Chuyển biến tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của nữ trí thức ở độ tuổi 56 - 60 đang tham gia hoạt động kinh tế tại Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 12 trang Đức Chiến 03/01/2024 580
Bạn đang xem tài liệu "Chuyển biến tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của nữ trí thức ở độ tuổi 56 - 60 đang tham gia hoạt động kinh tế tại Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfchuyen_bien_tam_ly_suc_khoe_the_chat_va_suc_khoe_tinh_than_c.pdf

Nội dung text: Chuyển biến tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của nữ trí thức ở độ tuổi 56 - 60 đang tham gia hoạt động kinh tế tại Thành phố Hồ Chí Minh

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 127 CHUYỂN BIẾN TÂM LÝ, SỨC KHỎE THỂ CHẤT VÀ SỨC KHỎE TINH THẦN CỦA NỮ TRÍ THỨC Ở ĐỘ TUỔI 56 - 60 ĐANG THAM GIA HOẠT ĐỘNG KINH TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngày nhận bài: 26/02/2016 Thái Thị Ngọc Dư1 Ngày nhận lại: 23/03/2016 Ngày duyệt đăng: 18/04/2016 TÓM TẮT Mục đích của bài báo là tìm hiểu những khía cạnh tâm lý và tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của nữ trí thức khi bước vào tuổi nghỉ hưu 55 tuổi sớm hơn nam 5 tuổi, nhằm đem lại những minh chứng biện hộ cho những đề nghị bình đẳng giới về tuổi nghỉ hưu. Bài báo là kết quả của một nghiên cứu dựa trên một cuộc khảo sát định lượng theo bảng hỏi 400 nữ trí thức trong độ tuổi 56 - 60 tại Thành phố Hồ Chí Minh và phỏng vấn sâu 40 trường hợp. Nghiên cứu cho thấy tâm trạng chung của nữ trí thức là buồn vì không được tiếp tục làm việc, đóng góp cho cơ quan và cho xã hội, trong lúc nam giới cùng độ tuổi vẫn tiếp tục làm việc. Nữ trí thức quan niệm rằng làm việc đến 60 tuổi như nam giới thể hiện quyền bình đẳng mà chính sách phải thừa nhận chứ không “xin” được làm việc. Ở độ tuổi 56- 60, sức khỏe thể lực và tinh thần của nữ trí thức không thua kém nam giới. Khả năng thích nghi với hoàn cảnh của nữ trí thức rất cao. Họ đã biết trước chính sách của nhà nước về tuổi hưu và đã tích cực chuẩn bị công việc của mình sau khi nghỉ hưu, nhưng đồng thời họ phản ứng mạnh mẽ sự phân biệt đối xử về tuổi hưu dẫn đến nhiều thiệt thòi cho bản thân và bất lợi cho mục tiêu bình đẳng giới. Họ quan niệm nữ giới nghỉ hưu ở 60 tuổi như nam giới là một quyền chứ không hàm ý xin chính sách. Từ khóa: Nữ trí thức ở độ tuổi trên 50; tâm lý; sức khỏe; khả năng thích nghi của nữ trí thức; tuổi nghỉ hưu. Psychological state, mental and physical health of active women intellectuals aged 56 - 60 in Ho Chi Minh City ABSTRACT The objective of the article is to assess psychological state as well as mental and physical health status of women intellectuals while entering the retirement age at 55 years old, 5 years earlier than men. The article aimed at making advocacy for a gender equality policy regarding the retirement age in Vietnam. Data collection were from a survey on 400 women intellectuals aged 56 – 60 and from 40 in-depth interviews in Ho Chi Minh City. The main findings show that unhappiness is the general state of women intellectuals because they have to stop their work while men continue to work up to the age of 60. Women intellectuals consider that it is their right to work up to 60 years old as equal to men, that they do not have to make solicitation to their superiors. 1 1 TS, Trường Đại học Hoa Sen. Email: du.thaithingoc@hoasen.edu.vn
  2. 128 GIÁO DỤC – XÃ HỘI At the age of 56 -60, there is no difference in term of health between women intellectuals and men at the same age group. Women intellectuals have strong capability of adaptation to their new situation after retirement. In general, they have well prepared new activities and work for their new life, but at the same time, they protested strongly against the discrimination toward women regarding the retirement policy that causes big disadvantages for women and for the objectives of gender equality. They insisted on their right to benefit equal age of retirement. Keywords: Women Intellectuals aged over 50; Psychology; Health; Women Intellectuals’ Adaptability; Retirement Age. 1. Mở đầu dụng phương pháp điều tra xã hội với hai Nội dung bài báo này là một phần của đề công cụ chính là bảng hỏi cấu trúc và phỏng tài nghiên cứu “Thực trạng năng lực chuyên