Đề cương môn học Lí luận dạy học địa lí

pdf 73 trang vanle 2500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương môn học Lí luận dạy học địa lí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_cuong_mon_hoc_li_luan_day_hoc_dia_li.pdf

Nội dung text: Đề cương môn học Lí luận dạy học địa lí

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Khoa địa lí NGUYỄN PHƯƠNG LIÊN ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC LÍ LUẬN DẠY HỌC ĐỊA LÍ (Phương pháp dạy học 1) Số tín chỉ: 03 (Lí thuyết: 35 tiết, thực hành: 10 tiết) THÁI NGUYÊN, 2011 1
  2. Chương 1 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN LÝ LUẬN DẠY HỌC ĐỊA LÝ * Mục tiêu : - Kiến thức: Biết đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu môn lí luận dạy học địa lí. Khẳng định: Lí luận dạy học địa lí là một khoa học. - Kĩ năng: Nhận biết tiêu chuẩn của một môn khoa học - Thái độ: Có ý thức trau dồi các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ việc giảng dạy sau này. 1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của môn lý luận dạy học địa lý 1.1.1. Đối tượng nghiên cứu Môn lí luận dạy học Địa lí nghiên cứu quá trình dạy học môn Địa lý trong nhà trường phổ thông. Các thành tố cơ bản của quá trình dạy học gồm: Mục tiêu dạy học Nội dung dạy học. Phương pháp dạy học (Hoạt động của thầy (dạy) và hoạt động của trò (học). Phương tiện dạy học Kiểm tra- đánh giá trong dạy học Tổ chức dạy học Muốn đạt được kết quả đó, môn lý luận dạy học địa lý phải tìm ra những mối quan hệ có tính quy luật giữa mục tiêu - nội dung- phương pháp- phương tiện và kiểm tra- đánh giá. 1.1.2. Nhiệm vụ 2
  3. Nhiệm vụ của môn lý luận dạy học bộ môn là nghiên cứu các tính quy luật của quá trình giáo dục, đào tạo con người thông qua việc giảng dạy các môn văn hoá trong nhà trường. Nhiệm vụ của môn lý luận dạy học địa lý là đào tạo, bồi dưỡng những giáo viên tương lai có đầy đủ năng lực làm tốt nhiệm vụ giáo dục của mình một cách sáng tạo và có hiệu quả. Cụ thể là: Phải giải đáp được 2 câu hỏi: 1/ Môn địa lý dạy những nội dung gì? Tại sao phải dạy và học những nội dung đó? 2/ Dạy và học như thế nào trong điều kiện thực tế của nhà trường Việt Nam để có được những năng lực và phẩm chất của con người mới. Giải đáp hai câu hỏi trên tức là phải giải đáp những vấn đề có liên quan đến mục đích, nội dung, các điều kiện và phương pháp dạy học của môn Địa lý. 1.1.3. Phạm vi nghiên cứu - Hệ thống kiến thức địa lý và con đường hình thành. - Mối quan hệ giữa khoa học Địa lí và môn Địa lí trong nhà trường phổ thông. - Các nguyên tắc dạy học địa lý. - Các phương pháp dạy học địa lý. - Các phương tiện dạy học địa lý. - Các hình thức tổ chức dạy - học địa lý. - Các phương pháp kiểm tra đánh giá trong dạy học Địa lí. - Ứng dụng CNTT trong dạy học Địa li - Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa địa lý ở phổ thông. 1.2. Phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Các phương pháp lý thuyết (gọi là quan điểm tiếp cận) Bao gồm một số phương pháp như: 3
  4. - Phương pháp phân tích hệ thống: Đem đối tượng nghiên cứu, xem xét nó trong một hệ thống hoàn chỉnh gồm những yếu tố có liên quan với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ. Sự thay đổi của một thành tố sẽ ảnh hưởng tới các thành tố khác và ảnh hưởng tới toàn hệ thống và ngược lại. - Phương pháp phân loại: Tập hợp tất cả các đối tượng, hiện tượng cần nghiên cứu lại rồi so sánh, phân chúng ra từng loại theo các dấu hiệu đặc trưng. - Phương pháp lịch sử: Tất cả các hiện tượng, đối tượng nghiên cứu đều phải được xem xét trong quá trình phát triển và biến đổi của chúng theo thời gian. Phương pháp này chủ yếu sử dụng các tài liệu, các hiện tượng đã xảy ra trong các giai đoạn lịch sử trước đây để nghiên cứu các vấn đề hiện tại. - Phương pháp toán học: Dùng để tính toán, xử lý số liệu thực nghiệm, giải thích và làm rõ những mối quan hệ qua lại phức tạp và những quy luật trong các vấn đề dạy học địa lý dựa trên các số liệu đã xử lý và những mối quan hệ có tính định lượng giữa tâm sinh lý và khả năng nhận thức của học sinh. - Ngoài ra còn nhiều các phương pháp khác như: So sánh, tổng hợp, đọc tài liệu 1.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Một số phương pháp nghiên cứu thực tiễn thường được sử dụng là: dự giờ, quan sát giờ học địa lý trên lớp, điều tra giáo viên và học sinh Một trong những phương pháp thực tiễn rất có giá trị trong nghiên cứu các vấn đề về lí luận dạy học Địa lí là phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp thực nghiệm: Là một phương pháp quan trọng trong các nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn, thường được sử dụng để thử nghiệm những phương pháp, những ý tưởng dạy học mới. 4
  5. Các phương pháp lý thuyết và phương pháp thực tiễn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Bất cứ một kết luận nào cũng phải qua kiểm định thực tiễn, ngược lại, bất cứ một kết luận thực tiễn nào cũng phải dựa trên những giả định về mặt lý thuyết. 1.3. Quan hệ giữa môn lý luận dạy học với các khoa học 1.3.1. Quan hệ với khoa học địa lý - Môn địa lý trong nhà trường cung cấp cho học sinh những kiến thức và kỹ năng địa lý hiện đại, nhưng phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi, với trình độ nhận thức của học sinh. Hệ thống kiến thức Địa lí giảng dạy trong nhà trường phổ thông là sự phản ánh những thành tựu mới nhất của khoa học Địa lí. Mối quan hệ của môn địa lý trong nhà trường với khoa học địa lý được thể hiện rõ nhất trong nội dung môn Địa lý từ lớp 6 đến lớp 12. 1.3.2. Quan hệ với các khoa học giáo dục, đặc biệt là với lý luận dạy học đại cương Môn lý luận dạy học địa lý được phát triển phù hợp với các quy luật, các nguyên tắc do môn giáo dục đề ra. Nội dung môn địa lý trong nhà trường soạn thảo dựa trên lý thuyết của nội dung giáo dục phổ thông. Các phương pháp dạy học địa lý phù hợp với cách phân loại về phương pháp dạy học theo lý luận dạy học đại cương. Trình tự tiến hành của bài địa lý cũng phù hợp với cấu trúc của một tiết dạy học theo lí luận dạy học, các hình thức tổ chức dạy học Địa lí cũng phù hợp với những hình thức tổ chức dạy học trong nhà trường. Ngược lại, lý luận dạy học Địa lý cung cấp cho lý luận dạy học đại cương quy luật dạy học đặc thù của môn địa lý. Tên gọi "lý luận dạy học địa lý" cũng phản ánh được mối quan hệ của môn này trong hệ thống các khoa học giáo dục. 1.3.3. Quan hệ với môn tâm lý học, đặc biệt là môn tâm lý dạy học 5
  6. Những tri thức về các quy luật tâm lý có thể giúp cho việc nghiên cứu các phương pháp giáo dục cũng như các phương pháp dạy học bộ môn đạt hiệu quả cao. Ngoài ra mối quan hệ giữa môn lý luận dạy học Địa lý với tâm lý dạy học bộ môn còn được thể hiện ở việc vận dụng những quy luật về hoạt động nhận thức theo lứa tuổi để sắp xếp nội dung chương trình, quy định khối lượng kiến thức, kỹ năng, mức độ yêu cầu về tư duy ở mỗi lớp học, cấp học để đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức. 1.3.4. Quan hệ với môn logic học Bất cứ môn học nào thì nội dung của nó cũng phải đảm bảo tính logic. Với môn lý luận dạy học địa lý thì những quy luật của logic học được sử dụng cụ thể vào việc xây dựng hệ thống khái niệm và kỹ năng địa lý trong chương trình các lớp, nội dung sách giáo khoa và cả trong việc nghiên cứu đề ra các phương pháp, biện pháp dạy học địa lý hợp lý nhất. Hệ thống Như vậy: Muốn xem xét một khoa học địa lý kết luận về phương pháp dạy học địa lý chúng ta không thể không chú ý Tâm lý Lý luận PP DH đến những mối quan hệ giữa nó với học dạy dạy học địa lý học đại cương các môn khoa học khác. Logic học Hình 1.1: Mối quan hệ giữa lí luận dạy học Địa lí với các khoa học khác 1.4. Quy trình nghiên cứu những vấn đề về lý luận dạy học bộ môn. Những vấn đề hoặc đề tài nghiên cứu về lý luận dạy học môn học thường có phạm vi rộng hẹp khác nhau. Song nhìn chung để công việc nghiên cứu một đề tài khoa học có kết quả tốt, có trình tự logic thì cần áp dụng quy trình hợp lý, gồm có các bước sau: 6
  7. 1/ Bước 1: Chọn đề tài. + Cần xác định được mục đích và đối tượng nghiên cứu. 2/ Bước 2: Tìm hiểu tình hình hiện tại của đề tài. 3/ Bước 3: Đặt giả thuyết và cách giải quyết tối ưu. - Đặt ra những dự kiến cần thực hiện. - Hướng giải quyết vấn đề của đề tài theo ý kiến của riêng mình và khẳng định cách giải quyết theo hướng đó là tối ưu và có thể thực hiện được. 4/ Bước 4: Đề ra các nhiệm vụ và chọn phương pháp nghiên cứu đề tài. 5/ Bước 5: Đặt kế hoạch tiến hành và kế hoạch thực nghiệm sư phạm. - Phải đặt kế hoạch về thời gian, tổ chức, theo dõi thực nghiệm, kỹ thuật, đo lường kết quả, xử lý tài liệu và rút ra kết luận. - Các kết luận có thể công nhận sự thành công hoặc thất bại của đề tài. nếu thất bại phải làm lại từ bước 3. 6/ Bước 6: Nêu giá trị thực tiễn của đề tài. - Đây là bước cuối cùng của quá trình nghiên cứu một đề tài. Người nghiên cứu có thể nêu giá trị thực tiễn của các kết luận, phạm vi có thể áp dụng chúng. Hướng mở ra từ đề tài này và các đề nghị cụ thể khác. CÂU HỎI 1. Chứng minh rằng: Lí luận dạy học địa lí là một khoa học. 2. Phân tích mối quan hệ của môn lí luận dạy học địa lí với các khoa học khác. 7
  8. Chương 2 MÔN ĐỊA LÍ TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG * Mục tiêu: Sinh viên cần nắm được mối quan hệ giữa khoa học địa lí và môn địa lí trong nhà trường phổ thông. Từ đó có sự lựa chọn, bổ sung lượng kiến thức thích hợp khi dạy học địa lí. 2.1. Khoa học địa lý và môn địa lý trong nhà trường - Khoa học địa lý ra đời từ rất sớm, từ thời kỳ cổ đại nhưng môn địa lý ở nhà trường phổ thông mới ra đời từ thế kỷ 17. Quá trình phát triển của nó đã trải qua nhiều bước thăng trầm. - Khoa học địa lý ngày nay là một hệ thống gồm nhiều ngành khoa học, trong đó có 2 ngành chủ yếu: địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế - xã hội. 2.1.1. Trên thế giới - Phổ biến khuynh hướng tách môn địa lý truyền thống thành 2 bộ phận: + Địa lý các nước (gồm cả địa lý tổ quốc): thuộc các khoa học xã hội. + Địa lý tự nhiên đại cương + địa chất + địa vật lý, + địa hoá + thiên văn gọi là môn Địa học hay khoa học về trái đất thuộc các môn khoa học tự nhiên. - Ở các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái Lan ở cấp I + cấp II kiến thức về địa lý tích hợp với kiến thức lịch sử, giáo dục công dân và xã hội học trong môn chung: khoa học xã hội. - Các kiến thức về địa học, tích hợp với kiến thức lý, hoá, sinh trong môn khoa học tự nhiên. - Đến cấp III môn địa lý và địa học mới trở thành môn riêng. 2.1.2. Ở Việt Nam - Môn địa lý được học từ thời Pháp thuộc ở bậc tiểu học và trung học. Đặc điểm chung của thời kỳ này là các kiến thức địa lý tự nhiên là chủ yếu. 8
  9. - Đến nay, địa lý vẫn gồm cả ba mảng: địa lý đại cương, địa lý thế giới và địa lý tổ quốc được học thành môn riêng từ Trung học cơ sở. - Môn địa lý vừa có kinh tế về tự nhiên, vừa có kinh tế về xã hội nên việc sắp xếp chúng phức tạp: + Ở PTCS: địa lý được xếp vào hệ thống khoa học tự nhiên. + Ở PTTH: địa lý được xếp vào hệ thống khoa học xã hội. 2.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa KHĐLvà môn ĐL trong nhà trường 2.2.1. Những nét tương đồng - Hệ thống của khoa học: + Khoa học địa lý có 2 ngành cơ bản: địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế - xã hội. + Địa lý trong nhà trường phổ thông, cũng có 2 ngành: địa lý tự nhiên (cấp II) và địa lý kinh tế - xã hội (cấp III). - Những phương pháp nghiên cứu của khoa học địa lý: + Dùng bản đồ. + Bảng số liệu thống kê. + Thực địa. + So sánh. 2.2.2. Những nét khác biệt - Tính hệ thống: + Khoa học địa lý rất nghiêm khắc về tính logic: địa lý cơ sở địa lý ngành địa lý vùng địa lý khu vực địa lý tự nhiên địa lý kinh tế - xã hội. + Địa lý ở phổ thông: Không phân biệt rạch ròi như vậy. VD: địa lý lớp 6 học những vấn đề địa lý tự nhiên đại cương nhưng vẫn có phần địa lý kinh tế - xã hội. Tại sao có sự khác nhau như vậy? 9
  10. - Phạm vi chương trình: ở phổ thông phạm vi chương trình bao giờ cũng nhỏ hơn chương trình của khoa học địa lý. Tại sao? 2.3. Vị trí, chức năng và nhiệm vụ của môn ĐL trong trường phổ thông 2.3.1. Trang bị cho học sinhkhối lượng tri thức phong phú về tự nhiên, kinh tế - xã hội và những kỹ năng, kỹ xảo hết sức cần thiết trong cuộc sống, đặc biệt là kỹ năng về bản đồ. 2.3.2. Bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học và những quan điểm nhận thức đúng đắn - Địa lý là một môn học có tính tổng hợp. Trong quá trình học tập địa lý học sinh luôn phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng của chúng. Những kiến thức đó góp phần hình thành cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng. - Học Địa lý giúp học sinh nhận thức đúng vai trò của tự nhiên, của con người trong các hoạt động kinh tế - xã hội trên lãnh thổ từ đó góp phần bồi dưỡng cho học sinh quan điểm duy vật lịch sử, tư duy kinh tế, tư duy sinh thái 2.3.3. Hình thành cho HS nhân cách con người mới trong xã hội - Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, thái độ nhiệt tình lao động, ý thức làm chủ và lòng mong muốn góp phần xây dựng quê hương, đất nước. - Giúp học sinh nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên trong việc tỏ thái độ với các hành động tiêu cực - Qua việc học Địa lý Thế giới giúp học sinh đồng tình với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân lao động trên thế giới để giành độc lập, dân chủ, tiến bộ và tự do Tất cả các nhận thức, tình cảm nói trên là những yếu tố cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. 10
