Tài liệu Sức mạnh của người hướng nội - Susan Cain

pdf 187 trang Đức Chiến 03/01/2024 610
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Sức mạnh của người hướng nội - Susan Cain", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_suc_manh_cua_nguoi_huong_noi_susan_cain.pdf
  • pdfy_quiet_suc_manh_cua_nguoi_huong_noi_susan_cain_p2_6654_457500.pdf

Nội dung text: Tài liệu Sức mạnh của người hướng nội - Susan Cain

  1. Thông tin ebook Dự án ebook cho thiết bị di động Tạo ebook: Hanhdb Copyright © 2012 by Susan Cain Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ. Dịch từ bản gốc tiếng Anh “Quiet: The Power of Introverts in a World That Can't Stop Talking”, được xuất bản tại Hoa Kỳ bởi Crown Publishers. Bản dịch được thực hiện bởi Nguyễn Tiến Đạt (sutucon). Bản dịch này không phải là bản dịch chính thức của cuốn sách, được thực hiện chỉ đơn thuần với mục đích để chia sẻ. Người dịch không được hưởng bất kỳ lợi ích nào về tiền bạc thông qua việc thực hiện và công bố bản dịch này, cũng không khuyến khích các hành vi đọc, tải sách vi phạm bản quyền. Hãy mua cuốn sách này khi nó được dịch hoặc phát hành chính thức tại nơi bạn sống để ủng hộ tác giả. Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
  2. Lời người dịch Xin chào, tôi là Nguyễn Tiến Đạt. Bản dịch mà bạn đang đọc là dự án cá nhân lớn đầu tiên sau năm 20 tuổi của tôi. Cám ơn bạn vì đã đọc, hoặc thậm chí dẫu có thể chỉ là đang cân nhắc đến việc sẽ đọc nó. Tôi có may mắn được biết đến cuốn sách này từ khá sớm, vào cuối mùa hè năm 2012, không lâu sau thời điểm nó được ra mắt tại Mỹ. Và tôi đã lập tức bị hút vào nó. Đôi lúc trong đời bạn, sẽ có những cuốn sách xuất hiện và tác động rất mạnh đến cách nhìn cuộc sống của bạn, cấy vào trong đầu bạn một ý tưởng, cho bạn một lăng kính hoàn toàn mới để nhìn nhận cuộc sống và để nhìn nhận chính bản thân bạn. “Quiet” của Susan Cain đối với tôi là một cuốn sách như vậy. Và tôi không hề hối hận về việc mình đã bỏ ra hơn 6 tháng trời để dịch nó. Nó đã giúp thay đổi cuộc sống của tôi theo hướng tốt đẹp hơn nhiều, đến mức tôi nhận ra việc những người khác cũng được đọc nó sẽ có ý nghĩa lớn đến thế nào. Và tôi nhảy vào làm, mặc dù không phải tôi không nhận được những lời khuyên không nên. Một người anh tôi rất kính trọng cũng đã khuyên tôi như vậy. Nhưng tôi còn trẻ, tôi nghĩ mình có quyền phạm sai lầm và có quyền làm một thứ gì đó điên rồ một chút khi tôi còn đủ thời gian và nhiệt huyết. Vậy nên tôi làm. Cuốn sách này là một dự án cá nhân của tôi. Tôi nghĩ mình cần giải thích một chút cụm từ “dự án cá nhân”. Thứ nhất, nó có nghĩa là: Cuốn sách này là của tôi. Từ chữ cái đầu tiên đến cái dấu chấm cuối cùng, từ cách dịch, cách chọn từ, đến cách làm chú thích; từ cách trình bày bìa, đến màu bìa, thậm chí là việc thiết kế bìa. Tất cả những thao tác bạn có thể nghĩ ra để có thể làm ra được bản dịch này, tôi đã tự tay làm một mình hoàn toàn. Tất nhiên, việc dịch của tôi đứng trên đôi vai của rất nhiều kiến thức dịch và ngôn ngữ dịch của bao dịch giả tôi đã từng được đọc, được theo học, và tôi cũng đã cầu viện đến sự trợ giúp của rất nhiều các từ điển và các nguồn thông tin tham khảo khác nhau từ mạng Internet, nhưng người làm nhiệm vụ sử dụng tất cả những thứ nguyên liệu nguồn đó để tạo ra những dòng văn bản này là tôi, và chỉ mình tôi. Tôi chính là người chịu trách nhiệm, là người bạn sẽ muốn nhắm đến để khen ngợi, hoặc để ném đá. Thứ hai, nó có nghĩa là: Dự án này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với riêng cá nhân tôi. Với tôi, việc phải đưa được những kiến thức trong cuốn sách này đến với nhiều người hơn nữa gần như là một sứ mệnh tôi tự giao cho mình, nó là một mục đích tôi hoàn toàn tin tưởng vào, và nó đã là động lực thúc đẩy tôi theo đuổi công việc này trong suốt quãng thời gian hơn 6 tháng vừa qua. Tôi không dịch cuốn sách này vì muốn nó được một nhà xuất bản nào để ý đến và trả tôi tiền để mua
  3. nó; tôi không làm nó để in ra và bán cho bất kỳ ai; và tôi cũng không làm nó để thể hiện gì trình độ của mình cả. Bạn có thể chọn tin lời tôi hoặc không, tôi không quan tâm, nhưng điều tôi muốn nói là: tôi chọn làm nó, vì tôi muốn bạn đọc nó. Tôi biết việc chỉ hết sức khen ngợi cuốn sách này trong một dòng “trạng thái” vu vơ nào đó trên mạng xã hội, hay liên tục bỏ bom trang mạng cá nhân của bạn với những bình luận kiểu “hãy đọc nó đi, nó hay lắm ” là không đủ. Dù cho trình độ tiếng Anh của bạn có đủ tốt để biết được cuốn sách viết gì, rào cản ngôn ngữ vẫn sẽ là một nhân tố cản trở (dù có thể chỉ là rất nhỏ). Và dù nhân tố cản trở đó có thể rất nhỏ, nhưng nhân nó lên với dung lượng của cuốn sách này (bản điện tử mà tôi có là một bản PDF chữ nhỏ li ti mà cũng đã 139 trang); cùng với chủ đề có vẻ thiếu hấp dẫn của nó (“tâm lý học”, “tính cách”, “người hướng nội”); lại nữa, hãy nghĩ đến cả thể loại của nó (“non-fiction” và “self-help”) vốn là thứ tôi không nghĩ được số đông trong các bạn ưa thích. Hãy thành thực mà nói đi, bạn thử nghĩ đến những thứ này mà xem, nếu nó không phải là một tài liệu học tập bắt buộc hoặc một cuốn sách nghiên cứu buộc-phải-có kinh điển cần thiết cho công việc, bao nhiêu trong số các bạn sẽ bị hấp dẫn đến với một cuốn sách với dung lượng, chủ đề và thể loại như thế? Tôi nghĩ là không nhiều. Tôi cũng phải thú thật là kể cả tôi có lẽ cũng sẽ không tìm đến với một thứ như thế đâu, nếu tôi đã được biết đến nó theo cách này. Nhưng tôi biết đây là một cuốn sách rất đáng đọc. Và TÔI MUỐN CÁC BẠN ĐỌC NÓ. Thành thực mà nói, bạn có thể dùng việc này để đánh giá tôi đấy. Tôi đang làm cái việc mạo hiểm là đem uy tín của mình ra để đảm bảo cho cuốn sách này. Nếu bạn đọc thử và không thấy nó đáng đọc như lời tôi tâng bốc, vậy thì tôi coi như mất sạch sẽ uy tín với bạn nhỉ. Từ nay về sau mọi lời tôi nói sẽ không còn mấy sức nặng với bạn nữa. Nhưng kể cả khi biết điều đó, tôi vẫn tin chắc và vẫn sẽ nói cho bạn biết, rằng: TÔI TIN ĐÂY LÀ MỘT CUỐN SÁCH ĐÁNG ĐỌC. Việc dịch cuốn sách này là cố gắng của tôi để đạp đổ rào cản ngôn ngữ. Việc tôi sử dụng trang cá nhân của mình và đăng tải những đoạn trích tôi thấy hay trong cuốn sách này là những nỗ lực nhỏ của tôi để thu hút sự quan tâm của mọi người tới với chủ đề của cuốn sách. Và bằng việc thực sự trở nên tự tin hơn, sống tốt hơn, thể hiện ra qua cuộc sống thực ngoài đời và qua những gì tôi giao tiếp với mọi người xung quanh cả trên mạng lẫn trong đời thực, bất chấp việc là một người hướng nội nhút nhát, tôi hy vọng rằng mình đã có thể chứng minh cho các bạn—những ai biết tôi—thấy rằng cuốn sách này, dù là sách self-help, dù là sách non-fiction, nhưng nó vẫn thực sự đáng giá, vì nó
  4. có thể làm thay đổi cuộc sống của bạn theo những nghĩa tốt hơn. Tôi là một bằng chứng cho điều đó. BẢN DỊCH NÀY KHÔNG HỀ HOÀN HẢO. Bạn cần phải biết điều đó. Và bạn cũng cần phải biết rằng tôi biết điều đó. Nó chi chít lỗi. Lỗi về cách dùng từ tiếng Việt. Lỗi về ngôn ngữ dịch. Lỗi cả về thao tác tham khảo nguồn để làm chú thích. Lỗi cả trong những khâu chế bản điện tử, tạo file PDF, lỗi trong việc thiết kế bìa, chọn màu bìa. Lỗi trong cả cách chọn dịch tiêu đề. Chi chít lỗi. Nhưng tôi hy vọng rằng chúng sẽ không làm phiền bạn quá nhiều trong quá trình đọc, và, quan trọng hơn, không làm ảnh hưởng đến việc tiếp nhận những ý tưởng từ cuốn sách này của bạn. Tôi chỉ mong bản dịch này của mình có thể giúp cho việc đọc của bạn trở nên dễ dàng hơn, và do đó, bạn sẽ đỡ vất vả hơn trong việc hoàn tất việc đọc cuốn sách này, chứ tôi thực sự không dám mong nó trở thành một bản dịch hoàn hảo, có thể khiến tên tuổi tôi nổi như cồn và được khen ngợi tới tấp. Không, không đâu ạ. CHẮC CHẮN BẠN SẼ THẤY BẢN DỊCH NÀY CHI CHÍT LỖI. Nhưng tôi vẫn hy vọng bạn sẽ thấy thích thú khi đọc nó, tôi nói điều này ra một cách hoàn toàn chân thành. Hy vọng đến đây, có lẽ bạn đã có câu trả lời của tôi cho hai câu hỏi lớn mà có thể bạn đang muốn hỏi tôi: “Cuốn sách này có đáng đọc không, tại sao?” và “Sao bạn lại muốn bỏ công sức ra thực hiện việc dịch nó?”. Sau đây, tôi xin dành mấy lời cuối cùng này để trả lời nốt mấy câu hỏi mà từ mấy hôm nay tôi đã nhận được, kể từ khi tôi công bố trên trang cá nhân rằng “dự án cá nhân lớn nhất sau năm 20 tuổi” của tôi đã chính thức kết thúc: ¾ Tại sao tôi không gửi sách cho nhà xuất bản, mà lại chịu tải công sức dịch của mình lên mạng một cách miễn phí thế này? Tôi có sợ vi phạm luật bản quyền gì đó không? Tôi không thể, không dám và cũng không biết cách để gửi bản dịch cho nhà xuất bản, nếu bạn muốn tin tôi. Tôi không thể chịu được những lời phê bình, bất kể chúng có tích cực và xác đáng thế nào, và một khi đã là một dịch giả xuất bản, người đòi hỏi các bạn đọc trả tiền cho tôi để được đọc thứ tôi dịch, tôi sẽ phải chịu một trách nhiệm quá lớn cho bản dịch của mình. Các bạn sẽ có quyền phê bình tôi. Nhưng tôi cực kỳ ghét bị phê bình, dù trên bất cứ phương diện gì, dù nó có nhẹ nhàng và xác đáng đến thế nào đi nữa. Hơn nữa, tự tôi biết trình độ của mình quá thấp. Tôi biết chắc rằng có đầy lỗi về cách dùng từ và lỗi về cách viết trong bản dịch này, và tôi lại là một người theo chủ nghĩa hoàn hảo nữa, nên tôi không thể bán một sản phẩm mà tôi biết không đạt được chất lượng tốt nhất có thể như vậy. Cuối cùng, tôi không
  5. có uy tín, thiếu kinh nghiệm và zê-rô quan hệ với bất cứ một nhà xuất bản nào, và tôi cũng quá nhút nhát rụt rè và thiếu tự tin để có thể dám đem thứ mình dịch này ra trước bất cứ hội đồng thẩm định của bất cứ nhà xuất bản nào. Tôi sợ sự đánh giá. Và do vậy, tôi đã chọn không tìm cách xuất bản chính thống bản dịch này. Hãy để cho ai đó phù hợp hơn tôi làm thế khi nào họ có thể đi. Tôi chỉ cần bản dịch này đến với các bạn được là được rồi, dẫu chỉ là qua Internet thôi cũng không sao. Một ngày nào đấy, sẽ có một cuốn sách với tên Nguyễn Tiến Đạt, hoặc với tư cách là dịch giả, hoặc (và tôi mong là) với tư cách một tác giả. Còn hôm nay, mong các bạn hãy nhận lấy món quà này của tôi từ Internet. Về vấn đề đọc và tải sách bản quyền, bản thân tôi coi đây là một vấn đề vẫn còn chưa thực sự rõ ràng về mặt đạo đức. Liệu sao chép, phân phối hay tải sách hay bất cứ thứ gì từ trên mạng về một cách miễn phí có được coi là ăn cắp không? Tôi không tin vào điều này, nhưng tôi cũng không khuyến khích những hành vi bị coi là vi phạm luật bản quyền. Và tôi vẫn quyết định sẽ chia sẻ bản dịch này của mình, bởi theo chiếc la bàn đạo đức nội tại của tôi, tôi không tin rằng việc mình đang làm là sai. Và tôi cũng không quan tâm liệu bạn có ủng hộ tôi trong vấn đề này hay không. Ở đây, tôi chỉ xin dừng lại để nói rằng: tôi đang làm điều tôi tin là đúng đắn và nên làm, và với tôi, chỉ vậy là đủ. ¾ Tại sao lại chọn thiết kế bìa như vậy? Tại sao lại chọn dịch tiêu đề “Quiet” thành “Im lặng”? Bìa của “Im lặng” có hình ảnh chủ đạo là một trục phần tư mô phỏng một hệ trục tọa độ. Đây là tôi thiết kế dựa vào một ý tưởng xuất hiện trong cuốn sách, đó là: “một đồ thị với một trục đứng và một trục nằm ngang, với trục ngang là khoảng dao động giữa hai thái cực hướng nội-hướng ngoại, và trục đứng tương ứng với khoảng bình thản-lo lắng. Với mô hình này, bạn có được bốn phân loại khác nhau của tính cách con người, tương ứng với bốn góc phần tư của đồ thị: người hướng ngoại bình thản, người hướng ngoại lo lắng (hoặc bốc đồng), người hướng nội bình thản, và người hướng nội lo lắng. Nói một cách khác, bạn có thể là một người hướng ngoại nhút nhát như Barbra Streisand, người có một tính cách hết sức đặc sắc và thu hút, nhưng vẫn sợ đến tê liệt cả người đi mỗi khi phải bước lên sân khấu; hoặc một người hướng nội không-nhút-nhát, như Bill Gates, người mà về mọi phương diện đều tránh phải tiếp xúc với mọi người, nhưng chưa bao giờ phải lo lắng vì áp lực ý kiến của người khác.” Đây là chi tiết tâm đắc đầu tiên tôi bắt gặp trong cuốn sách khi lần đầu đọc nó, và do đây là một dự án cá nhân của riêng tôi, tôi không nghĩ mình có gì phải ngại trong việc chọn một chi tiết mình