vấn sâu. Một cuộc phỏng vấn định tính sơ bộ môn và quản lý của nữ trí thức trong độ tuổi được tiến hành trước, tiếp theo là phỏng vấn 56 - 60 tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh” định lượng được gối đầu bởi các cuộc phỏng (TPHCM) do Trung tâm Nghiên cứu Giới và vấn sâu. Phần phân tích tâm lý được đề cập Xã hội- trường Đại học Hoa Sen thực hiện đến trong bài này chủ yếu dựa vào kết quả trong hai năm 2014 và 2015, trong khuôn khổ phỏng vấn sâu. các đề tài nghiên cứu do Sở Khoa học và Kết quả phỏng vấn định lượng được xử lý Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh quản lý. bằng phần mềm Statistical Package for the TP. HCM là nơi quy tụ một lực lượng lao Social Sciences (SPSS). Thông tin phỏng vấn động nữ đáng kể có trình độ chuyên môn sâu được phân loại và sắp xếp theo các chủ đề nghiệp vụ cao. Thực chất của lực lượng này phân tích được định trước. cần được khảo sát và đánh giá một cách khoa 2.1. Bảng hỏi cấu trúc học để toàn dụng được họ, đáp ứng nhu cầu Quy mô mẫu và cơ cấu mẫu về nguồn nhân lực có trình độ của các cơ Quy mô mẫu gồm 400 phụ nữ trong độ quan nhà nước và các thành phần kinh tế tuổi 56 -60 đang sinh sống tại TPHCM, có khác, đáp ứng ước muốn làm việc của phụ nữ trình độ học vấn từ tốt nghiệp đại học trở lên. trí thức và của mục tiêu bình đẳng giới. Bài Đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu tình báo này đặc biệt chú trọng đến lực lượng nữ cờ, tiện lợi, nhưng có chú ý đến địa bàn cư trú trí thức ở độ tuổi từ 56 đến 60 tuổi tại TP. là các quận nội thành và nhất là sự đa dạng HCM. Lý do nghiên cứu độ tuổi này của nữ ngành nghề khả dĩ phản ánh được cơ cấu trí thức vì đây là độ tuổi mà đa phần nữ trí ngành nghề thực của nữ trí thức. thức bắt đầu nghỉ hưu, trong lúc họ vẫn còn Ngành nghề sức khỏe, năng lực và kinh nghiệm để tiếp tục Phần lớn phụ nữ trong cuộc khảo sát làm làm việc và đóng góp cho xã hội. Nữ trí thức việc trong ngành giáo dục, với 13% là giảng đã trải qua những chuyển biến tâm lý trước và viên đại học và 25% là giáo viên phổ thông. sau khi nghỉ hưu và tình trạng sức khỏe của Một tỷ lệ nhỏ hơn làm việc trong các ngành họ có những đặc điểm gì. Đó là nội dung kinh tế và kỹ thuật. Có khá nhiều bác sĩ và phân tích của bài báo này, dựa trên kết quả dược sĩ trong thống kê ngành kỹ thuật. Tuy khảo sát 400 nữ trí thức trong độ tuổi 56-60 không có số liệu cụ thể, vẫn có thể nhận định tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh và 40 trường rằng cơ cấu của mẫu phản ánh khá xác thực hợp phỏng vấn sâu. cơ cấu thực của nữ trí thức. 2. Phương pháp nghiên cứu Ngành nghề của các phụ nữ khá đa dạng, Bên cạnh các phương pháp phân tích và ngoài những ngành chính nêu trên, còn có các tổng hợp các tài liệu thứ cấp, đề tài đã sử nhóm làm việc trong các lĩnh vực hành chính,
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 129 luật, tư vấn, đoàn thể, xã hội, văn nghệ sĩ, làm chiếm tỷ lệ cao hơn số tiến sĩ. Cơ cấu này việc tại nhà. cũng phản ánh đúng tình hình thực tế. Đáng Trình độ học vấn lưu ý là số có bằng tiến sĩ chiếm 7%, đó là Cơ cấu mẫu theo trình độ học vấn có 3/4 một tỷ lệ cao, chứng tỏ lớp tuổi 56 – 60 tại số phụ nữ có trình độ đại học (cử nhân, kỹ thời điểm 2014 đã bao gồm những phụ nữ có sư), và trong phần còn lại, số có bằng thạc sĩ trình độ học vấn cao. Bảng 1. Thông tin về cá nhân tham gia phỏng vấn Đặc điểm N % Tuổi 56 97 24.3 57 105 26.3 58 62 15.5 59 60 15.0 60 45 11.3 61 25 6.3 62 3 0.8 63 2 0.5 64 1 0.3 Tổng số 400 100.0 Ngành nghề Giảng viên đại học 52 13.0 (lĩnh vực làm Giáo viên phổ thông 102 25.5 việc trước 56 tuổi) Kỹ thuật (*) 43 10.8 Kinh tế ( ) 71 17.8 Xã hội ( ) 96 24.0 Khác ( ) 36 9.0 Tổng số 400 100.0 Trình độ học Cử nhân/ Kỹ sư/ Bác sĩ 306 76.5 vấn Thạc sĩ 56 14.0 Tiến sĩ 28 7.0 Khác ( ) 10 2.5 Tổng số 400 100.0 Nguồn: Điều tra của nhóm nghiên cứu (2014). Ghi chú: (*) Kỹ thuật: bác sĩ, dược sĩ, y tế, sức khỏe, xây dựng, thiết kế, kỹ sư, hóa học, chăn nuôi ( ) Kinh tế: kế toán, tài chính, doanh nghiệp, du lịch, tư vấn kinh tế ( ) Xã hội: luật, pháp lý, hành chính, tư vấn khoa học xã hội, công tác xã hội, tâm lý, đoàn thể ( ) Khác: các hình thức làm việc tại nhà như buôn bán, dạy nghề tư nhân, nhà trẻ tư nhân ( ) Khác: giáo sư, phó giáo sư, cao đẳng có thâm niên làm việc, nghệ sĩ kịch nói.
