Đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế và tinh thần lập nghiệp: Bằng chứng thực nghiệm từ các thị trường mới nổi
Bạn đang xem tài liệu "Đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế và tinh thần lập nghiệp: Bằng chứng thực nghiệm từ các thị trường mới nổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_chat_luong_the_che_va_tinh_than.pdf
Nội dung text: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế và tinh thần lập nghiệp: Bằng chứng thực nghiệm từ các thị trường mới nổi
- Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển; ISSN 2588–1205 Tập 128, Số 5A, 2019, Tr. 17–32; DOI: 10.26459/hueuni-jed.v128i5A.5081 ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI, CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ VÀ TINH THẦN LẬP NGHIỆP: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TỪ CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI Võ Phan Quang Thế*, Trần Hồi Nam Trường Đại học Kinh Tế thành phố Hồ Chí Minh, 59C Nguyễn Đình Chiểu, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam Tĩm tắt: Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của các nhân tố thể chế và đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) lên tinh thần lập nghiệp ở 39 thị trường mới nổi trong giai đoạn 2004–2015. Mở rộng các nghiên cứu trước đây về lý thuyết thể chế và lý thuyết tác động lan tỏa của FDI, nghiên cứu làm sáng tỏ hơn về mối quan hệ giữa thể chế, FDI và tinh thần lập nghiệp trong bối cảnh các thị trường mới nổi. Kết quả nghiên cứu củng cố các tranh luận đưa ra trước đĩ rằng thể chế chính thức, ví dụ như yếu tố tự do kinh doanh, tác động nghịch biến lên tinh thần lập nghiệp tổng thể và vốn FDI đi vào sẽ khuyến khích hoạt động lập nghiệp. Gĩp phần vào lý thuyết lập nghiệp hiện hành, các phát hiện hàm ý rằng thể chế quản trị tác động đến các hành vi lập nghiệp thơng qua các hiệu ứng điều tiết của nĩ lên cả dịng FDI đi vào và dịng FDI đi ra. Sự tương tác giữa chất lượng thể chế và FDI tạo ra các hiệu ứng đối lập lên tinh thần lập nghiệp cơ hội và tinh thần lập nghiệp cần thiết. Trong khi lập nghiệp cơ hội được thúc đẩy khi dịng FDI đi vào và bị suy giảm khi dịng FDI đi ra trong các thị trường mới nổi cĩ chất lượng thể chế thấp, tinh thần lập nghiệp cần thiết khơng được khuyến khích khi FDI đi vào mà được thúc đẩy khi FDI đi ra các thị trường mới nổi cĩ chất lượng thể chế cao. Từ khĩa: tinh thần lập nghiệp, lập nghiệp cần thiết, lập nghiệp cơ hội, đầu tư trực tiếp nước ngồi, thể chế chính thức, thể chế quản trị, thị trường mới nổi 1 Đặt vấn đề Với sự đĩng gĩp ngày càng lớn của các nền kinh tế thị trường mới nổi vào nền kinh tế tồn cầu, hoạt động lập nghiệp trong các thị trường mới nổi là một vấn đề cần được nghiên cứu sâu rộng. Với các thị trường này, một số nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được ghi nhận như vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) và chất lượng thể chế cũng sẽ trở thành những yếu tố cĩ thể quyết định đến tinh thần lập nghiệp [19]. Tuy nhiên, các nghiên cứu về tinh thần lập nghiệp ở các thị trường mới nổi vẫn chưa đi sâu vào phân tích các nhân tố quan trọng này. Thứ nhất, các nghiên cứu quốc tế trong lĩnh vực này vẫn chưa xem xét thấu đáo sự khác biệt giữa FDI đi vào và FDI đi ra. Bên cạnh đĩ, vai trị của thể chế quốc gia trong việc chi phối mối quan hệ của FDI (đi vào/đi ra) lên hoạt động lập nghiệp vẫn cịn để ngỏ. Thật sự, sự đa dạng và phân hĩa cao về mức độ phát triển thể chế trong các thị trường mới nổi là một cơ hội để nghiên cứu đi sâu vào xem xét các mối quan hệ mang tính ràng buộc này. * Liên hệ: thevpq@gmail.com Nhận bài: 21–12–2018; Hồn thành phản biện: 21–01–2019; Ngày nhận đăng: 18–02–2019
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 Việc xem xét sự tác động của các yếu tố thể chế và FDI đến tinh thần lập nghiệp là vơ cùng quan trọng vì chúng đĩng vai trị như chất xúc tác để khởi tạo doanh nghiệp. Hướng nghiên cứu này sẽ cung cấp một gĩc nhìn sâu sắc hơn về vai trị của các đặc điểm mơi trường đối với hoạt động lập nghiệp. Qua đĩ, các tác giả đánh giá khả năng các quốc gia hấp thụ các lợi ích từ sự lan tỏa của các yếu tố trên, cụ thể là yếu tố vốn FDI và thể chế kinh tế. Từ đĩ, các quốc gia cĩ thể lựa chọn những cách thức phù hợp nhằm khởi tạo nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp triển khai ý tưởng kinh doanh mới, đồng thời giúp các nguồn lực xã hội được phân bổ hợp lý và khơng bị ảnh hưởng bất lợi trong mơi trường đầu tư chuyên biệt của từng quốc gia [4, 19, 20]. Nghiên cứu này mở rộng các nghiên cứu trước đây và là nghiên cứu đầu tiên xem xét mối quan hệ giữa thể chế, FDI và tinh thần lập nghiệp ở các nền kinh tế mới nổi dựa trên sự phân biệt rõ mức độ tương tác giữa các thành tố cụ thể gồm thể chế chính thức và thể chế quản trị, dịng vốn FDI đi vào và dịng vốn FDI đi ra, lập nghiệp cần thiết và lập nghiệp cơ hội. Kết quả cho thấy rõ sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng giữa của các thành tố được phân loại này, đặc biệt là khi xem xét vai trị điều tiết của thể chế đối với sự tác động của FDI lên tinh thần lập nghiệp. Từ đĩ, nghiên cứu cung cấp một hệ thống lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm mới cho mối quan hệ giữa thể chế, FDI và tinh thần lập nghiệp ở các thị trường mới nổi mà các nghiên cứu trước đây chưa xem xét hồn chỉnh. 