  6. thích làm cảm hứng để thiết kế bìa. Nói luôn, bìa màu xanh lá cây cũng chỉ đơn giản là vì đây là màu sắc ưa thích nhất của tôi mà thôi. Dù sao cũng mong là nó hợp mắt các bạn, nhưng dẫu nó (nhỡ) có không hợp mắt các bạn thì tôi cũng đành chịu; đây là dự án cá nhân của tôi, tôi sẽ làm nó theo những cách mà tôi muốn, chứ không phải là theo ý thích của bất kể ai khác. Chữ “Quiet”, là tiêu đề chính của bản gốc, đã được tôi chọn dịch là “Im lặng”. Tôi có lý do cho điều này. Bên cạnh sự tương hợp đến một mức độ nào đấy với nét nghĩa mà tôi hiểu của từ “Quiet” theo ý dùng của tác giả, tôi cố tình chọn chữ “Im lặng”, với chữ “I” chủ ý kéo dài ra và làm lớn hơn hẳn các chữ còn lại khi in trên bìa, còn là vì tôi muốn đặc biệt dành tặng cuốn sách này cho những người có tính cách “I”, viết tắt của “introverted”— hướng nội, theo phân loại của bài Trắc nghiệm tính cách Myers-Briggs (Myers-Briggs Type Indicator), thường được viết ngắn gọn là MBTI. Chữ “I” lớn đó chính là dành cho họ, những con người nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp, thích suy nghĩ sâu sắc, ham đọc sách, khiêm tốn, nhạy cảm, thận trọng, nghiêm túc, sống nội tâm, hiền lành, điềm tĩnh, thích tìm sự đơn độc, ngại mạo hiểm, dễ bị tổn thương bởi lời lên án hoặc xúc phạm. Những người như tôi. Cuốn sách này được Susan Cain viết trước hết là để cho họ. Bản dịch này được tôi thực hiện, trước hết là để cho họ. Những lời này nói ra, tôi hy vọng đã giúp bạn hiểu được tôi làm thế này là để làm gì, để đạt được gì, và để bạn hiểu rằng bạn nên trông mong những gì và không nên trông mong những gì từ bản dịch này. Kể từ giờ trở đi, tôi xin nhường lại công việc quyết định cho bạn. Nếu bạn tin tôi, tin vào những điều tôi nói, hoặc ít nhất là tin vào giá trị của cuốn sách này, và muốn sử dụng đến bản dịch (dù thiếu hoàn hảo) này của tôi, tôi xin được nói: Cảm ơn bạn. Chúc bạn tất cả những gì tốt đẹp nhất. Bản dịch này xin được gửi tặng đến tất cả những người hướng nội ở ngoài kia, cũng như những người hướng ngoại yêu quý, gắn bó hoặc cộng tác với những người hướng nội nữa. Cảm ơn các bạn đã đọc đến đây. Cảm ơn các bạn, và chúc các bạn cũng sẽ tìm được những hiểu biết và ý tưởng thật sâu sắc, mới mẻ từ cuốn sách này, như tôi đã tìm thấy được vậy. Hà Nội, ngày 10 tháng Năm, năm 2014. Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)
  7. Đề từ THÊM MỘT VÀI TIẾNG ỒN CHO ‘IM LẶNG’ “Một khảo nghiệm về tâm lý con người hấp dẫn, có thể làm thay-đổi-cuộc- đời mà chắc chắn sẽ đem lại lợi ích lớn cho cả người hướng nội cũng như người hướng ngoại”. —Kirkus Reviews (starred review) “Hiền lành là mạnh mẽ Đơn độc chính là đạt hiệu quả cao nhất về giao tiếp những ý tưởng dường như rất ngược đời này là một vài trong rất nhiều lý do để đem Im lặng vào một góc khuất tĩnh lặng nào đó và hấp thụ toàn bộ những thông điệp tuyệt vời, kích-thích-suy-nghĩ vô cùng của nó.” —ROSABETH MOSS KANTER, giáo sư tại Đại học Kinh tế Harvard, tác giả của cuốn sách “Confidence and SuperCorp”. “Một cuốn sách rất có giá trị về mặt hiểu biết, được tiến hành nghiên cứu kỹ càng, về sức mạnh của sự lặng im và đức hạnh của việc có một đời sống nội tâm phong phú. Nó phá đổ quan điểm xã hội phổ biến rằng bạn cần phải hướng ngoại thì mới có thể hạnh phúc và thành công trong cuộc sống”. —JUDITH ORLOFF, tiến sĩ y khoa, tác giả của cuốn sách “Emotional Freedom” “Trong cuốn sách đề cập hết sức kỹ lưỡng và được viết một cách rất tuyệt vời này, Susan Cain đã thể hiện một cuộc biện hộ mạnh mẽ cho sự hướng nội. Cô cũng khéo léo cảnh báo về những nhược điểm của sự ồn ào trong nền văn hóa của chúng ta, trong đó có cả nguy cơ nó làm át đi những tiếng nói có giá trị khác. Vượt lên trên tất cả những ồn ào, giọng nói của chính Susan vẫn hiện lên đầy hấp dẫn—sâu sắc, hiền từ, bình tĩnh và hùng hồn. Im lặng xứng đáng có được một lượng độc giả rất lớn”. —CHRISTOPHER LANE, tác giả của cuốn sách “Shyness: How Normal Behavior Became a Sickness” “Hành trình của Susan Cain để thấu hiểu sự hướng nội, một hành trình tuyệt vời đã đi từ phòng thí nghiệm tới bục sân khấu của người diễn giả, cho chúng ta những bằng chứng đầy sức thuyết phục để trân trọng vào chất lượng hơn là phong cách, vào nội dung hơn là diện mạo, và vào những phẩm
  8. chất mà ở Mỹ thường bị coi nhẹ. Cuốn sách này xuất chúng, sâu sắc, chứa đầy cảm xúc và đầy tràn những hiểu biết”. —SHERI FINK, tiến sĩ y khoa, tác giả của cuốn sách “War Hospital”. “Xuất sắc, khai sáng, giải phóng con người! Im lặng đem đến không chỉ một tiếng nói, mà còn cả một con đường về nhà cho rất nhiều người đã bước qua cuộc đời mà vẫn luôn nghĩ cách họ tương tác với thế giới là có gì đó cần phải sửa chữa”. —JONATHAN FIELDS, tác giả của cuốn sách “Uncertainty: Turning Fear and Doubt into Fuel for Brilliance” “Thi thoảng, lâu lâu một cuốn sách lại xuất hiện và cho chúng ta những hiểu biết mới đến bất ngờ. Im lặng là một cuốn sách như vậy: nó vừa kể những câu chuyện hấp dẫn, vừa truyền tải những tri thức khoa học hàng đầu. Lời gợi ý dành cho kinh doanh là đặc biệt có giá trị nhất: Im lặng mang đến những lời khuyên để người hướng nội có thể lãnh đạo một cách hiệu quả, thực hiện những bài nói một cách thành công, tránh bị kiệt sức, và chọn lấy vai trò phù hợp. Cuốn sách hấp dẫn, viết hay đến tuyệt vời, được nghiên cứu kỹ càng này chỉ đơn giản là tuyệt hảo”. —ADAM M. GRANT, tiến sĩ, phó giáo sư bộ môn quản lý, Đại học kinh tế Wharton THÊM NHIỀU TIẾNG ỒN HƠN NỮA CHO ‘IM LẶNG’ “Phá tan những hiểu lầm Cain liên tục thu hút sự chú tâm của độc giả bằng cách đưa ra những câu chuyện cụ thể về các cá nhân cũng như các báo cáo về những nghiên cứu mới nhất. Sự chuyên tâm, các nghiên cứu, và đặc biệt là niềm đam mê về chủ đề quan trọng này của cô đã được đền đáp xứng đáng”. —Tạp chí “Publishers Weekly” “Im lặng đưa những cuộc trò chuyện về người hướng nội trong xã hội định- hướng-hướng-ngoại của chúng ta lên một tầm cao mới. Tôi tin rằng có rất nhiều người hướng nội sẽ nhận ra, mặc dù có thể họ không biết, rằng họ đã đợi cuốn sách này cả đời mình rồi”.
  9. —ADAM S. MCHUGH, tác giả của cuốn sách “Introverts in the Church” “Cuốn sách Im lặng của Susan Cain cung cấp tuyệt vời nhiều những thông tin về khuôn mẫu hướng ngoại lý tưởng và khía cạnh tâm lý học của một tính cách nhạy cảm, và cô có nhận thức rất rõ về việc người hướng nội có thể làm thế nào để tận dụng được nhiều nhất thiên hướng tính cách của mình trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Xã hội cần những người hướng nội, vậy nên tất cả mọi người đều có thể thu được lợi ích từ những hiểu biết có trong cuốn sách này”. —JONATHAN M. CHEEK, giáo sư tâm lý học tại Đại học Wellesley, đồng biên tập của cuốn sách “Shyness: Perspectives on Research and Treatment” “Một cuốn sách xuất sắc, quan trọng, và có sức ảnh hưởng cá nhân vô cùng lớn. Cain đã cho thấy rằng, với tất cả những đức hạnh của nó, Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng của nước Mỹ đang lấy đi quá nhiều dưỡng khí. Bản thân Cain là người hoàn hảo để đứng lên đấu tranh cho điều này—với thái độ chiến thắng và sự rõ ràng, cô đã cho chúng ta thấy sẽ thế nào khi suy nghĩ bên ngoài nhóm (think outside the group)”. —CHRISTINE KENNEALLY, tác giả của cuốn sách “The First Word” “Điều Susan Cain thấu hiểu—và người đọc của cuốn sách tuyệt vời này rồi sẽ sớm trân trọng—là một thứ mà tâm lý học và thế giới nói-nhanh-làm- nhanh của chúng ta đã quá chậm để nhận ra: Không chỉ không có gì sai trong việc tĩnh lặng, thích suy nghĩ, nhút nhát rụt rè, và hướng nội, mà còn có những lợi thế rõ ràng khi là người như thế nữa”. —JAY BELSKY, Giáo sư Robert M. and Natalie Reid Dorn, chuyên ngành Phát triển Con người và Cộng đồng, Đại học California (University of California, Davis) “Tác giả Susan Cain đã thể hiện sức mạnh tĩnh lặng của chính mình, trong cuốn sách được thực hiện vô cùng tuyệt vời và hết sức hấp dẫn, lôi cuốn này. Cô mang tới những nghiên cứu khoa học và những trải nghiệm của người hướng nội vô cùng quan trọng”. —JENNIFER B. KAHNWEILER, tiến sĩ, tác giả của cuốn sách “The Introverted Leader” “Trên nhiều phương diện, Im lặng là một cuốn sách thực sự xuất sắc. Trước tiên, nó được trang bị chi tiết với những thông tin từ các nghiên cứu khoa
  10. học, nhưng không hề bị sa vào nó. Thứ hai, cuốn sách được viết đặc biệt tốt, và rất “thân thiện với người đọc” (‘reader friendly’). Thứ ba, nó cung cấp nhiều hiểu biết mới quan trọng. Tôi chắc chắn rằng rất nhiều người thắc mắc tại sao những hành vi tự tin đến hung hăng, bốc đồng lại thường được tưởng thưởng; trong khi những hành vi giàu suy nghĩ, cẩn trọng lại thường bị bỏ qua. Cuốn sách này đi vượt xa hơn cả những sự hời hợt ở ấn tượng bề mặt để thâm nhập và phân tích sâu hơn nhiều”. —WILLIAM GRAZIANO, giáo sư, Khoa Khoa học Tâm Lý, Đại học Purdue Dành tặng gia đình tuổi ấu thơ của tôi “Một giống loài nơi tất cả đều là Tướng Patton, sẽ không thể thành công hơn bất cứ, dù chỉ một chút nào, so với một chủng tộc nơi tất cả đều là Vincent Van Gogh1. Tôi thích tin rằng thế giới này cần có những vận động viên thể thao, những nhà triết học, những biểu tượng sex, những họa sĩ, những nhà khoa học; nó cần những người nhân hậu, những người sắt đá, những người tàn nhẫn, và cả những người nhút nhát yếu mềm. Nó cần những người có thể cống hiến cả đời họ cho việc nghiên cứu có bao nhiêu giọt nước được tiết ra trong tuyến nước bọt của loài chó, trong mỗi điều kiện khác nhau; nó cần những người có thể lưu giữ ấn tượng chớp nhoáng của trăm đóa hoa anh đào bung nở trong một bài thơ mười bốn chữ; hay cống hiến hai mươi lăm trang giấy để phân tích cảm giác của một cậu bé khi nằm yên trên giường một mình buổi tối, chờ mẹ đến hôn vào má và chúc cậu ngủ ngon Quả thực vậy; sự hiện diện của sức mạnh vượt trội của mỗi người trong một lĩnh vực nhất định đã mặc định rằng, năng lượng cần thiết cho các hoạt động khác ở họ hẳn đều đã bị rút cạn đi, và thay vào để dùng cho chỉ một lĩnh vực vượt trội kia mà thôi.” —ALLEN SHAWN 1 George Smith Patton Jr. (11/ 11/1885—21/ 12/1945), còn được gọi là George Patton III, là một tướng lĩnh, nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng của Lục quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới lần II trong các chiến dịch ở Bắc Phi, Sicilia, Pháp và Đức, 1943–1945. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông trở thành một trong những chỉ huy đầu tiên của binh chủng xe tăng của Hoa Kỳ. (Nguồn: Wikipedia) Vincent Willem van Gogh (30/3/1853—29/7/1890), thường được biết đến với tên Vincent Van Gogh, là một danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái hậu
  11. ấn tượng. Nhiều bức tranh của ông nằm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và cũng đắt nhất trên thế giới . Van Gogh là nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện và có ảnh hưởng rất lớn tới mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là tới trường phái dã thú (Fauvism) và trường phái biểu hiện tại Đức. (Nguồn: Wikipedia)
  12. Ghi chú của tác giả Tôi đã viết cuốn sách này một cách chính thức từ năm 2005, và không chính thức trong suốt cả quãng đời trưởng thành của mình. Tôi đã nói và viết với hàng trăm, có lẽ là hàng nghìn người về những chủ đề bàn luận đến ở đây, và cũng đã đọc chừng ấy sách, các nghiên cứu học thuật, các bài báo và tạp chí, những cuộc thảo luận ở chat-room trên mạng, và những bài blog. Một vài trong số này tôi đã nhắc đến trong cuốn sách; một số khác thì được nhắc đến trong hầu như mọi câu văn mà tôi viết. Im lặng đứng trên rất nhiều đôi vai, đặc biệt là các học giả và các nhà nghiên cứu mà công trình của họ đã dạy tôi rất nhiều. Trong một thế giới hoàn hảo, tôi sẽ đề tên tất cả mọi nguồn thông tin, tất cả những người thầy, và tất cả những người mà tôi đã từng phỏng vấn. Nhưng để văn bản còn có thể đọc được, một số cái tên sẽ chỉ xuất hiện trong phần Chú thích hoặc Lời ghi nhận. Vì những lý do tương tự, tôi đã không dùng dấu ba chấm hay ngoặc đơn trong một số câu trích dẫn, nhưng đã đảm bảo rằng những từ thêm vào hoặc bị cắt đi không làm thay đổi dụng ý của người nói hay người viết. Nếu bạn muốn trích dẫn lại những câu này từ nguồn nguyên bản của nó, các liên kết đưa bạn tới văn bản gốc có trong phần Chú thích. Tôi đã thay đổi danh tính và một số chi tiết có thể dùng để nhận diện những người có trong các câu chuyện mà họ kể cho tôi, cũng như trong các câu chuyện của chính tôi với tư cách một luật sư và một nhà tư vấn. Để bảo vệ sự riêng tư của các học viên tại lớp học kỹ năng nói trước đám đông của Charles di Cagno, những người vốn không có ý định được nhắc đến trong cuốn sách này khi họ đăng ký lớp học, câu chuyện về buổi học đầu tiên của tôi ở lớp học đó thực ra là một tổng hợp của vài buổi học khác nhau; cả câu chuyện về Greg and Emily cũng vậy, được xây dựng từ nhiều cuộc phỏng vấn với các cặp đôi tương tự. Ngoài việc bị giới hạn bởi trí nhớ của tôi, tất cả các câu chuyện khác đều đã được thuật lại như cách chúng đã diễn ra hoặc đã được kể lại cho tôi. Tôi không tiến hành kiểm tra lại tính xác thực của những câu chuyện mà người khác kể cho tôi về chính họ, nhưng chỉ bao gồm vào đây những câu chuyện mà tôi tin là có thật.