  4. 130 GIÁO DỤC – XÃ HỘI 2.2. Phỏng vấn sâu đã được thực hiện với tích cực. Bài báo đã phân tích những tác động - 15 nữ trí thức 56 – 60 tuổi nhằm tìm tiêu cực như xáo trộn căn tính, suy giảm lòng hiểu lịch sử phát triển nghề nghiệp, nhận thức, tự tin, lo sợ tuổi già, mất các mối quan hệ xã cảm xúc, khủng hoảng khi về hưu, những rào hội, không theo kịp thời cuộc. Bài báo cũng cản trong công việc và hoài bão của nữ trí thảo luận về việc chuẩn bị, không những về thức, những đề nghị về chính sách nhằm thúc phương diện tài chính mà cả về phương diện đẩy bình đẳng giới. tâm lý để có một tuổi hưu tốt đẹp. - 5 nữ trí thức ở độ tuổi gần nghỉ hưu (53 Bogadi (2011) cho rằng sự kiện về hưu dễ – 55 tuổi): tìm hiểu những diễn biến tâm lý gây ra hụt hẫng cho người lao động, do đó cần trước sự kiện nghỉ hưu, chuẩn bị cho việc nghỉ chuẩn bị tốt cho tuổi hưu. Tuy nhiên, các tài hưu, mong muốn, những đề nghị về chính liệu nói về chuẩn bị tuổi hưu hay tuổi già đều sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới. đề cập đến nhóm người trên 60 tuổi, nam 3. Tổng quan tư liệu cũng như nữ, chứ không nói đến lứa tuổi 56 – Tài liệu tiếng Việt liên quan đến tình trạng 60 tuổi. Đối với các nước phương Tây, tuổi sức khỏe và tâm lý của nữ trí thức trước sự hưu thường là trên 60. kiện nghỉ hưu là rất hiếm, do đó đề tài có điểm Tác động của việc về hưu lên nam giới và qua một số tài liệu tiếng Anh và tiếng Pháp. nữ giới được tác giả Blanché (2010) phân Những nghiên cứu về tâm lý nữ và nam tích. Theo tác giả này, cả nam giới lẫn nữ giới gần đây đều cho rằng sự khác biệt về tâm lý đều bị tác động bởi biến cố nghỉ hưu, nữ giới giữa nam và nữ là do kiến tạo xã hội, có nghĩa lo lắng về sự già nua của thời kỳ mãn kinh, là những khác biệt này không mang tính phổ nhưng nam giới cũng lo lắng về sự xuống cấp quát mà có những nét riêng biệt tùy theo bối của thể lực. cảnh văn hóa, xã hội, tùy theo quan niệm của Chính vì tác dụng tích cực của việc tiếp xã hội về vai trò của nam giới và nữ giới, có tục làm việc khi tuổi đã cao, nên các tổ chức nhiều định kiến giới hay không. của Liên minh châu Âu đã có những nghiên Một số nghiên cứu phát hiện ra rằng khác cứu ủng hộ cho việc làm của người cao tuổi, biệt tâm lý về giới không lớn bằng khác biệt mà người cao tuổi được xác định là trên 65 tâm lý của các nhóm khác nhau trong cùng tuổi vì phần lớn các nước này đều quy định một giới tính. tuổi hưu là 65 tuổi. Maccoby và Jacklin (1974) đã kết luận là Về tâm lý của nữ giới ở tuổi trung niên từ có sự tương đồng về tâm lý giữa nam giới và 40 đến 60 tuổi, một số tác giả như Gottlieb và nữ giới, dựa trên sự đánh giá lại Rosenswig (2005), McQuaide (1998), Clay gần 2.000 khảo sát về những khác biệt giữa (2003) cho rằng đến tuổi trung niên là bước nam giới và nữ giới trong các lĩnh vực như qua một giai đoạn mới, xác định lại con năng lực, nhân cách, hành vi xã hội và trí nhớ. đường đi của đời mình và tìm thấy ý nghĩa Carothers và Reis (2012), sau khi khảo mới của cuộc sống. Các cuộc khảo sát niềm sát một mẫu 109 nam và 167 nữ với 122 đặc tin, thái độ và cảm nhận của phụ nữ trung niên điểm, đã kết luận rằng những đặc điểm tâm lý của các tác giả này cho thấy một cách tổng của nam và nữ không khác nhau mấy. Không quát là họ hạnh phúc ở tuổi trung niên: họ có thể xác định giới tính của một người nếu chỉ tự do, tự tin hơn khi còn trẻ, tự biết năng lực dựa vào đặc điểm tâm lý của họ. Các tác giả của mình, tích lũy nhiều kinh nghiệm. cho rằng sự khác biệt về tâm lý giữa nam và Nhận xét chung về các tài liệu liên quan nữ có phần nhỏ hơn những khác biệt giữa các đến tâm lý mà nhóm nghiên cứu tiếp cận được: cá nhân trong cùng một giới tính. - Khác biệt tâm lý giữa nam và nữ là do Tác động tâm lý của việc nghỉ hưu đối kiến tạo xã hội. Như vậy, những khác biệt này với người lao động được Osborne (2012) đề thường rõ nét nếu môi trường xã hội và văn cập, gồm những tác động tiêu cực và tác động hóa còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phân biệt