2 Cơ sở lý thuyết 2.1 Tác động của FDI lên tinh thần lập nghiệp Hiệu ứng lan tỏa tích cực Tác động lan tỏa tích cực của FDI lên tinh thần lập nghiệp tại quốc gia sở tại được thể hiện thơng qua sự lan truyền về cơng nghệ mới và tri thức (kỹ năng điều hành) về việc kiến tạo các thị trường mới và hình thành các hoạt động phụ trợ, về khả năng truy cập các nguồn lực quan trọng hoặc thậm chí là các hỗ trợ tài chính do các cơng ty nước ngồi cung cấp. Các hiệu ứng này cĩ thể xảy ra theo chiều ngang hoặc chiều dọc [8, 12, 20, 24]. Nhiều bằng chứng thực nghiệm đến nay xác nhận sự hiện diện của hiệu ứng lan tỏa tích cực ở cấp độ chuyên biệt quốc gia [6, 5, 18]. Ở cấp độ tập hợp các quốc gia, Doytch [15] phát hiện FDI tác động tích cực lên tinh thần lập nghiệp chỉ trong nhĩm các nước cĩ thu nhập trung bình. Kim và Li [21] xem xét dữ liệu tại 104 quốc gia và cho thấy cĩ một mối quan hệ đồng biến giữa FDI và mức độ tạo lập cơng ty ở những vùng cĩ sự hỗ trợ thể chế yếu, tức là FDI cĩ vai trị tích cực đối với lập nghiệp, đặc biệt trong những quốc gia ít phát triển mà thiếu sự hỗ trợ thể chế, ổn định chính trị và chất lượng nguồn nhân lực. Albulescu và cs. [2] phát hiện dịng vốn 18
- Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 FDI chảy vào khu vực các quốc gia ở châu Âu cĩ tác động tích cực đối với tinh thần lập nghiệp cơ hội ở đây. Hiệu ứng lan tỏa tiêu cực Tác động lan tỏa tiêu cực cĩ thể xảy ra khi các cơng ty nước ngồi tham gia cạnh tranh vào cùng đối tượng khách hàng và khiến các cơng ty nội địa bị đẩy lùi [11]. Sự xuất hiện của các cơng ty nước ngồi trong một ngành nào đĩ cĩ thể gây ra tác động tiêu cực lên khả năng gia nhập của các cơng ty nội địa vì làm gia tăng các rào cản cơng nghệ đối với việc gia nhập [5]. Ngồi ra, sự hiện diện của đầu tư nước ngồi sẽ làm tăng sự biến động trong cầu đi theo chuỗi cung ứng, bao gồm liên kết đầu vào và liên kết đầu ra [21]. Tác động tiêu cực của FDI đối với tinh thần lập nghiệp được nhiều nghiên cứu thực nghiệm xác nhận. Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, hiệu ứng này hoặc đã được tìm thấy hoặc chưa được tìm thấy như nghiên cứu của Djankov và Hoekman [13], Konings [22]. Hiệu ứng lan tỏa tiêu cực cũng được Barbosa và Eiriz ghi nhận tại Bồ Đào Nha dưới dạng một tác động biên trên cơ sở đầu tư FDI tăng thêm [6]. Mối tương quan âm cũng được De Backer và Sleuwaegen tìm thấy khi nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và lập nghiệp giữa các ngành sản xuất tại Bỉ [11]. Tiếp cận từ gĩc độ đa quốc gia, Danakol và cs. [10] tìm thấy mối quan hệ nghịch biến xét về tổng thể và xét theo ngành giữa FDI và lập nghiệp nội địa ở 70 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 2000–2009. 2.2 Vai trị của thể chế đối với tinh thần lập nghiệp Nghiên cứu về mối quan hệ giữa thể chế và tinh thần lập nghiệp, các nhà nghiên cứu cho rằng thể chế cĩ thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tinh thần lập nghiệp trong nước. Acs và cs. [1] cho thấy rằng thể chế ảnh hưởng đến tinh thần lập nghiệp cĩ thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế của đất nước và chính sách lập nghiệp. Mức độ phát triển doanh nghiệp mới trong một xã hội cĩ liên quan trực tiếp đến các quy định và chính sách của xã hội về phân phối thu nhập [7]. Một số quốc gia cĩ các tiêu chuẩn, quy tắc tạo điều kiện và thúc đẩy tinh thần lập nghiệp, trong khi ở một số quốc gia khác cĩ thể làm cho tinh thần lập nghiệp trở nên khĩ khăn hơn [7]. Simĩn-Moya và cs. [25] nghiên cứu trên tập hợp 68 quốc gia nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của mơi trường thể chế đến động cơ lập nghiệp. Các tác giả cho thấy rằng tinh thần lập nghiệp thường mạnh mẽ hơn ở các quốc gia cĩ mức độ phát triển thấp hơn, bất bình đẳng về thu nhập cao hơn và cĩ tỷ lệ thất nghiệp cao. Ngược lại, ở các quốc gia phát triển hơn, tỷ lệ lập nghiệp thấp hơn đáng kể. Loại hình lập nghiệp cần thiết ít phổ biến hơn và kết quả đổi mới được cải thiện đáng kể. Họ cho rằng việc cải thiện mơi trường thể chế sẽ tạo điều kiện thuận lợi 19