  11. Chương 3 HỆ THỐNG TRI THỨC TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÀ QUÁ TRÌNH NẮM TRI THỨC CỦA HỌC SINH * Mục tiêu: Sinh viên cần nắm vững hệ thống tri thức địa lí trong nhà trường phổ thông. Hiểu được vị trí của từng loại kiến thức làm cơ sở xác định các kiến thức cơ bản của mỗi bài học. 3.1. Hệ thống tri thức địa lý - Bao gồm: hệ thống kiến thức và các kỹ năng, kỹ xảo được lựa chọn trong hệ thống tri thức của khoa học địa lý được sắp xếp theo một trình tự nhất định nhằm cung cấp nội dung học vấn và giáo dục học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường. - Nội dung học vấn địa lý trong nhà trường còn bao gồm nhiều tri thức khác giúp cho việc học tập địa lý của học sinh đạt kết quả. - Hệ thống tri thức địa lý được lựa chọn để đưa vào chương trình phổ thông phải là những vấn đề cơ bản nhất của khoa học địa lý. - Các thành phần và nội dung học vấn địa lý dạy trong nhà trường phổ thông có thể tóm tắt theo sơ đồ sau: 11
  12. Nội dung môn địa lý Kiến thức Kỹ năng - kỹ xảo Kỹ KT Thực KT lý năng Kỹ tiễn thuyết làm năng Kỹ việc làm năng Kỹ với việc học năng các với tập và bản dụng các nghiên đồ - Các khái cụ tài cứu niệm, các quy nghiên liệu địa lý luật, mối cứu địa lý quan hệ nhân địa lý quả. - Các thuyết - Các số liệu, trong địa lý. sự kiện địa lý. - Những tư - Các biểu tưởng, những tượng địa lý. quan điểm - Các mô trong địa lý hình sáng tạo học. về địa lý. - Những kiến thức về phương pháp học tập và nghiên cứu địa lý. 3.1.1. Kiến thức địa lý - Bao gồm: kiến thức thực tiễn và kiến thức lý thuyết. a. Kiến thức thực tiễn - Bao gồm: các số liệu, sự kiện, biểu tượng và mô hình sáng tạo về địa lý. 12
  13. - Phản ánh những đặc điểm bên ngoài của các sự vật và hiện tượng địa lý. * Các số liệu và sự kiện địa lý: Phản ánh những thông tin về đặc điểm của các sự vật và hiện tượng địa lý. - Vai trò của số liệu và sự kiện địa lý: Minh hoạ, dẫn chứng và để khái quát các kiến thức địa lý lý thuyết. * Các biểu tượng địa lý: - Biểu tượng địa lý là những hình ảnh bề ngoài của các sự vật, hiện tượng địa lý được tri giác, phản ánh vào ý thức, được giữ lại trong trí nhớ và có khả năng tái tạo theo ý muốn. - Các loại biểu tượng: + Biểu tượng ký ức: Là sự tái hiện các hình tượng địa lý của con người, những hiện tượng được con người trực tiếp tri giác. + Biểu tượng tưởng tượng: Không trực tiếp được quan sát đối tượng mà phải qua tri giác các đối tượng có liên quan. Trong địa lý, biểu tượng đóng vai trò quan trọng vì: không thể học cái gì, học đến địa danh nào là có thể đến tận đó để trực tiếp tri giác được. - Phương pháp hình thành biểu tượng cho học sinh: + Với biểu tượng ký ức: Quan trọng nhất là cho học sinh quan sát đối tượng. Giáo viên cũng có thể dùng những câu chuyện hấp dẫn, lý thú để kể cho học sinh nghe giáo viên địa lý phải biết nhiều chuyện kể. + Với biểu tượng tưởng tượng: Phải liên hệ giữa các đối tượng đã trực tiếp quan sát được với các đối tượng chưa trực tiếp quan sát để hình thành nên những dấu hiệu mới bằng các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, rút ra kết luận giáo viên địa lý phải tăng cường đi tham quan, quan sát, sử dụng tranh ảnh địa lý. - Ý nghĩa của biểu tượng địa lý: 13
  14. + Sự phong phú về biểu tượng là cơ sở để hình thành các kiến thức có liên quan sau này. VD: biểu tượng sông, núi khái niệm sông, núi. + Có khả năng mở rộng kiến thức cho học sinh không chỉ về địa lý mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Vì vậy: trong quá trình hình thành các kiến thức địa lý cho học sinh thì việc hình thành các biểu tượng địa lý là rất quan trọng. * Các mô hình sáng tạo về địa lý: Là những mẫu cụ thể của việc vận dụng các tri thức địa lý vào thực tiễn. - Vai trò của các mô hình sáng tạo về địa lý: + Có giá trị thực tiễn và trực quan giúp học sinh hiểu cách làm, cách vận dụng tri thức. + Khêu gợi ở học sinh tư duy sáng tạo, tìm tòi những cách vận dụng mới. b. Các kiến thức lý thuyết - Là những kiến thức đã được khái quát hoá, phản ánh bản chất của các sự vật, hiện tượng địa lý với những đặc điểm và mối quan hệ bên trong của chúng. - Bao gồm: Các khái niệm địa lý, các mối quan hệ nhân quả, các quy luật, các thuyết, các tư tưởng * Các khái niệm địa lý: Là những thuộc tính bản chất bên trong của sự vật và hiện tượng địa lý (cần phân biệt với biểu tượng địa lý - bên ngoài). - Các loại khái niệm địa lý: Khái niệm địa lý chung, khái niệm địa lý riêng, khái niệm địa lý tập hợp. * Các khái niệm địa lý chung: Là khái niệm dùng để chỉ các hiện tượng, sự vật địa lý cùng loại, có những thuộc tính duy nhất, như: sông, núi, đồng bằng, tài nguyên thiên nhiên VD: Tài nguyên thiên nhiên là một khái niệm chung. 14
  15. - Các khái niệm chung thường tập trung ở phần địa lý đại cương (ở phổ thông là lớp 6, lớp 10). * Các khái niệm địa lý riêng: Là những dấu hiệu bản chất riêng biệt của sự vật, hiện tượng địa lý. VD: Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Ba Bể, núi Ba Vì. - Mỗi khái niệm địa lý riêng thường tương ứng với một địa danh nhất định. - Có những khái niệm vừa là khái niệm riêng nếu hiểu theo nghĩa dấu hiệu bản chất, vừa là địa danh nếu hiểu theo nghĩa địa danh. Trong nhiều trường hợp địa danh lại chính là một dấu hiệu bản chất của khái niệm. VD: Bắc Thái là sự kết hợp của hai tỉnh: Bắc Kạn và Thái Nguyên đó chính là một dấu hiệu bản chất của khái niệm Bắc Thái. - Các khái niệm địa lý chung và khái niệm địa lý riêng có liên quan chặt chẽ với nhau: - Khái niệm địa lý riêng tuy có nét thuộc tính riêng biệt nhưng vẫn mang những thuộc tính chung của các đối tượng cùng loại. VD: Khái niệm "Thành phố Hồ Chí Minh". Nét riêng: Mang tên Bác Hồ. Nét chung: Có các đặc điểm của các thành phố khác: + Tập trung đông dân cư. + Có nhiều dịch vụ. + Có cơ sở hạ tầng tốt. - Khái niệm địa lý chung khi cụ thể hoá thêm các đặc tính độc đáo của đối tượng sẽ trở thành khái niệm riêng. VD: Sông - khái niệm chung. Sông Đà - khái niệm riêng. - Khái niệm riêng thường gặp ở phần Địa lý thế giới, Địa lý khu vực. 15
  16. * Khái niệm địa lý tập hợp: Là những khái niệm địa lý trung gian giữa các khái niệm địa lý chung và địa lý riêng. VD: sông ở đồng bằng, sông ở Tây Bắc. - Khái niệm địa lý tập hợp mới ra đời từ khi có phân vùng kinh tế, phân vùng tự nhiên. Trên thực tế, khái niệm địa lý tập hợp đã có những dấu hiệu bản chất của khái niệm chung và khái niệm riêng. * Khái niệm địa lý cụ thể: Gồm những khái niệm về các sự vật hiện tượng có thể tri giác được: núi đá vôi, bờ sông * Khái niệm địa lý trừu tượng: Là các khái niệm về các sự vật, hiện tượng địa lý mà chúng ta không trực tiếp tri giác được bằng giác quan như: sự phân bố dân cư, cơ cấu nông nghiệp * Con đường hình thành khái niệm: - Làm cho học sinh phong phú về biểu tượng địa lý thì hình thành khái niệm sẽ dễ hơn. Nếu là biểu tượng ký ức thì cho học sinh quan sát trực tiếp, nếu là biểu tượng thì cho học sinh biết được qua sự diễn tả, lồng ghép. - Dùng phương pháp phân tích, so sánh: tìm ra những dấu hiệu bản chất, loại bỏ cái không bản chất. - Tổng hợp, rút ra kết luận: Có thể bằng định nghĩa (với những khái niệm có thể định nghĩa được), với những khái niệm không định nghĩa được thì dùng phương pháp nêu đặc điểm. - Có thể theo con đường diễn dịch hoặc quy nạp. + Diễn dịch: đi từ cái chung cái riêng (nêu định nghĩa sau đó phân tích dấu hiệu bản chất). + Quy nạp: Đi từ cái cụ thể khái quát. - Nếu đi theo con đường quy nạp thì phát triển được tư duy của học sinh tốt hơn vì nó kích thích học sinh khám phá những bộ phận trong tổng thể. 16
  17. - Nhưng do cấu tạo của chương trình, sách giáo khoa (đi từ cái chung riêng) và căn cứ vào thời gian (có hạn) nên con đường diễn dịch sử dụng thuận tiện hơn. * Vai trò của khái niệm địa lý: - Khái niệm địa lý là kiến thức cơ bản của tiết học. Trong quá trình hình thành các khái niệm này giáo viên phải so sánh, phân tích, tổng hợp. Thao tác đó có ý nghĩa: Tích luỹ kiến thức cho học sinh, xây dựng năng lực định nghĩa cho học sinh, vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tế. - Hình thành khái niệm địa lý là cơ sở để hình thành mối quan hệ nhân quả và quy luật địa lý. Vì vậy: Hình thành khái niệm địa lý cho học sinh là thước đo trình độ của giáo viên. * Các mối quan hệ nhân quả địa lý: - Quan niệm: Mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ một chiều (khác với mối quan hệ qua lại). Gồm 2 thành phần: nhân và quả, nhân sinh ra quả, quả không sinh ra nhân. Có khi 1 nhân sinh ra 1 quả, nhiều nhân sinh ra 1 quả, nhiều nhân sinh ra nhiều quả - Các mối quan hệ nhân quả đơn giản: 1 nhân sinh ra 1 quả. VD: Do trái đất hình cầu nên ánh sáng mặt trời chỉ chiếu sáng được 1 nửa. Mối quan hệ nhân quả phức tạp: 2 nhân 1 quả. VD: Do trái đất hình cầu và trái đất tự xoay xung quanh trục sinh ra ngày và đêm. - Mối quan hệ nhân quả gián tiếp: quan hệ giữa nhân và quả không dễ dàng thấy được. VD: Các khối khí di chuyển (nhân) thời tiết ở những nơi chúng đi qua thay đổi (quả). Để hiểu rõ về MQH nhân quả này, HS cần phải biết: Thời tiết: gồm các yếu tố: nhiệt độ, gió, mưa , Mỗi khối khí: Đều có đặc điểm về 17
  18. nhiệt độ, khí áp, độ ẩm Các đặc điểm của khối khí di chuyển sẽ tác động lên mặt tiếp xúc của các yếu tố nhiệt độ, gió, mưa (thời tiết) của nơi chúng đi qua thời tiết ở nơi đó thay đổi. - Ý nghĩa của mối quan hệ nhân quả: + Làm cho học sinh nắm được kiến thức địa lý một cách chắc chắn, hệ thống. Trên cơ sở đó bổ sung cho những khái niệm địa lý sâu sắc hơn, bởi vì có khái niệm vững chắc thì mới có thể tạo ra được mối quan hệ đích thực. + Trong quá trình hình thành mối quan hệ nhân quả học sinh có cơ hội phát triển năng lực nhận thức, phát triển tư duy địa lý. - Vị trí của mối quan hệ nhân quả: nằm ở tất cả các bài học, nhưng có thể không nằm trong tiết giảng. - Phương pháp hình thành mối quan hệ nhân quả: + Hình thành các khái niệm địa lý một cách đích thực, hiểu được bản chất của nó thì mới có điều kiện hình thành mối quan hệ nhân quả. + Hướng dẫn cho học sinh phương pháp phân tích, so sánh và các thao tác tư duy khác nằm phân biệt mối quan hệ nhân quả với mối quan hệ qua lại. * Các quy luật địa lý - các học thuyết địa lý: - Quy luật địa lý: là những hiện tượng địa lý được lặp đi lặp lại theo một quy luật nhất định: quy luật địa đới, phi địa đới Các mối quan hệ nhân quả trong Địa lý nói chung nếu phổ biến sẽ là các quy luật địa lý. Các quy luật này thường được hình thành ở bài dạy địa lý, nhưng chủ yếu ở một giáo trình, khoa trình Đây là các đích mà giảng dạy địa lý phải cung cấp cho học sinh. Tuy vậy, trong quá trình giảng dạy phải từng bước hình thành các vấn đề có liên quan đến quy luật. - Học thuyết địa lý: là những vấn đề lý thuyết đúc kết từ thực tiễn tạo ra một loạt các vấn đề mang tính chất quy luật. VD: Học thuyết về dân số, học thuyết duy địa lý. 18
  19. - Các quan điểm địa lý: Là những vấn đề địa lý được giải quyết trên cơ sở những quan điểm khoa học hiện tại, như quan điểm sinh thái, dân số Phương pháp hình thành: Hình thành khái niệm địa lý cho học sinh. Sau đó từng bước hình thành những quan hệ nhân quả (nếu có), tập hợp tất cả các khái niệm, các quan hệ nhân quả, hướng dẫn học sinh so sánh, phân tích, cụ thể hoá, khái quát hoá thành các quy luật, các học thuyết địa lý tuỳ theo nội dung của chương trình. Kết luận: các kiến thức địa lý là một bộ phận không thể thiếu được trong môn địa lý ở nhà trường phổ thông. Nó là cơ sở để hình thành kỹ năng, là những hướng dẫn về các phương pháp thực tiễn và lý thuyết chung và các phương pháp đặc trưng của bộ môn. 3.1.2. Các kỹ năng - kỹ xảo địa lý - Là các thao tác tư duy hay thao tác vật chất để giải quyết một vấn đề địa lý nào đó như: sử dụng bản đồ, vẽ bản đồ, vẽ lược đồ, biểu đồ, làm các bài tập địa lý - Kỹ năng được lập đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành kỹ xảo. - Có hai loại kỹ năng: Kỹ năng ban đầu (có trước kỹ xảo). Kỹ năng hoàn thiện (Có sau kỹ xảo). - Mối quan hệ giữa kỹ năng ban đầu, kỹ xảo và kỹ năng hoàn thiện được thể hiện theo sơ đồ sau: Kiến thức Kỹ năng ban đầu Kỹ xảo Kỹ năng hoàn thiện 19