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 131 đối xử và của định kiến xã hội về vị trí và vai đến 55 tuổi. trò của nam giới và nữ giới. Trong các xã hội 4.1. Chuyển biến tâm lý trước khi nghỉ hưu đã đạt bình đẳng giới cao thì sự khác biệt này Nhìn chung, các khách thể đều có suy không đáng kể. nghĩ về việc nghỉ hưu của mình, chỉ khác - Phát hiện của những nghiên cứu gần nhau ở điểm là có người có kế hoạch rõ ràng đây cho thấy không có sự khác biệt lớn về các cho giai đoạn mới này (hoặc làm việc, hoặc khía cạnh tâm lý giữa nam và nữ giới, khác nghỉ hẳn ở nhà lo việc gia đình), có người thì biệt tâm lý giữa các cá nhân và các nhóm lo lắng nhưng lúng túng không biết sẽ làm gì. cùng giới tính quan trọng hơn. Do đó, tác Tình trạng khác nhau này liên quan đến năng động của việc nghỉ hưu lên tâm lý của nam lực và viễn cảnh có cơ hội làm việc hay không giới và nữ giới đều có những nét tương đồng. sau tuổi 55. - Phụ nữ trung niên cho đến 60 tuổi làm Tích cực chuẩn bị cho tuổi hưu, hài việc có thu nhập là một yếu tố quan trọng lòng với công việc giúp họ thấy hạnh phúc. Một nữ tiến sĩ cho biết chị đã suy nghĩ, 4. Chuyển biến tâm lý của nữ trí thức trăn trở nhiều hai năm trước khi nghỉ hưu: nên trong độ tuổi 56 - 60 trước sự kiện nghỉ hưu tiếp tục làm ở trường hay chọn một hướng Theo bác sĩ Phan Hoài Nam (Nam Trân, khác. Chị đã thiền định để suy nghĩ về công 2013), về hưu là một trong bốn biến cố lớn việc của mình, và đã chọn nghỉ hưu, không tiếp nhất của đời người gặp phải, đó là: bệnh tật, ly tục ký hợp đồng với trường, mặc dù chị vẫn có dị, mất việc và về hưu. Biến cố về hưu có thể tiếp tục ở lại trường. Chị và một số phụ nữ những tác động đến tâm lý, sức khỏe và tình có trình độ không ham ở lại nhà nước vì bị hình tài chính của cá nhân. Ba khía cạnh này ràng buộc và có khi bị đố kỵ. Bên cạnh việc cùng tồn tại trong một con người nên có mối tiếp tục dạy sau đại học cho các trường, chị đã tương tác lẫn nhau. Về hưu là một sự cắt đứt chọn cho mình một hướng đi mới, ứng dụng đột ngột về phương diện xã hội và tâm lý. khoa học kỹ thuật và kiến thức, về làm việc với Cảm giác mình không còn ích lợi, cần thiết cộng đồng, đồng thời đi du lịch, thực hành cho những người chung quanh, mất hết các thiền định. Chị cho biết một khi đã xác định mối quan hệ xã hội dẫn đến sự buồn bã, cáu được chọn lựa của mình, tâm lý chị mới thoải gắt, và trong những trường hợp nặng hơn là mái và rất hài lòng với lựa chọn của mình. đương sự có thể rơi vào tình trạng trầm cảm Một số khách thể đã chuẩn bị tâm lý từ (Bùi, 2014). Trầm cảm lại dẫn đến những hậu trước rất lâu và đã ấp ủ một dự án riêng khi về quả bệnh lý về mặt sức khỏe như các bệnh tim hưu: dự án xây dựng trường đại học, trường mạch gây cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa phổ thông, trường mẫu giáo, nhà trẻ. đưa đến tiểu đường. Những người có chức vụ Một số nữ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ tại quản lý thường có tâm trạng mình không còn các trường đại học vẫn tiếp tục công việc được nể trọng bởi đồng nghiệp, bởi những chuyên môn, hoặc tại trường, hoặc với các người trong gia đình. Thu nhập giảm sút là đối tác mới. Đồng thời họ có thì giờ chăm lo một yếu tố góp phần tô đậm thêm tâm trạng gia đình, vui với con cháu nhiều hơn. Sự này. “Hẫng hụt” là một từ được nhiều người chuyển tiếp dần dần này giúp họ không bị nhắc đến. “sốc” tâm lý. Các chuyên gia tâm lý đều Dựa vào những phân tích trên đây, nhóm khuyên người về hưu nên tiếp tục làm chuyên nghiên cứu đề cập đến phần chuyển biến tâm môn với cường độ giảm dần để chuẩn bị cho lý trước và sau khi nghỉ hưu trong các mẫu thời điểm nghỉ hẳn, vì ai rồi cũng có lúc phải phỏng vấn sâu nữ trí thức sau 55 tuổi, và từ 53 nghỉ làm việc.
  6. 132 GIÁO DỤC – XÃ HỘI Khung 1: Nhiều cách chuẩn bị việc làm hoặc hoạt động sau khi nghỉ hưu nhà nước - Bản thân đã có tư tưởng chuẩn bị từ năm 45 tuổi - suy nghĩ nhiều cho công việc sẽ làm ở tuổi 55. Do vậy, thông qua mối quan hệ lúc đang làm việc, và dựa trên sở thích cá nhân, để chuẩn bị một số công việc khi nghỉ hưu có thể tiếp cận được. Cụ thể, trước nghỉ hưu 02 năm, đã bắt đầu kế hoạch thành lập công ty Kim Hoàng Kim. Bản thân luôn nghĩ, nghỉ hưu là dừng công việc làm cho nhà nước chứ không phải dừng luôn những kế hoạch công việc của bản thân. (Một chị nguyên là cán bộ công đoàn). - Về hưu thì làm những điều mình thích, vẫn có ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyên môn. Được tự do lựa chọn lớp, không dạy cử nhân mà dạy cao học, dạy các lớp bằng tiếng Anh (thích làm việc này), thỉnh giảng cho nhiều trường, hướng dẫn luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Được tự do lựa chọn, ít áp lực hơn. Có quan hệ với nhiều đối tác quốc tế Úc, Mỹ trong các tổ chức nghiên cứu. (Một nữ tiến sĩ, giảng viên đại học). - Khi đã xác định là về hưu, chị muốn làm những gì tự do hơn, chẳng hạn như hồi trước chị phải làm mười việc, bây giờ chị chỉ làm năm việc sẽ thoải mái hơn. Nhà nước không