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 cho tinh thần lập nghiệp. Vai trị của chất lượng thể chế quốc gia với tinh thần lập nghiệp trước đĩ cũng được một số tác giả đề cập [8, 26]. 2.3 Đầu tư trực tiếp nước ngồi, thể chế và tinh thần lập nghiệp Trong các nghiên cứu trước đây, nhiều tác giả đã nhấn mạnh tầm quan trọng của thể chế, vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi tác động đến tinh thần lập nghiệp, bao quát ở phạm vi tồn cầu, châu lục, các thị trường phát triển, đang phát triển và các nước mới nổi, cũng như các nghiên cứu chuyên biệt cho phạm vi quốc gia. Một vài tác giả mở rộng nghiên cứu sâu hơn trong việc xem xét vai trị của thể chế ảnh hưởng đến sự đĩng gĩp của FDI vào tinh thần lập nghiệp ở các nước tiếp nhận vốn. Điển hình, Acs và cs. [1] cho thấy rằng thể chế ảnh hưởng đến tinh thần lập nghiệp cĩ thể khác nhau tùy thuộc vào chính sách lập nghiệp của quốc gia. Do vậy, nhĩm tác giả này cho rằng hoạch định chính sách cĩ thể tác động tích cực đến tinh thần lập nghiệp thơng qua việc kích thích dịng vốn FDI đi ra nước ngồi và thương mại quốc tế để tạo điều kiện cho việc xuất khẩu lan rộng. Đồng thời, các quốc gia nên tìm cách tập trung vào việc đạt được mơi trường thể chế và kinh tế vĩ mơ ổn định và bằng cách tăng khả năng lập nghiệp, cho phép các cá nhân và doanh nghiệp hấp thụ các tác động lan tỏa kiến thức từ FDI. Những phân tích sâu hơn được đăng tải trong nhiều nghiên cứu gần đây [2, 3, 16, 19, 21, 23]. Tuy nhiên, một phân tích tổng hịa của các mối quan hệ đĩ vẫn là một điểm khuyết trong lý thuyết và thực nghiệm, cụ thể là ở gĩc độ xoay quanh mối quan hệ giữa FDI, thể chế và lập nghiệp. 3 Phương pháp và dữ liệu 3.1 Phương pháp Nhĩm tác giả sử dụng phương pháp định lượng để đánh giá mức độ tác động của thể chế, FDI lên tinh thần lập nghiệp dựa trên mơ hình tác động cố định (FEM – fixed effect model) và mơ hình tác động ngẫu nhiên (REM – random effect model). Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật hồi quy dữ liệu bảng để ước lượng sự tồn tại của các hiệu ứng liên quan. 3.2 Dữ liệu và đo lường biến Nghiên cứu này sử dụng một mẫu gồm 39 quốc gia mới nổi (theo phân loại của FTSE – The Financial Times and The London Stock Exchange) với dữ liệu lập nghiệp dựa trên cơ sở dữ liệu GEM (Global Entrepreneurship Monitor) từ năm 2004 đến 2015. Mẫu dữ liệu sau cùng là dữ liệu bảng khơng cân bằng với 240 quan sát trên mẫu tổng thể. Đối với mẫu dữ liệu cho lập nghiệp cơ hội và lập nghiệp cần thiết, GEM chỉ cĩ số liệu từ 2007 đến 2015. Các mẫu này cũng là khơng cân bằng với 152 quan sát. 20
- Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 Mục tiêu quan trọng của dự án GEM là đánh giá vai trị của hoạt động lập nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế. Dự án GEM hướng đến cả những nhà làm chính sách và các học giả nghiên cứu. Dự án GEM tiếp cận tinh thần lập nghiệp trong một quốc gia thơng qua chỉ số tinh thần lập nghiệp tổng thể (LN_TT). Chỉ số này đo lường tỉ lệ dân số ở độ tuổi từ 18–64 đã bắt đầu một đầu tư để lập nghiệp trong vịng 42 tháng gần nhất. Dữ liệu về lập nghiệp của GEM phân biệt những người tham gia vào hoạt động lập nghiệp bởi vì họ nhận ra cơ hội trong thị trường (lập nghiệp cơ hội) với những người tham gia hoạt động lập nghiệp bởi vì họ khơng cĩ lựa chọn nào khác để làm việc (lập nghiệp cần thiết). Với loại lập nghiệp cơ hội (LN_CH), những người chọn lập nghiệp để bản thân được độc lập và tăng thêm thu nhập; đối với loại lập nghiệp cần thiết (LN_CT), những người chọn lập nghiệp cĩ thể vì họ khơng tìm thấy lựa chọn cơng việc nào tốt hơn và buộc phải lập nghiệp để tìm kiếm thu nhập bản thân. Với các biến thể chế chính thức (TCCT), nhĩm tác giả sử dụng các chỉ số tự do kinh tế (the Index of Economic Freedom, IEF) của tổ chức Heritage Foundation gồm tự do kinh doanh, tự do tài khĩa và tự do thương mại quốc tế. Theo tiếp cận của IEF, tự do kinh doanh (TDKD) đo lường mức độ mơi trường pháp lý và hạ tầng ràng buộc tính hiệu quả trong hoạt động doanh nghiệp. IEF đo lường TDKD với nhiều nhân tố thành phần tác động lên mức độ dễ dàng trong việc thành lập, duy trì và đĩng cửa doanh nghiệp. Chỉ số này càng lớn cho biết thể chế càng mạnh. Khi đĩ, các giao dịch kinh doanh được hỗ trợ bởi những cơ chế nhằm đảm bảo tính minh bạch và khả năng dự báo cho doanh nghiệp. Tự do kinh doanh là một trong 12 chiều thước đo tự do kinh tế của tổ chức Heritage Foundation với mỗi chiều được đo trên thang đĩ từ 0 đến 100 điểm. Các chiều khác của IEF được sử dụng trong nghiên cứu này là tự do tài khĩa và tự do thương mại. Tự do tài khĩa (TDTK), cụ thể hơn là “gánh nặng thuế”, là một thước đo tổng hợp phản ánh các mức thuế suất biên tế đánh lên cả thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp cũng như tổng mức độ ràng buộc của hệ thống thuế (bao gồm các thuế trực thu và gián thu ở mọi cấp độ chính phủ). Tự do thương mại (TDTM) là một thước đo tổng hợp phản ánh mức độ áp đặt các hàng rào thuế quan và phi thuế quan ảnh hưởng đến quá trình thương mại quốc tế của các hàng hĩa và dịch vụ nhập khẩu và xuất khẩu. Nhìn chung, với tất cả các chỉ số IEF, thang đo sẽ biểu thị tính tự do nếu điểm từ 80–100, gần như tự do (70–79.9), tự do trung bình (60–69.9), gần như khơng tự do (50–59.9) và mất tự do (0–49.9). Các thể chế quản trị (TCQT) được xác định dựa vào phiên bản gần nhất của báo cáo Chỉ số quản trị tồn cầu (Worldwide Governance Indicators, WGI) của World Bank. Dữ liệu WGI ghi nhận 6 chiều phản ánh chất lượng thể chế gồm kiểm sốt tham nhũng (Control of Corruption), luật định (Rule of law), chất lượng pháp lý (Regulatory quality), hiệu quả chính phủ (Government Effectiveness), ổn định chính trị và an ninh xã hội (Political stability and absence of violence/terrorism) và quyền dân chủ (Voice and Accountability). Thang đo của các 21
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 chiều này là từ –2.5 đến 2.5. Giá trị càng cao của thang đo này cho biết chất lượng thể chế cao hơn. Dữ liệu cho 2 thành phần của dịng vốn FDI (tính theo phần trăm GDP), gồm FDI đi vào (FDI_VAO) và FDI đi ra (FDI_RA), được lấy từ nguồn cơ sở dữ liệu thuộc Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (United Nations Conference on Trade and Development, UNCTAD). Biến kiểm sốt (KIEMSOAT) được đưa vào mơ hình nghiên cứu để đảm bảo rằng mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến giải thích cần quan tâm khơng bị các nhân tố khác chi phối. Mơ hình trong nghiên cứu này sử dụng 2 nhĩm biến kiểm sốt gồm nhĩm kiểm sốt điều kiện kinh tế vĩ mơ và nhĩm kiểm sốt đặc tính người lập nghiệp (đo trên bình diện quốc gia). Nhĩm biến kiểm sốt kinh tế vĩ mơ cĩ 5 biến gồm tín dụng nội địa đo bằng phần trăm GDP (TINDUNG). Biến kiểm sốt thứ hai là tỷ lệ thương mại của hàng hố và dịch vụ đo bằng phần trăm GDP (THUONGMAI). Biến thứ ba là tăng trưởng kinh tế quốc gia đo bằng tốc độ tăng trưởng GDP (GDP_TT). Biến thứ tư là GDP bình quân đầu người (GDP_DN). Biến kiểm sốt vĩ mơ cuối cùng là tỷ lệ người thất nghiệp trong tổng số lao động (THNGHIEP). Tất cả các biến kiểm sốt vĩ mơ này được thu thập từ nguồn Chỉ số phát triển tồn cầu (World Development Indicators, WDI) của World Bank. Nhĩm biến kiểm sốt đặc tính người lập nghiệp bao gồm 2 biến: nỗi sợ thất bại (SOTHATBAI) và dự định lập nghiệp (DUDINH_LN) thu thập từ nguồn dữ liệu GEM. Bảng 1. Bảng tổng hợp mơ tả các biến Nhĩm biến Biến thành phần Nguồn Kỳ vọng dầu LN_TT: lập nghiệp tổng thể GEM (2004–2015) TTLN – Tinh thần lập LN_CH: Lập nghiệp cơ hội GEM (2007–2015) nghiệp (Entrepreneurship) LN_CT: Lập nghiệp cần thiết GEM (2007–2015) TDKD: tự do kinh doanh IEF +/– TCCT – Thể chế chính thức TDTK: tự do tài khĩa IEF +/– (Formal Institutions) TDTM: tự do thương mại IEF +/– Chỉ số trung bình số học của 6 chiều: – Kiểm sốt tham nhũng TCQT – Thể chế quản trị – Luật định +/– (Institutions of – Chất lượng pháp lý WGI Governance) – Hiệu quả chính phủ – Ổn định chính trị và an ninh xã hội – Quyền dân chủ FDI – Đầu tư trực tiếp FDI_VAO: dịng vốn FDI đi vào UNCTAD +/– nước ngồi FDI_RA: dịng vốn FDI đi ra UNCTAD +/– 22
- Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 Nhĩm biến Biến thành phần Nguồn Kỳ vọng dầu TINDUNG: Tín dụng nội địa tới khu vực tư nhân WDI +/– THUONGMAI: Thương mại tính WDI +/– theo % GDP (Ln) KIEMSOAT – Các biến WDI +/– GDP_TT: tăng trưởng GDP kiểm sốt WDI +/– GDP_ĐN: thu nhập GDP bình quân WDI +/– đầu người GEM (2007–2015) – THNGHIEP: tỷ lệ thất nghiệp GEM (2007–2015) + SOTHAIBAI: nỗi sợ thất bại DUDINH_LN: dự định lập nghiệp 3.3 Mơ hình nghiên cứu Mơ hình cơ bản Mơ hình FEM Mơ hình REM trong đĩ, i là chỉ số quốc gia và t là chỉ số năm; TTLN là thước đo tinh thần lập nghiệp; TCCT là các thể chế chính thức; TCQT là thể chế quản trị; FDI là đầu tư trực tiếp nước ngồi; KIEMSOAT là tập hợp các biến kiểm sốt. Nguồn dữ liệu và cách đo lường cho tất cả các biến này đã được trình bày trong mục 3.2 và tĩm lược trong Bảng 1. Những thành phần khác gồm ui – tác động cố định (fixed effects), vit – tác động ngẫu nhiên (radom effects) và εit là phần nhiễu đặc tính. Mơ hình tương tác Để kiểm tra vai trị điều tiết của chất lượng thể chế lên kênh tác động của FDI lên lập nghiệp (bao gồm cả dịng vốn FDI ra/đi vào, và lập nghiệp cơ hội và lập nghiệp cần thiết), nhĩm tác giả sử dụng cách tiếp cận tương tác của Herrera-Echeverri và cs. [19]. Cụ thể FDI (dịng vốn vào và dịng vốn ra) sẽ tương tác với các mức độ của thể chế quản trị khác nhau. Mơ hình FEM tương tác: Mơ hình REM tương tác trong đĩ, Di là biến giả phản ánh chất lượng thể chế (mức độ thể chế quản trị). Cụ thể, chất lượng thể chế (TCQT) được chia thành 3 vùng theo giá trị tứ phân vị: D_THAP = 1 nếu TCQT nằm ở đoạn tứ phân vị thấp nhất, ngược lại bằng 0; D_CAO = 1 nếu TCQT nằm ở đoạn tứ phân 23