  13. GIỚI THIỆU Hai cực Bắc–Nam của tính cách con người Montgomery, Alabama. Ngày 1 tháng Mười Hai, năm 1955. Trời vừa chập tối. Một chiếc xe buýt dừng lại bên bến, và một người đàn bà phục sức giản dị, tuổi chừng bốn mươi bước lên xe. Bà đứng thẳng người, bất chấp việc đã dành suốt cả ngày hôm đó cúi gập bên bàn ủi quần áo, trong căn tiệm may ẩm thấp, tối tăm của mình tại khu bách hóa Montgomery Fair. Bàn chân bà sưng tấy vì mệt mỏi, hai bả vai đau nhức. Bà ngồi yên lặng trên hàng ghế đầu tiên của dãy ghế dành cho người Da màu, ngắm nhìn từng tốp, từng tốp hành khách chậm chạp lấp đầy dần từng băng ghế trống trên chiếc xe. Cho đến khi người tài xế đột nhiên yêu cầu bà phải đứng dậy và nhường chỗ cho một hành khách người da trắng. Người phụ nữ bé nhỏ chỉ thốt ra một từ duy nhất, một từ ngữ đã châm ngòi cho một trong những phong trào dân quyền lớn nhất của thế kỷ 20, một từ ngữ đã giúp cho nước Mỹ tìm thấy bản ngã khác tốt hơn cho chính mình. Bà đã nói: “Không.” Người tài xế đe dọa sẽ báo bắt bà nếu bà không chịu làm theo yêu cầu. “Ông có thể làm thế.” Rosa Parks trả lời. Một viên cảnh sát tới nơi. Ông ta hỏi Parks tại sao bà không chịu đứng dậy. “Tại sao tất cả các người cứ mãi o ép chúng tôi?” bà chỉ đơn giản hỏi lại. “Tôi không biết”, viên cảnh sát nói. “Nhưng luật là luật, và bà sẽ bị bắt”. Trong buổi chiều ngày diễn ra phiên tòa tuyên án Parks tội “gây rối trật tự công cộng”; Hiệp Hội Vì Montgomery Tiến Bộ (Montgomery Improvement Association) tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ Parks tại Giáo đường Baptist Phố Holt, trong khu nghèo nhất của cả thành phố. Năm nghìn người tụ tập để ủng hộ hành động dũng cảm đơn độc của Parks. Họ lấp đầy sảnh đường nhà thờ, đông đến nỗi những băng ghế của sảnh đường rút cục không thể chứa thêm được nữa. Những người còn lại lặng lẽ chờ đợi bên ngoài, lắng nghe qua những chiếc loa. Vị linh mục Martin Luther King Jr. nói với đám đông: “Sẽ có một lúc con người không thể chịu đựng được việc tiếp tục bị giày xéo bởi gót chân sắt của sự đàn áp”, ông nói. “Sẽ có một lúc con người không thể chịu đựng được việc tiếp tục bị đẩy ra khỏi ánh nắng ấm áp của mặt trời tháng Bảy, và bị bỏ lại một mình trong cái lạnh cắt thịt của tháng Mười Một
  14. nơi miền núi An-pơ.” Ông ngợi ca hành động dũng cảm của Parks, và ôm lấy bà. Bà đứng đó, lặng yên, chỉ sự có mặt của bà cũng đủ để khích động cả đám đông. Tổ chức đã phát động một phong trào tẩy chay xe buýt kéo dài đến 381 ngày sau đó. Những người dân lê bước hàng nhiều dặm đường để đến nơi làm việc. Họ đi nhờ xe với những người mới gặp. Họ thay đổi con đường lịch sử của cả Liên Bang Hoa Kỳ. Tôi đã luôn hình dung về Rosa Parks như là một kẻ rất hiên ngang, oai vệ, một người phụ nữ mạnh mẽ, quyết đoán; có thể dễ dàng đối mặt với cả chiếc xe buýt chứa đầy các hành khách với những ánh nhìn cay độc. Nhưng khi bà mất vào năm 2005 ở tuổi 92, cơn lũ ồ ạt các bài cáo phó đăng trên các trang báo đều miêu tả bà như một người rất nhỏ nhẹ, dịu dàng, và thậm chí vóc người của bà cũng rất thấp bé. Họ nói bà rất “rụt rè và nhút nhát”, nhưng có “lòng dũng cảm của một con sư tử”. Các tờ báo viết về bà đều tràn ngập những lời ca ngợi như “sự khiêm tốn cấp tiến” và “sự ngoan cường tĩnh lặng”. Nghĩa là thế nào khi một người có thể ngoan cường một cách tĩnh lặng? - những lời này dường như muốn ngầm hỏi. Làm thế nào bạn có thể vừa rụt rè, lại vừa thật dũng cảm? Parks có vẻ nhận rõ nghịch lý này, gọi tên cuốn tự truyện của mình là “Sức mạnh im lặng” (Quiet Strength)—một tiêu đề có vẻ như muốn thách thức những nhận định của chúng ta. Tại sao im lặng lại không thể có sức mạnh? Và im lặng thực sự còn làm được những gì nữa, mà trước giờ chúng ta chưa bao giờ chịu nhìn nhận? Cuộc sống của chúng ta được định hình bởi tính cách cũng sâu sắc như nó bị ảnh hưởng bởi giới tính hay chủng tộc vậy. Và phương diện quan trọng nhất trong tính cách của một con người—“Hai cực Bắc– Nam của tính cách”, như một nhà khoa học đã nói—là ở việc chúng ta rơi vào đâu trên trục nối giữa hai thái cực Hướng Nội—Hướng Ngoại. Vị trí của chúng ta trên thang nối này tác động tới cách chúng ta chọn bạn bè và người tình, cách chúng ta bắt đầu một cuộc trò chuyện, tìm giải pháp cho những sự khác biệt, và thể hiện tình yêu. Nó ảnh hưởng tới sự nghiệp mà chúng ta chọn, và góp phần quan trọng quyết định xem liệu chúng ta có thành công trong sự nghiệp đó hay không. Nó điều khiển việc chúng ta thực hiện thường xuyên đến đâu các hoạt động như tập thể thao, ngoại tình, làm việc hiệu quả mà không cần ngủ, học từ những sai lầm trong quá khứ, đặt những canh bạc lớn trên thị trường chứng khoán, bỏ qua món lợi tức thời để có được lợi ích về lâu dài trong tương lai, làm một nhà lãnh đạo giỏi, và đặt những câu hỏi như : “Nếu trong
  15. trường hợp đó thì mọi việc sẽ ra sao?”2. Nó được phản chiếu ngay trong trục thông tin trong não bộ của mỗi con người, trong từng nơ-ron truyền dẫn xung điện, và trong từng góc khuất nhỏ nhất trong hệ thần kinh của mỗi chúng ta. Ngày nay, sự hướng nội và hướng ngoại là hai trong số những chủ đề được nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học tính cách, làm khích động trí tò mò của hàng trăm nhà khoa học khắp nơi trên toàn cầu. Các nhà nghiên cứu này đã có những khám phá vô cùng thú vị, với sự hỗ trợ đắc lực từ những công nghệ mới nhất; nhưng chúng chỉ là một phần nhỏ trong một lịch sử lâu dài về nghiên cứu tâm lý con người. Các thi gia và các nhà triết học cổ đại đã có những suy nghĩ về người hướng nội và hướng ngoại ngay từ những năm tháng đầu tiên của lịch sử có thể ghi chép được. Cả hai loại tính cách này đều xuất hiện trong Kinh Thánh, cũng như trong ghi chép của các thầy thuốc từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại; và một số nhà nghiên cứu tâm lý tiến hóa (evolutionary psychologists) đã khẳng định rằng lịch sử của hai loại tính cách này còn vươn xa hơn thế nữa: vương quốc của loài vật cũng có “hướng nội” và “hướng ngoại”, như rồi chúng ta sẽ thấy, từ ruồi giấm cho đến cá vược, đến động vật linh trưởng. Cũng như với tất cả các cặp tương hỗ khác: nam tính và nữ tính; phương Đông và phương Tây; tự do và bảo thủ— nhân loại sẽ khác đi đến mức không thể nhận ra, cũng như suy biến đến một cách vô cùng, nếu không có đủ cả hai dạng tính cách khác biệt này. 2 Câu trả lời: tập thể dục: hướng ngoại; ngoại tình: hướng ngoại; hoạt động tốt mà không cần ngủ: hướng nội; học từ những sai lầm trong quá khứ: hướng nội; mạo hiểm những canh bạc lớn: hướng ngoại; ưu tiên lợi ích lâu dài hơn là phần thưởng trước mắt: hướng nội; làm một nhà lãnh đạo giỏi: trong một số trường hợp là người hướng ngoại, trong các trường hợp khác là người hướng nội, tùy thuộc vào nhu cầu lãnh đạo của từng trường hợp cụ thể; đặt câu hỏi “Nếu vậy thì sao?”: hướng nội. Có thể thấy ngay điều đó trong mối quan hệ hợp tác giữa Rosa Parks và Martin Luther King Jr : Một nhà diễn thuyết quả quyết, hùng hồn, dữ dội từ chối nhường ghế của mình trên một chuyến xe buýt phân biệt chủng tộc chắc chắn sẽ không thể có cùng một tác động như một người phụ nữ khiêm tốn, rõ ràng là thích giữ im lặng hơn, trừ khi tình huống cực kỳ cần thiết như Rosa Parks. Và Parks chắc chắn cũng không có năng lực để thu hút đám đông, nếu bà cố đứng lên và nói với tất cả rằng bà có một giấc mơ 3. Nhưng với sự giúp đỡ của King, bà đã không cần phải làm thế.
  16. Ấy vậy nhưng ngày nay, chúng ta chỉ dành chỗ cho một phạm vi tính cách rất hẹp. Chúng ta được dạy rằng người mạnh dạn sẽ là những người tuyệt vời, và kẻ quảng giao sẽ là kẻ hạnh phúc hơn. Chúng ta tự nhìn nhận bản thân như một quốc gia của những người hướng ngoại—một điều nói lên rằng chúng ta đã mất hẳn đi nhận thức về việc chúng ta thực sự là ai. Tùy thuộc vào việc bạn tham khảo nghiên cứu nào, một phần ba cho tới một phần hai dân số nước Mỹ là những người hướng nội—nói một cách khác, cứ hai hoặc ba người mà bạn biết thì có một là người hướng nội. (Cứ xét đến việc Mỹ là một trong số những quốc gia hướng ngoại nhất trên thế giới, tỷ lệ người hướng nội ở các nước khác chắc chắn cũng phải cao ít nhất như vậy). Nếu chính bản thân bạn không phải là một người hướng nội, vậy thì chắc chắn con cái bạn, nhân viên của bạn, vợ/chồng của bạn, hay người tình của bạn phải là một người như vậy. Nếu những số liệu này làm bạn ngạc nhiên, thì có lẽ là vì rất nhiều trong số đó luôn giả vờ là những người hướng ngoại. Những người hướng nội bí mật dễ dàng lướt qua bạn mà không hề bị phát hiện trong mỗi sân chơi, bên mỗi tủ để đồ trường học, và trong mỗi dãy hành lang của toàn thể Liên Bang Hoa Kỳ. Một số đánh lừa cả chính họ, cho tới khi một diễn biến thay đổi cuộc đời nào đó xảy ra—khi bị sa thải, khi con cái lớn lên và bắt đầu rời xa, hoặc một món thừa kế khổng lồ từ trên trời rơi xuống, một thứ giúp giải phóng và cho phép họ tự do phung phí thời gian để làm bất cứ thứ gì mà họ muốn—và xốc họ trở về với đúng bản chất tự nhiên thực sự của mình. Bạn có thể chỉ cần đưa chủ đề của cuốn sách này vào một cuộc nói chuyện với bạn bè và người quen của mình là đủ để phát hiện ra, những người bạn ít ngờ đến nhất sẽ tự nhận họ là người hướng nội. 3 "Tôi có một giấc mơ" (tên gốc tiếng Anh: "I Have a Dream") là tên phổ biến của bài diễn văn nổi tiếng nhất của Martin Luther King, Jr., khi ông nói, với sức mạnh thuyết phục của tài hùng biện, về ước mơ của ông cho tương lai của nước Mỹ, khi người da trắng và người da đen có thể sống chung hoà thuận như những con người bình đẳng. Ngày 28 tháng 8 năm 1963, King đọc bài diễn văn này từ những bậc thềm của Đài Tưởng niệm Linco ln, trong cuộc Tuần hành đến Washington vì Việc làm và Tự do. Đó là thời điểm quyết định cho Phong trào Dân quyền Mỹ. Khởi đầu với lời gợi nhắc đến bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, văn kiện năm 1863 công bố sự tự do cho hàng triệu nô lệ, King đưa ra nhận xét, "nhưng một trăm năm sau, người da đen vẫn chưa được tự do." Khi sắp kết thúc bài diễn văn, King rời bỏ bản thảo soạn sẵn để trình bày một điệp ngữ đầy tính ngẫu hứng, khi ông nhắc đi nhắc lại câu, "Tôi có một giấc mơ", có
  17. lẽ theo yêu cầu của Mahalia Jackson, “Martin, hãy nói cho họ biết về giấc mơ!”. Đây là thời khắc đẩy cảm xúc người nghe lên đỉnh điểm, và khiến nó trở nên phần nổi tiếng nhất của bài diễn văn: King kể cho họ nghe giấc mơ của ông, phác họa những hình ảnh về sự tự do và bình đẳng đang trỗi dậy từ vùng đất nô lệ và đầy hận thù. "Tôi có một giấc mơ" đứng đầu danh sách 100 bài diễn văn chính trị xuất sắc nhất nước Mỹ trong thế kỷ 20, theo sự bình chọn năm 1999 của giới học giả về diễn thuyết trước công chúng. (Nguồn: Wikipedia) Thực ra rất hợp lý khi nghĩ đến lý do tại sao nhiều người hướng nội lại cố che giấu sự rụt rè của mình đến vậy, thậm chí là ngay cả với chính bản thân họ. Chúng ta sống trong một hệ giá trị mà tôi gọi là Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng (the Extrovert Ideal)—một niềm tin có vẻ có mặt ở khắp mọi nơi rằng một con người lý tưởng với xã hội phải là một kẻ hoạt bát, xông xáo, năng nổ, hăng hái giao du rộng rãi, và có thể hoàn toàn thoải mái khi là trung tâm của mọi sự chú ý. Người hướng ngoại lý tưởng ưa thích hành động chứ không phải tư duy; mạo hiểm chứ không phải xét đoán; và chắc chắn chứ không phải hoài nghi. Anh ấy sẽ ưu tiên những quyết định thật nhanh chóng, kể cả khi phải mạo hiểm rằng mình có thể sai. Cô ấy sẽ làm việc vô cùng hiệu quả trong nhóm và giao du rộng rãi với tập thể. Chúng ta luôn thích nghĩ rằng mình luôn trân trọng mọi đặc tính cá nhân; nhưng quá thường xuyên, chúng ta chỉ trân trọng một loại đặc tính cá nhân mà thôi— loại có thể thoải mái “dấn thân mình ra ngoài kia”. Chắc rồi, chúng ta cho phép những thiên tài công nghệ đơn độc, người đã xây dựng những tập đoàn cả tỷ đô chỉ từ trong ga-ra ô tô nhà mình, có thể có bất cứ thể loại tính cách nào mà họ muốn. Nhưng họ là những ngoại lệ, chứ không phải quy luật; và sự hào phóng của chúng ta cũng chỉ dừng lại ở những người có thể trở nên vô cùng giàu có, hoặc những ai có tiềm năng sáng giá có thể làm được như vậy mà thôi. Sự hướng nội—cùng với những họ hàng của nó như tính nhạy cảm, lòng nghiêm túc, và sự rụt rè—giờ đây đã trở thành những đặc điểm tính cách hạng hai, đâu đó nằm giữa một nỗi thất vọng và một chứng bệnh về tâm lý. Người hướng nội sống dưới hệ giá trị xã hội của Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng cũng giống như phụ nữ trong một thế giới của đàn ông—không được đếm xỉa đến bởi một thứ từ sâu trong bản chất của họ, bởi bản tính tự nhiên đã sinh ra cùng và quyết định họ là ai. Hướng ngoại là một tính cách cực kỳ hấp dẫn, nhưng chúng ta đã vô tình biến nó thành một thứ tiêu chuẩn đàn áp, và khiến cho phần lớn trong chúng ta cảm thấy mình buộc phải tuân theo.