có chính sách giữ nhân viên lại, chỉ có tập thể cơ quan có mời chị ở lại, nhưng chị từ chối. Chị thích làm thiện nguyện, không lương, vui là chính. (Một nữ thạc sĩ, chuyên viên của một cơ quan nhà nước). - Chị hỏi thăm các chị trong câu lạc bộ cán bộ nữ thành phố đã nghỉ hưu trước một vài năm, chị định hướng sẽ đến Nhà văn hóa phụ nữ đăng ký học các lớp như: chăm sóc cây cảnh, cắm hoa, nấu ăn Chị cũng hỏi thông tin của các lớp học tiếng Hoa, tiếng Anh cho người lớn tuổi. Ngoài ra chị cũng sẽ sửa sang lại nhà ở của mình. Bạn của chị là Phó Ban quản lý dự án Thủ Thiêm, lớn hơn chị một tuổi, nay học chăm sóc cây cảnh. (Một chị nguyên phó giám đốc của một sở tại TP.HCM). Cá biệt có trường hợp đã chuẩn bị tuổi đối với nữ trí thức có trình độ chuyên môn, hưu trước hàng chục năm, học nâng cao trình nhóm nghiên cứu không gặp người có tâm lý độ trong lúc còn công tác, đang là cán bộ tại hụt hẫng vì mất quyền lực. Ủy ban nhân dân một quận, đã học thêm Đại Một nữ bác sĩ nghỉ hưu ra làm tư lãnh học Luật và tập sự Luật sư để chuyển nghề lương cao hơn lương nhà nước nhiều: “Chị sau khi nghỉ hưu. Nhờ đó, tuy không có trình không cảm thấy hụt hẫng, chỉ hơi buồn một độ trên đại học, khách thể này đã có sự chút vì những dự án, công trình nghiên cứu chuyển tiếp về hưu êm ái. đang dang dở2, những công trình này là tâm Tiếc nuối, hơi buồn hoặc lo lắng vì huyết, là những đứa con tinh thần của chị”. nhiều lý do nhưng không hụt hẫng: “Về việc chuẩn bị tâm lý thì nhà nước đã Tâm trạng tiếc nuối là khá phổ biến. Họ cho chị về hưu thì về, chị chỉ buồn vu vơ thôi, tiếc là nếu tiếp tục làm việc cho cơ quan cũ, chứ không thấy hụt hẫng. Chị còn thấy nhẹ họ còn có thể thu hút nhiều dự án, công trình nhõm vì đã vứt được hết các giáo án và về, làm lợi cho cơ quan trong hoạt động chuyên đề, không phải lo nữa”3. nghiên cứu và đào tạo. Nay họ nghỉ rồi thì Có chị “hơi buồn” nhưng hiểu rằng việc các mối quan hệ, các đối tác không tiếp tục nghỉ hưu là do chính sách của nhà nước chứ cộng tác vì họ không còn gặp người làm việc không phải vì bản thân thiếu năng lực hay thích hợp. thiếu sức khỏe. Một vài chị cho rằng nữ quản lý dễ bị hụt “Gần nghỉ rồi thấy rất buồn, vì thấy nó là hẫng hơn khi về hưu: “Không phải ai cũng cột mốc chặn lại cái dòng đang chảy”4 muốn về hưu. Nữ quản lý về hưu dễ bị hụt Nói chung cụm từ “nếu nghỉ không làm hẫng hơn, vì quản lý đi đôi với quyền lực, nay việc thì rất buồn” được lập lại trong nhiều câu không còn quyền nên hụt hẫng”. Tuy nhiên, trả lời phỏng vấn.
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 133 Trường hợp những chị còn con nhỏ phải cũ hơn. chu cấp, lo học hành thì có lo lắng trước khi Một cách tổng quát, do chế độ hưu đã về hưu, nhưng nỗi lo ấy chóng qua khi họ tìm được thực hiện từ lâu nên phần lớn các nữ trí được việc làm. Trong những trường hợp này, thức đã biết trước thời điểm nghỉ hưu, tâm lý ta thấy tác động quan trọng của yếu tố tài đã ít nhiều được chuẩn bị. Một số khách thể chính đối với tâm lý người nghỉ hưu. “Khi còn có trình độ đại học và làm việc hành chính đã là giáo viên chị được hưởng lương và 45% ưu cho rằng về hưu là “quy luật” nên phải chấp đãi. Đến lúc nghỉ hưu, thì “rụp một cái” mất nhận. Họ ít nói lên ý thua thiệt so với nam hết. Lương hưu chưa đến bốn triệu đồng chỉ giới được về hưu trễ hơn 5 năm nếu người đủ sinh hoạt phí cho bản thân, không thể lo phỏng vấn không khơi gợi. Tuy nhiên, trạng cho con đi học được”5. Cũng có chị nhận xét thái tâm lý thuận lợi nêu trên không phản ánh rằng có người, cả nam lẫn nữ, khi về hưu thì quan điểm của nữ trí thức về tuổi hưu của nữ thấy hụt hẫng và lâm bệnh. giới. Đứng trước một chính sách chưa thay Nhiều chị lo lắng vì khi chuyển qua công đổi được, nữ trí thức phải tìm cách thích nghi việc mới, họ như đi vào một lĩnh vực còn trong những điều kiện tốt nhất có thể. nhiều ẩn số, họ phải tìm hiểu, thích nghi, lo Do có thái độ thích nghi với hoàn cảnh, lắng không biết năng lực có đáp ứng không, vì phần lớn nữ trí thức cho rằng quy định tuổi hưu vậy họ vẫn thích tiếp tục công việc ở cơ quan không ảnh hưởng đến họ nhiều lắm (Bảng 2). Bảng 2. Ý kiến về ảnh hưởng của quy định tuổi nghỉ hưu đến sự phấn đấu về chuyên môn của cá nhân Ảnh hưởng của quy định tuổi nghỉ hưu Phụ nữ trí Phụ nữ trí thức thức về hưu về hưu hiện hiện đang đang ở nhà làm việc n % N % Giảm động lực phấn đấu nâng cao trình độ khi bước vào tuổi 50 74 26.0 25 21.7 Thôi thúc phấn đấu nhiều hơn khi còn trẻ (dưới 40 tuổi) 29 10.1 7 6.1 Không gây ảnh hưởng nhiều lắm 182 63.9 83 72.2 Tổng số 285 100.0 115 100.0 Nguồn: Điều tra của nhóm nghiên cứu (2014). 