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 vị cao nhất, ngược lại bằng 0; D_TB = 1 nếu TCQT nằm ở 2 đoạn tứ phân vị ở giữa, ngược lại bằng 0. 4 Kết quả và thảo luận 4.1 Thống kê mơ tả Bảng 2. Bảng thống kê mơ tả Thập Số quan Trung Độ lệch Thập phân Cực tiểu phân vị Trung vị Cực đại sát bình chuẩn vị 75% 25% Các biến lập nghiệp LN_TT 240 12.84 7.83 1.88 6.78 10.71 17.20 40.27 LN_CH 152 8.52 5.46 1.61 4.17 6.97 11.38 26.83 LN_CT 152 5.16 3.07 0.50 3.08 4.63 6.28 17.50 Thể chế chính thức TDKD 240 67.36 10.66 37.30 60.60 69.15 73.60 93.50 TDTK 240 77.01 8.34 54.40 70.10 77.95 82.05 99.90 TDTM 240 76.43 9.99 24.00 69.65 77.50 86.00 88.00 Thể chế quản trị TCQT 240 52.13 11.43 26.40 44.21 49.48 60.44 74.82 Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) FDI_VAO 240 36.73 19.32 4.99 22.39 32.99 47.27 92.19 FDI_RA 240 10.53 10.21 0.09 2.97 7.25 15.05 49.17 Biến kiểm sốt TINDUNG 240 59.58 36.77 0.19 33.96 49.50 75.11 156.98 THUONGMAI 240 4.14 0.59 2.84 3.71 4.10 4.69 5.19 GDP_TT 240 3.85 3.51 –7.82 2.09 4.02 5.87 14.20 GDP_ĐN 240 8.93 0.79 6.67 8.48 9.05 9.50 11.46 THNGHIEP 240 8.99 5.95 0.21 5.18 7.38 10.94 33.80 SOTHATBAI 240 33.73 8.82 10.43 28.04 33.11 38.62 72.01 DUDINH_LN 240 24.10 15.68 1.55 12.86 20.73 31.87 90.95 24
- Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 Ước lượng từ mơ hình cơ bản Bảng 3 trình bày kết quả ước lượng mơ hình cơ bản (1) và (2) với phương sai tùy ý thay đổi. Trong đĩ, ứng với mỗi thước đo lập nghiệp (LN_TT, LN_CH, hoặc LN_CT), 2 ước lượng FE (fixed effects) và RE (radom effects) được trình bày ở 2 cột. Dịng cuối cùng ứng với kết quả cho mỗi thước đo lập nghiệp chỉ ra hàm ý mơ hình nào thích hợp giữa FEM và REM (dựa vào kết quả kiểm định Hausman). Là một trong số những biến phản ánh chất lượng thể chế chính thức, TDKD cho thấy vai trị tác động đến tinh thần lập nghiệp ở mức độ tổng thể, nhưng mức ý nghĩa chỉ ở 10%. TDKD càng cao thì tinh thần lập nghiệp tổng thể càng giảm ở thị trường mới nổi. Kết quả này tương đồng với kết quả của Djankov và cs. [14], Glaeser và Shleifer [17], và phù hơp với thực tế rằng điều kiện TDKD càng cao càng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn tiếp tục mở rộng đầu tư, phát triển chuỗi sản xuất, chiếm lĩnh thị trường hơn; do vậy, các nhà lập nghiệp (thường là doanh nghiệp nhỏ) rất khĩ cĩ cơ hội để tiếp cận và gia nhập thị trường mới. Thể chế quản trị giữ vai trị ảnh hưởng lên lập nghiệp tổng thể. FDI đi vào tiếp tục thúc đẩy hoạt động lập nghiệp cơ hội. Đáng chú ý là ý nghĩa thống kê của FDI ở mức 1%. Rõ ràng, dịng vốn FDI đi vào ở các quốc gia mới nổi đã thúc đẩy các cá nhân tìm kiếm cơ hội phát triển doanh nghiệp. Cụ thể, với 10% tăng trong dịng vốn FDI đi vào, tỷ lệ người dân (18–64 tuổi) tham gia tinh thần lập nghiệp cơ hội sẽ tăng 1%. Kết quả này phù hợp với lý thuyết và tương đồng với kết quả của Albulescu và cs. [2], tức là thu hút dịng vốn FDI sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy tinh thần lập nghiệp cơ hội. Sự hiện diện của dịng vốn FDI tạo ra sự lan truyền về cơng nghệ mới và tri thức, kiến tạo các thị trường mới và hình thành các hoạt động phụ trợ, tăng khả năng truy cập các nguồn lực quan trọng cung như hỗ trợ tài chính tạo nền tảng cho lập nghiệp phát triển [20]. Với các biến kiểm sốt, trong khi tín hiệu thu nhập bình quân đầu người (GDP_ĐN) làm giảm tinh thần lập nghiệp cần thiết chỉ cịn ý nghĩa 10% thì thất nghiệp (THNGHIEP) giữ vai trị giảm tinh thần lập nghiệp cơ hội (LN_CH) với mức ý nghĩa 5%. Bên cạnh đĩ, hoạt động lập nghiệp cơ hội tăng lên khi thu nhập bình quân đầu người gia tăng – ngược với trường hợp của hoạt động lập nghiệp cần thiết. Hiệu ứng từ sự gia tăng thu nhập bình quân là khá lớn: thu nhập GDP bình quân đầu người tăng 1% dẫn đến tỷ lệ người lớn (18–64 tuổi) tham gia lập nghiệp cơ hội tăng 4.56%. Lập nghiệp cơ hội diễn ra khi cá nhân nhận thức được cơ hội và sử dụng nguồn lực sẵn cĩ của mình để thành lập hoạt động kinh doanh mới nhằm gia tăng thu nhập, trong khi đĩ lập nghiệp cần thiết diễn ra khi cá nhân, cĩ thể đang thất nghiệp, buộc phải tham gia lập nghiệp vì khơng cịn lựa chọn nào khác tốt hơn. Với logic này, tác động của thu nhập bình quân đầu người lên 2 loại hình lập nghiệp trình bày trong Bảng 3 là phù hợp. Một điểm đáng chú ý khác nữa là mặc dù ý nghĩa của biến dự định lập nghiệp (DUDINH_LN) 25