  18. Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng đã được đề cập đến trong rất nhiều nghiên cứu, mặc dù những nghiên cứu này chưa bao giờ được tập hợp lại dưới một cái tên duy nhất. Người hay nói, ví dụ, thường được đánh giá là thông minh hơn, có hình thức đẹp hơn, có tính cách thú vị hơn, và, dễ được lòng người hơn là những người ít nói. Tốc độ nói cũng ảnh hưởng nhiều ngang với mức âm lượng khi nói: chúng ta có xu hướng coi những người nói nhanh là đủ năng lực và dễ mến hơn những người nói chậm. Tiêu chuẩn ứng xử này cũng hiện diện trong các hoạt động nhóm, khi các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong nhóm, người nói lớn thường được đánh giá là thông minh hơn những người dè dặt kín đáo—kể cả khi không có một chút liên quan nào giữa khả năng nói liên tục và khả năng có được những ý tưởng xuất sắc. Thậm chí chính bản thân từ “hướng nội” (introvert) cũng bị bêu xấu—một nghiên cứu không chính thức, tiến hành bởi nhà tâm lý học Laurie Helgoe, đã chỉ ra rằng những người hướng nội miêu tả vẻ ngoài của riêng mình với ngôn ngữ rất rõ ràng (“mắt xanh”, “như người nước ngoài”, “xương gò má cao”); nhưng khi được yêu cầu miêu tả chân dung một người hướng nội nói chung, họ vẽ nên một bức tranh nhạt nhẽo và thiếu hấp dẫn (“vụng về”, “lóng ngóng”, “sắc da nhàn nhạt”, “mặt mụn”). Nhưng chúng ta đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi luôn đề cao Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng một cách quá thiếu suy xét. Một lượng không ít trong số những ý tưởng, tác phẩm nghệ thuật và phát minh vĩ đại nhất của lịch sử loài người—từ thuyết tiến hóa cho đến những đóa hướng dương của Van Gogh, cho đến những chiếc máy tính cá nhân—tất cả đều đến từ những con người lặng lẽ, kín đáo và thông thái; những người biết cách truy nhập vào thế giới rộng lớn bên trong họ và biết về những kho báu quý giá có thể tìm thấy được ở nơi đó. Thiếu đi những người hướng nội, thế giới của chúng ta sẽ không bao giờ có: định luật vạn vật hấp dẫn thuyết tương đối “The Second Coming” của W. B. Yeats các bản dạ khúc của Chopin bộ tiểu thuyết “Đi tìm thời gian đã mất” của Proust Peter Pan các tiểu thuyết “Một chín tám tư” và “Trại súc vật” của Orwell “The Cat in the Hat”
  19. Charlie Brown “Schindler’s List”, “E.T.”, và “Close Encounters of the Third Kind” Google Harry Potter 4 4 Theo thứ tự từ trên xuống: Isaac Newton, Albert Einstein, W. B. Yeats, Frédéric Chopin, Marcel Proust, J. M. Barrie, George Orwell, Theodor Geisel (Dr. Seuss), Charles Schulz, Steven Spielberg, Larry Page, J. K. Rowling. Như cây bút chuyên về khoa học Winifred Gallagher đã viết: “Điều minh diệu nhất của một tính cách có thể dừng lại để suy xét về nhân tố tác động, thay vì xông xáo lao tới và tác động lại với chúng, đó là ở mối quan hệ chặt chẽ đã có từ rất lâu giữa nó với trí tuệ thông thái và những thành tựu nghệ thuật vĩ đại của loài người. Cả E=mc2 5 lẫn Thiên đường đã mất 6 đều không được tạo ra nguệch ngoạc vội vàng bởi một sinh vật của đám đông.” Kể cả trong những phương diện rõ ràng là ít hướng nội nhất, như kinh tế, chính trị, hay các phong trào dân quyền, một lượng không nhỏ trong số những diễn biến lớn nhất của chúng cũng được lãnh đạo và tiến hành bởi những người hướng nội. Trong cuốn sách, rồi chúng ta sẽ bàn đến và xem xét xem làm thế nào những hình tượng như Eleanor Roosevelt, Al Gore, Warren Buffett, Gandhi—và cả Rosa Parks—đã đạt được những gì họ đạt được, không phải bất chấp, mà chính là nhờ vào sự hướng nội của họ. 5 E=mc2 : Phương trình nổi tiếng thể hiện công thức tương đương khối lượng-năng lượng của Albert Einstein. (Nguồn: Wikipedia) 6 Thiên đường đã mất (tiếng Anh: Paradise Lost)—là một thiên sử thi bằng thơ không vần (blank verse) của John Milton kể về lịch sử của con người đầu tiên—Adam. Thiên đường đã mất in lần đầu tiên năm 1667 gồm 10 quyển. Bản in năm 1674 gồm 12 quyển. (Nguồn: Wikipedia) Ấy vậy nhưng, như Im lặng rồi sẽ chỉ ra, rất nhiều trong số các học viện và môi trường giáo dục quan trọng bậc nhất ngày nay của chúng ta đều được thiết kế cho những người ưa thích làm việc theo nhóm, và thoải mái với một sự kích thích ở mức độ cao. Khi còn là trẻ em, các bàn học ở trường của chúng ta được thiết kế thành từng “khối” một quay mặt vào nhau, thiết kế phù hợp hơn cho việc làm bài tập theo nhóm. Các nghiên cứu cũng cho thấy phần lớn các giáo viên tin rằng một học sinh lý tưởng là một người hướng
  20. ngoại. Chúng ta ngày ngày xem những chương trình ti-vi nơi nhân vật chính không còn là hình mẫu “cô bé hàng xóm ngoan hiền” như những Cindy Brady hay Beaver Cleaver của ngày xưa nữa; mà là những ngôi sao nhạc Rock, hay dẫn chương trình của website nổi tiếng, như Hannah Montana và Carly Shay của iCarly. Thậm chí ngay cả Sid cậu nhóc Khoa học (Sid the Science Kid), một hình mẫu nhân vật được đông đảo trẻ em mến mộ trên một chương trình do PBS tài trợ, cũng bắt đầu mỗi ngày đi học của mình bằng cách biểu diễn những điệu nhảy với các bạn (“Nhìn tôi mà xem! Tôi là một siêu sao!”). Là người lớn, rất nhiều trong số chúng ta làm việc cho những tổ chức luôn kiên quyết rằng các nhân viên của họ cần phải làm việc theo nhóm, và cho những nhà quản lý đề cao “kỹ năng giao tiếp” (“people skills”) trên tất cả mọi nhân tố khác khi đánh giá nhân viên. Để thăng tiến trong sự nghiệp, chúng ta được kỳ vọng là phải biết tiếp thị bản thân mình một cách mạnh dạn nhất có thể. Các nhà khoa học có đề tài nghiên cứu được cấp vốn để triển khai thường là những người có bản tính hết sức tự tin, đôi lúc quá tự tin. Những họa sĩ mà tranh của họ trang hoàng lộng lẫy cho những bức tường trong bảo tàng và triển lãm luôn được bắt gặp đang bắt tay và tạo những dáng đứng ấn tượng trong những buổi khai mạc triển lãm của mình. Các tác giả có sách được chấp nhận xuất bản—những người từng có một thời được cả xã hội chấp nhận như là những kẻ luôn ẩn dật trốn đời—nay được các nhà xuất bản điều tra kỹ lưỡng, để chắc chắn rằng họ có thể sẵn sàng diễn thuyết và xuất hiện trên mọi chương trình truyền hình để quảng bá cho tác phẩm của mình. (Bạn sẽ không được đọc cuốn sách này, nếu tôi đã không xoay sở đế thuyết phục được nhà xuất bản của tôi rằng tôi đủ hướng ngoại để có thể quảng bá cho cuốn sách mình đã viết ra). Nếu bạn là một kẻ hướng nội, bạn chắc chắn cũng biết sự thiên vị của xã hội chống lại người hướng nội có thể tạo ra những vết thương tinh thần lớn thế nào. Khi còn là một đứa trẻ, bạn có thể đã nghe thấy cha mẹ bạn xin lỗi mọi người vì tính rụt rè nhút nhát của bạn (“Sao con không thể giống bọn nhóc nhà Kennedy hơn được một chút chứ?” cha mẹ một người đàn ông tôi phỏng vấn đã liên tục hỏi con của mình câu đó khi ông còn nhỏ). Hoặc ở trường, có lẽ bạn đã bị ép phải “ra khỏi cái vỏ của mình”—một lối diễn đạt rất nguy hiểm, hoàn toàn thất bại trong việc nhận ra rằng có những loài vật luôn tự nhiên mang theo vỏ và mai của mình theo dù tới bất cứ đâu, và rằng với một số người mọi chuyện cũng chỉ hoàn toàn giống vậy. “Tất cả những lời bình luận đó từ ngày còn nhỏ tới tận giờ vẫn còn vang lên bên tai tôi, ám ảnh tôi rằng mình thực chất chỉ là một kẻ lười biếng và ngu ngốc, chậm chạp và buồn chán.” một thành viên của một diễn đàn có tên “Chốn bình yên của
  21. người Hướng Nội” (Introvert Retreat) đã viết vậy trong một e-mail. “Đến khi tôi đã đủ lớn để nhận ra rằng chẳng có gì bất ổn ở tôi cả, rằng tôi chỉ đơn giản là một người hướng nội mà thôi; thì nó đã thành một phần của tôi rồi, cái nhận thức như là có cái gì đó không bình thường ở tôi. Tôi chỉ ước gì có một cách nào đấy để có thể tóm được một chút nghi ngờ còn sót lại đó, và vứt bỏ được nó đi hoàn toàn mà thôi”. Giờ đây khi đã là một người trưởng thành, có lẽ bạn vẫn cảm thấy một cảm giác thật tội lỗi khi từ chối một lời mời ăn tối để đi đọc một quyển sách mới thú vị. Hoặc có lẽ bạn thích dùng bữa tối tại nhà hàng một mình, và sẽ dễ chịu hơn rất nhiều nếu không có những ánh nhìn thương hại từ những vị thực khách xung quanh. Hoặc có lẽ bạn vẫn được bảo rằng bạn “ở trong đầu của mình quá nhiều”, một câu nói vẫn được tận dụng triệt để để chống lại những người ít nói và thích suy nghĩ. Nhưng tất nhiên, có một cái tên khác cho những người như vậy: “thinkers”—những kẻ ham tư duy. Tôi đã chứng kiến tận mắt khó khăn đến đâu cho những người hướng nội để nhận ra và khai thác năng lực thực sự của mình, và tuyệt diệu đến đâu khi cuối cùng họ làm được thế. Trong suốt hơn mười năm tôi đã đào tạo cho rất nhiều người ở đủ mọi ngành nghề—các luật sư kinh tế và sinh viên đại học, các quản lý tài chính và cả các cặp vợ chồng—về kỹ năng đàm phán. Tất nhiên, chúng tôi luôn dạy đủ những kiến thức cơ bản: cách chuẩn bị cho một buổi đàm phán, khi nào thì cần ra giá trước, và phải làm gì khi người bên kia nói “hoặc giá đấy, hoặc không gì cả!”. Nhưng tôi cũng giúp các khách hàng của mình tìm ra bản tính tự nhiên của mỗi người họ, và làm cách nào để có thể tận dụng được nó một cách tốt nhất. Khách hàng đầu tiên của tôi là một cô gái trẻ có tên Laura. Cô là một luật sư kinh tế ở phố Wall, nhưng là một người ít nói, hay mơ mộng, rất sợ phải làm trung tâm của sự chú ý, và căm ghét mọi sự công kích cũng như bạo lực. Cô đã xoay sở để bằng cách nào đó sống sót qua được luyện ngục của Đại học Luật Harvard—nơi các giờ học được thực hiện trong những giảng đường khổng lồ, lớn ngang những khán đài xem võ sĩ giác đấu của người La Mã cổ đại, và là nơi một lần cô đã căng thẳng tới mức nôn mửa ngay trên đường tới lớp. Giờ khi đã bước ra cuộc đời thực, cô vẫn luôn e ngại rằng mình không đủ mạnh bạo để có thể đại diện cho các khách hàng của mình theo những cách họ vẫn mong chờ được. Trong ba năm đầu tiên của sự nghiệp, Laura vẫn còn giữ những chức vụ quá
  22. thấp đến mức cô chưa bao giờ phải kiểm tra giả thiết này của mình. Nhưng rồi đến một ngày, luật sư cấp trên của cô, lúc đó đang trong một kỳ nghỉ, đã giao lại cho cô chịu trách nhiệm chính trong một buổi đàm phán rất quan trọng. Khách hàng là một nhà sản xuất ở Nam Mỹ đang sắp không trả nổi một món nợ ngân hàng, và hy vọng cô có thể giúp họ đàm phán lại những thỏa thuận của món nợ. Một nhóm ủy viên đặc trách của ngân hàng nắm giữ món nợ nguy hiểm đó ngồi đối diện với họ ở phía bên kia của bàn thảo luận. Nếu được chọn, Laura thà được trốn dưới gầm chiếc bàn này còn hơn, nhưng cô đã học cách chiến đấu chống lại được những cảm giác thôi thúc mãnh liệt như này rồi. Liều lĩnh, nhưng vẫn rất căng thẳng, cô ngồi xuống vị trí của mình ở chính giữa, hai bên là các khách hàng của cô: tổng cố vấn doanh nghiệp (general counsel) ở một bên và cán bộ kiểm soát tài chính cấp cao (senior financial officer) ở phía còn lại. Đây tình cờ lại là dạng khách hàng ưa thích nhất của Laura: nhã nhặn, lịch sự và ngôn từ luôn rất nhỏ nhẹ, khác hẳn so với dạng khách hàng tôi-là-bá-chủ-của-vũ-trụ mà hãng luật của cô vẫn thường đại diện. Trong quá khứ, Laura đã từng đưa viên tổng cố vấn doanh nghiệp tới một trận bóng bóng chày của đội The New York Yankees, và giúp ngài cán bộ kiểm soát tài chính cao cấp chọn một chiếc túi xách làm quà cho cho em gái của ông ấy. Nhưng giờ những khung cảnh ấm cúng này —đúng kiểu giao tiếp mà Laura ưa thích—dường như đã cách xa cô cả một thế giới nào đó. Ngồi quanh bàn giờ đây là chín cán bộ ngân hàng cáu kỉnh trong những bộ com-lê cao cấp và giày da bóng lộn; được hộ tống bởi luật sư đại diện của bên họ, một người phụ nữ với quai hàm vuông cương nghị và một phong thái hết sức mạnh bạo, chủ động. Chắc chắn không thuộc loại người thiếu tự tin về năng lực của bản thân, người phụ nữ lập tức khởi động ngay một bài diễn thuyết vô cùng ấn tượng về việc các khách hàng của Laura sẽ may mắn đến đâu nếu họ chỉ đơn giản chấp nhận tất cả các điều khoản của phía ngân hàng. Nó, như lời cô ta nói, đã là một đề xuất quá hào phóng rồi. Tất cả mọi người đều đợi câu trả lời của Laura, nhưng cô quả thực không nghĩ ra gì để đáp lại cả. Vậy nên cô chỉ cứ ngồi đó. Chớp mắt. Mọi ánh nhìn đều đổ về phía cô. Các khách hàng của cô cựa quậy một cách không thoải mái trên những chiếc ghế của họ. Suy nghĩ của cô quay tròn theo một vòng lặp quen thuộc: Mình quá rụt rè cho những hoạt động kiểu này, quá khiêm tốn, quá mải suy nghĩ. Cô hình dung về một người sẽ phù hợp hơn để cứu nguy cho tình huống này: ai đó mạnh bạo, tự tin, ăn nói trôi chảy, sẵn sàng đấm sầm xuống bàn để thể hiện thái độ kiên quyết không nhượng bộ. Ở trường cấp II, một người như vậy, không giống như Laura, sẽ được gọi là “năng động” (“outgoing”), thành tích cao nhất mà các đồng bạn lớp 7 của Laura biết, cao hơn cả “xinh đẹp”, với con gái, và “giỏi thể thao” với con
  23. trai. Laura tự hứa với mình rằng cô chỉ cần cố sống sót qua hết ngày hôm ấy nữa thôi. Ngày mai cô sẽ đi tìm một công việc khác. Rồi cô nhớ ra điều tôi đã dặn đi dặn lại cô: cô là người hướng nội, và là một người như vậy, cô có một năng lực đặc biệt trên bàn đàm phán—có lẽ chỉ kém hiển nhiên hơn, nhưng không hề kém đáng sợ hơn một chút nào. Cô gần như chắc chắn là đã chuẩn bị kỹ hơn tất cả mọi người ngồi đây. Cô có một phong cách nói tuy nhẹ nhàng, nhưng rất chắc chắn. Cô gần như không bao giờ nói mà không suy nghĩ kỹ trước khi mở miệng. Là người điềm đạm bình tĩnh, cô có thể có những bước tấn công hết sức quyết liệt, mạnh bạo, và vẫn tạo được ấn tượng là mình đang rất vừa phải và hợp lý. Cô có xu hướng hay đặt ra các câu hỏi—rất nhiều câu hỏi—và thực sự lắng nghe những câu trả lời, một điều mà, bất kể tính cách của bạn có là gì, vẫn là cực kỳ quan trọng trên bàn đàm phán. Vậy nên Laura bắt đầu làm điều đến tự nhiên nhất với cô. - “Thử dừng lại một chút đã nào. Các số liệu bên chị được căn cứ vào đâu?” - “Chúng ta hãy thử kết cấu khoản vay theo cách này, các vị nghĩ liệu có được không?” - “Cách kia?” - “Hay một cách nào đó khác?” Ban đầu những câu hỏi của cô vẫn còn khá rụt rè. Dần dần cô bắt đầu càng lúc càng mạnh bạo hơn, thúc đẩy bên kia quyết liệt hơn, thể hiện rõ cho họ thấy rằng cô đã làm bài tập về nhà đầy đủ, và nhất định sẽ không chịu đầu hàng một cách dễ dàng. Nhưng cô cũng đồng thời trung thành với phong cách riêng của mình, không bao giờ lên giọng hay mất bình tĩnh. Cứ mỗi lần phe chủ ngân hàng đưa ra một tuyên bố cuối cùng với một vẻ chắc nịch, như thể không còn cách nào thay đổi được nữa, Laura lại cố tỏ ý xây dựng: “Có phải ý chị là đó là cách duy nhất? Nếu chúng ta thử tiếp cận vấn đề theo một cách khác thì sao?” Dần dần cuối cùng những câu hỏi đơn giản của cô đã làm thay đổi không khí trong căn phòng, đúng như trong sách giáo khoa về đàm phán đã nói. Phía ngân hàng không còn hăng hái diễn thuyết và hùng hổ chiếm thế chủ động nữa, những hoạt động mà Laura cảm thấy mình yếu thế một cách vô vọng, và hai bên bắt đầu có một cuộc nói chuyện thực sự.