4.2. Chuyển biến tâm lý sau khi nghỉ hưu của con người là rất quan trọng, góp phần tạo Nhìn chung, các khách thể ổn định tâm lý nên niềm vui sống. Các nữ trí thức cũng nhanh chóng sau khi về hưu. Điều này là tất không là ngoại lệ. nhiên đối với những chị tiếp tục làm việc, Có một khía cạnh khiến nhóm nghiên cứu nhưng ngay cả đối với những người không có thể đặt giả thuyết là trong thực tế có một số làm việc, họ cũng “an phận” với công việc nữ trí thức có trình độ cử nhân mang mặc cảm nhà, chăm sóc gia đình, con cháu, hoặc hài về sự yếu kém và cô lập của mình sau khi nghỉ lòng với những hoạt động chăm sóc bản thân hưu. Lý do là trong quá trình tiếp cận các như đi du lịch, giải trí. Mặc dù vậy, nhiều chị khách thể để đề nghị được phỏng vấn qua bảng vẫn mang một nỗi buồn. Cùng với nhu cầu vật hỏi hay qua phỏng vấn sâu, một số ít nữ trí chất, cần có thu nhập, nhu cầu giao tiếp xã hội thức không tiếp tục làm việc đã từ chối tham
  8. 134 GIÁO DỤC – XÃ HỘI gia phỏng vấn, nêu lý do là họ không còn làm một số số nữ trí thức sau khi nghỉ hưu mang việc nữa, không có gì để nói. Thái độ của họ là tâm lý mặc cảm với danh xưng “trí thức” khi không muốn đề cập đến tình trạng của họ. mình không có cơ hội tiếp tục làm việc trong Theo nhận định của nhóm nghiên cứu thì có lĩnh vực nghề nghiệp có sử dụng kiến thức. Khung 2: Tuổi hưu 55 dễ gây mặc cảm cho nữ trí thức - Phụ nữ cũng cần chứng tỏ mình có giá trị, do đó nữ trí thức không muốn về hưu ở độ tưổi 55. Nhưng cũng có người mệt mỏi vì không theo kịp tiến bộ của công nghệ. (Một nữ tiến sĩ). - Nhà nước cho phụ nữ 55 tuổi về hưu làm người ta mặc cảm. Vì nhu cầu của người lao động là muốn thấy mình còn có ích, đó là nhu cầu về tinh thần, chứ về vật chất thì đâu có cần gì nhiều. (Một nữ tiến sĩ). - Có nữ về hưu thì rất buồn vì trước đây ở cương vị lãnh đạo thì nhiều người vây quanh, nay về hưu thì cấp dưới lơ là, nên họ dễ bị hụt hẫng. Có người muốn tiếp tục làm việc, nhưng cũng có người muốn về nhà nghỉ ngơi. Nhưng nếu nhà nước có chế độ về hưu 60 tuổi thì nữ cũng sẵn sàng làm. Đa số bạn bè của chị nói về hưu 55 tuổi rất buồn, đi làm thì vui hơn. Chồng còn đi làm, còn mình thì ở nhà chợ búa đầu tắt mặt tối, không có dịp chưng diện. (Một nữ giảng viên, trình độ cử nhân). - Nhà nước thì cho rằng người lao động đến tuổi hưu về nghỉ và lãnh lương hưu là xong, nhưng thực tế về mặt xã hội và tâm lý con người thì không đơn giản nhận lương hưu là đủ. Họ cảm thấy bị bỏ rơi, hụt hẫng về mặt tình cảm, còn lương hưu ở Việt Nam thì lại không đủ sống (không đủ cho chi phí cá nhân). Do vậy, cuộc sống tuổi hưu làm cho người ta chóng già hơn – già về thể chất, già về tinh thần (tâm tư tình cảm), bởi những động viên của nhà nước, của xã hội tiếp theo sau khi người lao động nghỉ hưu gần như không có. Hoạt động của người cao tuổi hiện tại cũng chưa thiết thực lắm đối với người nghỉ hưu, nó mang tính chất đại trà nên thiếu thực tiễn. (Một nữ cử nhân, nguyên phó chủ tịch thường trực Liên minh Hợp tác xã TP.HCM). Trong các trường hợp phỏng vấn sâu, lý chung là thoải mái, hài lòng với thành quả trạng thái tâm lý xấu nhất là cảm thấy buồn vì công việc được thực hiện sau 55 tuổi. Có 337 bị cô lập với thế giới sinh động bên ngoài, sức người trả lời với 371 câu trả lời vì có người khỏe giảm sút. Không gặp trường hợp bị trầm nêu hai ý. 63 người không trả lời thuộc nhóm cảm. Các trạng thái tâm lý khác có phần tích 115 người không tiếp tục tham gia hoạt động cực hơn: dù không tán đồng việc nữ về hưu ở kinh tế. Số còn lại trong số 115 người thường tuổi 55, họ vẫn cảm thấy được tự do, nhẹ hài lòng với việc chăm sóc gia đình con cháu, nhõm, hài lòng vì đã tìm được ngay công việc, chăm sóc cha mẹ già. Đối với những người quá trình chuyển tiếp qua giai đoạn về hưu đang làm việc, bên cạnh sự hài lòng về công diễn ra thuận lợi. việc, một số cũng nêu sự hài lòng về việc Trong các trường hợp phỏng vấn bảng chăm sóc gia đình (Bảng 3). hỏi, đối với những người đang làm việc, tâm Bảng 3. Sự hài lòng về công việc sau khi nghỉ hưu Công việc mà nữ trí thức hài lòng % trên tổng số N 371 câu trả lời Chấp hành tốt công việc được giao, làm chuyên môn, được tín nhiệm 38 10.2 của cấp trên Giảng dạy cán bộ Hội phụ nữ, nhân viên xã hội, đào tạo nhân viên 6 1.6