  20. Kinh nghiệm Yếu tố sáng tạo thực tiễn - Trong địa lý hiện nay, việc hình thành kỹ năng - kỹ xảo nhằm vào: + Làm việc với bản đồ, kiến thức kiến thức địa lý từ bản đồ. + Khảo sát các hiện tượng địa lý ngoài thực địa. + Nghiên cứu, làm việc với các tài liệu địa lý. + Học tập và nghiên cứu địa lý. - Con đường hình thành: Phải nắm được lý thuyết về những vấn đề địa lý đã học, phải rèn luyện nhiều. - Ý nghĩa của kỹ năng: + Hướng dẫn cho học sinh vận dụng kiến thức địa lý vào đời sống. + Khắc sâu kiến thức địa lý qua việc rèn luyện kỹ năng. Kết luận: Kỹ năng địa lý là một bộ phận khăng khít của hệ thống kiến thức địa lý. Hình thành những thói quen thường xuyên về địa lý cho học sinh là thiết thực chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống và vận dụng kiến thức địa lý vào thực tiễn. 3.2. Quá trình nắm tri thức địa lý của học sinh 3.2.1. Nắm kiến thức là một quá trình phức tạp - Các mức độ nắm tri thức: + Mức độ sơ đẳng là trình bày lại được bằng lời, ở mức độ này học sinh chỉ cần nhớ lại và tái hiện lại các kiến thức đã học. + Mức độ cao hơn là khả năng vận dụng được kiến thức đó vào thực tế. VD: Nền kinh tế Trung Quốc hiện nay được xếp vào loại: 1/ Nước có nền kinh tế đang phát triển. 2/ Nước có nền kinh tế phát triển. 3/ Nước có nền kinh tế phát triển chậm. 20
  21. Để trả lời học sinh cần biết: Thế nào là nước có nền kinh tế phát triển, đang phát triển, chậm phát triển. Từ đó đối chiếu với nền kinh tế - xã hội Trung Quốc về tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân/đầu người. Nảy sinh vấn đề: tỷ lệ tăng trưởng cao, tốc độ phát triển kinh tế mạnh, nhiều ngành kinh tế xếp thứ hạng cao trên thế giới. Nhưng vẫn chưa được xếp vào các nước phát triển cao. Như vậy để trả lời được câu hỏi này học sinh vừa phải tái hiện kiến thức chung vận dụng vào 1 nước cụ thể, vừa phải vận dụng những hiểu biết thực tế mang tính thời sự. + Mức độ cao nhất của việc nắm tri thức là niềm tin hướng dẫn và cách xử sự. Khi đạt đến mức này thì kiến thức đã trở thành vốn riêng, kiến thức thực sự của người học sinh. Trong mức độ này nó bao gồm cả sự vận dụng, kết quả tổng hợp và đánh giá. - Các thành phần của quá trình nắm kiến thức: tri giác tài liệu, hiểu, ghi nhớ, khái quát và hệ thống hoá. Các thành phần này có mối quan hệ với nhau. Trong mỗi thành phần cũng có các yếu tố của các thành phần khác nhau, nhưng tuy nhiên trong mỗi giai đoạn đều có các thành phần trội. a. Thành phần tri giác Gồm tri giác cảm tính và tri giác lý tính. - Tri giác cảm tính: sự phản ánh các sự vật, hiện tượng một cách cụ thể, trực quan tác động vào các giác quan của con người. Phản ánh toàn bộ thuộc tính của đối tượng vận động. - Tri giác lý tính: Là sự tri giác gián tiếp qua lời nói, chữ viết mô tả các đối tượng trên. - Tri giác trực tiếp là cơ sở hình thành các biểu tượng địa lý tạo thành các kinh nghiệm cảm tính là chỗ dựa để tri giác gián tiếp những kiến thức địa lý mới và phát triển trong tư duy. - Trong quá trình dạy học địa lý nên sử dụng tranh ảnh mô hình địa lý để hình thành các biểu tượng tưởng tượng. Các biểu tượng này cần thường 21
  22. xuyên được kiểm tra độ chính xác, khắc sâu các biểu tượng mờ nhạt, sửa chữa những biểu tượng sai lầm. b. Sự hiểu biết Là thành phần quan trọng và phức tạp nhất của quá trình nhận thức. Nó thể hiện trong việc phát hiện ra các mối quan hệ khách quan, trong việc hiểu được ý nghĩa của lời nói, chữ viết, ẩn ý của câu chữ - Có 3 giai đoạn: + Biết vấn đề: Biết tên đối tượng, hiểu một số thuật ngữ, biết một vài thuộc tính của đối tượng. + Hiểu biết sơ bộ: là bước rất quan trọng trong quá trình hiểu biết. trong giai đoạn này học sinh đã phát triển ra các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng địa lý, giữa các yếu tố của kiến thức địa lý. VD: Quan sát bức tranh về sa mạc Xahara. Biết: Các ốc đảo, cát, Đ - TV quanh ốc đảo, phương tiện đi lại. Hiểu biết sơ bộ: Lạc đà là phương tiện vận chuyển chính, xung quanh ốc đảo mới có Đ - TV sinh sống. Đặt câu hỏi: Tại sao lại như vậy? Tìm hiểu xa mạc là một miền như thế nào sơ với các miền khác? Những vấn đề đó không thể hiện ra trên bức tranh, mà học sinh phải phải thao tác tư duy dưới sự hướng dẫn của giáo viên. - Thực tế thì 2 quá trình trên bao giờ cũng được tiến hành đồng thời và có quan hệ chặt chẽ với nhau. + Giai đoạn đột biến: Đây là quá trình rất đặc biệt. Để có được giai đoạn này phải có những mối liên hệ giữa biểu tượng trí nhớ với tư duy và trí tưởng tượng sáng tạo. Giai đoạn này đòi hỏi phải có sự dẫn dắt khéo léo của giáo viên để phát triển đến mức cao nhất những hoạt động trí tuệ của học sinh. c. Ghi nhớ 22
  23. Là một khâu quan trọng trong quá trình nắm và tái hiện kiến thức, là tiêu chuẩn quan trọng trong nhiệm vụ dạy học, biểu hiện việc nắm vững kiến thức. - Trước đây người ta rất chú ý đến ghi nhớ, nhưng hiện nay các nhà lý luận dạy học cho rằng không cần thiết quá chú trọng đến ghi nhớ. Việc ghi nhớ phải dựa trên cơ sở các hoạt động tự giác và tích cực của học sinh. - Có nhiều cách ghi nhớ nhưng quan trọng nhất là cách tạo ấn tượng ban đầu, vì ấn tượng ban đầu có thể ảnh hưởng đến sự ghi nhớ tái hiện kiến thức suốt đời. - Ấn tượng ban đầu đúng là ấn tượng tích cực. - Ấn tượng ban đầu sai là ấn tượng tiêu cực cần sửa chữa trong việc sửa chữa rất khó khăn và mất nhiều thời gian. - Tạo ấn tượng ban đầu có nhiều cách: đặt câu hỏi kích thích tính tò mò của học sinh, đọc đoạn văn mô tả hiện tượng địa lý có tính chất hấp dẫn - Ghi nhớ còn được tiến hành bằng quá trình tự giác học tập của học sinh. d. Khái quát hoá và hệ thống hoá kiến thức - Khái quát hoá: Tìm những thuộc tính bản chất chung của các đối tượng, chuyển từ cách đơn nhất sang cái chung. VD: Khái quát thành các khái niệm, các quy luật, các thuyết. - Hệ thống hoá: Xếp các đối tượng vào một hệ thống nhất định theo những nguyên tắc đã lựa chọn. - Biện pháp khái quát hoá và hệ thống hoá kiến thức: so sánh và lập bảng hệ thống. Mọi sự vật, hiện tượng địa lý đều vận động phát triển và có mối quan hệ tương hỗ cần được phản ánh vào hệ thống kiến thức. Do vậy hệ thống hoá cần phản ánh được các mặt: cấu trúc, thành phần và các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng. 23
  24. - Để giúp học sinh nắm vững kiến thức và ghi nhớ bền vững giáo viên cần biết hướng dẫn cho học sinh biết hệ thống hoá kiến thức theo nhiều cách khác nhau. Có thể là lập thành một đề cương sơ lược, có thể là xây dựng các sơ đồ, các bảng biểu để hệ thống hoá kiến thức 3.2.2. Việc nắm vững kỹ xảo - kỹ năng - Kỹ năng xuất phát từ kiến thức, dựa trên kiến thức và là kết quả của kiến thức. Do vậy, việc nắm kỹ năng, kỹ xảo có quan hệ chặt chẽ với việc nắm kiến thức. - Việc làm các bài luyện tập thực hành, thực nghiệm chính là quá trình chuyển hoá kiến thức thành kỹ năng. - Trong địa lý, kỹ năng ban đầu, quan trọng nhất là kỹ năng bản đồ, ví dụ: Kỹ năng đo tính trên bản đồ (xác định phương hướng, đo tính khoảng cách, độ cao theo tỷ lệ bản đồ), Kỹ năng về đọc và sử dụng bản đồ (Giải mã ký hiệu, nhận dạng địa hình, xác định đặc điểm của sự vật hiện tượng địa lý trên bản đồ, khai thác kiến thức qua ký hiệu trên bản đồ) - Việc nắm kỹ năng, kỹ xảo của học sinh có 2 giai đoạn: + Giai đoạn định hướng: Hiểu mục đích hành động, cách tiến hành và các phương tiện cần thiết. + Giai đoạn thực hiện: tự hoạt động theo cách thức và trình tự đã đề ra rồi trình bày. - Có thể tiến hành kiểm tra kết quả để xác nhận tính chính xác và đúng đắn của kỹ năng đã thực hiện. CÂU HỎI 1. Nội dung môn địa lý trong nhà trường gồm có những thành phần nào? Thành phần nào quan trọng nhất đặc trưng cho một môn học? 2. Quá trình nắm tri thức địa lý của học sinh diễn ra như thế nào? 24
  25. Chương 4 CÁC NGUYÊN TẮC DẠY HỌC ĐỊA LÍ * Mục tiêu: Biết các nguyên tắc dạy học và vận dụng tốt các nguyên tắc trong dạy học địa lí. Xác định đúng các nguyên tắc quan trọng nhất và lí giải nguyên nhân. 4.1. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức : Nguyên tắc này chỉ đạo việc lựa chọn nội dung và sau đó là phương pháp dạy học. - Ngày nay khối lượng tri thức của khoa học địa lý cũng như các ngành khoa học khác tăng lên vô cùng nhanh chóng trong khi thời gian dành cho môn học thì có hạn. Để giải quyết được mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức địa lý với thời gian dành cho môn địa lý cần phải: + Tinh lọc kiến thức: giảm kiến thức cụ thể, sự kiện, tăng kiến thức lý thuyết. + Trang bị cho học sinh các phương pháp học tập và nghiên cứu địa lý mới, hiệu quả. - Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức còn đòi hỏi nội dung của mỗi bài địa lý phải vừa sức tiếp thu của học sinh cả về số lượng lẫn mức độ. - Không nên bổ sung quá nhiều, cũng không nên đơn giản hoá nội dung sách giáo khoa. - Khi đặt câu hỏi không nên đặt câu quá dễ hoặc quá khó. - Giáo viên nên lựa chọn kiến thức sao cho vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh, vừa phát triển được năng lực trí tuệ. - Làm việc với bản đồ trong dạy - học địa lý là hết sức cần thiết. 4.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và liên hệ với thực tiễn : Tính hệ thống là một dấu hiệu đặc trưng của tri thức khoa học. 25
  26. - Tính hệ thống của môn học địa lý được phản ánh trong hệ thống kiến thức, kỹ năng của chương trình và sách giáo khoa địa lý dùng trong nhà trường phổ thông. - Xuất phát từ mục tiêu giáo dục nên hệ thống tri thức địa lý trong nhà trường phổ thông không nhất thiết phải đúng như trình tự của hệ thống khoa học địa lý. - Nội dung tri thức địa lý trong nhà trường phổ thông được quy định theo một hệ thống nhất định thì việc dạy học địa lý buộc phải tuân theo nguyên tắc đó. Để đảm bảo nguyên tắc này, trong dạy học địa lí, giáo viên cần: nghiên cứu chương trình, SGK ở lớp đang dạy, lớp trước, lớp sau và các môn học có liên quan. - Việc nắm vững tri thức khoa học cần phải có sự liên hệ với thực tiễn: Mọi khoa học đều là kết quả của nhận thức của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đối với môn địa lý, thực tiễn trước hết là đường lối, và các chủ trương chính sách xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực tiễn còn là những diễn biến xảy ra trong đời sống kinh tế - xã hội trên thế giới và ở nước ta mà chúng ta thu được qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nếu khai thác và tích luỹ được nhiều kiến thức thực tiễn thì việc dạy - học địa lý sẽ thuận lợi, sâu sắc và vững chắc hơn nhiều. - Liên hệ dạy học với thực tiễn cần được thực hiện theo 2 chiều: Thực tiễn bổ sung cho nội dung dạy học thêm phong phú. Nội dung địa lý (kiến thức địa lý) phong phú lại là điều kiện tốt để cho học sinh vận dụng tri thức vào cuộc sống. Muốn vậy, phải rèn luyện, nắm vững các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết như: kỹ năng sử dụng bản đồ, kỹ năng quan sát, nhận xét, rút ra quy luật. 4.3. Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục: Nội dung giáo dục của môn địa lý được thể hiện ở các mặt sau: 26
  27. - Bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng : Khi học địa lý, học sinh luôn phải phân tích những mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội, giữa các yếu tố thành phần của tự nhiên, giữa tự nhiên với các hoạt động sản xuất của xã hội. Qua đó giúp học sinh nhận thức được tính khách quan của các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Những nhận thức đó dần dần sẽ trở thành niềm tin và thế giới quan của học sinh. - Bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất, đạo đức của người công dân, người lao động mới, lòng yêu nước, tự hào dân tộc qua ý thức, qua hành động và qua thái độ đối với một vấn đề nào đó. 4.4. Nguyên tắc đảm bảo tính tự lực và phát triển tư duy cho học sinh - Thực chất đòi hỏi có sự kết hợp tối ưu giữa vai trò chủ động lĩnh hội tri thức của người học với vai trò chỉ đạo, hướng dẫn quá trình dạy học của người dạy, phê phán cách dạy theo hướng cổ điển đòi hỏi học sinh phải ghi nhớ máy móc quá nhiều sự kiện. - Muốn đảm bảo nguyên tắc này thì: + Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ mục đích học tập của mình. + Có sự ưu tiên của tư duy so với trí nhớ: làm cho học sinh biết tự giác nắm tài liệu theo một trình tự logic chặt chẽ. CÂU HỎI 1. Theo ý kiến của anh (chị) thì nguyên tắc nào có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc dạy học địa lý? Tại sao? 2. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức có mâu thuẫn với nhau không? Chúng thể hiện thế nào trong việc dạy - học địa lý. 27