  24. Vẫn tiếp tục thảo luận. Vẫn chưa đi đến được một thống nhất nào. Một trong các ủy viên bên phe ngân hàng lại kích động lên lần nữa, vùng đứng dậy, quăng tất cả tài liệu xuống mặt bàn và đùng đùng bước ra khỏi phòng. Laura phớt lờ thái độ này, một phần lớn là vì cô không biết phải làm gì khác trong trường hợp như thế. Về sau có người nói với cô rằng vào thời điểm then chốt đó, Laura đã có một nước đi vô cùng đúng đắn, trong một trò chơi vẫn được gọi là “Nhu thuật Thương thuyết” (“negotiation jujitsu”); nhưng cô biết rằng cô chỉ làm điều mình đã học được một cách rất tự nhiên khi làm một người lặng lẽ, trong một thế giới luôn to mồm mà thôi. Cuối cùng hai bên cũng ký kết được một thỏa thuận. Các ủy viên ngân hàng rời tòa nhà, những khách hàng ưa thích của Laura lên xe tới sân bay, còn Laura thì trở về nhà, cuộn tròn mình lại với một cuốn sách, và cố quên đi tất cả những căng thẳng đã diễn ra trong ngày. Nhưng sáng hôm sau, luật sư đại diện cho phía ngân hàng hôm qua—người phụ nữ quả quyết với quai hàm vuông cương nghị—gọi điện lại cho cô và đề xuất một lời mời làm việc. “Tôi chưa bao giờ được gặp ai vừa nhẹ nhàng lại vừa cương quyết đến vậy”, cô ấy nói. Và ngày hôm sau nữa, phía ngân hàng hôm nọ cũng gọi điện cho Laura, và hỏi liệu hãng luật của cô có thể đại diện cho công ty của họ trong tương lai được không. “Chúng tôi cần một người có thể giúp chúng tôi đạt được mọi thỏa thuận mà không để cho cái tôi của mình ngáng đường” ông ta nói. Bằng cách trung thành với phong cách nhẹ nhàng của riêng mình, Laura đã đưa được về cho hãng luật của mình thêm một thỏa thuận thành công, tìm được một đối tác mới cho hãng, và có cả một lời đề nghị việc làm cho riêng mình. Lên giọng và đấm xuống mặt bàn đã được chứng tỏ là hoàn toàn không cần thiết. Ngày nay Laura hiểu rất rõ rằng thiên tính hướng nội là một phần quan trọng, cốt yếu của con người cô, và cô càng trân trọng hơn bản tính thích suy nghĩ của mình. Cái vòng lặp trong đầu Laura, thứ vẫn liên tục buộc tội cô là quá rụt rè, quá khiêm tốn, nay đã xuất hiện càng lúc càng ít hơn. Laura giờ đây biết rằng cô luôn có thể xoay sở mọi thứ ổn thỏa bằng chính sức của mình khi cần thiết. Chính xác thì ý tôi là gì khi nói Laura là một người hướng nội ? Khi tôi bắt đầu bắt tay vào viết cuốn sách này, thứ đầu tiên tôi muốn tìm hiểu là chính xác thì các nhà nghiên cứu định nghĩa những khái niệm hướng nội và hướng ngoại (introversion và extroversion) như thế nào. Tôi biết rằng vào năm
  25. 1921, nhà tâm lý học có ảnh hưởng hàng đầu Carl Jung đã xuất bản một cuốn sách bom tấn, “Phân loại Tâm lý học” (Psychological Types), giúp phổ biến các thuật ngữ sự hướng nội và sự hướng ngoại như những khái niệm cơ bản nhất để xây dựng nên bản đồ tính cách con người. Người hướng nội sẽ bị thu hút hướng vào thế giới bên trong của suy nghĩ và cảm xúc, Jung nói, trong khi người hướng ngoại hướng ra cuộc sống bên ngoài với con người và các hoạt động. Người hướng nội tập trung vào giải thích ý nghĩa của những sự kiện, sự vật diễn ra xung quanh họ; người hướng ngoại thì lao mình vào chính các sự kiện và sự vật đó. Người hướng nội nạp lại năng lượng cho mình bằng cách ở một mình; người hướng ngoại thì cần phải nạp thêm năng lượng mỗi khi họ không giao tiếp đủ nhiều. Nếu bạn đã bao giờ thử làm bản Trắc nghiệm tính cách tâm lý Myers-Briggs 7, được thiết kế dựa trên cơ sở nghiên cứu của Jung và được sử dụng rộng rãi bởi phần lớn các trường đại học và các công ty, tập đoàn hàng đầu trên thế giới; thì có lẽ bạn đã quá quen thuộc với các khái niệm này rồi. 7 Trắc nghiệm tính cách Myers-Briggs, hay Chỉ số phân loại Myers-Briggs (Myers-Briggs Type Indication), thường được viết ngắn gọn là MBTI, là một phương pháp sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm tâm lý để tìm hiểu tâm lý, tính cách cũng như cách con người nhận thức thế giới xung quanh, đưa ra quyết định cho một vấn đề. Phương pháp kiểm kê tính cách này khởi nguồn từ các lý thuyết phân loại trong cuốn “Psychological Types” của Carl Gustav Jung xuất bản năm 1921 và được phát triển bởi Katharine Cook Briggs cùng con gái của bà, Isabel Briggs Myers, từ khoảng Thế chiến thứ hai. (Nguồn: Wikipedia) Thế nhưng còn các nhà tâm lý học hiện đại thì nói gì? Tôi nhanh chóng nhận ra rằng không có một định nghĩa toàn diện nào về hướng nội và hướng ngoại cả: không hề có một thể loại nghiên cứu thống nhất nào mà ở đó tất cả mọi người đều có thể đồng ý về những đặc điểm chung để có thể cho vào nhóm, không như các nhóm “những người tóc quăn” hay “những người 16 tuổi”. Ví dụ, những người ủng hộ trường phái Ngũ Đại (Big Five) trong tâm lý tính cách (tranh cãi rằng tính cách con người có thể được phân tách ra thành 5 xu hướng chính) định nghĩa hướng nội không phải theo phương diện có một thế giới nội tâm phong phú, mà là ở việc thiếu hụt những đặc tính như sự quả quyết hay khả năng dễ dàng hòa đồng với tập thể. Có bao nhiêu nhà tâm lý học tính cách thì dường như có bấy nhiêu định nghĩa về hướng nội và hướng ngoại, và những người này bỏ ra rất nhiều thời gian để tranh cãi xem định nghĩa của ai mới là chính xác nhất. Một số thì nghĩ rằng ý tưởng của Jung đã quá lỗi thời rồi; số khác lại quả quyết rằng ông là người duy nhất nói đúng.
  26. Nhưng mặc dù vậy, các nhà tâm lý học ngày nay nói chung vẫn nhất trí ở một số điểm lớn: ví dụ, người hướng nội và hướng ngoại cần những mức độ kích thích khác nhau để có thể hoạt động một cách bình thường. Người hướng nội có thể cảm thấy “vừa đủ” với mức độ kích thích thấp hơn, như là nhấp một ngụm rượu vang với vài người bạn thân, chơi giải ô chữ trên báo, hay đọc một cuốn sách. Người hướng ngoại thì ưa thích yếu tố bất ngờ, khích động từ những hoạt động như gặp gỡ ai đó lần đầu tiên, lao mình trượt tuyết trên những sườn núi đổ dốc, hay vặn lớn bộ dàn loa stereo tới mức âm lượng tối đa. “Với họ, những người khác luôn quá khích động”, nhà tâm lý học tính cách David Winter nói, giải thích lý do tại sao một người hướng nội điển hình sẽ thà dành trọn kỳ nghỉ của mình đọc sách bên một bờ biển vắng người còn hơn là tiệc tùng thâu đêm trên những du thuyền sang trọng. “Họ khích động với những đe dọa, sợ hãi, bạo lực, và cả tình yêu. 100 con người có tác động kích thích cao hơn rất nhiều so với 100 quyển sách, hay 100 hạt cát trên bờ biển”. Rất nhiều nhà tâm lý học cũng đồng ý rằng người hướng nội và người hướng ngoại làm việc theo những cách rất khác nhau. Người hướng ngoại có xu hướng xông xáo lao đến và giải quyết vấn đề một cách mau lẹ. Họ đưa ra những quyết định nhanh chóng (đôi lúc thiếu suy xét), không gặp vấn đề gì khi phải làm nhiều việc cùng lúc, và sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Họ thích thú tận hưởng “khoái cảm mạo hiểm” của công việc để hướng đến những phần thưởng có giá trị như của cải hay địa vị. Người hướng nội lại thường làm việc chậm chạp hơn, và chú tâm lên kế hoạch cụ thể hơn. Họ thích tập trung vào giải quyết lần lượt từng vấn đề một, và có một sức mạnh tập trung đáng nể phục. Họ gần như miễn dịch với sức cám dỗ của tiền bạc hay danh vọng. Tính cách của chúng ta cũng đồng thời định hình phong cách giao tiếp của chúng ta. Người hướng ngoại sẽ là những người đem sức sống đến cho những bữa tiệc của bạn, bật cười một cách sảng khoái trước những câu chuyện cười bạn kể. Họ thường rất quả quyết, chủ động, và luôn cần có bạn bè. Người hướng ngoại nghĩ ra đằng miệng, nghĩ ngay tại chỗ và gần như ngay lập tức. Họ ưa thích nói hơn là lắng nghe; rất hiếm khi thấy bí không biết phải nói gì, và thỉnh thoảng buột miệng nói ra những điều mà họ không bao giờ thực sự có ý nói. Họ rất thoải mái với những xung đột, nhưng hoàn toàn không thể chịu được những nơi vắng vẻ, tĩnh mịch. Người hướng nội thì ngược lại, một vài trong số họ có thể có kỹ năng giao tiếp rất tốt, hoàn toàn thoải mái với các buổi tiệc và các bữa tối với đối tác,
  27. nhưng sau một thời gian sẽ bắt đầu ước gì giá mà giờ họ được nằm ườn ở nhà, trong bộ py-ja-ma. Họ thường ưa thích dành năng lượng giao tiếp của mình cho chỉ một vài người bạn thân, đồng nghiệp, hay các thành viên gia đình gần gũi nhất với họ. Họ lắng nghe nhiều hơn là nói, luôn nghĩ kỹ trước khi mở miệng, và thường cảm thấy rằng họ diễn đạt bản thân mình bằng chữ viết tốt hơn là lời nói. Họ thường có xu hướng cố tránh các cuộc xung đột. Rất nhiều người sợ nói chuyện phiếm, nhưng lại hoàn toàn ưa thích những cuộc trao đổi thực sự, sâu sắc về những chủ đề ưa thích của mình. Có một số thứ không phải là một người hướng nội: hướng nội không phải là một từ đồng nghĩa với ẩn dật hay khinh người. Người hướng nội có thể là những người này, nhưng phần lớn họ đều hết sức thân thiện và hoàn toàn dễ gần. Một trong những cụm từ nhân đạo nhất của tiếng Anh—“Only connect!”— “Chỉ có kết nối!”—được viết ra bởi một người hướng nội vô cùng rõ rệt, E. M. Forster, trong một cuốn tiểu thuyết khai phá câu hỏi làm cách nào để đạt được “tình yêu giữa người với người ở sắc thái tuyệt đối nhất của nó.” Cũng không phải cứ hướng nội thì là người rụt rè. Nhút nhát, rụt rè là nỗi sợ sự không chấp nhận của xã hội, sợ bị bẽ mặt; trong khi hướng nội là sự ưa thích những môi trường không quá kích thích. Tính nhút nhát rụt rè có thể gây thương tổn tinh thần rất sâu đậm; tính hướng nội thì hoàn toàn không. Một trong những lý do khiến mọi người luôn nhầm lẫn hai khái niệm này là việc đôi lúc chúng giao nhau (mặc dù các nhà tâm lý học vẫn còn tranh cãi là đến mức độ nào). Một số nhà tâm lý học thể hiện hai xu hướng này trên một đồ thị với một trục đứng và một trục nằm ngang, với trục ngang là khoảng dao động giữa hai thái cực hướng nội-hướng ngoại, và trục đứng tương ứng với khoảng bình thản-lo lắng. Với mô hình này, bạn có được bốn phân loại khác nhau của tính cách con người, tương ứng với bốn góc phần tư của đồ thị: người hướng ngoại bình thản, người hướng ngoại lo lắng (hoặc bốc đồng), người hướng nội bình thản, và người hướng nội lo lắng. Nói một cách khác, bạn có thể là một người hướng ngoại nhút nhát như Barbra Streisand 8, người có một tính cách hết sức đặc sắc và thu hút, nhưng vẫn sợ đến tê liệt cả người đi mỗi khi phải bước lên sân khấu; hoặc một người hướng nội không-nhút-nhát, như Bill Gates 9, người mà về mọi phương diện đều tránh phải tiếp xúc với mọi người, nhưng chưa bao giờ phải lo lắng vì áp lực ý kiến của người khác. Bạn cũng có thể, tất nhiên, vừa là một người hướng nội, vừa là một người nhút nhát. T. S. Eliot 10, một con người đơn độc nổi tiếng, đã viết trong bài thơ Đất hoang (The Waste Land) rằng ông có thể “chỉ cho bạn thấy nỗi sợ
  28. trong mỗi một nắm tay bụi đất”. Rất nhiều người nhút nhát chọn hướng mình vào thế giới nội tâm, một phần như một cách tị nạn để thoát khỏi cái xã hội ngoài kia đã gây cho họ biết bao nhiêu căng thẳng và lo lắng. Và nhiều người hướng nội cũng rất nhút nhát, một phần là vì họ luôn nhận được thông điệp từ xã hội rằng có gì đó không ổn với họ, rằng có gì đó sai trái trong việc họ thích suy nghĩ và bỏ thời gian nghiền ngẫm về mọi thứ; và cũng một phần do đặc trưng tâm lý của họ, như chúng ta rồi sẽ bàn đến, luôn khiến họ thấy không thoải mái và phải tránh xa các môi trường có tính kích thích cao. 8 Barbra Joan Streisand (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1942) là một nhà sáng tác nhạc, nữ diễn viên điện ảnh, kịch và ca sĩ Mỹ, đồng thời cũng là nhà hoạt động chính trị cấp tiến, nhà sản xuất phim và nhà đạo diễn phim. Bà đã giành được giải thưởng Oscar cho danh hiệu Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và Bài hát hay nhất trong phim cũng như các giải Emmy, Grammy, Quả Cầu Vàng. Streisand đã được xếp vào hàng nghệ sĩ nữ có album bán chạy nhất mọi thời đại ở Hoa Kỳ trong vòng hơn 30 năm, theo RIAA. Bà được xem như một trong những nghệ sĩ biểu diễn nữ thành công nhất trong lịch sử ngành giải trí hiện đại và là nữ ca sĩ bán được nhiều album nhất trong lịch sử âm nhạc Mỹ, được RIAA xác nhận là hơn 71 triệu đĩa ghi âm. (Nguồn: Wikipedia) 9 William Henry "Bill" Gates III (sinh ngày 28 tháng 10, 1955) là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ mà ông cùng với Paul Allen đã sáng lập ra. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất trên thế giới, và là người giàu nhất thế giới từ 1995 tới 2009, ngoại trừ năm 2008, khi ông chỉ xếp thứ ba. Tháng 5 năm 2013, Bill Gates đã giành lại ngôi vị người giàu nhất thế giới với tài sản 72,7 tỉ đô la Mỹ. (Nguồn: Wikipedia) 10 Thomas Stearns Eliot (26 tháng 9 năm 1888—4 tháng 1 năm 1965) là một nhà thơ, nhà viết kịch, nhà phê bình văn học Anh gốc Hoa Kỳ đoạt giải Nobel văn học năm 1948. Eliot thường đi vào những chủ đề triết lí, phản ánh mâu thuẫn giữa thực tại và thế giới tinh thần, sự yên bình của tâm hồn và lo âu trong đời sống con người, sự chuộc tội của linh hồn qua thời gian Eliot là người có đầu óc cách tân trong ngôn ngữ thơ và thi pháp, đấu tranh cho "thơ tự do", thoát khỏi khuôn sáo của thơ đương thời. Eliot là nhà thơ lớn nhất của nước Anh trong thế kỉ 20, có ảnh hưởng rộng lớn đến văn học các nước phương Tây. (Nguồn: Wikipedia) Nhưng với tất cả những khác biệt như thế, tính nhút nhát và sự hướng nội vẫn có một điểm chung rất sâu sắc. Trạng thái tâm lý của một người hướng
  29. ngoại nhút nhát ngồi nín thinh bên bàn họp của một doanh nghiệp có thể sẽ rất khác so với trạng thái tâm lý của một người hướng nội bình tĩnh—người nhút nhát vì quá sợ nên không dám nói, còn người hướng nội chỉ đơn giản là đang bị quá tải bởi môi trường xung quanh có nhiều nhân tố kích thích hơn mức họ có thể chịu đựng. Nhưng với thế giới bên ngoài, hai người họ trông chẳng khác gì nhau. Điều này có thể giúp cho cả hai loại người này hiểu rõ hơn về việc quá kính trọng và đề cao “vị trí dẫn đầu” hướng ngoại có thể khiến chúng ta bỏ qua những thứ thực sự tốt, thông minh và thông thái đến thế nào. Vì những lý do rất khác nhau, người nhút nhát và người hướng nội có thể sẽ chọn dành thời gian của mình cho những công việc hậu trường, như phát minh, hay tiến hành nghiên cứu, hay ở bên và nắm lấy tay những người đang trong cơn bệnh—hoặc ở vị trí lãnh đạo, họ giải quyết công việc với một phong thái tĩnh lặng. Đây không phải vị trí tiên phong dẫn đầu, nhưng những người đảm đương những vị trí đó vẫn cứ là những hình mẫu đáng để ta học tập và noi gương. Nếu bạn vẫn không chắc chắn liệu mình rơi vào đâu trên khoảng giữa hai thái cực hướng nội-hướng ngoại, bạn có thể tự đánh giá mình ở đây. Hãy trả lời mỗi câu hỏi này bằng cách đáp “Đúng” hoặc “Sai”, chọn câu trả lời nào đúng với bạn thường xuyên hơn.11 1. Tôi thích những cuộc nói chuyện một-đối-một hơn là hoạt động nhóm. 2. Tôi thường thích thể hiện mình qua chữ viết hơn là lời nói. 3. Tôi thích chỗ yên tĩnh, và được ở một mình. 4. Tôi có vẻ ít quan tâm tới tiền tài, danh vọng hay địa vị hơn là các bạn cùng lứa của tôi. 5. Tôi ghét nói chuyện phiếm, nhưng ưa thích bàn luận sâu sắc về những chủ đề quan trọng với tôi. 11 Đây chỉ là một bài trắc nghiệm không chính thức, không phải là một bài kiểm tra xác định tâm lý tính cách được xác nhận có cơ sở khoa học chặt chẽ. Các câu hỏi được đặt dựa vào những đặc tính của người hướng nội tiêu biểu, được chấp nhận một cách rộng rãi bởi đông đảo các nhà tâm lý học hiện đại nói chung. 6. Mọi người nói tôi là một người rất giỏi lắng nghe. 7. Tôi không giỏi chấp nhận rủi ro, mạo hiểm.