  9. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 135 Khám bệnh, y khoa 5 1.3 Hoạt động chính trị xã hội, công tác xã hội, từ thiện, chăm sóc người 38 10.2 cao tuổi Kinh doanh, kế toán, văn phòng 17 4.6 Dạy ngoại ngữ, dạy thêm ở nhà, dạy phổ thông 6 1.6 Nghiên cứu, viết sách, học tập, cập nhật thông tin 27 7.3 Có kinh nghiệm tốt 14 3.8 Tạo thu nhập, ổn định cuộc sống 10 2.7 Có năng lực quản lý, xây dựng quy chế phát triển cơ quan 12 3.2 Pháp lý, giúp tư vấn pháp lý miễn phí 8 2.2 Nguồn: Điều tra của nhóm nghiên cứu (2014). Ngoài ra, những điều hài lòng khác liên cũng như nữ nêu lên trong các phỏng vấn sâu quan đến các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí, du là ở độ tuổi 56 - 60, tình trạng sức khỏe của lịch hoặc các thú vui thư giãn. Nhìn từ góc độ nữ không có gì khác biệt với nam giới, nghĩa chủ quan của nữ trí thức, tiếp tục làm việc sau là không kém hơn nam giới. Một số ý kiến 55 tuổi đem lại niềm vui, sự hài lòng, góp còn cho rằng sức khỏe của nữ có phần tốt hơn phần nâng cao sức khỏe tinh thần, một yếu tố nam, vì ở tuổi này, nam trí thức thường ở vị rất cần thiết cho mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở trí quản lý, lãnh đạo, có xu hướng uống rượu, người lớn tuổi. Sức khỏe tinh thần có mối bia và/hoặc hút thuốc nhiều hơn nữ, tích lũy tương tác với sức khỏe thể lực. qua nhiều năm nên ở độ tuổi này các bệnh tật 5. Sức khỏe sau khi nghỉ hưu phát ra. Có ý kiến cho rằng khi về hưu, nam 5.1. Sức khỏe thể chất giới dễ suy sụp tinh thần hơn nữ, từ đó kéo Một ý kiến chung về sức khỏe thể chất theo sự sa sút về sức khỏe, bị đột quỵ, bệnh được đa số nữ trí thức và các nhà quản lý nam về gan. Khung 3: Nam giới dễ bị suy sụp khi về hưu - Tác động của gia đình rất quan trọng, những người đàn ông khi về hưu rất lúng túng, vì vợ ít quí trọng do không còn địa vị và thu nhập như trước, có người bị tâm thần luôn. Nhìn chung, gia đình là một áp lực lớn cho người về hưu. (Một nữ tiến sĩ, giảng viên đại học) - Một người cao tuổi cho biết: Sau khi nghỉ hưu, tôi thường xuyên đau đầu, đau lưng, tay chân nhức mỏi. Vợ con cứ nghĩ tôi “làm nũng” vì đi khám nhiều nơi vẫn không thấy bệnh. Trước đây tôi được đồng nghiệp nể trọng, sau khi nghỉ hưu tôi thấy mình như người thừa. Nhiều chị nhận xét rằng phụ nữ bị phiền mãn kinh. Ngược lại đến độ tuổi sau 55, các hà trong độ tuổi 45 - 50 do những rối loạn tiền chị đã qua thời kỳ ấy nên lại khỏe hơn.
  10. 136 GIÁO DỤC – XÃ HỘI Khung 4: Sức khỏe của nữ giới trên 55 tuổi không khác gì nam giới ở cùng độ tuổi - So với nam giới cùng tuổi thì không có gì khác biệt, thậm chí nam 55 tuổi đã bệnh vì nhậu nhiều quá. (Một nữ tiến sĩ) - Về sức khỏe: ở tuổi 55 - 60 không có gì khác biệt so với trước đó. Nếu người nào đau yếu thì đã đau yếu rồi. Sức khỏe kém thường là trên 60 hoặc 65. (Một nam trưởng phòng của một viện nghiên cứu). - Về sức khỏe: nói nữ yếu hơn là hoàn toàn không có cơ sở, bệnh không phân biệt nam nữ. (Nam chánh văn phòng của một sở tại TPHCM). - Về sức khỏe, nữ bền bỉ hơn nam giới. Nếu nói hạn chế thì ở độ tuổi này nữ hay nam đều có phần chậm, ít nhanh nhẹn. (Nam hiệu trưởng của một trường đại học tại TPHCM). - Nếu làm việc trí óc thì nữ cũng như nam. Người nào có nhu cầu muốn về hưu thì về, nếu họ đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm. Nói về sức khỏe, có khi sức khỏe nữ tốt hơn nam, vì nữ không hút thuốc, không uống rượu. (Một nữ cử nhân) Tuy rằng theo quy luật, ở độ tuổi sau 55, việc, để thực hiện những dự định mà họ ấp ủ nữ cũng như nam bắt đầu có những vấn đề từ lâu. Nhưng cũng có người do gắn bó lâu sức khỏe, nhưng ý kiến chung cho là không với công việc trong lĩnh vực nhà nước, nên ý nghiêm trọng, cường độ làm việc có thể nghĩ phải chấm dứt sự cống hiến cho nhà không như trước nhưng không ảnh hưởng đến nước có gây nên tâm trạng lo lắng trong lúc năng lực làm việc. 55 tuổi ngày nay tuy không gần về hưu. còn trẻ nhưng không thể gọi là già đến nỗi Họ đã chuẩn bị cho một cuộc sống về hưu phải về hưu. Chính biến cố về hưu làm cho bình an. Thời gian nghỉ ngơi, giải trí, chăm người phụ nữ có mặc cảm là mình đã già. sóc bản thân được tăng lên. Cần lưu ý là trạng Như đã nêu ở phần năng lực chỉ 20% số thái này, dù sao cũng thể hiện một sự thích người đang làm việc đánh giá có khó khăn về nghi với hoàn cảnh, không mâu thuẫn với sức khỏe. Trong 20 trường hợp phỏng vấn sâu, những nhận thức và khát khao được đối xử chỉ có một trường hợp bị bệnh tim là có cản công bằng, đòi hỏi về quyền được làm việc trở công việc, ngoài ra không thấy các chị có ngang bằng với nam giới, cần thúc đẩy bình bệnh tật gì, chỉ là sức khỏe có kém hơn trước. đẳng