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 khơng cĩ ý nghĩa mạnh trong mơ hình LN_CH và LN_CT, nhưng biến này vẫn quan trọng với tinh thần lập nghiệp xét về tổng thể (trong mơ hình LN_TT) (Bảng 3). Bảng 3. Kết quả ước lượng mơ hình cơ bản (hiệu chỉnh sai số chuẩn để xử lý phương sai thay đổi) , , * lần lượt là hệ số hồi quy cĩ mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. Vai trị của tăng trưởng tài chính chỉ cĩ ý nghĩa với lập nghiệp cần thiết. Cụ thể là tinh thần lập nghiệp cần thiết sẽ giảm khi quốc gia phát triển tài chính hơn. Điều này phù hợp khi điều kiện tài chính tốt hơn: các cơng việc ăn lương gia tăng làm cho những cá nhân cĩ xu hướng tham gia vào thị trường cơng việc ăn lương nhiều hơn, do đĩ làm giảm tinh thần lập nghiệp cần thiết (tham gia lập nghiệp khi khơng cịn lựa chọn cơng việc nào khác). Tín dụng cung cấp đến khu vực tư cũng khuyến khích các hoạt động kinh doanh chính thức với quy mơ lớn hơn và giảm hoạt động kinh doanh phi chính thức trong nền kinh tế – vốn là thành phần quan trọng trong lập nghiệp cần thiết. Một điểm đáng chú ý là dịng vốn FDI đi ra cũng cĩ ý nghĩa (dù chỉ ở mức 10%) đối với tinh thần lập nghiệp cơ hội. Mối quan hệ là dương và phần nào cho thấy dịng vốn FDI đi ra ở đây vẫn làm tăng tinh thần lập nghiệp cơ hội. Thậm chí đây là điều khơng hề làm ai ngạc nhiên vì nĩ cĩ thể thúc đẩy việc lập nghiệp định hướng xuất khẩu. Ở một số thị trường mới nổi cĩ dịng vốn tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngồi, tinh thần lập nghiệp cơ hội cĩ thể hình thành 26
- Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 như một hệ quả tận dụng những cơ hội kinh doanh mới – đĩ là việc hình thành các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu đến những thị trường là mục tiêu của các dịng vốn FDI đi ra ở nước này. Những dịng vốn FDI đi ra cũng đồng nghĩa đi vào ở những thị trường hướng đến, và tinh thần lập nghiệp phát triển ở những thị trường mục tiêu đĩ cũng thúc đẩy tinh thần lập nghiệp định hướng xuất khẩu ở thị trường nơi FDI đi ra. Sẽ hợp lý hơn khi những lập nghiệp định hướng xuất khẩu này là lập nghiệp cơ hội. Ước lượng từ mơ hình tương tác Kết quả ở Bảng 4 cho thấy mối quan hệ giữa thể chế quản trị và lập nghiệp là một mối quan hệ gián tiếp thơng qua kênh vốn FDI. Nĩi cách khác, thể chế quản trị đĩng vai trị mơi trường điều tiết cho mối quan hệ giữa FDI và lập nghiệp (tổng thể, cơ hội và cần thiết). Dễ dàng thấy rằng mối tương quan âm cĩ ý nghĩa thống kê của thể chế quản trị với lập nghiệp tổng thể ở Bảng 3 đã biến mất trong Bảng 4. Điều này cho thấy sự phân tách về các nhĩm nước mới nổi theo thể chế quản trị đã loại bỏ ý nghĩa của thể chế quản trị trên cấp độ tổng thể. Thật vậy, thể chế quản trị thấp đĩng vai trị mơi trường cho tác động tích cực của dịng vốn FDI đi vào lên lập nghiệp thể hiện. Cũng trong mơi trường đĩ, dịng vốn FDI đi ra làm suy giảm tinh thần lập nghiệp xét ở mức độ tổng thể. Trong khi đĩ, ở mơi trường thể chế quản trị cao, dịng vốn FDI đi ra thúc đẩy tinh thần lập nghiệp tổng thể. Rõ ràng, một khi xem xét các nhĩm nước một cách thích hợp theo nhiều cấp độ thể chế quản trị hơn (Bảng 4), các mối quan hệ thành phần được bộc lộ và mối quan hệ tổng thể của thể chế quản trị khơng cịn ý nghĩa. Một điều rõ ràng là mẫu hình ở mơ hình LN_TT phản ánh chủ yếu mẫu hình ở mơ hình LN_CH. Điều này là hợp lý vì lập nghiệp cơ hội chiếm vai trị chủ đạo trong lập nghiệp tổng thể, như đã phân tích ở phần Thống kê mơ tả (mẫu hình đối với tồn bộ tinh thần lập nghiệp bị chi phối mạnh hơn bởi các tinh thần lập nghiệp cơ hội). Mơ hình LN_CH trong Bảng 4 chỉ rõ thực tế kể cả dịng vốn FDI đi vào và dịng vốn FDI đi ra đều thúc đẩy mạnh tinh thần lập nghiệp cơ hội ở những thị trường cĩ chất lượng thể chế khơng quá cao. Cụ thể, 75% các thị trường mới nổi – những thị trường ở vùng chất lượng thể chế bên dưới – cho thấy ảnh hưởng tích cực của dịng vốn FDI đi vào lên lập nghiệp cơ hội. 25% thị trường cĩ chất lượng thể chế cao nhất cho thấy mối quan hệ âm nhưng khơng mang ý nghĩa thống kê. Dù vậy, tương tự như các kết luận trước đĩ, tác động tích cực của dịng vốn FDI đi vào lên tinh thần lập nghiệp cơ hội nội địa là mạnh hơn ở những thị trường cĩ chất lượng thể chế thấp hơn. Đối với trường hợp của dịng vốn FDI đi ra (ở mơ hình LN_CH), mẫu hình cũng rõ ràng hơn. Tác động tích cực của dịng vốn FDI đi ra lên tinh thần lập nghiệp cơ hội (cĩ lẽ định hướng xuất khẩu) chỉ xảy ra ở các nước cĩ chất lượng thể chế cao. Ngược lại, tác động tiêu cực lên lập nghiệp cơ hội từ dịng vốn FDI đi ra là mạnh mẽ ở các thị trường chất lượng thể chế quản trị thấp. Đây cĩ lẽ là vấn đề về nguồn lực – những nơi cần thu hút nguồn lực đi vào (ví dụ FDI đi vào), các doanh nghiệp tiềm năng ít cĩ đủ năng lực để định hướng xuất khẩu; do vậy, dù dịng 27