  28. Chương 5 CÁC PHƯƠNG TIỆN - THIẾT BỊ DẠY HỌC ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG * Mục tiêu: - Biết các phương tiện dạy học, sử dụng tốt các phương tiện dạy học. - Biết kết hợp các phương tiện dạy học truyền thống và hiện đại phù hợp với từng bài học khác nhau. 5.1. Khái niệm về phương tiện dạy học Có rất nhiều quan niệm khác nhau về phương tiện dạy học. - Theo các tác phẩm về lý luận dạy học thì phương tiện dạy học đồng nghĩa với phương tiện trực quan, đó là các vật thật, vật tượng trưng và các vật tạo hình được sử dụng để dạy học. + Vật thật: Giúp học sinh tiếp thu tri thức, gây hứng thú tìm tòi, học tập. Đó là các động vật, thực vật sống trong môi trường tự nhiên, khoáng vật. + Các vật tượng trưng: Giúp học sinh thấy được một cách trực quan các sự vật, hiện tượng được biểu diễn dưới dạng khái quát hoặc đơn giản, như: sơ đồ, lược đồ, biểu đồ + Vật tạo hình: Tranh ảnh, mô hình, hình vẽ, băng video, phim đèn chiếu thay cho các vật khó nhìn thấy hoặc không nhìn thấy. - Một số tác giả khác lại coi phương tiện dạy học là những đồ dùng dạy học trực quan được khái quát bằng những mô hình vật chất được dựng lên một cách nhân tạo, tương tự với đối tượng gốc về một số mặt nhất định nào đó. - N.N.Baranxki đưa ra khái niệm thiết bị dạy học: Là những phương tiện trực quan, nó là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự tổ chức và kết quả của việc giảng dạy địa lý ở nhà trường. Các thiết bị đó bao gồm: Phòng địa lý, bản đồ giáo khoa, quả cầu địa lý, tranh ảnh treo tường, biểu đồ, đồ thị 28
  29. - GS. Nguyễn Dược và một số tác giả khác đưa ra khái niệm thiết bị dạy học địa lý. Các thiết bị này gồm 1 phần cơ sở vật chất tạo điều kiện cho việc giảng dạy bộ môn: phòng địa lý, vườn địa lý, tủ sách địa lý. Các thiết bị - kĩ thuật gồm: - Các đồ dùng trực quan: Bản đồ, tranh ảnh, mô hình, mẫu vật, dụng cụ quan trắc, đo đạc. - Các tài liệu để cung cấp những tri thức cơ bản cho giáo viên và học sinh như: sách giáo khoa, sách bài tham khảo. - Ngoài ra, còn có các thiết bị kỹ thuật hiện đại: máy chiếu phim, video, vô tuyến truyền hình, máy chiếu ảnh, máy vi tính - Nói một cách ngắn gọn: Phương tiên dạy học là tập hợp những đối tượng vật chất, tinh thần được giáo viên sử dụng để điều khiển mọi hoạt động nhận thức của học sinh và đối với học sinh, nó là nguồn tri thức sinh động, là công cụ để rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Trong dạy học địa lí, PTDH là những dụng cụ, máy móc, thiết bị, vật dụng cần thiết cho hoạt động dạy và học đạt được các mục tiêu dạy học. 5.2. Ý nghĩa của phương tiện dạy học - Giúp GV trình bày nội dung bài giảng một cách trực quan - Là nguồn tri thức giúp GV điều khiển quá trình nhận thức của HS 5.3. Phân loại các phương tiện và thiết bị dạy học Có nhiều cách phân loại khác nhau, song cần chú ý cách phân loại phương pháp dạy học thành 2 nhóm: 5.3.1. Các phương tiện dạy học truyền thống a. Bảng phấn - Chất liệu - Vai trò: - Cách sử dụng b. Sách giáo khoa 29
  30. - Vai trò - Cách sử dụng c. Phòng địa lý : Phòng địa lý là một phòng riêng. Một phòng địa lí chuẩn có thể có các khu vực sau: * Khu vực để bàn ghế học sinh: Cần rộng rãi, thoáng mát, mặt bàn phẳng, có ngăn để sách vở, dụng cụ, đồ dùng học tập. * Khu vực dành cho giáo viên: Phải thuận lợi cho giáo viên thực hiện các hoạt động dạy học. Cần có bảng đen, bàn, chỗ để quả địa cầu, giá treo bản đồ. Cuối phòng có chỗ đặt máy chiếu phim, chiếu hình vidio * Khu vực dành cho công tác thực hành: Cần có: bàn can vẽ bản đồ, máy thu phóng bản đồ, bàn cát nhỏ để đắp mô hình. * Khu vực cất giữ dụng cụ: Giá cất bản đồ, tranh ảnh, tư liệu, tủ để máy móc, tủ sách * Khu vực trưng bày và triển lãm: Có thể chiếm riêng 1góc phòng hoặc sử dụng ngay những bức tường ở xung quanh phòng để treo các bảng trình bày kết quả khảo sát địa phương, bảng tổng kết thời tiết, các mẫu vật đất đá Kích thước phòng địa lý hiện nay chưa có ý kiến thống nhất vì nó còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, số lượng thiết bị và quy mô của trường. d. Vườn địa lý: Là khu vườn dùng cho việc dạy, học địa lí - Tác dụng: + Giúp cho giáo viên nâng cao hiệu quả dạy học, đặc biệt phù hợp với chương trình địa lý tự nhiên. + Giúp học sinh nắm chắc được nội dung bài qua việc nhận thức các đối tượng, hiện tượng xung quanh một cách cụ thể, sinh động. + Phát triển khả năng quan sát các sự vật địa lý trong môi trường tự nhiên, rèn luyện kỹ năng sử dụng các thiết bị và dụng cụ trong thực hành. + Các bài dạy về địa lý tự nhiên Việt Nam và địa lý tự nhiên nên thực hiện ở vườn địa lý khi có điều kiện. 30
  31. - Khi thiết kế, xây dựng vườn địa lý cần lưu ý: Nên xây dựng ngay trong khu vực trường, xa nhà cửa và cây cối, thoáng, hướng nên chọn hướng B - N. Bề mặt vườn phải phẳng, mỗi chiều rộng 10 - 15m gồm các khu: Khu thiên văn: + Các dụng cụ để xác định phương vị, tìm phương hướng, bảng chỉ số kinh - vĩ tuyến địa phương, đồng hồ mặt trời + Cột đo gió: Có thể kết hợp làm cột đo độ cao, để học sinh có thể xác định độ cao bằng mắt, cột cao khoảng 5m, chia m một, sơn màu khác nhau. + Lều khí tượng: nhiệt kế, ẩm kế, áp kế. Ngoài ra còn có bình đo mưa, nhật quang kế và nhiệt kế để xác định nhiệt độ của đất. Khu mô hình, sa bàn có: + Mô hình biểu hiện các dang đất và thuỷ văn (đồi, núi, thung lũng, đồng bằng ). + Một bàn cát nhỏ để giúp học sinh tự đắp lấy mô hình của các dạng địa hình đã và đang học. Khu vật hậu: Có thể nuôi trồng một số Đ - TV chỉ thị, có phản ứng nhạy với sự thay đổi của thời tiết. e. Quả cầu địa lý: - Là mô hình thu nhỏ trái đất theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Quả địa cầu cho ta một khái niệm thực và rõ ràng về hình dạng, kích thước (đã thu nhỏ theo tỷ lệ) của các thành phần trên bề mặt trái đất. - Trên quả địa cầu những khái niệm như hình dạng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến, khoảng cách, diện tích và tương quan về vị trí của các thành phần trên mặt đất (các lục địa, các đại dương ) cũng như các đối tượng khác được phản ánh chân thực và rõ ràng. f. Bản đồ giáo khoa: 31
  32. * Khái niệm: Bản đồ giáo khoa là một loại hình bản đồ thuộc hệ thống phân loại bản đồ địa lý, mục đích của chúng là dùng để dạy và học địa lý trong nhà trường. Nói một cách ngắn gọn: Những bản đồ nói chung được dùng vào việc dạy và học gọi là bản đồ giáo khoa. - Hiện nay bản đồ giáo khoa được coi là phương tiện, là nguồn tri thức, là cuốn sách giáo khoa địa lý thứ 2 cho giáo viên và học sinh. *Tính chất: - Tính khoa học: Thể hiện ở tính chất toán học, tính chất tổng quát hoá và lượng thông tin thích hợp. - Tính sư phạm: Thực hiện ở chỗ phải đảm bảo tính tương ứng giữa bản đồ với chương trình ở nhà trường phổ thông. Nội dung, phương pháp, màu sắc, ký hiệu, cách trình bày phương phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. - Tính mỹ thuật: Thể hiện cái đẹp, sức thu hút, hấp dẫn, chú ý học tập của học sinh cả về nội dung và hình thức. Ngoài ra nó còn có tác dụng giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. * Nội dung của bản đồ giáo khoa: Người xem có thể nhận ra nội dung địa lý của bản đồ qua tên của bản đồ và bản chú giải của nó. - Tên bản đồ chứa đựng 2 nội dung: Hiện tượng địa lý và không gian bao quát. VD: Bản đồ khí hậu thế giới Bản đồ thuỷ văn Việt Nam - Bản chú giải: giúp nhận biết nội dung, phương pháp sử dụng chất lượng, số lượng cấu trúc, tính hệ thống và tính logic của hiện tượng địa lý biểu hiện trên bản đồ. 32
  33. - Ngoài ra, kỹ thuật thành lập bản đồ, những ký hiệu, phương pháp biểu hiện, cơ sở tính toán của bản đồ cũng như những quy định, nguyên tắc thiết kế bản đồ cũng là một nội dung của bản đồ. * Các loại hình bản đồ giáo khoa: - Bản đồ giáo khoa treo tường: sử dụng trong quá trình dạy học địa lý của học sinh và giáo viên, đặc biệt là ở trên lớp, kích thước phù hợp với lớp học. Bản đồ giáo khoa treo tường phải đảm bảo các yếu tố sau: + Đọc được dễ dàng các đối tượng trong phạm vi 5 - 8 m. + Nội dung chính được ưu tiên thể hiện, nội dung phụ đưa lên bản đồ đến mức độ nào đó không làm ảnh hưởng đến nội dung chính, vì vậy trên bản đồ treo tường, các đối tượng được biểu thị không nhiều. Thường thì chỉ có 4 - 5 đối tượng chính. + Bản chú giải phải ngắn gọn, rõ ràng. + Các ký hiệu, mã số phải thống nhất với bản đồ sách giáo khoa để học sinh dễ thấy, dễ đối chiếu khi học, nghe giảng. - Bản đồ giáo khoa trong sách giáo khoa: Dùng để minh hoạ cho nội dung bài giảng, là nguồn tri thức hỗ trợ cho kênh chữ trong mỗi bài địa lí. - Tập bản đồ địa lý giáo khoa: Đó là một hệ thống các bản đồ được xây dựng theo một chương trình địa lý, chương trình sách giáo khoa cụ thể. g. Át lát địa lý:- Là một hệ thống gồm nhiều bản đồ vẽ theo những mục đích và yêu cầu nhất định. Các bản đồ đó thường được xây dựng theo một phương pháp chung và có mối quan hệ hữu cơ với nhau. - Các loại Át lát địa lý hay thường thấy là: + Át lát địa lý tự nhiên đại cương. + Át lát địa lý tự nhiên các châu. + Át lát địa lý kinh tế - xã hội các nước. + Át lát địa lý kinh tế - xã hội một lãnh thổ. 33
  34. - Việc sử dụng Át lát phải đảm bảo tính tổng hợp của hệ thống các bản đồ, phải kết hợp với các bản đồ treo tường trong quá trình dạy học. - Hiện nay, Át lát được sử dụng nhiều trong quá trình dạy học địa lý ở nhà trường. - Ngoài ra cũng đã có nước xây dựng hệ thống Át lát dùng riêng cho giáo viên h. Tủ sách địa lý: Tủ sách địa lý để phục vụ cho việc dạy học là rất quan trọng. Trong tủ sách đó cần có: + Sách dùng cho việc tra cứu chung: giáo trình địa lý, các từ điển địa lý, tạp chí địa lý + Tác phẩm đọc thêm: Truyện vui địa lý, câu chuyện kể của các nhà thám hiểm + Các phiếu tư liệu: Gồm những tư liệu thu thập được về các lĩnh vực địa lý. i. Những bộ sưu tập: - Anbum tranh ảnh các loại. - Mẫu đất đá và khoáng sản. - Bộ sưu tập về nông sản, lâm sản, những sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, những đặc sản của địa phương. k. Những dụng cụ để rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo - Những dụng cụ quan trắc khí tượng như: nhiệt kế, máy ghi khí áp - Những dụng cụ đo đạc khác: Dụng cụ đo vẽ địa hình,, thước chữ A, chữ T - Những vật liệu để chế tạo các phương tiện trực quan: gỗ mỏng, bìa catông 5.3.2. Các phương tiện và thiết bị kỹ thuật dạy học hiện đại - Có vai trò quan trọng đối với việc dạy học địa lý trong thời đại hiện nay. Nó không những làm thay đổi phương pháp dạy học mà còn làm đổi mới 34
  35. cả nội dung dạy học, mở rộng khả năng lĩnh hội tri thức khoa học với chất lượng cao và tốc độ nhanh. - Các phương tiện đó gồm: các phương tiện nghe - nhìn (máy chiếu phim, vidio, vô tuyến) và máy vi tính. - Ưu điểm: + Cho phép xem xét các biểu tượng địa lý một cách toàn diện hoặc theo từng mặt riêng rẽ. + Cho phép so sánh các hiện tượng và quá trình địa lý xảy ra ở các nơi khác nhau trên bề mặt trái đất. + Trình bày diễn biến của những quá trình, hiện tượng địa lý cần quan sát trong một thời gian rất ngắn: núi lửa, xói mòn. - Lưu ý khi sử dụng: + Tuỳ theo điều kiện trang thiết bị của trường, xác định những phương tiện thiết bị cần phải sử dụng sao cho hợp lý và tối ưu. + Kiểm tra và sử dụng trước khi lên lớp để nắm rõ quy trình hoạt động của các phương tiện, thiết bị sẽ dùng. + Suy nghĩ, dự tính các phương pháp làm việc với các phương tiện, thiết bị kỹ thuật của thầy giáo và học sinh. + Xác định thời điểm sử dụng hợp lý. 5.4. Các khuynh hướng xây dựng hệ thống thiết bị dạy học địa lý ở trường phổ thông Có 5 khuynh hướng: 1/ Xác định các thiết bị tối thiểu cho từng môn, ở từng cấp học, từng lớp học Thiết bị tối thiểu: Là các thiết bị thật cần thiết để giáo viên và học sinh thực hiện tốt yêu cầu nắm kiến thức và rèn luyện kỹ năng. VD: Quả cầu địa lý, bản đồ địa lý, tranh ảnh. 35
  36. - Thiết bị tối ưu: Là các thiết bị rất cần thiết cho dạy học nhưng do điều kiện hạn chế nên không phải trường nào cũng có. VD: Máy chiếu phim, máy vi tính, tranh ảnh, băng video. 2/ Tăng cường các thiết bị có nhiều tính năng, sử dụng ở nhiều cấp, nhiều lớp, nhiều bài khác nhau VD: Tập át lát địa lý, các loại bản đồ trống, các bộ sưu tập 3/ Tăng cường các thiết bị nghe nhìn VD: Các loại máy chiếu hình, máy videô, các mô hình nổi giúp học sinh hình thành các biểu tượng, khái niệm, kỹ năng, kỹ xảo. 4/ Tăng cường các thiết bị giúp học sinh tự liên hệ kiến thức, tự rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, tự khai thác kiến thức VD: Máy trắc nghiệm đơn giản, các máy kiểm tra kiến thức , các tài liệu trắc nghiệm. 5/ Tăng cường các thiết bị đơn giản, rẻ tiền - Rất cần thiết trong điều kiện nhà trường hiện nay. Hầu như chưa có một bộ thiết bị làm sẵn nào có thể hoàn chỉnh tới mức tối đa cho tất cả nội dung kiến thức của chương trình. Người giáo viên trong quá trình dạy phải dần dần tìm cách tạo điều kiện cho môn học có một hệ thống thiết bị hoàn chỉnh. - Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cùng làm một số đồ dùng dạy học đơn giản như vẽ một số bản đồ, sơ đồ , thu thập tranh ảnh. CÂU HỎI 1. Thế nào là phương tiện, thiết bị dạy học? Cho biết sự phân loại các phương tiện dạy học. 2. Hãy kể tên một số phương tiện dạy học truyền thống và cho biết: Khi sử dụng các phương tiện dạy học địa lí cần phải chú ý những nguyên tắc nào? 36