giới trong lĩnh vực lao động và việc làm. Công việc của trí thức vận dụng kiến Cả hai yếu tố, tiếp tục làm việc sau khi nghỉ thức, kỹ năng là chính. Khảo sát và phỏng vấn hưu và quyết liệt bảo vệ cho quan điểm công sâu còn cho thấy nữ trí thức rất năng động, bằng giới về tuổi hưu góp phần tạo nên động còn đi công tác xa, còn thâm nhập cộng đồng. lực mạnh mẽ cho nữ trí thức đối với cuộc Các phỏng vấn sâu cho thấy không có chị nào sống. Chính nhờ vậy, sau một thời gian hoang than phiền là công việc quá căng thẳng, ảnh mang khi gần về hưu và mới về hưu, phần lớn hưởng đến sức khỏe. Lý do là khi tiếp tục làm các nữ trí thức trong mẫu đã thích nghi được việc, các chị đã ước lượng sức mình nên đã với tình trạng mới của mình và giữ được trạng lựa chọn công việc thích hợp với tình trạng thái quân bình về sức khỏe tinh thần. Thực sức khỏe của mình. trạng này góp phần kiểm chứng một nhận 5.2. Sức khỏe tinh thần định của các nhà nghiên cứu tâm lý cho rằng Nhìn chung, nữ trí thức cho rằng nghỉ về hưu chỉ là một trạng thái tinh thần, và sức hưu là bước qua một giai đoạn mới của cuộc khỏe tinh thần tùy thuộc trạng thái này. sống, một giai đoạn mà họ có tự do hơn, được 6. Kết luận giải phóng khỏi nghĩa vụ của người lao động Kết quả nghiên cứu cho thấy tâm trạng đối với nhà nước, một cơ hội để thay đổi công chung của nữ trí thức trong độ tuổi 56 – 60 tại
  11. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 137 Thành phố Hồ Chí Minh là buồn vì không Do đó, tuy có buồn nhưng ít người cảm thấy được tiếp tục làm việc, đóng góp cho cơ quan hụt hẫng, hơn nữa họ hài lòng với công việc và cho xã hội, trong lúc nam giới cùng độ tuổi mới vì năng lực của họ được thừa nhận và vẫn tiếp tục làm việc. Nữ trí thức quan niệm trân trọng, và thu nhập có phần cao hơn trước. rằng làm việc đến 60 tuổi như nam giới thể Nữ trí thức thích nghi với hoàn cảnh hiện quyền bình đẳng mà chính sách của nhà nhưng đồng thời họ phản ứng mạnh mẽ sự nước phải thừa nhận. phân biệt đối xử về tuổi hưu dẫn đến nhiều Khả năng thích nghi với hoàn cảnh của thiệt thòi cho bản thân và bất lợi cho mục tiêu nữ trí thức rất cao. Họ đã biết trước chính bình đẳng giới. Họ quan niệm nữ giới nghỉ sách của nhà nước về tuổi hưu và đã tích cực hưu ở 60 tuổi như nam giới là một quyền chứ chuẩn bị công việc của mình sau khi nghỉ hưu. không hàm ý xin chính sách. TÀI LIỆU THAM KHẢO APA. (2005). Men and Women: No Big Difference. American Psychological Association, October 20, 2005. Blanché, A. (2010). Vieillissement et retraite: approches psychanalytiques. Le Journal des psychologues, 2010/9 (n° 282). Bùi, T.V.A. (2014). Đặc điểm tâm lý của người nghỉ hưu. truy cập ngày 15/5/2015. Bogadi, F. (2011). Les cinq étapes pour se préparer à une retraite heureuse. heureuse. Truy cập ngày 15/5/2015. Carothers, B. J. và Reis, H.T. (2012). Men and Women Are From Earth: Examining the Latent Structure of Gender. Journal of Personality and Social Psychology, Oct. 2, 2012. Clay, R. (2003). Researchers Replace Midlife MythsWith Facts - Jobs Changes and Stress Management Can Positively Affect Midlife Health. American Psychological Association, Vol 34, No. 4. Davey, J. (2008). Health, Work and Retirement Survey. Summary Report of the 2006 Data Waves. Qualitative Interviews. Gottlieb, L. và Rosenwig, D. (2005). Dreams Have No Expiring Date: A Practical and Inspirational Way for Women to Take Charge Of Their Futures, NXB Random House Canada, 256 trang. Lưu, S.H. (2015). Nguồn nhân lực nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 543 trang. Maccoby, E. và Jacklin, C. (1974). The Psychology of Sex Differences. Mcquaide, S. (1998).Women at Midlife. National Association of Social Workers. Inc. Nam Trân. (2013). Đối phó với “bệnh” nghỉ hưu. Báo Pháp Luật, 22/11/2013.
  12. 138 GIÁO DỤC – XÃ HỘI Osborne, J.W. (2012). Psychological Effects of the Transition to Retirement. Canadian Journal of Counselling and Psychotherapy. ISSN 0826-3893 Vol. 46 No. 1 © 2012 Pages 45–58. Trân Châu. (2012). Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ: nên có những thay đổi phù hợp. Báo Hà Nội mới. Viện Khoa học Lao động - Xã hội và Ngân hàng Thế giới. (2009). Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ Việt Nam - Bình đẳng giới và sự bền vững của Quỹ Bảo hiểm xã hội, 100 trang. 2 Trích phỏng vấn sâu một nữ bác sĩ đã về hưu, đang làm việc. 3 Trích phỏng vấn sâu một giáo viên đã nghỉ hưu. 4 Trích phỏng vấn sâu một nữ thạc sĩ. 5 Trích phỏng vấn sâu một giáo viên.