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 vốn trong nước đi tìm kiếm cơ hội ở nước ngồi (FDI đi ra), những người lập nghiệp tiềm năng vẫn khơng đủ điều kiện để theo đuổi các ý tưởng định hướng xuất khẩu. Bảng 4. Kết quả ước lượng mơ hình tương tác , , * lần lượt là hệ số hồi quy cĩ mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. Điểm thú vị khác của kết quả ở Bảng 4 là sự xuất hiện vai trị của dịng vốn FDI đi ra và dịng vốn FDI đi vào đối với tinh thần lập nghiệp cần thiết (mơ hình LN_CT). Mối quan hệ đã bộc lộ sau khi xem xét riêng biệt tác động của FDI đến lập nghiệp ở các nhĩm đặc trưng thể chế khác nhau. Kết quả gần như đối lập với trường hợp lập nghiệp cơ hội (mơ hình LN_CH). Vai trị của dịng vốn FDI đi vào, về tổng thể, làm giảm tinh thần lập nghiệp cần thiết nhưng chỉ thể hiện ở các thị trường cĩ chất lượng thể chế cao. Trong khi ở những thị trường như vậy, dịng vốn FDI đi ra khuyến khích lập nghiệp cần thiết. Bức tranh ở đây rất thú vị. Về bản chất, những phát hiện này đối lập với trường hợp của lập nghiệp cơ hội và phản ánh đúng sự tương phản trong bản chất của 2 loại hình lập nghiệp là lập nghiệp cơ hội và lập nghiệp cần thiết. Các lập luận là tương tự với trường hợp của lập nghiệp cơ hội nhưng ở vị thế ngược lại. Cụ thể là dịng vốn FDI đi vào làm gia tăng tinh thần lập nghiệp cơ hội nhưng chỉ thể hiện ở các thị trường cĩ 28
- Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 chất lượng thể chế thấp (với mức ý nghĩa 10%). Trong khi ở những thị trường như vậy, dịng vốn FDI đi ra khơng khuyến khích lập nghiệp cơ hội. 5 Kết luận Kết quả nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm mới về mối quan hệ giữa thể chế, FDI và tinh thần lập nghiệp trong các thị trường mới nổi. Thứ nhất, thể chế chính thức với ý nghĩa về tự do kinh doanh khơng khuyến khích tinh thần lập nghiệp trên mức độ tổng thể. Thứ hai, thể chế quản trị khơng trực tiếp tác động lên tinh thần lập nghiệp mà chỉ bộc lộ vai trị gián tiếp thơng qua kênh tác động giữa FDI và lập nghiệp. Thứ ba, việc thu hút FDI sẽ thúc đẩy tinh thần lập nghiệp cơ hội ở các thị trường mới nổi. Đĩng gĩp cĩ ý nghĩa quan trọng nhất của nghiên cứu này là ở vai trị điều tiết của thể chế quản trị đối với ảnh hưởng của FDI lên tinh thần lập nghiệp dựa trên mối quan hệ phức tạp giữa các thành phần gồm dịng vốn FDI đi vào, dịng vốn FDI đi ra, lập nghiệp cơ hội và lập nghiệp cần thiết. Theo đĩ, ở mơi trường thể chế thấp, tinh thần lập nghiệp tổng thể chịu ảnh hưởng tích cực của dịng vốn FDI đi vào, nhưng lại bị ảnh hưởng tiêu cực của dịng vốn FDI đi ra. Ngược lại, ở mơi trường thể chế cao, dịng vốn FDI đi ra lại ảnh hưởng tích cực đến tinh thần lập nghiệp tổng thể. Ở khía cạnh phân loại chi tiết về lập nghiệp, lập nghiệp cơ hội được thúc đẩy bởi dịng vốn FDI đi vào nhưng bị hạn chế bởi dịng vốn FDI đi ra trong bối cảnh các thị trường mới nổi với chất lượng thể chế thấp. Trong khi đĩ, lập nghiệp cần thiết khơng được khuyến khích bởi dịng vốn FDI đi vào nhưng được thúc đẩy bởi dịng vốn FDI đi ra xét trong bối cảnh các thị trường cĩ chất lượng thể chế cao. Kết quả quan trọng này cung cấp một khuơn khổ chính sách cho việc thúc đẩy mở rộng tinh thần lập nghiệp ở các nước mới nổi (trong đĩ cĩ Việt Nam) – một khu vực đang thu hút một lượng lớn về đầu tư nước ngồi và đang trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tồn cầu. Tài liệu tham khảo 1. Acs, Z. J., Desai, S. & Hessels, J. (2008), Entrepreneurship, economic development and institutions, Small Business Economic, 31(3), 219–234. 2. Albulescu, Tiberiu, C., Tămăşilă & Matei (2014), The Impact of FDI on Entrepreneurship in the European Countries, Procedia – Social and Behavioral Sciences, 124, 219–228. 3. Angulo, M. J., Pérez, S. & Abad, I. M. (2017), How economic freedom affects opportunity and necessity entrepreneurship in the OECD countries, Journal of Business Research, 73, 30–37. 29
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 4. Aparicio, S., Urbano, D. & Audretsch, D. (2016), Institutional factors, opportunity entrepreneurship and economic growth: Panel data evidence, Technological Forecasting and Social Change, 102, 45–61. 5. Ayyagari, M. & Kosová, R. (2010), Does FDI Facilitate Domestic Evidence from the Czech Republic, Review of International Economics, 18(1), 14–29. 6. Barbosa, N. & Eiriz, V.(2009), The role of inward foreign direct investment on entrepreneurship, International Entrepreneurship and Management Journal, 5, 319–339. 7. Baumol, W. (1990), Entrepreneurship: Productive, unproductive, and destructive, The Journal of Political Economy, 98, 893–921. 8. Bowen, H. P. & De Clercq, D. (2008), Institutional context and the allocation of entrepreneurial effort, Journal of International Business Studies, 39(4), 747–767. 9. Christiansen, H. & Ogutcu, M. (2002), Foreign direct investment for development – Maximizing benefits, minimizing costs, OCDE, Global forum on international investment, Attracting foreign direct investment for development, Shanghai, 5–6 December. 