  37. Chương 6 HÌNH THƯC TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỊA LÍ *Mục tiêu: - Nắm vững cách thức tổ chức dạy học để từ đó lựa chọn những phương pháp dạy học phù hợp với từng loại bài học, từng đối tượng học sinh. 6.1. Khái niệm Hình thức dạy học là cách thức tổ chức học tập cho học sinh phù hợp với mục đích, nội dung của bài học nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Dấu hiệu phân biệt các hình thức dạy học: - Số lượng học sinh tham gia trong quá trình học tập - Thời điểm thực hiện học tập - Không gian diễn ra buổi học - Đặc điểm, tính chất hoạt động nhận thức của HS - Mục tiêu cần đạt Xuất phát từ các dấu hiệu đó, có các hình thức dạy học khác nhau. Lựa chọn hình thức dạy học phù hợp là điều kiện để bì học đạt kết quả tốt. 6.2. Những hình thức tổ chức dạy học địa lý ở trường phổ thông 6.2.1. Hình thức dạy học trong lớp(lớp bài) Thường được tiến hành trong các phòng học, có sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo trực tiếp của giáo viên và sự tham gia của học sinh. Xuất hiện ở Châu Âu từ thế kỉ 16, ở Việt nam vào cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. - Đặc điểm: + Thuận tiện, dễ thích nghi với nhiều loại bài học: lý thuyết, thực hành. + Tổ chức lớp chặt chẽ, dễ quản lý. + Trong một thời gian có hạn có thể cung cấp, khai thác được lượng thông tin khá lớn, có thể hoàn thành đúng kế hoạch đề ra. + Không chịu ảnh hưởng của thời tiết. 37
  38. + Trong một vài bài học, việc hình thành biểu tượng, khái niệm địa lý bị hạn chế (vì chỉ hình thành qua lời giảng của giáo viên, thiếu trực quan). - Cải tiến: Sắp xếp chỗ ngồi theo các cách khác nhau. - Các loại bài lên lớp: Bài nghiên cứu tài liệu mới (lí thuyết), bài thực hành, bài ôn tập, bài kiểm tra. Mỗi loại bài có mục đích và công việc cụ thể khác nhau song đều có cấu trúc cơ bản như nhau. 6.2.2. Hình thức dạy học ngoài lớp Được tiến hành ngoài thực địa hoặc ở bất cứ một địa điểm nào khác ngoài lớp: nhà máy, trạm khí tượng thuỷ văn có hiệu quả lớn đối với việc dạy học địa lý. VD: -Quan sát các dạng địa hình, hình thành cho học sinh các biểu tượng địa lý: sông, núi, biển, xói mòn. - Đặc điểm: + Phát huy được tính chủ động, sáng tạo, óc thẩm mĩ, tình yêu quê hương, đất nức của HS. + Mở rộng, hoàn thiện tri thức cho học sinh. Giúp học sinh nắm được kiến thức một cách sâu sắc, chắc chắn. Tuy nhiên: + Chỉ thích hợp với các bài học gắn liền với thực tế (không phù hợp với các bài học mang tính chất lý luận ). + Chỉ có thể tiến hành khi có những điều kiện nhất định: thời gian, kinh phí, địa điểm 6.1.3. Hình thức thảo luận Là hình thức trung gian giữa dạy học trong lớp và ngoài lớp, nó có thể được tiến hành ngay trong hoặc ngoài lớp, sử dụng có hiệu quả nhất đối với học sinh lớn. - Có thể tiến hành như sau: + Giáo viên đưa trước cho học sinh một nội dung, một chủ đề nào đó để học sinh cùng chuẩn bị, rồi tiến hành thảo luận dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên hoặc 1 học sinh khá, các ý kiến phát biểu được ghi nhận, trên cơ 38
  39. sở đó tổng hợp rút ra những nhận định, những kết luận về một vấn đề nào đó. Có thể tiến hành theo từng nhóm học sinh hoặc cả lớp. Đặc điểm: + Giúp học sinh mở rộng kiến thức. + Rèn luyện kỹ năng nói, phân tích, lập luận vấn đề. + Phát triển tư duy khoa học. + Nếu tổ chức thảo luận không tốt thì hiệu quả không cao, không lôi cuốn được sự tham gia của các học sinh khác. Những kết luận cuối cùng có thể chỉ là ý kiến của một vài học sinh khá . + Tổ chức một buổi thảo luận thường mất nhiều thời gian. 6.2.4. Hình thức dạy học nội khoá và ngoại khoá - Dạy học nội khoá: những bài học, những hoạt động được ghi cụ thể trong chương trình, trong kế hoạch gọi là hoạt động nội khoá. Có tính chất bắt buộc đối với học sinh. - Hoạt động ngoại khoá: Những hoạt động không được ghi trong chương trình, kế hoạch, không có tính chất bắt buộc, là sự tự nguyện của học sinh. - Một số hình thức dạy học ngoài lớp và ngoại khoá: * Tham quan địa lý: Nếu buổi tham quan được ghi trong chương trình thì gọi là dạy học ngoài lớp; nếu không ghi trong chương trình thì gọi là hình thức ngoại khoá. * Vai trò, ý nghĩa: + Mở rộng và hoàn thiện tri thức cho học sinh. Nó giúp cụ thể hoá những kiến thức đã học được trong sách vở, tài liệu, khắc sâu những biểu tượng. + Phát huy được tính chủ động sáng tạo, óc thẩm mỹ, hứng thú học tập, nâng cao được hiểu biết về các hoạt động sản xuất của con người. + Góp phần cải tiến phương pháp dạy học 39
  40. * Chuẩn bị tham quan: + Xác định đối tượng tham quan: Phải dựa vào nội dung chương trình học để xác định đối tượng cho phù hợp: tham quan gì? ở đâu? +Xác định mục đích tham quan: Để làm gì? + Xác định cách tham quan * Tiến hành tham quan: - Tham quan như thế nào để đạt được tốt nhất mục đích đề ra? Phải làm được các yêu cầu: toàn tâm, toàn ý, toàn hoạt động cho cuộc tham quan: để mắt, để chân, để tay, để tâm, để mồm tới đối tượng. Cụ thể: + Quan sát cho nhiều: Dù đang đi hay đã đến đều yêu cầu học sinh phải nhìn, quan sát. Tức là "để mắt" tới. + Đi cho nhiều: Muốn quan sát được nhiều thì chân phải đi đến. Tức là "để chân" tới. + Suy nghĩ cho nhiều: Tham quan địa lý không phải là để ngắm cảnh mà để "nhận xét" về địa lý. Vì vậy với mọi sự vật, hiện tượng địa lý luôn luôn phải đặt câu hỏi "Tại sao lại như thế"? Tức là "để tâm" tới. + Hỏi cho nhiều: Luôn lắng nghe, trao đổi, thảo luận, nếu có vấn đề gì chưa rõ, cần thắc mắc, hỏi cho rõ, tức là "để mồm" tới. + Ghi chép nhiều: Trong các cuộc tham quan, luôn mang theo mình sổ, bút, ghi chép đầy đủ những gì nhận thức được. Tức là phải “để tay” tới. * Viết thu hoạch (sắp xếp tài liệu tham quan): Những gì quan sát được, học tập được sau buổi tham quan học sinh cần viết lại thành 1 bản báo cáo, có thể giáo viên nhận xét, đánh giá, có thể mang ra trao đổi dưới hình thức thảo luận. - Những mẫu vật thu thập được, cần phân loại vì lưu trữ để phục vụ cho học lý thuyết. * Khảo sát địa phương 40
  41. * Khái niệm: Khảo sát địa phương là khảo sát, nghiên cứu nhằm giải thích những sự vật, hiện tượng và quá trình địa lý (cả mặt tự nhiên và kinh tế - xã hội) hiện có hoặc đang xảy ra trong phạm vi địa phương. - Địa phương: Được hiểu là khu vực đất đai xung quanh khu vực trường đang đóng hoặc đơn vị lãnh thổ hành chính trong đó có địa điểm trường đóng. * Vai trò của khảo sát địa phương: + Giúp học sinh hiểu rõ về thực tế địa phương (những khó khăn, thuận lợi), làm cho các biểu tượng, các khái niệm địa lý thêm sinh động, làm cơ sở để hình thành các biểu tượng tưởng tượng. + Tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường và địa phương. * Muốn thực hiện tốt khảo sát địa phương giáo viên cần: + Nắm vững các điều kiện địa lý của địa phương: tự nhiên, kinh tế - xã hội, các ngành trọng điểm. + Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học vào việc khảo sát, củng cố những kiến thức thực tế để bổ xung cho bài giảng lý thuyết. * Các cách tiến hành khảo sát địa phương: + Thực địa. + Điều tra, tìm hiểu qua nhân dân địa phương - Nghe báo cáo: Đây là một cách khảo sát địa phương rất thường gặp, thường sử dụng cho những buổi khảo sát đông người. Người báo cáo phải là người có chuyên môn, có hiểu biết về một lĩnh vực nào đó. Các thông tin được báo cáo cũng cần được ghi chép đầy đủ. + Sử dụng tài liệu: Có vai trò rất quan trọng trong khảo sát địa phương, vì các số liệu, biểu bảng, tranh ảnh được lưu trữ bao giờ cũng có độ chuẩn và tính chính xác, rất cần thiết khi viết các báo cáo, bảng thu hoạch về quá trình khảo sát địa phương. Dựa vào các tài liệu sưu tầm được có thể phân tích để rút ra những nhận xét cần thiết. 41
  42. * Tổ chức khảo sát địa phương: Gồm có 3 bước: + Chuẩn bị: Thời gian, địa điểm, những dụng cụ cần mang. + Khảo sát: Gồm các cách như trên. + Tổng kết: Viết báo cáo, nhận xét về những kết quả thu được, những hạn chế. * Các hoạt động ngoại khoá còn bao gồm: - Tổ chức câu bạc bộ: + Kể chuyện địa lý. + Hỏi đáp về địa lý. + Giới thiệu các địa danh nổi tiếng. + Thi vẽ, điền bản đồ - Tổ chức triển lãm: + Trưng bày các mẫu vật, tranh ảnh, hình vẽ về địa lý. + Các sách, tài liệu địa lý. + Trưng bày các đồ dùng trực quan tự tạo. - Tổ chức cắm trại, du lịch: Rất bổ ích trong việc dạy học địa lý, giúp tăng cường khả năng quan sát, nhận xét, đánh giá các hiện tượng địa lý. Dù là các hình thức nào, thì các hoạt động ngoại khoá về địa lý cũng cần đảm bảo: + Phù hợp với hoàn cảnh học tập của học sinh (thời gian, vật chất). + Có sự kết hợp chặt chẽ với hoạt động nội khoá. + Buổi hoạt động ngoại khoá được tiến hành có tổ chức, có kỷ luật. + Cần có sự giúp đỡ của giáo viên, nhà trường, địa phương, nơi đến. 6.2.5. Hình thức tự học - Là hình thức học tập chủ động, độc lập, sáng tạo của học sinh. Có thể là: + Củng cố lại bài học trên lớp, hoàn thiện tiết học ở trên lớp (1). + Tìm tòi, phát hiện kiến thức mới có liên quan tới bài học (2). + Tham khảo, tìm hiểu về một vấn đề mới (3). 42
  43. Trước đây việc tự học mới chỉ dừng lại ở (1) và (2) do điều kiện về phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất còn hạn chế. Muốn tự học có kết quả cao rất cần có sự hỗ trợ của các phương tiện, thiết bị kỹ thuật dạy học. Ngày nay với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, lượng tri thức và thông tin ngày càng lớn, các phương tiện dạy học ngày càng phong phú và đa dạng, đó là những điều kiện hết sức thuận lợi cho học sinh có thể tự học ở mức độ (3). 6.3. Tiết học 6.3.1. Khái niệm Tiết học là một khoảng thời gian của quá trình dạy học, trong đó học sinh tích cực, tự giác lĩnh hội nội dung giáo dục và học vấn dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên để hình thành nhân cách và phát triển năng lực trí tuệ. - Trong tiết học thì nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học và phương pháp dạy học đều được thực hiện. 6.3.2. Cấu trúc Cấu trúc tiết học truyền thống gồm 5 bước: - Ổn định lớp. - Kiểm tra bài cũ. - Giảng bài mới. - Củng cố bài. - Ra bài tập về nhà. Ưu điểm: Tiết học ổn định, thực hiện được khá đầy đủ các nhiệm vụ, nội dung dạy học, dễ thực hiện đặc biệt với những giáo viên mới ra trường. Nhược điểm: + Gò bó, tẻ nhạt, đơn điệu (các tiết, các môn giống nhau). + Mới chỉ chú ý vào hoạt động của giáo viên. 43
  44. + Quá trình chỉ đạo, nhận thức của giáo viên và học sinh nhiều khi bị rời rạc, gián đoạn vì một mục đích: phải hoàn thành nhiệm vụ cấu trúc của tiết giảng. - Hiện nay, đã có nhiều quan điểm cho rằng nên xoá bỏ ranh giới rạch ròi của các bước trong một tiết giảng. Các bước trên vẫn hoàn thành tốt song được thực hiện đan xen, lồng ghép với nhau một cách hợp lý. Mục đích cuối cùng là hiệu quả dạy học tốt. Như vậy, một tiết học sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ sau. + Nhiệm vụ 1: Tổ chức lớp: Trước đây thường được tiến hành vào những phút đầu của tiết học (tổng số: ; vắng: ). Thực ra đây là một công việc cần tiến hành thường xuyên trong một giờ học, mục đích là đảm bảo không khí làm việc thuận lợi cho học sinh và giáo viên trong suốt giờ học. + Nhiệm vụ 2: Định hướng hoạt động nhận thức của học sinh: Trước đây là việc thông báo tên của bài học và ghi lên bảng. Điều đó chưa đủ. Thực chất của việc này là giáo viên phải định hướng bài học cho học sinh. Giáo viên cũng có thể đặt ra những câu hỏi lớn để hướng sự tư duy của học sinh vào nội dung bài học, để trả lời được câu hỏi đó thì phải giải quyết được nội dung bài học. + Nhiệm vụ 3: Sinh động hoá hay tích cực hoá các kinh nghiệm, các kiến thức cũ của học sinh. Mục đích: - Yêu cầu học sinh tái hiện lại kiến thức cũ (những câu hỏi yêu cầu thuộc lòng). - Vận dụng kiến thức đã học để giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó (Có thể là giải bài tập). - Liên hệ kiến thức cũ với kiến thức sắp học (định hướng). Mục đích quan trọng nhất của tiết học là làm cho học sinh nắm được kiến thức và kỹ năng mới, nắm được bản chất của vấn đề và biết vận dụng 44