  30. 8. Tôi thích những công việc cho phép tôi hoàn toàn “cắm đầu vào làm” mà không bị ngắt quãng. 9. Tôi thích tổ chức sinh nhật với quy mô nhỏ, chỉ có gia đình hoặc một hai người bạn thật thân mà thôi. 10. Mọi người thường miêu tả tôi là “điềm đạm” hoặc “chín chắn”. 11. Tôi thường không thích cho ai khác xem công việc của mình cho đến khi nó đã hoàn tất. 12. Tôi không thích xung đột hay mâu thuẫn. 13. Tôi làm việc tốt nhất khi được ở một mình. 14. Tôi thường nghĩ kỹ trước khi nói. 15. Sau khi đi chơi nhiều với mọi người tôi thường cảm thấy năng lượng như đã bị rút cạn hết, mặc dù có thể tôi cũng đã chơi rất vui. 16. Tôi thường để cho các cuộc gọi rơi vào hộp thư thoại. 17. Nếu phải chọn một trong hai, tôi thà chọn một Chủ Nhật hoàn toàn không có gì để làm hơn là một ngày cuối tuần với quá nhiều công việc đã được lên kế hoạch sẵn. 18. Tôi không thích làm nhiều việc cùng lúc. 19. Tôi có thể hoàn toàn tập trung vào một việc rất dễ dàng. 20. Trong tình huống phòng học, tôi thích nghe giáo viên giảng sẵn hơn là tham gia vào những buổi seminar. 12 12 * Seminar có thể hiểu đơn giản là một hình thức học tập mà ở đó người học chủ động hoàn toàn tư khâu chuẩn bị tài liêu, trình bày nội dung đưa dẫn chứng, trao đổi, thảo luận với các thành viên khác và cuối cung tự rút ra nội dung bài học hay vấn đề khoa học cũng như đề xuất các ý kiến để mở rộng nội dung. * Vai trò của người thầy là · Tìm được các chủ đề phù hợp nội dung của bài giảng, có nguồn tư liệu đầy
  31. đủ. · Cung cấp tài liệu hoặc hướng dẫn tìm tài liệu. · Giải đáp thắc mắc của sinh viên trong khâu chuẩn bị. · Lắng nghe và bổ sung hoặc sửa chữa các chỗ thiếu sót của người học. · Tổng kết vấn đề. · Nếu sinh viên chưa quen thì trong những lần đầu tiên có thể điều hành việc trao đổi thảo luận. Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa học seminar và nghe giảng là trong giờ seminar, học sinh phải nói và tranh luận rất nhiều. Càng có nhiều câu trả lời “đúng”, bạn càng có khả năng là một người hướng nội (introvert) nhiều hơn; nếu ngược lại, bạn càng có khả năng là một người hướng ngoại (extrovert). Nếu bạn thấy mình có một số lượng câu trả lời “đúng” và “sai” tương đối bằng nhau, vậy thì có thể bạn là một ambivert— vâng, thực sự có riêng một từ dành cho những người như vậy đấy ạ. Nhưng kể cả nếu bạn chỉ chọn một phương án duy nhất cho tất cả các câu hỏi ở đây, điều đó cũng không có nghĩa là hành động của bạn có thể dễ dàng dự đoán trước được trên tất cả mọi phương diện. Chúng ta không thể nói mọi kẻ hướng nội đều là những con mọt sách hay mọi người hướng ngoại đều quậy tới bến ở những bữa tiệc tưng bừng với bạn bè—cũng hệt như việc chúng ta không thể khẳng định chắc nịch rằng mọi phụ nữ đều là những người giỏi lắng nghe, và mọi người đàn ông đều thích những môn thể thao va chạm—như bóng đá hay bóng bầu dục chẳng hạn (chú thích của người dịch). Như Jung đã nói, một cách rất chính xác, rằng: “Không hề có thứ gì gọi là một kẻ hoàn toàn hướng ngoại hay một kẻ hoàn toàn hướng nội hết. Một kẻ như thế chắc chắn sẽ chỉ có thể kết thúc mình trong một nhà thương điên”. Một phần của lý do ở đây là vì chúng ta đều là những sinh vật phức tạp đến đáng kinh ngạc, nhưng một phần khác cũng là bởi có vô cùng nhiều các kiểu hướng nội và hướng ngoại khác nhau. Tính hướng nội và hướng ngoại tương tác với những nét tính cách khác cũng như với quá khứ riêng của từng người, tạo ra vô số những kiểu người khác nhau. Vậy nên nếu bạn là một thanh niên Mỹ có thiên hướng nghệ thuật, luôn bị cha mình bắt ép tham gia đội tuyển bóng bầu dục của trường như người anh trai sôi nổi- ăn to nói lớn của bạn;
  32. bạn sẽ là một dạng hướng nội rất khác so với, ví dụ, một nữ doanh nhân người Phần Lan có cả bố và mẹ đều là những người giữ hải đăng. (Phần Lan là một quốc gia nổi tiếng hướng nội. Truyện cười người Phần Lan: Làm thế nào để bạn biết một anh chàng Phần Lan có thích bạn hay không? Câu trả lời: Anh ta sẽ nhìn chằm chằm vào mũi giày của bạn, thay vì vào mũi giày của chính anh ta!) Rất nhiều người hướng nội cũng “đặc biệt nhạy cảm”(“highly sensitive”); nghe có vẻ rất thi vị, nhưng đó thực tế là một thuật ngữ chuyên môn trong ngành tâm lý học. Nếu bạn thuộc dạng nhạy cảm, vậy có lẽ bạn sẽ phù hợp hơn nhiều những người khác để cảm thấy tuyệt đối hạnh phúc dễ chịu khi nghe bản “Xô-nát ánh trăng” của Beethoven, một câu đáp bằng tiếng Anh thật hoàn hảo, hay một nghĩa cử cao đẹp đến đáng khâm phục. Bạn cũng sẽ nhanh cảm thấy phát bệnh hơn khi phải chứng kiến bạo lực hay những thứ xấu xí đáng ghê tởm, và bạn có một lương tâm vô cùng lành vững. Khi còn là một đứa trẻ, rất có thể bạn đã luôn bị bảo là “quá nhút nhát”, và cho tới tận bây giờ vẫn luôn cảm thấy rất căng thẳng mỗi khi bị người khác đánh giá, như khi phải diễn thuyết trước một đám đông, hoặc trong lần hẹn hò đầu tiên. Rồi chúng ta sẽ bàn đến tại sao tập hợp các đặc tính tưởng chừng ít liên quan cho lắm đến nhau này lại thường thuộc về cùng một người, và tại sao người này lại thường là người hướng nội. (Không ai biết chính xác thì có bao nhiêu người hướng nội cũng là người đặc biệt nhạy cảm, nhưng chúng ta biết có khoảng 70% người nhạy cảm là người hướng nội, và 30% còn lại báo cáo rằng họ cũng thường cần rất nhiều “khoảng nghỉ” trước khi có thể hoạt động lại bình thường sau một cơn chấn động). Tất cả những rắc rối phức tạp này có nghĩa là, không phải mọi thứ viết trong Im lặng đều có thể áp dụng đúng với bạn, kể cả khi bạn tự thấy mình là một kẻ hướng-nội-toàn-tập. Ví dụ, chúng ta sẽ dành một lượng thời gian để bàn về tính nhút nhát và sự nhạy cảm, những đặc tính mà có thể bạn tự thấy là mình hoàn toàn không có. Nhưng kể cả thế cũng không sao. Hãy cứ áp dụng những cái có thể áp dụng được với bạn, và dùng những kiến thức còn lại để cải thiện mối quan hệ của bạn với những người xung quanh. Điều đó nói ra, trong Im lặng này chúng ta sẽ cố gắng không lệ thuộc quá nhiều vào các định nghĩa. Những thuật ngữ được định nghĩa nghiêm ngặt là đặc biệt quan trọng với các nhà nghiên cứu, những người mà công trình của họ phụ thuộc chặt chẽ vào việc xác định chính xác đến đâu thì tính hướng nội dừng lại, và từ đâu thì các đặc tính khác, ví dụ, như tính nhút nhát, bắt đầu. Nhưng trong Im lặng, chúng ta sẽ quan tâm nhiều hơn đến thành quả của những nghiên cứu đó. Các nhà tâm lý học ngày nay, kết hợp với các nhà
  33. khoa học thần kinh (neuroscientist) cùng những thiết bị quét não bộ của họ, đã khám phá ra được những phát hiện vô cùng sáng giá có thể thay đổi được cách chúng ta nhìn nhận thế giới— và cả chính bản thân mỗi chúng ta. Họ đang trả lời cho những câu hỏi như: Tại sao một số người nói rất nhiều, trong khi một số khác thì đo đếm từng chữ một mình nói ra? Tại sao một số người lao mình vào công việc, trong khi một số khác thì tổ chức những bữa tiệc sinh nhật tưng bừng ngay tại nơi làm việc? Tại sao một số người không gặp vấn đề gì với việc nắm trong tay quyền lực, trong khi một số khác thì lại không thích cả việc lãnh đạo lẫn việc bị người khác lãnh đạo? Liệu người hướng nội có thể làm nhà lãnh đạo tốt được hay không? Liệu xu hướng ưu ái những người hướng ngoại của chúng ta là một kết quả của tiến hóa tự nhiên, hay là do chịu ảnh hưởng từ văn hóa và xã hội? Nếu bạn là một người hướng nội, liệu bạn có nên cống hiến hết thời gian và sức lực của mình cho những hoạt động tự nhiên nhất đối với bạn; hay liệu bạn nên cố gồng mình để vượt qua các thử thách của cộng đồng, như Laura đã làm trên bàn đàm phán ngày hôm đó? Câu trả lời có lẽ sẽ khiến bạn ngạc nhiên. Mặc dù vậy, nếu chỉ có duy nhất một điều bạn có thể lấy ra được từ cuốn sách này, tôi hy vọng đó sẽ là một cảm nhận mới về quyền được phép là chính bạn. Tôi có thể tự mình cam đoan về về tác dụng thay đổi cuộc đời một khi bạn đã đạt được đến thái độ, quan điểm này. Các bạn còn nhớ về người khách hàng đầu tiên mà tôi đã kể với các bạn không, cô gái trẻ mà tôi đã gọi là Laura để bảo vệ danh tính thật cho cô ấy ấy? Đó thực ra là câu chuyện về chính tôi. Tôi chính là khách hàng đầu tiên của mình.