10. Danakol, S., Estrin, S., Reynolds, P. D. & Weitzel, U. (2016), Foreign Direct Investment and Domestic Entrepreneurship-Blessing or Curse? Small Business Economic. 11. De Backer, K. & Sleuwaegen, L. (2003), Does foreign direct investment crowd out domestic entrepreneurship? Review of industrial organization, 22(1), 67–84. 12. De Maeseneire, W. & Claeys, T. (2012), SMEs, foreign direct investment and financial constraints: The case of Belgium. International Business Review, 21(3), 408–424. 13. Djankov, S. & Hoekman (2000), Foreign Investment and Productivity Growth in Czech Enterprises, World Bank Economic Review, 14, 49–64. 14. Djankov, S., Glaeser, E., La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F. & Shleifer, A. (2003), The new comparative economics, Journal of comparative economics, 31(4), 595–619. 15. Doytch, N. E. N. (2012), FDI and Entrepreneurship in Developing Countries, Global Science and Technology Forum Business Review. 16. Fuentelsaz, L., González, C., Maícas, J. P. & Montero, J. (2015), How different formal institutions affect opportunity and necessity entrepreneurship, BRQ Business Research Quarterly, 18, 246–258. 17. Glaeser, E., Scheinkman, J. & Shleifer, A. (2003), The injustice of inequality, Journal of Monetary Economics, 50(1), 199–222. 18. Gưrg, H. & Strobl, E. (2002), Multinational companies and indigenous development: An empirical analysis. European Economic Review, 46, 1305–1322. 30
- Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 19. Herrera-Echeverri, H., Haar, J. & Estévez-Bretĩn, J. B. (2014), Foreign direct investment, institutional quality, economic freedom and entrepreneurship in emerging markets, Journal of Business Research, 67, 1921–1932. 20. Javorcik, B. S. (2004), Does Foreign Direct Investment Increase the Productivity of Domestic Firms? In Search of Spillovers through Backward Linkages, The American Economic Review, 94, 605–627. 21. Kim, P. H. & Li, M. (2014), Injecting demand through spillovers: Foreign direct investment, domestic socio-political conditions, and host-country entrepreneurial activity, Journal of Business Venturing, 29, 210–231. 22. Konings, J. (2001), The Effects of Foreign Direct Investment on Domestic Firms: Evidence from Firm Panel Data in Emerging Economies, Economics of Transition, 9, 619–633. 23. Munemo, J. (2017), Foreign direct investment and business start-up in developing countries: The role of financial market development. The Quarterly Review of Economics and Finance, 65, 97–106. 24. Pitelis, C. N. & Teece, D. J. (2010), Cross-border market co-creation, dynamic capabilities and the entrepreneurial theory of the multinational enterprise. Industrial and Corporate Change, 19, 1247–1270. 25. Simĩn-Moya, V., Revuelto-Taboada, L. & Guerrero, R. F. (2014), Institutional and economic drivers of entrepreneurship: An international perspective, Journal of Business Research, 67(5), 715–721. 26. Yeung, H. W. (2002), Entrepreneurship in international business: An institutional perspective. Asia Pacific Journal of Management, 19(1), 29–61. 31
- Võ Phan Quang Thế, Trần Hồi Nam Tập 128, Số 5A, 2019 FOREIGN DIRECT INVESTMENT, INSTITUTIONS QUALITY AND ENTREPRENEURSHIP: EMPIRICAL EVIDENCE FROM EMERGING MARKETS Vo Phan Quang The*, Tran Hoai Nam University of Economics Ho Chi Minh City, 59C Nguyen Dinh Chieu St., Ho Chi Minh City, Vietnam Abstract: This study investigates the effects of institutional factors and foreign direct investment (FDI) on entrepreneurial activity in 39 emerging markets over the period 2004–2015. Extending previous studies on the institutional and FDI-based spillover theories of entrepreneurship, this study completely reveals the connection between institutions, FDI and entrepreneurial activity in the context of emerging markets. The results basically affirm well-evidenced arguments that inward FDI encourages opportunity entrepreneurial activity. Contributing to existing entrepreneurship literature, the findings indicate that institutions of governance affect productive behavior such as entrepreneurial activity through their moderating effects on both inward and outward FDI. Such interaction of institutional quality and FDI produces opposite effects on new business formed by opportunity- and necessity-driven entrepreneurs. While opportunity entrepreneurship is stimulated by inward FDI but diminished by outward FDI in emerging markets with the lowest institutional quality, necessity entrepreneurship is discouraged by inward FDI but promoted by outward FDI in emerging economies with the highest quality of governance. Keywords: entrepreneurship, necessity entrepreneurship, opportunity entrepreneurship, foreign direct investment, institutions of governance, emerging market 32