  45. chúng. Hiện nay, người ta chia việc nắm kiến thức và kỹ năng thành 3 mức độ: - Mức độ thấp: Tái hiện được kiến thức cũ dựa vào trí nhớ. - Mức độ trung bình: Vận dụng kiến thức và kỹ năng vào các trường hợp tương tự. - Mức độ cao: Vận dụng kiến thức và kỹ năng một cách sáng tạo vào các điều kiện và hoàn cảnh mới. + Nhiệm vụ 4: Hướng dẫn học sinh tiếp tục hoàn thiện tiết học ở nhà: bao gồm các công việc: - Ra bài tập về nhà. - Chỉ ra các vấn đề cần phải tìm hiểu thêm. - Giới thiệu các tài liệu để tham khảo phục vụ cho nội dung bài giảng. 6.3.3. Các kiểu tiết học địa lý Căn cứ vào nội dung cơ bản của tiết học người ta chia ra các kiểu tiết học như: + Kiểu tiết học mở đầu: Thường chỉ có mỗi năm một lần, hoặc mỗi kỳ một lần, khi bắt đầu vào học môn môn mới, một giáo trình mới. - Nhiệm vụ: Chủ yếu đưa ra nhiệm vụ, thông báo nội dung sẽ học trong những giờ học tới, nêu phương pháp học tập, ý nghĩa của môn học + Kiểu tiết học nắm kiến thức và kỹ năng mới: Nhiệm vụ cơ bản của kiểu tiết học này là tạo điều kiện cho học sinh lĩnh hội đồng thời các kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo địa lý. Đây là kiểu tiết học chiếm khối lượng nhiều nhất trong toàn bộ chương trình địa lý ở phổ thông. Mỗi một bài học mới đều thuộc kiểu tiết học này. Mức độ nắm các kiến thức lý thuyết của học sinh phụ thuộc chủ yếu vào việc giáo viên có sử dụng kiểu tiết học này có thành công hay không. Sự phối hợp hoạt động giữa thày - trò cần phải tiến hành trong suốt giờ học. 45
  46. + Kiểu tiết học vận dụng kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo địa lý: Nhiệm vụ cơ bản của kiểu tiết học này giúp học sinh vận dụng những tri thức địa lý đã học vào thực tiễn, hoặc vào để giải quyết những vấn đề địa lý cụ thể. Thực ra, đây chính là các tiết thực hành nằm trong chương trình địa lý. Để hoàn thành tốt kiểu tiết học này, học sinh phải nắm chắc lý thuyết đã học, biết cách tái hiện, liên hệ, so sánh (có thể thông qua hệ thống câu hỏi đàm thoại của giáo viên), biết cách phân tích bảng số liệu, chuẩn bị phương tiện, dụng cụ. + Kiểu tiết học hệ thống hoá và khái quát hoá tri thức địa lý: Có nhiệm vụ là ôn tập, củng cố lại kiến thức đã học thường được tiến hành khi kết thúc 1 chương, 1 giáo trình. Khi tiến hành tiết học này, giáo viên có thể thiết kế bài giảng dưới dạng các câu hỏi hoặc sử dụng phương pháp sơ đồ, hệ thống hóa kiến thức để kiểm tra mức độ nắm kiến thức của học sinh. + Kiểu tiết học kiểm tra , đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh: Nhiệm vụ của tiết học này là kiểm tra mức độ nắm tri thức của học sinh (chấm bài) và hoàn thiện tri thức của học sinh (chữa bài). Nói cách khác kiểm tra, đánh giá không một khâu của quá trình dạy học nhằm thu được những thông tin ngược chiều giữ người dạy và người học về việc truyền thụ và tiếp thu tri thức. CÂU HỎI 1. Thế nào là hỉnh thức dạy học ? Trình bày những hình thức dạy học phổ biến hiện nay. 2. Phân biệt hình thức dạy học trong lớp và ngoài lớp, nội khóa và ngoại khóa. 46
  47. Chương 7 QUÁ TRÌNH DẠY HỌC ĐỊA LÍ TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỊA LÍ * Mục tiêu: - Biết được các thành tố của quá trình dạy học và mối quan hệ giữa các thành tố đó. - Hiểu và vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để dạy một bài địa lí trong chương trình địa lí THPT. 7.1. Quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông Các thành tố của quá trình dạy học gồm: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức và kiểm tra - đánh giá. - Những tri thức do con người sáng tạo ra ngày càng nhiều, xã hội ngày càng phát triển thì càng có thêm nhiều lĩnh vực văn hoá, khoa học. Một lĩnh vực văn hoá, một ngành khoa học dù có quan trọng đến đâu, muốn trở thành một môn học cũng phải qua các giai đoạn: + Được lựa chọn những vấn đề cơ bản, thiết thực và phổ thông, phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường, biên soạn thành chương trình bộ môn. + Được cụ thể hoá thành sách giáo khoa, có kèm theo sách hướng dẫn dạy. + Học sinh dựa vào sách giáo khoa, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên để chuyển hoá những kiến thức từ sách vở thành kiến thức, vốn hiểu biết của mình. Theo quan điểm dạy học mới, quá trình dạy học phải là sự kết hợp, phối hợp giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò "thày chỉ đạo, trò chủ động". Muốn vậy, người giáo viên - người chỉ đạo trong quá trình học phải có sự chuẩn bị tốt về mặt kiến thức (soạn bài) và mặt thao tác, kỹ năng (đứng lớp). 47
  48. - Soạn bài: Là nhiệm vụ quan trọng nhất của người giáo viên, nó góp phần quan trọng vào sự thành công của giờ dạy. Một bài soạn tốt sẽ giúp giáo viên chủ động được kiến thức trong mọi tình huống. Để có một bài soạn tốt, giáo viên cần: + Đọc và nghiên cứu kỹ nội dung bài học trong sách giáo khoa (nắm kiến thức). + Xác định mối liên quan của bài học với 1 bài đã học, sẽ học và các môn học khác (thấy được tính logic của hệ thống kiến thức). Mục đích là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các phương pháp dạy học. + Xác định rõ mục đích yêu cầu và kiến thức trọng tâm của bài. Dự kiến thời lượng giảng cho các phần: mở rộng như thế nào, phần nào, đưa số liệu mới, thông tin mới vào phần nào cho phù hợp, phần nào chỉ cần giới thiệu cho học sinh biết + Chuẩn bị sẵn các phương tiện dạy học: chỗ nào dùng bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, sử dụng như thế nào ? + Liên hệ với thực tế để nhằm mục đích giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách. + Dự kiến các tình huống sẽ xảy ra khi giảng và các phương án giải quyết. + Thiết kế trình tự các hoạt động sư phạm khi lên lớp: ổn định, kiểm tra, giảng bài - Lên lớp (giảng bài): Vai trò của người giáo viên trong giờ học thể hiện rõ nhất ở bước lên lớp. Có thể có 1 giáo án tốt nhưng cách giảng bài chưa tốt thì học sinh hoặc là sẽ thụ động lĩnh hội kiến thức, hoặc là sẽ không lĩnh hội được những kiến thức giáo viên truyền đạt. Trong khi lên lớp, đòi hỏi giáo viên phải: + Có tác phong nghiêm túc, chững chạc, nhưng vui vẻ. + Biết dẫn dắt, phối hợp, điều khiển các hoạt động của học sinh. 48
  49. + Lời giảng to, rõ ràng, truyền cảm, dùng các phương tiện dạy học hỗ trợ trong quá trình giảng. + Đảm bảo kiến thức truyền đạt phải đầy đủ, chính xác, khắc sâu kiến thức trọng tâm. + Việc sử dụng các phương pháp linh hoạt, sáng tạo. + Những vấn đề cơ bản phải được ghi lên bảng một cách khoa học. + Sử dụng thời gian hợp lý. + Mục đích: Học sinh hiểu bài, biết vận dụng kiến thức vào thực tế. Những nhiệm vụ trên của giáo viên khi lên lớp (giảng bài) chính là các tiêu chuẩn (tiêu chí) để đánh giá giờ dạy của giáo viên. Thông thường người ta chia các yêu cầu trên thành 10 chuẩn, có thể chấm theo thang điểm 10 hoặc 20. 7.2. Các phương pháp dạy học địa lý 7.2.1. Khái niệm Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học: + Theo Iu.K.Babanski, 1983: "Phương pháp dạy học là cách thức tương tác giữa thày và trò nhằm giải quyết các nghiệp vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học". + Theo I.Ia.Lecne, 1981: "Phương pháp dạy học là 1 hệ thống những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn". + Theo I.D.Dverev, 1989: "Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động tương hỗ giữa thày và trò nhằm đạt được mục đích dạy học. Hoạt động này được thể hiện trong việc sử dụng các nguồn nhận thức, các thủ thuật logic, các dạng hoạt động của học sinh và cách thức điều khiển quá trình nhận thức của giáo viên. Ngoài ra, còn nhiều định nghĩa khác, song nhìn chung, các định nghĩa thường tập trung vào 3 cách sau: 49
  50. + Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của người giáo viên để truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và giáo dục học sinh theo mục tiêu của nhà trường. + Phương pháp dạy học là sự kết hợp các biện pháp và phương tiện làm việc của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học, nhằm đạt tới mục đích giáo dục. + Phương pháp dạy học là cách thức hướng dẫn và chỉ đạo của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh dẫn tới việc học sinh lĩnh hội vững chắc nội dung học vấn, hình thành thế giới quan và phát triển năng lực nhận thức. - Trong 3 định nghĩa trên, mỗi định nghĩa thể hiện 1 quan điểm dạy học khác nhau của mỗi thời kỳ: + Trước đây trong dạy học người ta quan niệm thày giáo là người chủ động truyền thụ tri thức, kinh nghiệm, còn trò chỉ việc lĩnh hội những gì thầy truyền đạt theo kiểu thầy nói - trò nghe; thầy đọc - trò chép , cho tới khi thầy dạy "hết chữ". Cách định nghĩa thứ nhất phù hợp với quan niệm này. + Phát triển hơn các nhà lý luận dạy học cho rằng, dạy học là 1 hoạt động kết hợp giữa việc dạy (của thầy) và việc học (của trò), vì vậy hai hoạt động này phải có vai trò ngang nhau trong quá trình dạy học, thầy hỏi - trò trả lời Vì vậy định nghĩa thứ hai phù hợp với quan niệm đó. + Gần đây qua nhiều công trình nghiên cứu về lý luận dạy học, về khả năng nhận thức của học sinh, người ta thấy rằng việc dạy học thực sự có hiệu quả khi chúng ta biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Đặc biệt từ khi xuất hiện lý thuyết về sự lĩnh hội ttri thức thì người ta cho rằng: quá trình dạy học chính là quá trình tổ chức cho học sinh tự lĩnh hội tri thức. Nghĩa là trong quá trình dạy học, thầy là người chỉ đạo, hướng dẫn cách lĩnh hội tri thức, còn trò thì chủ động, lĩnh hội tri thức. Định nghĩa thứ 3 nêu trên là định nghĩa phù hợp với quan điểm dạy học mới hiện nay. 50
  51. 7.2.2. Phương pháp dạy học chung và phương pháp dạy học môn địa lý - Phương pháp dạy học phụ thuộc vào mục tiêu hành động: Phục vụ cho những mục tiêu đào tạo của nhà trường (đào tạo ra những thế hệ có năng lực, có kiến thức, có phẩm chất ). Vì vậy, các phương pháp sử dụng trong nhà trường đều có thể dùng để dạy các môn học khác nhau. - Mỗi nội dung môn học khác nhau thì nó sẽ phù hợp với 1 phương pháp và 1 phương tiện khác nhau. Đó là phương pháp dạy học bộ môn. - Môn địa lý có những phương pháp dạy học đặc trưng: phương pháp bản đồ, phương pháp thực địa, phương pháp sử dụng SLTK 7.2.3. Sự phân loại phương pháp dạy học + Phân loại theo nguồn kiến thức và đặc điểm tri giác thông tin có: phương pháp dùng lời, trực quan, thực hành. + Phân loại theo nhiệm vụ dạy học có: phương pháp truyền thụ kiến thức, phương pháp hình thành kỹ năng, tìm kiếm từng phần. + Phân loại theo đặc điểm hoạt động nhận thức của học sinh có: phương pháp giải thích, minh hoạ, tái hiện, giới thiệu vấn đề - Phổ biến hiện nay, người ta phân loại phương pháp dạy học làm 2 nhóm: phương pháp dạy học lấy giáo viên làm trung tâm và phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. * Dạy học lấy giáo viên làm trung tâm: Quan tâm trước hết đến việc trang bị cho học sinh một trình độ kiến thức, nội dung dạy học thiên về những kiến thức lý thuyết, phương pháp dạy học chủ yếu là dùng lời, học sinh tiếp thu thụ động, giáo án được thiết kế theo kiểu đường thẳng, giáo viên trình bày bài giảng theo đúng trình tự đã chuẩn bị. Giờ học tiến hành chủ yếu trong phòng, trung tâm thu hút sự chú ý của học sinh là giáo viên và bảng đen. Giáo viên độc quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh chủ yếu thông qua khả năng ghi nhớ, tái hiện. Ưu điểm: 51
  52. + Nội dung kiến thức được giáo viên truyền thụ có hệ thống, có bài bản. + Là phương pháp dễ thực hiện với nhiều môn học. + Phù hợp với cơ sở vật chất của nhà trường Việt Nam từ trước đến nay. Nhược điểm: + Không khí lớp học trầm, đều. + Lượng kiến thức không rộng. + HS thụ động tiếp thu kiến thức, ít chủ động trong quá trình học tập. + Ít thu nhận được thông tin ngược giữa người dạy và người học. * Dạy học lấy học sinh làm trung tâm: người ta quan tâm trước hết đến việc chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội, tôn trọng mục đích, nhu cầu, khả năng, hứng thú và lợi ích học tập của học sinh. + Nội dung học tập chú trọng năng lực thực hành, khả năng ứng dụng vào thực tiễn. + Giáo án thiết kế theo kiểu phân nhánh được giáo viên linh hoạt điều chỉnh theo diễn biến của tiết học. + Hình thức dạy học được bố trí cho phù hợp với nội dung môn học: tronglớp, ngoài lớp. + Các cách dạy được thay đổi linh hoạt: thảo luận, thực hành, tìm hiểu. Ưu điểm: + Phù hợp với tình hình yêu cầu dạy học trong điều kiện mới + Phát huy tối đa năng lực hoạt động của học sinh. + Đảm bảo việc nắm tri thức chắc, sâu, có khả năng vận dụng vào thực tế trong mọi tình huống. + Giúp nâng cao năng lực của cả thầy và trò. - Những khó khăn khi thực hiện: 52