  34. Phần Một: KHUÔN MẪU HƯỚNG NGOẠI LÝ TƯỞNG 1. SỰ TRỖI DẬY CỦA HÌNH TƯỢNG “ANH BẠN VÔ CÙNG DỄ MẾN” Làm Thế Nào Người Hướng Ngoại Trở Thành Hình Mẫu Lý Tưởng Của Xã Hội Ánh mắt của những người lạ, tò mò và khắt khe, Liệu bạn có thể đối diện chúng một cách thật tự hào—can đảm—và không hề sợ hãi? —MẪU QUẢNG CÁO TRÊN BÁO CỦA HÃNG XÀ BÔNG WOODBURY, 1922 Thời gian: năm 1902. Địa điểm: Nhà thờ Harmony, bang Missouri, một thị trấn nhỏ, chỉ-một-chấm-con trên bản đồ nước Mỹ, tọa lạc bên một vùng bờ sông, cách thành phố Kansas hơn 100 dặm. Nhân vật chính trẻ tuổi của chúng ta: một cậu học sinh trung học nhân hậu, tốt bụng, nhưng thiếu tự tin vào bản thân tên Dale. Gầy gò, ủ dột và ốm yếu, Dale là con trai trong một gia đình nông dân đứng đắn về đạo đức nhưng đã từ lâu sống trong cảnh bần hàn bằng nghề chăn nuôi lợn. Cậu kính trọng cha mẹ mình, nhưng tận thâm tâm không bao giờ muốn lại bước tiếp theo con đường nghèo đói của gia đình. Dale cũng lo lắng về những thứ khác nữa: sấm sét, bị đày xuống địa ngục, và bị cứng họng vào đúng những thời khắc quan trọng nhất. Cậu thậm chí còn sợ cả chính lễ cưới của mình sau này: Nhỡ cậu không thể nghĩ ra điều gì để nói với người vợ tương lai của mình thì sao? Một ngày nọ, một diễn giả Chautauqua tới thị trấn của cậu. Phong trào Chautauqua, ra đời năm 1873 tại phía Bắc, ngoại ô New York, gửi những diễn giả tài năng đi khắp đất nước để đem những tri thức về văn hóa, khoa học, và tôn giáo tới mọi người. Những vùng nông thôn nước Mỹ quý trọng những diễn giả này bởi ánh hào quang thành thị họ mang tới từ thế giới bên ngoài—và ở sức mạnh của họ trong việc mê hoặc đám đông. Người diễn giả này đã đặc biệt thu hút Dale bởi câu chuyện đổi đời của của chính ông: có
  35. một thời ông cũng là một cậu bé con nhà nông dân thấp kém với một tương lai mịt mờ, nhưng rồi ông dần dần phát triển một phong cách diễn thuyết đầy lôi cuốn và chiếm lĩnh sân khấu ở Chautauqua. Dale lắng nghe chăm chú như nuốt lấy từng lời của ông. Một vài năm sau, chàng thanh niên Dale lại một lần nữa bị ấn tượng mạnh bởi giá trị của khả năng diễn thuyết. Gia đình của anh chuyển tới sống tại một trang trại chỉ cách thành phố Warrensburg, Missouri ba dặm, để Dale có thể theo học đại học tại đó mà không cần phải đi thuê phòng hoặc ở nhờ nhà ai. Dale để ý thấy rằng những học sinh giành chức vô địch trong những cuộc thi hùng biện của trường luôn được kính nể như những nhà lãnh đạo, và anh hạ quyết tâm cũng phải trở thành được một người như vậy. Anh ghi danh đăng ký trong mọi cuộc thi, và lao vội về nhà mỗi khi hết giờ học để vùi đầu vào luyện tập. Cứ thua rồi anh lại thua nữa; Dale rất quyết tâm, nhưng anh vẫn chưa thực sự là một nhà hùng biện giỏi. Nhưng dù vậy, cuối cùng thì những nỗ lực của anh cũng bắt đầu được đền đáp xứng đáng. Anh lột xác trở thành một nhà vô địch hùng biện, một người hùng của toàn thể học sinh trong trường học. Những học sinh khác bắt đầu tìm đến anh để hỏi xin kinh nghiệm diễn thuyết, anh đào tạo họ, và họ cũng bắt đầu giành được giải thưởng nữa. Đến khi Dale rời trường đại học vào năm 1908, cha mẹ của anh vẫn nghèo như vậy, nhưng nước Mỹ liên hiệp đang bắt đầu lột xác. Henry Ford đang bán những mẫu xe hơi Model Ts đắt như tôm tươi, sử dụng câu khẩu hiệu: “vì công việc, và vì cả niềm vui” (“for business and for pleasure”). J.C. Penney, Woolworth, và Sears Roebuck đã trở thành những thương hiệu đồ gia dụng hàng đầu. Ánh đèn điện thắp sáng mọi căn nhà của tầng lớp trung lưu; hệ thống nước máy được bơm dẫn vào từng nhà, giải phóng họ khỏi những chuyến đi ra nhà ngoài để xách nước về hàng đêm. Nền kinh tế mới cần đến một kiểu người mới—một người bán hàng, một nhà hùng biện trong giao tiếp, ai đó luôn sẵn sàng với một nụ cười thường trực, một cái bắt tay chuyên nghiệp, sở hữu khả năng hòa đồng với bất cứ một đồng nghiệp nào, nhưng đồng thời vẫn luôn có thể tỏa sáng lấn át tất cả bọn họ. Dale tham gia vào tầng lớp những người bán hàng đang lên này, bước ra ngoài cuộc đời với gần như không một tư trang gì khác ngoài cái lưỡi vàng của mình. Tên cuối của Dale là Carnegie13 (thực ra là Carnagey, ông về sau đã đổi lại cách viết tên của mình, nhiều khả năng là để tưởng nhớ Andrew Carnegie, nhà cách mạng công nghiệp vĩ đại). Sau một vài năm chật vật chào bán thịt
  36. bò cho hãng Armour and Company, ông thành lập một lớp học về kỹ năng diễn thuyết. Carnegie mở lớp của mình đầu tiên tại một trường học buổi đêm của Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc (YMCA), tọa lạc trên phố 125th ở New York. Ông đòi mức lương 2 đô-la một giờ học như mức thông thường của một giáo viên dạy ban đêm. Giám đốc của trường, tuy vậy, nghi ngờ việc một lớp học về kỹ năng nói trước công chúng có thể thu hút được nhiều người, đã từ chối chi trả một khoản tiền như vậy, 13 Dale Breckenridge Carnegie (24 tháng 11 năm 1888—1 tháng 11 năm 1955) là một nhà văn, nhà thuyết trình Mỹ và là người phát triển các lớp tự giáo dục, nghệ thuật bán hàng, huấn luyện đoàn thể, nói trước công chúng và các kỹ năng giao tiếp giữa mọi người. Ra đời trong cảnh nghèo đói tại một trang trại ở Missouri, ông là tác giả cuốn Đắc Nhân Tâm (“How to Win Friends and Influence People”), được xuất bản lần đầu năm 1936, một cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay. (Nguồn: Wikipedia) Nhưng hóa ra lớp học đã trở thành một hiện tượng chỉ trong một thời gian ngắn, và Carnegie tiếp tục tiến tới thành lập Học Viện Dale Carnegie, cống hiến hết mình để giúp tất cả mọi người nhổ bật đi sự thiếu tự tin đã từng kìm chân chính ông trong quá khứ. Vào năm 1913, ông xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, "Nói trước Công chúng và Gây ảnh hưởng tới mọi Người trong Kinh doanh” (“Public Speaking and Influencing Men in Business”). “Trong những ngày mà phòng tắm và đàn piano còn là những thứ vô cùng xa xỉ”, Carnegie viết, “con người xem khả năng diễn thuyết như là một khả năng kỳ lạ, chỉ có những người như luật sư, giáo sĩ truyền đạo, và những chính khách mới cần đến một thứ như vậy. Nhưng ngày nay chúng ta nhận ra rằng đó chính là thứ vũ khí vô cùng thiết yếu, không thể thay thế được của những người muốn tiến lên hàng đầu trong cuộc đua tranh quyết liệt của thương trường.” Quá trình lột xác của Carnegie từ cậu bé nông dân trở thành người bán hàng, rồi thành biểu tượng hùng biện của thời đại cũng chính là câu chuyện về sự trỗi dậy của Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng. Hành trình của Carnegie phản ánh sự tiến hóa của xã hội và đã chạm đến bước thay đổi toàn diện khi bước vào thế kỷ 20, thay đổi mãi mãi việc chúng ta là ai và chúng ta ngưỡng mộ ai, chúng ta hành xử thế nào trong những buổi phỏng vấn việc làm và chúng ta đòi hỏi những gì ở một nhân viên, cách chúng ta chọn bạn tình thế nào và nuôi dạy con cái ra sao. Nước Mỹ đã chuyển mình từ thứ mà nhà sử học văn hóa có ảnh hưởng lớn Warren Susman gọi là “Nền Văn Hóa Của Đức Tính” (Culture of Character) sang “Nền Văn Hóa Của Tính Cách”
  37. (Culture of Personality)—và mở ra một chiếc hộp Pandora giải phóng trăm vạn những nỗi lo lắng cá nhân, mà từ đó chúng ta vẫn chưa bao giờ có thể hồi phục hoàn toàn được. Trong Nền Văn Hóa Của Đức Tính, con người lý tưởng là kẻ nghiêm túc, có kỷ luật, ngay thẳng và chính trực. Thứ được quan tâm không phải là ấn tượng một người có thể tạo ra với đám đông, mà là cách một người cư xử thế nào khi chỉ có một mình. Thậm chí từ ngữ “tính cách” (personality) vẫn còn chưa tồn tại trong tiếng Anh cho đến tận thế kỷ thứ 18, và ý tưởng về việc “có một tính cách tốt” (“having a good personality”) chưa bao giờ được phổ biến rộng rãi trước thế kỷ thứ 20. Nhưng khi chúng ta đã đi theo Nền Văn Hóa Của Tính Cách, người Mỹ bắt đầu dần quan tâm nhiều hơn đến cách những người khác nhìn nhận mình như thế nào. Họ bị tuyệt đối thu hút bởi những người bạo dạn và có phong cách nói chuyện hấp dẫn, lôi cuốn. “Vai trò mới mà xã hội đòi hỏi ở tất cả trong Nền Văn Hóa Của Tính Cách là vai trò của một người biểu diễn”, như một lời viết nổi tiếng của Susman. “Mỗi người Mỹ đều phải trở thành một cá nhân biểu diễn”. Sự trỗi dậy của nước Mỹ công nghiệp đã là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy chu trình tiến hóa toàn diện này của xã hội. Cả đất nước nhanh chóng chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp với những ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên sang một nền văn minh đô thị, mà ở đó “công việc của nước Mỹ là kinh doanh” (“the business of America is business”). Trong những năm tháng quá khứ của miền quê, hầu hết mọi người Mỹ sống cũng như gia đình của Dale Carnegie: trong những nông trại, trong những thị trấn nhỏ vô danh trên bản đồ, tương tác chủ yếu với những người họ đã biết cả cuộc đời họ. Nhưng khi thế kỷ 20 đến, một cơn bão toàn diện của những doanh nghiệp lớn, của đô thị hóa, và những cuộc di cư ồ ạt bắt đầu quét qua nước Mỹ, cuốn dân số của nó tới những đô thị lớn. Vào năm 1790, chỉ có khoảng 3% dân số Mỹ sống ở những thành phố; đến năm 1840, vào khoảng 8%; và đến 1920, hơn một phần ba dân số toàn quốc đã là những cư dân thành thị. “Tất cả chúng ta không thể đều sống hết ở thành phố”, biên tập viên tin tức Horace Greeley đã viết vậy vào năm 1867, “ấy vậy nhưng có vẻ ai cũng quyết tâm phải tới sống ở đó bằng được”. Những người Mỹ giờ đây thấy mình không còn làm việc chung với những hàng xóm láng giềng như xưa nữa, mà với toàn những người xa lạ. “Công dân” giờ chuyển hóa thành “nhân viên”, họ đối mặt với câu hỏi: làm thế nào để tạo ấn tượng tốt với những người mà họ không hề có quan hệ đồng hương
  38. hay họ hàng gì? “Lý do một người này được thăng chức hay một người khác bị xã hội tảng lờ và tẩy chay”, nhà sử học Roland Marchand viết, “càng ngày càng ít phụ thuộc hơn vào những sự ưu tiên thiên vị lâu dài hay những mối thâm thù với một dòng tộc gia đình nào đấy. Trong một nền kinh tế và những mối quan hệ càng lúc càng giấu danh tính của thời đại mới, người ta hoàn toàn có thể nghi ngờ rằng mọi thứ—kể cả ấn tượng lần gặp mặt đầu tiên— đều có thể tạo ra những khác biệt cực kỳ quan trọng”. Người Mỹ phản ứng lại những áp lực này bằng cách cố gắng trở thành người bán hàng, những người có thể tiếp thị và bán không chỉ những sản phẩm tinh xảo mới nhất của công ty, mà còn có thể tiếp thị và chào bán cả chính họ nữa. Một trong những góc nhìn quan trọng nhất mà qua đó ta có thể thấy được sự thay đổi của Nền Văn Hóa Tính Cách là truyền thống tự-giúp-đỡ-bản-thân (self-help) mà ở đó Dale Carnegie đã đóng góp một phần công sức lớn. Những cuốn sách tự-giúp-đỡ-bản-thân từ cách đây rất lâu đã luôn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí mỗi người dân Mỹ. Phần lớn các cuốn sách hướng dẫn thời kỳ đầu tiên là những truyện ngụ ngôn mang màu sắc tôn giáo, như The Pilgrim’s Progress, xuất bản năm 1678, một câu chuyện cảnh báo người đọc rằng nếu không biết kiềm chế bản thân, họ sẽ không bao giờ tới được thiên đường. Những cuốn sách khuyên bảo của thế kỷ 19 đã dần ít chất tính tôn giáo hơn, nhưng vẫn đề cao giá trị của việc có một nhân cách cao quý. Chúng kể những câu chuyện về cuộc đời của những vĩ nhân như Abraham Lincoln, được ngưỡng mộ không chỉ bởi khả năng giao tiếp tuyệt vời, mà còn bởi là một con người vô cùng khiêm tốn, người mà, như triết gia Ralph Waldo Emerson đã viết, “không bao giờ bị vấy bẩn bởi uy quyền”. Những cuốn sách cũng ca ngợi cả những con người bình thường nhưng có hành động thể hiện tư cách đạo đức cao quý. Một cuốn sách khuyên bảo khá nổi tiếng xuất bản năm 1899 có tên: “Nhân cách: Điều Vĩ Đại Nhất Trên Đời” (Character: The Grandest Thing in the World) kể về một cô bé chủ một cửa hàng nhỏ, đã đem toàn bộ số tiền kiếm được ít ỏi của mình tặng cho một kẻ hành khất đang co ro nơi góc phố, và rồi vội vã chạy đi thật nhanh trước khi có ai kịp nhìn thấy hành động của mình. Đức hạnh của cô, như mọi người đọc đều hiểu, không chỉ đến từ lòng nhân ái, mà còn cả từ ước muốn được ẩn danh của cô nữa. Nhưng đến năm 1920, những cuốn sách tự-giúp-đỡ-bản-thân nổi tiếng đều đã chuyển từ tập trung vào đức hạnh bên trong của con người sang việc xây dựng khả năng mê hoặc và bề ngoài để thu hút và chinh phục người khác —“biết phải nói gì, và nói nó như thế nào”, như một cuốn nói. “Tạo ra một tính cách thu hút là tạo ra sức mạnh”, một cuốn khác khuyên. “Hãy cố luôn thường trực một tác phong để khiến cho người khác phải nghĩ: “anh ta quả là
  39. một anh bạn vô cùng dễ mến”, một cuốn thứ ba bàn. “Đó là cách xây dựng danh tiếng cho một nhân cách”. Tạp chí Success và cả tuần báo The Saturday Evening Post giới thiệu những chuyên mục mới hướng dẫn người đọc về nghệ thuật giao tiếp. Orison Swett Marden, cũng chính tác giả của cuốn sách Nhân cách: Điều Vĩ Đại Nhất Trên Đời vào năm 1899, đã xuất bản một tác phẩm nổi tiếng khác vào năm 1921, tiêu đề: “Tính Cách Bá Chủ” (Masterful Personality). Hầu hết các sách hướng dẫn này được viết dành cho nam giới thuộc tầng lớp doanh nhân, nhưng phụ nữ cũng bị thôi thúc phải cải thiện một kỹ năng bí ẩn khác có tên “sức quyến rũ”. Lớn lên trong thập kỷ 1920 là sinh ra trong một cuộc đua tranh quyết liệt hơn nhiều những gì bà hay mẹ của họ đã phải trải qua, một cuốn hướng dẫn chăm sóc sắc đẹp cảnh báo, và muốn thành công họ cần phải có một vẻ ngoài ấn tượng. “Những người đi ngang qua ngoài phố sẽ không biết được là bạn thông minh và quyến rũ, trừ khi bạn trông giống vậy.” Những lời khuyên kiểu này—rõ ràng đều nhằm để cải thiện cuộc sống của con người—hẳn đã phải khiến kể cả những người khá là tự tin cũng phải cảm thấy không thoải mái. Susman đã thống kê những từ ngữ xuất hiện nhiều nhất trong các cuốn sách hướng dẫn của đầu thế kỷ 20, và so sánh chúng với từ ngữ trong những cuốn sách đề cao đạo đức nhân cách của thế kỷ 19. Những cuốn sách của thế kỷ trước nhấn mạnh hơn vào những phẩm chất mà bất cứ ai cũng có thể cải thiện được, được miêu tả bằng những từ như: Bổn phận công dân Nghĩa vụ Việc làm Nghĩa cử cao đẹp Danh dự Danh tiếng Tư cách đạo đức Cách hành xử lễ độ Chính trực, ngay thẳng Nhưng những cuốn sách hướng dẫn của thế hệ mới thì tôn vinh những phẩm chất mà—bất kể Dale Carnegie có làm cho nó nghe có vẻ dễ dàng đến đâu— vẫn khó hơn rất nhiều để đạt được. Hoặc là bạn có được chúng, hoặc là không—không có lựa chọn thứ ba.
