận và bên được công nhận là quan hệ quá độ tiến lên quan hệ toàn diện giữa các bên khi công nhận de jure. Công nhận ad hoc là hình thức công nhận đặc biệt mà quan hệ giữa các bên chỉ phát sinh trong một phạm vi nhất định nhằm tiến hành một số công vụ cụ thể và quan hệ đó sẽ được chấm dứt ngay sau khi hoàn thành công vụ đó. 4.2.2. Các phương pháp công nhận quốc tế Luật quốc tế không bắt buộc các quốc gia phải áp dụng một phương pháp công nhận cụ thể nào. Song, trong thực tiễn quan hệ pháp lý quốc tế thì các quốc gia sử dụng hai phương pháp là công nhận minh thị và công nhận mặc thị. Công nhận minh thị là phương pháp công nhận được thể hiện một cách rõ ràng, minh bạch và cụ thể thông qua các hành vi rõ rệt, cụ thể của quốc gia công nhận như trao gửi công hàm ngoại giao, cùng ký kết điều ước quốc tế, cử đoàn đại biểu cấp nhà nước hoặc cấp chính phủ đi thăm viếng, Công nhận mặc thị là phương pháp công nhận được thể hiện một cách kín đáo, ngấm ngầm mà bên được công nhận hoặc các quốc gia hoặc các chính phủ khác phải dựa vào các quy phạm tập quán nhất định hay các nguyên tắc suy diễn trong sinh hoạt quốc tế mới làm sáng tỏ được ý định công nhận của bên công nhận. Trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế, sự công nhận de jure và công nhận de facto đều được thực hiện thông qua một trong hai phương pháp nói trên. Thông thường, công nhận de jure được thực hiện thông qua phương pháp minh thị, còn công nhận de facto thì không. Việc lựa chọn phương pháp công nhận quốc tế hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của bên công nhận trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào mối quan hệ giữa bên công nhận và bên được công nhận. Quốc gia có thể thực hiện công nhận quốc tế cách thức riêng lẻ, độc lập với các quốc gia khác hoặc theo thể thức tập thể trong mối quan hệ hợp tác với các quốc gia khác, trong những mức độ và phạm vi khác nhau. 4.2.3. Hệ quả pháp lý của công nhận quốc tế Bằng hành vi công nhận, bên công nhận và bên được công nhận thiết lập quan hệ quốc tế với nhau trong những phạm vi và lĩnh vực nhất định. Những kết quả pháp lý đạt được sau công nhận phụ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể của các bên liên quan. Thông thường, các kết quả đó là: Thứ nhất, công nhận quốc tế giải quyết triệt để vấn đề quy chế pháp lý của đối tượng được công nhận. Thứ hai, công nhận quốc tế tạo ra những điều kiện thuận lợi để các bên thiết lập những quan hệ nhất định với nhau. 35
  36. Thứ ba, tạo điều kiện cho quốc gia, chính phủ mới được công nhận có khả năng thực tế để bảo vệ quyền miễn trừ quốc gia và miễn trừ tư pháp đối với tài sản của quốc gia mình tại lãnh thổ của quốc gia công nhận, tạo ra những cơ sở pháp lý để chứng minh hiệu lực chứng cứ của các văn bản pháp luật do quốc gia mới được công nhận ban hành, 5. KẾ THỪA TRONG LUẬT QUỐC TẾ 5.1. Khái niệm Vấn đề kế thừa quốc gia trong luật quốc tế được đặt ra khi có sự thay đổi triệt để về chủ quyền của một quốc gia tại một lãnh thổ nhất định. Sự thay đổi triệt để về chủ quyền đó có thể là kết quả của việc xuất hiện hay chấm dứt sự tồn tại của một quốc gia. Công ước Viên ngày 22/08/1978 về kế thừa điều ước quốc tế và Công ước Viên ngày 07/04/1983 về kế thừa tài sản, tài liệu và công nợ của quốc gia do Ủy ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc soạn thảo đã đưa ra định nghĩa về kế thừa quốc gia. Đó là, kế thừa quốc gia là sự thay thế của một quốc gia này cho một quốc gia khác trong việc hưởng quyền và gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với một lãnh thổ nào đó. Từ định nghĩa này, có thể nhận thấy các yếu tố của quan hệ kế thừa quốc gia là: Chủ thể trong quan hệ kế thừa là các quốc gia. Các quốc gia này được phân ra thành quốc gia để lại quyền kế thừa và quốc gia có quyền kế thừa. Đối tượng – khách thể của kế thừa là các quyền và nghĩa vụ quốc tế. Trong đó đối tượng quan trọng nhất là lãnh thổ, điều ước quốc tế, tài sản quốc gia, dân cư và quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế. Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quyền thừa kế là những biến cố chính trị lớn lao xảy ra hợp với các quy luật khách quan của xã hội, thỏa mãn những yêu cầu của luật quốc tế hiện đại, đặc biệt là nguyên tắc dân tộc tự quyết. 