  53. + Học sinh chưa được trang bị đầy đủ những kỹ năng cần thiết: làm việc với tài liệu, sách giáo khoa, biểu đồ, bản đồ + Cơ sở vật chất của nhà trường chưa được đầu tư tốt. Do những đặc điểm riêng về nội dung, về các nguồn tri thức nên môn Địa lí chia thành các nhóm phương pháp sau: + Nhóm phương pháp dùng lời (nói và viết): Mục đích mô tả, kể hoặc ghi chép lại các sự vật, hiện tượng địa lý. + Nhóm phương pháp trực quan: Mục đích sử dụng sơ đồ, tranh ảnh, mô hình để tái tạo lại các sự vật, hiện tượng địa lý. + Nhóm phương pháp thực tiễn: Quan sát trực tiếp các đối tương ngoài thực tế. - Hiện nay phương pháp dạy học truyền thống đã bước đầu có sự "cải tiến". 7.3. Một số phương pháp dạy học địa lý cụ thể 7.3.1. Phương pháp diễn giảng Giáo viên liên tục dùng lời để trình bày về một vấn đề nào đó, trong quá trình đó không có sự tham gia của học sinh. Học sinh nghe, ghi nhớ, ghi chép cả nội dung và có thể ghi nhớ cả phương pháp (cách) thể hiện. - Trong quá trình giảng giáo viên có thể sử dụng nhiều thao tác, yếu tố, như: so sánh, phân tích, lập luận, khái quát, mô tả mục đích làm cho người nghe tin vào những điều mình nói. - Quy trình: + Giáo viên giới thiệu tên bài (vấn đề) và ghi lên bảng. + Thông báo dàn ý (những nội dung sẽ trình bày) trong khoảng thời gian + Trình bày từng vấn đề. 53
  54. - Yêu cầu: Trình bày rõ, thông tin chính xác, chậm để học sinh có thể ghi và theo dõi. Những ý chính nên nhấn mạnh. Khi trình bày phải bao quát được tình hình của lớp, khả năng, thái độ tiếp thu của học sinh. - Vai trò của phương pháp này: kiến thức được trình bày hoàn chỉnh, sâu, rộng, tiết kiệm được thời gian (trình bày được nhiều vấn đề trong khoảng thời gian ngắn). Học sinh học tập, phát triển được khẩu ngữ qua cách giảng của giáo viên học tập được cách lập luận vấn đề. - Nhược điểm: + Ít có hứng thú với học sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi. + Phải theo dõi liên tục, hệ thống mới nắm bắt được vấn đề. - Nên vận dụng: + Các buổi nói chuyện, học chính trị với học sinh lớn, sinh viên và cán bộ. + Một số bài học trong sách giáo khoa có dung lượng kiến thức lớn, nội dung có tính chất lý luận chính trị: Tình hình chính trị - kinh tế xã hội trong những thập kỷ hiện nay có nhiều biến động (lớp 11); đặc điểm nổi bật của nền kinh tế hiện đại (lớp 11), các bài học chuyên đề 7.3.2. Phương pháp giảng thuật (còn gọi là kể chuyện) - Là phương pháp giáo viên dùng lời để kể lại, thuật lại, mô tả lại các sự vật hiện tượng địa lý một cách chi tiết, có hệ thống, mục đích để hình thành các biểu tượng, bước đầu hình thành các khái niệm địa lý. Vì là thuật lại nên chỉ dừng lại ở việc mô tả chứ không đi sâu vào bản chất của các sự vật, hiện tượng, ít có yếu tố giải thích. - Quy trình: + Giáo viên xác định mục đích của việc giảng thuật. + Nắm vững nội dung chính. + Dùng lời nói, điệu bộ, cách diễn đạt kể lại câu chuyện một cách hấp dẫn. 54
  55. + Đặt những câu hỏi để kiểm tra sự nhận thức của học sinh. - Ưu điểm: Có sức hấp dẫn đặc biệt đối với học sinh nhỏ tuổi, không khí lớp học nhẹ nhàng thoải mái. Nếu kết hợp tốt với các phương pháp khác thì bài giảng sẽ có sức thuyết phục. - Nhược điểm: Không đi sâu giải thích được bản chất của các sự vật, hiện tượng địa lý mục đích của bài giảng chưa đạt tốt. 7.3.3. Phương pháp giảng giải (giải thích - minh hoạ) - Làm phương pháp dùng lời để giải thích các kiến thức địa lý, mà chủ yếu là giải thích các nguyên nhân và mối quan hệ nhân quả, giải thích các đặc điểm của sự vật, hiện tượng. - Phương pháp này gồm 2 yếu tố: Giải thích - minh hoạ. Giáo viên đưa ra đặc điểm của một sự vật hiện tượng dùng lời để giải thích dùng những ví dụ minh hoạ. - Ưu điểm: Phương pháp phù hợp với nhiều loại đối tượng. + Học sinh nắm được các kiến thức chính, những dấu hiệu b/c của sự vật, hiện tượng. - Nhược điểm: Giáo viên làm việc nhiều, ít phát huy được khả năng của học sinh. - Phương pháp giảng có mối quan hệ chặt chẽ với giảng thuật vì trong giảng thuật đôi khi có yếu tố giải thích - minh hoạ, trong giảng giải đôi khi cũng có yếu tố mô tả, kể lại. - Để đạt hiệu quả cao thì giảng giảng nên kết hợp với đàm thoại. Những kiến thức minh hoạ nên dùng kiến thức nói (đặc biệt là khi giảng về kiến thức địa lý kinh tế). 7.3.4. Phương pháp đàm thoại (hỏi - đáp) - Đàm thoại nghĩa là sự trao đổi, hỏi đáp giữa người dạy và người học hoặc giữa người học với người học. Có những quan niệm khác nhau về phương pháp đàm thoại ở trường phổ thông. 55
  56. + Quan niệm 1, cho rằng: Đàm thoại nhằm làm cho học sinh nhớ lại, tái hiện lại các kiến thức có trước để xây dựng kiến thức mới. + Quan niệm 2, cho rằng: Đàm thoại phải có ý sáng tạo, tức là phải đòi hỏi học sinh có sự tư duy, so sánh, phân tích, lập luận để tìm ra kiến thức mới. Xuất phát từ 2 quan niệm khác nhau về phương pháp đàm thoại nên thường chia ra làm 2 loại đàm thoại trong dạy học. + Đàm thoại nhập đề: Nói chung mức độ yêu cầu thấp, thường chỉ yêu cầu học sinh tái hiện lại kiến thức cũ làm cơ sở cho việc dạy kiến thức mới. Để trả lời học sinh chỉ việc nhớ lại bài ai, hoặc dựa vào sách giáo khoa hoặc dựa vào thực tế. Những câu hỏi thuộc đàm thoại nhập đề thường dễ đặt. Đa số câu trả lời của học sinh đều trả lời đúng theo ý định hỏi của giáo viên (vì dễ, không phải tư duy), nên nó được sử dụng nhiều. Song thực tế cho thấy, câu hỏi càng dễ thì càng kém tác dụng đối với sự phát triển tư duy của học sinh. Để khắc phục, có loại đàm thoại thứ 2. + Đàm thoại gợi mở: Được đặt ra dưới dạng một câu hỏi lớn, khái quát, thông thường nếu không có sự suy nghĩ, tư duy, so sánh và liên hệ thì khó trả lời đúng trọng tâm của câu hỏi. Giáo viên cần cung cấp nguồn, hoặc gợi ý trả lời bằng những câu hỏi nhỏ, cụ thể hơn. Đàm thoại gợi mở giúp cho giờ học sôi nổi, học sinh được hoạt động nhiều, học sinh có thể hiểu sâu được vấn đề, nắm được bản chất của vấn đề trên cơ sở phân tích, trả lời tường tận nội dung của câu hỏi lớn. - Nếu câu hỏi đặt ra ở 1 phạm vi rộng, đòi hỏi học sinh có sự suy nghĩ để giải quyết giáo viên nên chỉ căn cứ vào câu trả lời của học sinh để bổ sung, sửa chữa và gợi ý hướng giải quyết thì người ta gọi đó là phương pháp đàm thoại nêu vấn đề. Thực chất nó là sự kết hợp giữa phương pháp đàm thoại và phương pháp nêu vấn đề. 7.3.5. Phương pháp dạy học nêu vấn đề 56
  57. Giáo viên không trình bày tri thức theo một trình tự có sẵn mà có sự sắp xếp lại tài liệu để đặt thành những tính huống có vấn đề, những mâu thuẫn kích thích người học phải suy nghĩ, phải tìm cách giải quyết. Qua đó, giúp học sinh nắm được các biện pháp của hoạt động nhận thức và lĩnh hội tri thức mới. - Phương pháp này dựa trên nền tảng của ý tưởng dạy học phát triển, tức là trong quá trình học tập học sinh phải độc lập nhận biết kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Quá trình dạy học, giáo viên hình thành được ở học sinh phương pháp nhận thức, còn học sinh phải sáng tạo, phát hiện ra các biện pháp, thủ thuật để hình thành kiến thức mới. * Bản chất của phương pháp dạy học nêu vấn đề: + Trong quá trình học tập học sinh vừa nắm được kiến thức, vừa nắm được phương pháp, tức là trong quá trình học có yếu tố tự nghiên cứu. + Trong quá trình học tập học sinh gặp phải những mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa kiến thức đã biết với kiến thức cần nhận thức. Chính mâu thuẫn này làm cho học sinh có ý muốn phải giải quyết. Khi đó sẽ tạo ra các tình huống có vấn đề. Các tình huống đó có thể là: - Một mâu thuẫn làm nảy sinh vấn đề cần giải quyết. - Hai hoặc nhiều biện pháp phải lựa chọn - Mối quan hệ nhân quả cần phải chứng minh. Các tình huống đặt ra không nên quá khó hoặc quá dễ. Nếu dễ quá, học sinh không cần suy nghĩ đã giải quyết được ngay thì không tạo thành tình huống có nêu vấn đề, còn nếu khó quá học sinh không tìm ra được hướng giải quyết thì cũng không thành công khi sử dụng phương pháp nêu vấn đề. * Điều kiện hành thành tình huống có vấn đề + Tạo ra được nhu cầu nhận thức ở học sinh: làm xuất hiện trước học sinh mâu thuẫn, giúp học sinh xác định rõ nhiệm vụ nhận thức và tiếp nhận nó. 57
  58. + Học sinh phải có hi vọng có thể giai đoạn được vấn đề, tức là có một số cơ sở về nội dung và phương pháp nhưng chưa đủ. + Phải tìm ra được con đường để giải quyết. Như vậy, để sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề giáo viên phải chú ý: học sinh đã có một phần kiến thức và kỹ năng gì để có thể giải quyết vấn đề, kỹ năng nào là mới, phán đoán được học sinh sẽ dùng phương án nào để giải quyết. Mức độ giải quyết đến đâu? * Trong dạy học địa lý phương pháp dạy học nêu vấn đề được tiến hành dưới hình thức sau: + Giáo viên tiến hành chủ động trên lớp, hình thành vấn đề dưới dạng câu hỏi lớn mâu thuẫn là những vấn đề học sinh chưa biết gây cho học sinh mâu thuẫn về nhận thức. Sau đó giáo viên lại tự giải quyết, còn gọi là phương pháp trình bày vấn đề. + Giáo viên và học sinh cùng tiến hành: giáo viên đặt vấn đề cần giải quyết, gợi ý để học sinh phát hiện mâu thuẫn rồi hướng dẫn cho học sinh giải quyết bằng cách gợi lại kiến thức cũ học sinh đã biết làm cơ sở cho cuộc hình thành kiến thức mới. + Hình thành vấn đề cho học sinh tự giải quyết: Thường là các BTVN hoặc bài tập tự nghiên cứu. 7.3.6. Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan truyền thống trong dạy học địa lý - Phương tiện trực quan bao gồm: + Tranh ảnh, sách giáo khoa về địa lý, các tranh ảnh minh hoạ. + Các mô hình, mẫu vật, các bộ sưu tập với chủ đề địa lý. + Các phim ảnh, đèn chiếu, băng vidio. + Các loại bản đồ, biểu đồ, so đồ, hình vẽ. - Hiện nay, có 2 hình thái sử dụng phương tiện trực quan. 58
  59. + Giáo viên dùng lời giảng, dùng phương tiện để minh hoạ cho những kiến thức đã giảng, học sinh quan sát phương tiện đóng vai trò là một biện pháp phục vụ cho phương pháp dùng lời. + Dùng PTTQ là nguồn khai thác kiến thức: Trong trường hợp này phương tiện được coi là 1 phương pháp riêng. * Hướng dẫn học sinh khai thác tri thức địa lý từ bản đồ - Bản đồ là một phương tiện trực quan, nguồn tri thức địa lý quan trọng. Nó phản ánh sự phân bố không gian, mối quan hệ của các đối tượng địa lý một cách cụ thể. Để khai thác được những tri thức trên bản đồ trước hết học sinh phải hiểu bản đồ, đọc được bản đồ, nghĩa là phải nắm được những kiến thức lý thuyết về bản đồ, trên cơ sở đó có được những kỹ năng làm việc với bản đồ. Các kiến thức về bản đồ được hoàn thiện dần cùng với việc học Địa lý ở trường phổ thông từ lớp 6 đến lớp 12. - Mức độ đơn giản là biết bản đồ, gồm có các kỹ năng: xác định phương hướng trên bản đồ, tính toạ độ, tỷ lệ, tính h/c trên bản đồ có tỷ lệ lớn (lớp 6). - Cao hơn là đọc bản đồ, có 3 mức độ: + Sơ đẳng: Đọc được vị trí các đối tượng, có được biểu tượng về các đối tượng qua bản chú giải. Ví dụ: Xác định vị trí của một dãy núi, dựa vào bản chú giải có được hiểu biết về độ cao của dãy núi đo, nơi cao nhất, thấp nhất. + Mức thứ 2: Dựa vào những hiểu biết về bản đồ, kết hợp với kiến thức địa lý tìm ra được những đặc điểm tương đối rõ ràng của những đối tượng địa lý biểu hiện trên bản đồ. Nói chung mô tả các đặc điểm của các đối tượng địa lý trên bản đồ. + Mức 3: Đọc được mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí trên bản đồ. Ở mức này, học sinh cần phải có kiến thức về địa lí kết hợp với các kiến thức bản đồ. 59
  60. - Hướng dẫn khai thác tri thức địa lý từ bản đồ chủ yếu là việc đọc bản đồ ở 2 mức sau. Tuy nhiên khi sử dụng bản đồ, giáo viên cũng phải lưu ý học sinh một số quy tắc nhất định. Ví dụ: chỉ sông là phải chỉ thượng nguồn hạ nguồn, chỉ lãnh thổ có diện tích thì phải chỉ ranh giới trước, chỉ núi thì đầu tiên phải chỉ vào tên núi - Kiến thức bản đồ của học sinh sẽ dần được hoàn thiện khi học xong chương trình địa lý * Hướng dẫn học sinh khai thác tri thức địa lý từ các số liệu thống kê và các biểu đồ - Trong địa lý, các số liệu thống kê có vai trò đặc biệt quan trọng, chúng chứng minh, minh hoạ, soi sáng, giải thích được nhiều khái niệm và quy luật Địa lý. - Bản thân các con số không phải là kiến thức địa lý, song khi gắn nó với một kiến thức địa lý thì nó lại làm cho kiến thức đó được sâu sắc và cụ thể hơn. - Các con số cũng có vai trò trong công tác độc lập của học sinh trong quá trình sử dụng. Các con số trong SGK thường thể hiện ở 2 mặt. Làm sáng tỏ về mặt chất lượng và số lượng của các sự kiện, hiện tượng địa lý. Ví dụ: - Đặc điểm của khí hậu nhiệt đới: nhiệt độ trung bình 25 - 300C, độ ẩm > 85%; mưa trung bình 1500 - 2000mm/năm. - Về số lượng: Nó biểu hiện độ lớn về mặt không gian của đối tượng địa lý. Ví dụ: Sông Nin dài nhất thế giới 6671 km. - Trong sách giáo khoa, con số được thể hiện ở 2 dạng: + Nằm rải rác, đơn lẻ trong SGK nhằm CM, làm sáng tỏ các kiến thức lý thuyết. Khi sử dụng con số này cần lưu ý để so sánh với con số khác để làm nổi bật lên đặc điểm của đối tượng cần nói tới. + Nằm trong các biểu bảng: Vừa để CM cho kiến thức lý thuyết, vừa dựa vào những con số đó để tính toán rồi rút ra kết luận cần học. 60
  61. - Việc sử dụng biểu bảng phải theo một nguyên tắc nhất định. Tuỳ thuộc vào cách sử dụng có những kết quả khác nhau. Có thể hướng dẫn học sinh cách sử dụng biểu bảng số liệu theo trình tự như sau: + Giới thiệu tên biểu bảng và giải thích ý nghĩa của tên đó. + Giới thiệu tên các cột, hàng và ý nghĩa của nó, giải thích ý nghĩa của các đơn vị. + Tìm, phát hiện ra những con số lớn nhất, nhỏ nhất, so sánh các số liệu ở cột với cột để nhận xét sự phát triển của nó. + Tính toán theo yêu cầu của bài tập + So sánh với kiến thức lý thuyết để phát hiện ra các tri thức mới hoặc chứng minh cho kiến thức. - Một biện pháp được sử dụng trong các tài liệu địa lý là chuyển các tài liệu thành các biểu đồ. Có nhiều loại biểu đồ, mỗi loại có công dụng riêng. Những số liệu khi chuyển thành biểu đồ bao giờ cũng có tính trực quan, cho học sinh tiếp thu được tri thức dễ dàng và tạo được hứng thú học tập trong các bài tập địa lý, khi làm việc với các số liệu ở dạng biểu bảng, việc yêu cầu học sinh vẽ biểu đồ là một việc quan trọng vì nó hình thành kỹ năng và giúp học sinh hiểu được ưu nhược điểm của từng loại biểu đồ. - Việc phân tích các biểu đồ thường khó hơn phân tích bảng số liệu vì học sinh vừa phải có kỹ năng đọc biểu đồ, vừa phải có tri thức về các số liệu thống kê kiến thức, cũng như tri thức về địa lý. - Hiện nay, nguồn số liệu rất phong phú và đa dạng, đặc biệt là các số liệu về kinh tế - xã hội. Vì vậy, khi làm việc với các nguồn số liệu phải luôn luôn có sự cập nhật, mới đáp ứng được nhu cầu học kiến thức mới. * Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức địa lý qua băng hình. - Cách (quy trình) sử dụng: 61
  62. + Định hướng: Giúp học sinh nắm được mục đích, các yêu cầu và các đề mục chính của bài như: tên bài, ý nghĩa của các tri thức sẽ học, những vấn đề chính cần tìm hiểu và cách khai thác chúng qua băng hình. - Mỗi vấn đề phù hợp với một đề mục chính của bài. - Giáo viên ghi các đề mục lên bảng. + Sử dụng băng hình: cho xem từng đoạn rồi đặt các câu hỏi kiểm tra nhận thức của học sinh; cũng có thể đặt hàng loạt các câu hỏi trước, rồi yêu cầu học sinh dựa vào nội dung của đoạn băng để trả lời. + Kết thúc: Tổng kết, nêu những ý chính của bài theo mục đích yêu cầu và đặc biệt nêu lên những nhận xét, kinh nghiệm về cách khai thác tri thức qua băng hình. - Có thể cho xem lại một vài đoạn chưa hiểu rõ. - Không nên kết hợp vừa xem, vừa giải thích về nó có thể làm phân tích sự chú ý của học sinh. * Hướng dẫn học sinh khai thác tri thức địa lý qua việc quan sát - Quan sát ngắn: quan sát một chòm sao, quan sát một dãy núi, một dòng sông; Quan sát dài: Quan sát sự biến đổi của không khí qua các mùa, quan sát sự thay đổi mực nước ở một dòng sông qua mùa nước đầy và mùa nước cạn. - Quan sát trong phòng: quan sát các phương tiện, 1 bản vẽ; Quan sát ngoài trời. Vườn địa lý, dãy núi, dòng sông - Cách quan sát: + Trước hết làm cho học sinh tập trung sự chú ý vào đối tượng cần quan sát bằng cách đặt các câu hỏi. + Hướng dẫn quan sát: Cũng bằng cách đặt câu hỏi. + Ghi chép: Giúp đỡ học sinh ghi tóm tắt lại những kết quả quan sát được. 62
  63. + Sắp xếp tài liệu quan sát: Dựa vào mục đích yêu cầu của cuộc quan sát để ghi và sắp xếp. + Tổ chức báo cáo để học sinh trình bày kết quả quan sát của mình. * Hướng dẫn học sinh khai thác tri thức địa lý qua SGK - SGK là phương tiện chính, là nguồn kiến thức cơ bản của học sinh. Nội dung SGK là những tri thức địa lý được lựa chọn, sắp xếp phù hợp với yêu cầu của nhà trường và xã hội. - Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ cấu trúc, cách trình bày vấn đề của từng giáo trình. Mỗi giáo trình đều có cách trình bày riêng, nếu hiểu được thì việc khai thác các tri thức sẽ dễ dàng hơn. - Nôi dung cơ bản của sách giáo khoa hiện nay thể hiện qua kênh hình và kênh chữ: + Kênh hình: Đó là các bản đồ, lược đồ, tranh ảnh Cách hướng dẫn học sinh khai thác tri thức từ kênh hình tương tự như ở phần khai thác kiến thức từ bản đồ, tranh ảnh. + Kênh chữ: Bao gồm: Các bài viết, bài học thêm, câu hỏi, bài tập, bài thực hành khi làm việc với kênh chữ cần giúp học sinh nắm được nội dung chính, cơ bản phân biệt các kiến thức chính, kiến thức phụ. - Cần chú ý các dòng in nghiêng, in đậm trong SGK vì đó là nội dung cơ bản. - Cần đọc kỹ và trả lời các câu hỏi cuối mỗi bài học vì đó chính là trọng tâm, mục đích của bài giảng. - Cần làm các bài tập, bài thực hành vì nó rèn luyện các kỹ năng địa lý. c. Phương pháp hướng dẫn học sinh thảo luận - Thảo luận là 1 phương pháp có tác dụng đặc biệt với học sinh lớn. Qua thảo luận, học sinh có dịp được bày tỏ quan điểm của mình về một vấn đề nào đó có tác dụng khắc sâu kiến thức thảo luận tạo ra mối quan hệ 2 chiều giữa giáo viên - học sinh, học sinh - giáo viên. 63
  64. - Quy trình: + Chuẩn bị nội dung thảo luận: chọn bài, chọn vấn đề thích hợp. Thường đó là vấn đề khó nhưng được nhiều người quan tâm. - Cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà, ghi ý kiến chuẩn bị ra giấy. + Tổ chức thảo luận: Nêu lại một lần nữa yêu cầu, mục đích, nội dung của vấn đề cần thảo luận, chỉ định và điều khiển thảo luận. + Nếu có điều kiện nên chia thành nhóm nhỏ. + Trong quá trình thảo luận giáo viên quan sát, không tham gia ý kiến trực tiếp. + Cuối buổi mới tập trung ý kiến, trao đổi, bổ sung và kết luận. 7.3.7. Một số kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác * Kỹ thuật " Khăn phủ bàn": Là kĩ thuật dạy học kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. * Kỹ thuật "Các mảnh ghép": Là kỹ thuật dạy học kết hợp giữa hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm và liên kết nhóm. * Sơ đồ KWL: Là sự kết hợp giữa điều đã biết, điều muốn biết và điều học được trong quá trình dạy học. * Sơ đồ tư duy: Thể hiện quá trình tìm hiểu một vấn đề địa lí ở nhiều khía cạnh khác nhau, giữa chúng có mối liên hệ với nhau. Kết luận: Trong tất cả các phương pháp dạy học nói trên, mỗi phương pháp đều có mặt ưu điểm, nhược điểm. Không có phương pháp nào là vạn năng cho tất cả các bài học. Vấn đề là ở chỗ người giáo viên phải biết kết hợp, sử dụng từng phương pháp trong từng nội dung, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bài học. 64
  65. Chương 8 CÔNG VIỆC GIẢNG DẠY VÀ CHỈ ĐẠO HỌC SINH HỌC TẬP CỦA GIÁO VIÊN ĐỊA LÍ * Mục tiêu: - Xác định được công việc chính của giáo viên trong quá trình dạy học. Biết cách xây dựng kế hoạch dạy học cá nhân phù hợp với phân phối chưng trình của Bộ giáo dục quy định. 8.1. Công tác chuẩn bị giảng dạy 8.1.1. Xây dựng kế hoạch dạy học a. Kế hoạch dạy học toàn năm: là việc làm hết sức cần thiết của mỗi người giáo viên, nó giúp giáo viên có thể chủ động được thời gian, ý định dạy học, đồng thời đáp ứng được một cách tốt nhất những quy định, yêu cầu chung của Bộ Giáo dục. - Khi xây dựng kế hoạch dạy học toàn năm, giáo viên cần chú ý + Nghiên cứu chương trình, nội dung SGK của lớp mình sẽ dạy. + Nghiên cứu bảng phân bố thời gian và chỉ thị hướng dẫn thực hiện chương trình của Bộ (nghiên cứu phân phối chương trình). + Xác định những kỹ năng cần rèn luyện trong quá trình dạy. + Dự kiến và chuẩn bị các phương tiện dạy học. + Xác định nội dung giáo dục thích hợp qua từng bài. - Trong các trường phổ thông hiện nay có lịch báo giảng. Đó là sự cụ thể hoá kế hoạch dạy học toàn năm đến từng ngày. b. Kế hoạch dạy học từng bài (giáo án) - Là kế hoạch làm việc thầy và trò trong suốt tiết học theo những mục đích và yêu cầu đã định sẵn. Muốn có 1 bài giảng tốt, đầy đủ trước hết phải có giáo án tốt. Một giáo án được chuẩn bị tốt sẽ giúp người giáo viên vững vàng, chủ động được kiến thức trong mọi tình huống lên lớp. 65
  66. - Khi soạn giáo án phải nắm được tinh thần chung của toàn bộ chương trình và phải có sự thống nhất với kế hoạch dạy học toàn năm. - Khi soạn giáo án bao giờ cũng phải chú ý tới mối quan hệ giữa mục đích, nội dung, phương pháp, phân tích theo cả chiều ngang và chiều dọc. Theo chiều ngang M N PP PT     Theo chiều dọc M1 N1 PP1 PT1 Nghĩa là: Ở từng đơn vị kiến thức phải xác định được mục đích, phương pháp, phương tiện cho phù hợp và việc phân chia thành các mục đích từng phần phải phục vụ cho mục đích chung, nhiệm vụ từng phần phục vụ cho nhiệm vụ chung. - Cấu trúc giáo án gồm các bước sau: I. Mục tiêu 1. Về kiến thức 2. Về kỹ năng 3. Về thái độ tình cảm II. Các bước lên lớp 1. Ổn định tổ chức 2. Kiểm tra bài cũ 3. Bài mới 4. Củng cố 5. Dặn dò Rút kinh nghiệm sau giờ dạy - Để soạn giáo án, đầu tiên giáo viên cần phải nắm vững được toàn bộ chương trình địa lý mình sẽ dạy. + Nghiên cứu mối quan hệ giữa các giáo trình + Đọc nhiều lần nội dung bài sẽ soạn, xác định nội dung chính, nội dung phụ, những kiến thức tương tự học sinh đã được học ở lớp trước. + Hình dung ra cách dạy. 66
  67. + Soạn thành giáo án - Có nhiều kiểu mẫu giáo án khác nhau, có kiểu giáo án 3 cột, 2 cột nhưng phổ biến nhất hiện nay là kiểu giáo án 2, 3 cột. Kiểu 2 cột Nội dung Phương pháp - Những kiến thức cơ bản, - Những hoạt động của giáo viên và học trọng tâm sinh - Một số kiến thức phụ, mở rộng Kiểu 3 cột Nội dung chính Nội dung phụ Phương pháp - Những KT chính, KT bổ sung, mở rộng - Có thể ghi vắn tắt: đàm cơ bản thoại, giảng giải. - Hoặc ghi rõ câu hỏi, trả lời của giáo viên và học sinh - Một giáo án tốt là cơ sở để có 1 giờ giảng tốt, song nhờ vậy chưa đủ, mà yếu tố quyết định đến sự thành công của giờ giảng còn là sự chuyển tải nội dung của giáo án và bài giảng. Đó chính là sự linh hoạt, khéo léo của giáo viên trong việc sử dụng các phương pháp dạy học và những kinh nghiệm của người giáo viên trong việc xử lý các tình huống cụ thể trong giờ học. - Như vậy: Để có 1 giờ giảng tốt cần phải có: Giáo án tốt + phương pháp tốt + kinh nghiệm tốt + sự hỗ trợ của phương tiện dạy học. 8.2. Chỉ đạo học sinh học tập - Trong quá trình học tập địa lý, để giúp học sinh nắm được tri thức địa lý một cách tốt nhất, giáo viên cần hướng dẫn học sinh các công việc sau. 8.2.1. Ghi chép bài trên lớp 67
  68. - Tên bài, đề mục, các nội dung chính thường được giáo viên ghi trên bảng. Học sinh cần có sự theo dõi để ghi lại những ý chính trong từng phần theo lời giảng của giáo viên theo cách hiểu của mình. - Cần ghi lại một cách đầy đủ các hướng dẫn về cách khai thác tri thức, cách sử dụng các hình vẽ và những kiến thức mới bổ xung. 8.2.2. Sử dụng sách giáo khoa - Đọc trước nội dung của bài học trong sách giáo khoa trước khi nghe giảng. - Tập trả lời các câu hỏi cuối mỗi bài học. - Làm đầy đủ các bài thực hành. - Vẽ lại toàn bộ các lược đồ theo sách giáo khoa. Có tác dụng khắc sâu kiến thức, rèn luyện được kỹ năng địa lý. 8.2.3. Sử dụng và thu thập các tài liệu tham khảo - Giới thiệu tên sách, tài liệu cần tham khảo. - Nghe đài, báo, vô tuyến, ghi lại những thông tin mới. - Lập sổ tay địa lý, ghi lại những địa danh, những sự kiện địa lý nổi tiếng. 8.3. Nghiên cứu, phân loại và đánh giá kết quả học tập địa lý của học sinh - Trình độ, khả năng tiếp thu của học sinh thường khác nhau. giáo viên cần phải nắm được trình độ của học sinh mới có phương pháp dạy phù hợp. Có thể tiến hành tìm hiểu bằng cách làm bài kiểm tra đầu vào, tìm hiểu tình hình học tập, tinh thần, thái độ của lịch sử đối với môn học. Với học sinh giỏi nên có sự bồi dưỡng, phát huy trình độ, với học sinh kém nên có sự động viên, kèm cặp. Chương 9 KIỂM TRA- ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ * Mục tiêu: - Hiểu vị trí, vai trò của kiểm tra trong quá trình dạy học 68
  69. - Biết cách xây dựng đề kiểm tra, đáp án, biểu điểm cho các đề kiểm tra viết. - Đánh giá đúng , khách quan, chính xác kết quả học tập của học sinh 9.1. Khái niệm - Kiểm tra là một quá trình mà các tiêu chí đã được định ra từ trước, trong đó chúng ta kiểm tra sự phù hợp của sản phẩm so với các tiêu chí đã định, không qua tâm đến quyết định cần đề ra. - Đánh giá là thu thập lượng thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy rồi xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này với tập hợp các tiêu chí, với mục tiêu định ra ban đầu nhằm đưa ra một quyết định. 9.2. Vai trò của kiểm tra đánh giá - Đối với giáo viên và HS: Thu được nhũng thông tin chung ngược chiều giữa GV và HS để điều chỉnh kịp thời. - Đối các nhà quản lí: Có những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học của một đơn vị giáo dục để từ đó có những quyết định kịp thời. 9.3. Nội dung đánh giá - Đánh giá kiến thức: Tương ứng với 6 mức độ nhận thức thì có 6 mức độ đánh giá: Biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. - Đánh giá kĩ năng: Thông qua cách khai thác kiến thức qua các nguồn tri thức. - Đánh giá thái độ tình cảm: Thông qua việc biến các kiến thức, kĩ năng thành mục tiêu hành động. 9.4. Các hình thức kiểm tra- đánh giá - Quan sát: Được thực hiện qua quan sát một cách có hệ thống hoạt động của lớp học nói chung, của mỗi học sinh nói riêng, qua các khâu ôn tập, củng cố bài cũ, tiếp thu bài mới. Kiểm tra thường xuyên giúp thầy kịp thời điều chỉnh cách dạy, từ kịp thời điều chỉnh cách học cho phù hợp. - Vấn đáp 69