5.2. Các thể loại kế thừa trong luật quốc tế 5.2.1. Kế thừa quốc gia sau cách mạng xã hội Quốc gia dưới góc độ là chủ thể của luật quốc tế là một đơn vị lãnh thổ - dân cư kết hợp với một cơ cấu chính trị - giai cấp nhất định. Cách mạng xã hội tại các nước vốn không phải thuộc địa thường giữ lại được đơn vị lãnh thổ - dân cư trong khi đó cơ cấu chính trị - giai cấp lại thay đổi so với quốc gia đã tồn tại trước cách mạng. Sau cách mạng xã hội, một bộ phận cấu thành quan trọng của quốc gia, đơn vị lãnh thổ - dân cư không thay đổi, cho nên khó có thể nói là một chủ thể hoàn toàn mới của luật quốc tế xuất hiện dù quốc gia sau cách mạng xã hội vẫn được coi là một chủ thể mới của luật quốc tế. Vấn đề kế thừa và quyền kế thừa của quốc gia sau cách mạng xã hội được giải quyết rất khác nhau. Việc giải quyết các vấn đề đó thường phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể. Luật quốc tế hiện đại chưa có những quy phạm thống nhất cách giải quyết các vấn đề này và đang tồn tại các cách như sau: Thứ nhất, quan điểm kế thừa toàn bộ lãnh thổ, dân cư, thành viên tổ chức quốc tế, quyền và nghĩa vụ của quốc gia trước cách mạng xã hội đã xác lập với quốc gia khác. Thứ hai, quan điểm kế thừa chọn lọc, tức là quốc gia kế thừa sẽ kế thừa có chọn lọc các quyền và nghĩa vụ của quốc gia trước đó. 36
  37. Thứ ba, quan điểm không kế thừa, tức là quốc gia mới không công nhận quyền và nghĩa vụ của quốc gia trước đó đối với mình. 5.2.2. Kế thừa quốc gia do kết quả của phong trào giải phóng dân tộc Kế thừa quốc gia do kết quả của phong trào giải phóng dân tộc có những đặc điểm sau: - Quốc gia mới thành lập trước đây vốn là một thuộc địa hoặc lãnh thổ lệ thuộc vào quốc gia khác. - Quốc gia để lại quyền kế thừa vẫn tồn tại và vẫn là chủ thể của luật quốc tế. Các quyền và nghĩa vụ quốc tế của quốc gia này vẫn được duy trì tại quốc gia mới được thành lập trong một thời gian nhất định, trừ những quyền và nghĩa vụ liên quan đến địa vị pháp lý của chính quốc gia để lại quyền thừa kế trong quan hệ qua lại với quốc gia mới. - Quốc gia để lại quyền kế thừa đã bóc lột và đàn áp nhân dân ở quốc gia mới thành lập trong nhiều năm nhưng cuối cùng nhân dân ở thuộc địa này đã giành được độc lập và thành lập một quốc gia độc lập, có chủ quyền và có địa vị pháp lý quốc tế bình đẳng với quốc gia để lại quyền kế thừa. - Các quốc gia mới giành được độc lập không nhất thiết phải tôn trọng các điều ước quốc tế trước đây vẫn thi hành tại lãnh thổ của quốc gia mới đó. Trong trường hợp khác, quốc gia mới thành lập ký kết những điều ước quốc tế đặc biệt với quốc gia để lại quyền kế thừa để giải quyết vấn đề cụ thể nói trên. - Vấn đề kế thừa di sản quốc gia có tại lãnh thổ vốn là thuộc địa: quốc gia mới thành lập được quyền chính đáng kế thừa các tài sản quốc gia có tại lãnh thổ của mình. Bên cạnh đó là giải quyết vấn đề yêu cầu quốc gia thực dân trao trả hoặc bồi thường những tài sản mà quốc gia này đã cướp đi hoặc chiếm giữ do kết quả bóc lột lao động nhân dân thuộc địa. - Vấn đề kế thừa quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế: luật quốc tế hiện nay chưa có quy phạm giải quyết vấn đề này. Thực tiễn thì Liên hợp quốc đã kết nạp các quốc gia mới giành được độc lập vào tổ chức của mình. 5.2.3. Kế thừa quốc gia khi hợp nhất hoặc giải thể quốc gia liên bang Kế thừa trong trường hợp này tập trung giải quyết các vấn đề sau: * Kế thừa điều ước quốc tế Khi hợp nhất hai hay nhiều quốc gia độc lập vào một quốc gia liên bang thì tất cả những điều ước quốc tế mà quốc gia độc lập đã ký kết đang có hiệu lực vẫn tiếp tục tại lãnh thổ liên bang trừ những điều ước mâu thuẫn với mục đích và nguyên tắc cơ bản của quốc gia liên bang hoặc khi điều kiện để thực hiện điều ước đã ký kết thay đổi hoàn toàn do kết quả của việc hợp nhất hay kết quả của những hoàn cảnh khách quan ngoài ý muốn của các bên. Các điều ước nói trên chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia tham gia điều ước, và nếu quốc gia liên bang chấp nhận thì nó sẽ có hiệu lực trên lãnh thổ quốc gia liên bang. Khi một quốc gia liên bang bị giải thể ra nhiều phần mà mỗi phần lại trở thành một quốc gia độc lập thì những điều ước quốc tế do quốc gia liên bang ký kết với nước ngoài sẽ có hiệu lực thi hành nếu những điều ước đó đang có hiệu lực và các quốc gia hữu quan thỏa thuận như vậy. 37