  40. Lôi cuốn Quyến rũ Gây choáng ngợp Có sức hấp dẫn mãnh liệt Vượt trội Quả quyết, mãnh liệt Luôn tràn đầy năng lượng Hoàn toàn không phải trùng hợp ngẫu nhiên mà vào những thập kỷ 1920 và 1930, hết thảy người dân Mỹ đều bị ám ảnh bởi những minh tinh màn bạc. Làm gì còn ai tốt hơn một siêu sao điện ảnh để thể hiện được sức mạnh của một vẻ ngoài quyến rũ mê hoặc chứ? Người dân Mỹ cũng đồng thời nhận được những lời khuyên về cải thiện kỹ năng tiếp thị bản thân—bất kể họ có thích chúng hay không—từ ngành công nghiệp quảng cáo. Nếu những quảng cáo thời kỳ đầu đi thẳng vào ca ngợi chất lượng của sản phẩm (“Giấy mỏng vân lụa của Eaton’s Highland: Loại giấy viết trong sạch và tươi mát nhất trên thế giới.”); thì quảng cáo của thời kỳ tôn vinh tính cách khắc họa khách hàng như những người phải chuẩn bị biểu diễn mà vẫn còn run sợ, và chỉ có sản phẩm của nhà quảng cáo mới có thể giúp họ có thể tiếp tục tự tin tiến lên. Những quảng cáo này đặc biệt chú trọng tới cái nhìn đầy đe dọa của mọi người xung quanh: “Khắp nơi xung quanh, mọi người đều đang âm thầm đánh giá bạn”, một quảng cáo xà bông của Woodbury cảnh báo. “Những ánh mắt vô cùng nghiêm khắc đang bủa vây lấy bạn ngay chính lúc này đây!”, quảng cáo của Kem Cạo Râu Williams Luxury khuyên. Những quảng cáo này đã nhắm thẳng vào mối lo lắng của rất nhiều doanh nhân và quản lý thuộc tầng lớp trung lưu. Trong một quảng cáo của kem đánh răng Dr. West, một anh chàng dáng vẻ bệ vệ ngồi sau một bàn giấy, hai tay chống tự tin vào hông, và hỏi bạn “Đã bao giờ thử tự chào bán chính bạn cho chính bạn chưa? Một ấn tượng đầu tiên ưa nhìn chính là nhân tố quan trọng nhất để thành công, bất kể là trong kinh doanh hay trong đời sống xã hội!”. Kem Cạo Râu Williams Luxury quảng cáo một người đàn ông tóc bóng mượt, để ria, thúc giục người đọc “Hãy để gương mặt của bạn bộc lộ sự tự tin, chứ không phải lo lắng! Hãy nhớ, “diện mạo” của bạn chính là thứ người khác dùng để đánh giá bạn nhiều nhất!” Những quảng cáo khác nhắc nhở phụ nữ rằng thành công của họ trong trò chơi ái tình giờ không chỉ phụ thuộc vào vẻ ngoài hấp dẫn, mà còn cả vào
  41. tính cách của họ nữa. Một quảng cáo của Xà bông Woodbury vào năm 1921 giới thiệu một cô gái ủ rũ, trở về nhà một mình sau một buổi tối đi chơi đáng thất vọng. Cô đã “luôn khát khao được hạnh phúc, được thành công, được chiến thắng”, mẩu quảng cáo nói với vẻ cảm thông. Nhưng không có sự trợ giúp của đúng loại xà bông, người phụ nữ trẻ chỉ có thể là một thất bại trong quan hệ xã hội mà thôi. Mười năm sau, bột giặt Lux đăng một quảng cáo trên mặt báo giấy, giới thiệu một lá thư buồn bã gửi Dorothy Dix, một “Chị Thanh Tâm” của thời kỳ đó. “Thưa cô Dix,” lá thư viết, “Tôi phải làm thế nào để có thể trở nên nổi tiếng hơn đây? Tôi cũng khá là ưa nhìn và không phải là một đồ ngốc, nhưng tôi lại quá rụt rè và e thẹn trước mặt mọi người. Tôi luôn chắc chắn rằng họ sẽ không bao giờ thích tôi ”— Joan G. “Cô Dix” đã trả lời lại, dứt khoát và rõ ràng: Giá mà Joan đã dùng bột giặt Lux trên váy áo, rèm cửa, sofa của mình, cô chắc chắn đã sẽ sớm có được “một niềm tin sâu đậm, chắc chắn, mãnh liệt vào sự quyến rũ của chính mình”. Việc khắc họa việc hẹn hò như thể nó là một màn biểu diễn với đầy những rủi ro đã phản ánh rõ những quy chuẩn hoàn toàn mới của Nền Văn Hóa Tính Cách. Dưới những giới hạn (đôi lúc áp chế) của những quy chuẩn của Nền Văn Hóa Đức Tính, cả hai giới tính đều thể hiện phần nào sự kín đáo, dè dặt trong cuộc yêu đương. Người nữ mà ăn nói quá to, hay có những ánh nhìn không đứng đắn với nam giới thì đều bị coi là trâng tráo, không biết thẹn, không biết xấu hổ. Những phụ nữ thuộc tầng lớp trên có nhiều quyền tự do để giao tiếp hơn là những người cùng giới với họ ở đẳng cấp dưới, và họ quả thực được đánh giá một phần vào tài năng của họ trong những lời đối đáp mau lẹ và thông minh, nhưng kể cả họ cũng được khuyên là nên biết tỏ ra ngượng ngùng và xấu hổ. Họ được các cuốn sách hướng dẫn cảnh báo rằng “sự kín đáo lạnh lùng nhất” là “phẩm chất đáng ngưỡng mộ nhất ở một người phụ nữ mà một người đàn ông muốn lấy làm vợ, hơn tất cả mọi sự thân mật không cần thiết nào”. Mọi người đàn ông đều có thể có được một cung cách xử sự lặng lẽ, từ tốn, một sự bình tĩnh và một thứ sức mạnh không cần thiết phải luôn tự khoe khoang về nó. Mặc dù sự rụt rè nhút nhát tự nó vẫn luôn là một điều không thể chấp nhận được, kín đáo lại là một dấu hiệu của một người bạn đời lý tưởng. Nhưng với sự xuất hiện của Nền Văn Hóa Tính Cách, những giá trị của sự mực thước bắt đầu sụp đổ dần, với cả nam và nữ. Thay vì dùng những kính ngữ trang trọng khi giao tiếp với phụ nữ và nghiêm túc tuyên bố sự chú ý
  42. của mình tới đối phương, nam giới giờ đây được kỳ vọng là phải biết chinh phục cuộc hẹn hò bằng nghệ thuật của ngôn từ, mà ở đó họ tung ra một lời “tán” đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Những người đàn ông quá kín tiếng trước mặt phụ nữ sẽ phải chịu nguy cơ bị tưởng là “pê-đê”; như một cuốn hướng dẫn chuyện yêu đương năm 1926 đã quan sát thấy: “những người đồng tính luyến ái luôn luôn rất kín đáo, nhút nhát, rụt rè, không thích đám đông”. Phụ nữ nữa, cũng vậy, được kỳ vọng là phải biết cân bằng giữa đứng đắn và bạo dạn. Nếu phản ứng quá rụt rè trước những động thái lãng mạn, họ có thể bị coi là “lạnh nhạt”. Cả phương diện tâm lý học cũng bắt đầu chật vật với áp lực phải thể hiện sự tự tin. Vào thập kỷ 1920, nhà tâm lý học có tầm ảnh hưởng Gordon Allport đã tạo ra một bài trắc nghiệm chẩn đoán về mức độ “Thống trị-Nhượng bộ” (Ascendance-Submission), nhằm xác định mức độ thống trị trong giao tiếp xã hội. “Nền văn minh đương đại của chúng ta”, Allport nhận xét, người mà chính bản thân ông cũng rất kín đáo và nhút nhát, “có vẻ đặt giá trị cao hơn vào những con người hùng hổ, người ‘xông lên đoạt lấy phần thưởng’“. Ngay từ những năm 1921, Carl Jung đã nhận thấy vị trí xã hội đang bắt đầu bị đe dọa của sự hướng nội. Chính Jung coi người hướng nội như là “những nhà giáo dục và những kẻ khuyến khích của tương lai”, những kẻ đã thể hiện giá trị của “một thế giới nội tại luôn rất cần thiết trong nền văn minh của chúng ta”. Nhưng ông cũng thừa nhận rằng “sự kín đáo và những nỗi ngượng ngùng dường như rất vô căn cứ (của họ), sẽ tự nhiên khơi dậy rất nhiều ác cảm của xã hội với loại người này”. Nhưng không ở đâu nhu cầu cần phải có một dáng vẻ tự-tin lại rõ ràng hơn ở định nghĩa khái niệm mới của các nhà tâm lý học, về thứ gọi là “Phức cảm tự ti” (inferiority complex). Hội chứng IC, như nó sau này được biết đến rộng rãi hơn trên báo chí (viết tắt từ hai chữ cái đầu của tên gốc tiếng Anh, the Inferiority Complex), được đề xuất lần đầu vào những năm 1920 bởi nhà tâm lý học người Viên Alfred Adler, để định nghĩa về cảm giác tự ti và những hậu quả của nó. “Bạn có hay tự cảm thấy bất an không?” một cuốn sách do Adler viết, vào hàng bán chạy nhất thời điểm đó, hỏi. “Bạn có hay thiếu tự tin không? Bạn có dễ nhượng bộ không?”. Adler giải thích rằng tất cả trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đều cảm thấy tự ti, khi phải lớn lên trong một thế giới của người lớn và những anh chị lớn khác của chúng. Trong một quá trình lớn lên bình thường, hầu hết mọi người sẽ học cách hướng những cảm xúc này vào làm động lực để theo đuổi những mục tiêu của mình. Nhưng nếu có gì đó đi chệch hướng khi họ trưởng thành, họ có thể bị đóng chặt mãi mãi với một căn ác bệnh có tên “Hội chứng IC”, hay “Phức cảm tự ti”—một trở ngại chết người, đặc biệt trong một thế giới càng ngày càng cạnh tranh quyết liệt hơn.
  43. Ý tưởng về việc đóng gói tất cả mọi nỗi lo lắng với đời sống xã hội của mình vào một cái gói gọn ghẽ của “Hội chứng IC” đã làm vừa ý rất nhiều người Mỹ. Phức Cảm Tự Ti trở thành một lời giải thích tuốt- tuồn-tuột cho mọi vấn đề trên hầu khắp mọi phương diện của xã hội, từ chuyện tình cảm yêu đương cho tới việc làm cha làm mẹ, tới cả công danh sự nghiệp. Vào năm 1924, tạp chí Collier đăng một câu chuyện về một người phụ nữ đang sợ phải cưới người mà mình yêu, vì e ngại rằng anh ta đã mắc phải một hội chứng IC quá nặng, không còn cách chữa. Một tạp chí nổi tiếng khác thì cho đăng một bài báo có tựa đề: “Con Của Bạn Và Cái Chứng Phức Cảm Thời Thượng Kia”, giải thích cho các bà mẹ thứ gì dẫn đến hội chứng IC ở trẻ nhỏ, và làm cách nào để ngăn chặn hoặc chữa trị được nó. Như thể tất cả mọi người đều bị mắc phải hội chứng IC này vậy; nhưng, với một số người, nghịch lý thay, đó lại chính là dấu hiệu để nhận biết họ. Lincoln, Napoleon, Teddy Roosevelt, Edison, và cả Shakespeare—tất cả đều đã phải chống chọi với chứng bệnh IC, theo lời một bài báo của Collier năm 1939. “Vậy nên”, tờ tạp chí kết luận, “nếu bạn có một hội chứng Phức Cảm Tự Ti to bự đang phát triển, vậy thì bạn đã thực sự may mắn đến hết mức mà bạn có thể mong đợi rồi đấy, miễn là bạn có đủ chất để chống lưng cho nó”. Nhưng bất chấp giọng điệu lạc quan của bài báo này, các chuyên gia nuôi dạy trẻ nhỏ của thập kỷ 1920 vẫn hạ quyết tâm giúp đỡ trẻ em phát triển một “tính cách để chiến thắng”. Cho đến tận lúc đó, những người làm nghề này chủ yếu vẫn chỉ phải đương đầu với những bé gái phát triển tâm sinh lý quá sớm, hay những bé trai thích tập tành đua đòi làm băng đảng, du côn. Nhưng giờ những nhà tâm lý học, nhân viên công tác xã hội, và bác sĩ chú tâm hơn vào những đứa trẻ bình thường hàng ngày “có tính cách và tâm lý không bình thường”—đặc biệt là những em rụt rè và nhút nhát. Sự nhút nhát có thể dẫn đến những hậu quả đáng sợ, những cuốn sách hướng dẫn này cảnh báo, từ nghiện rượu cho đến tự tử; trong khi một tính cách năng động, xông xáo sẽ đem tới thành công cả về tài chính lẫn tinh thần. Các chuyên gia khuyên các vị phụ huynh hãy bắt trẻ em hòa đồng với tập thể hơn, khuyến khích trường học phải chuyển trọng tâm của mình từ học-trong-sách-vở sang “định hướng và dẫn đường cho sự phát triển tính cách của trẻ nhỏ”. Các nhà giáo dục đã tiếp nhận vai trò này một cách vô cùng nồng nhiệt. Đến năm 1950, câu khẩu hiệu của Hội Nghị Nhà Trắng Nửa Thế Kỷ về Thanh Thiếu Niên đã là: “Một tính cách lành mạnh cho mọi con em của chúng ta”. Những bậc phụ huynh—hoàn toàn có ý tốt—của thập kỷ 1950 đồng ý rằng im lặng là một thứ tính cách hoàn toàn không thể chấp nhận được, và tính hòa đồng tập thể là lý tưởng cho cả nam lẫn nữ. Một số còn ngăn cấm con em tiếp xúc với những thú vui quá nghiêm túc và cô độc, như âm nhạc cổ
  44. điển, e sợ rằng những thứ như vậy có thể khiến con họ trở nên kém nổi tiếng trong mắt bạn bè và những người xung quanh. Họ càng ngày càng gửi con mình đến trường sớm hơn, với mục tiêu chủ yếu là để các em học được cách hòa nhập vào với hoạt động tập thể một cách sớm nhất. Những trẻ em hướng nội thường bị đánh dấu như là những trường hợp có vấn đề (một tình huống cũng tương tự với bất cứ ai có con là người hướng nội ngày nay). Tác phẩm của William Whyte, “Con người của Tổ Chức” (The Organization Man), một trong những sách bán-chạy-nhất của năm 1956, đã miêu tả chi tiết việc các bậc cha mẹ định sửa chữa toàn diện tính cách ít nói của con trẻ như thế nào. “Việc học hành của Jonny ở trường giờ đang không được tốt cho lắm”, Whyte nhớ lại một người mẹ đã kể với ông. “Thầy giáo có giải thích với tôi rằng điểm học tập của thằng bé thì ổn, nhưng vấn đề là sự tương tác xã hội của nó không được tốt như mong đợi. Nó thường chỉ chọn lấy một hay hai người bạn thật thân để chơi cùng mà thôi, và đôi lúc rất thoải mái dù phải ở một mình nữa”. Các bậc cha mẹ hoan nghênh những sự can thiệp kịp thời như vậy, Whyte nói. “Chỉ trừ một vài bậc cha mẹ tính nết kỳ lạ, hầu hết đều rất biết ơn nhà trường đã làm việc hết sức nỗ lực để hạn chế xu hướng hướng nội cũng như bất kể sự phát triển tính cách bất bình thường nào khác”. Những bậc cha mẹ theo đuổi xu hướng này hoàn toàn không hề ác độc, hay thậm chí chậm hiểu ngu ngốc gì. Họ chỉ đơn giản là đang chuẩn bị cho con trước khi chúng phải bước chân vào “thế giới thật”. Khi những đứa trẻ này lớn lên và nộp đơn xin vào học đại học, rồi sau đó nữa là xin việc, các em sẽ phải đối mặt với cùng một hệ tiêu chuẩn hướng ngoại như vậy. Những ủy ban xét tuyển của các trường đại học tìm kiếm không chỉ những ứng cử viên vượt trội nhất, mà còn phải là những người hướng ngoại nhất. Tổng Giám Sự Hành Chính (provost) của đại học Harvard, Paul Buck, đã tuyên bố vào những năm 1940 rằng: Harvard nên khước từ tất cả những người “dễ nhạy cảm, dễ hoảng loạn”, và cả những người “quá học thuật”; để ưu tiên cho những người có một tính cách “hướng ngoại lành mạnh”. Vào năm 1950, hiệu trưởng trường đại học Yale, Alfred Whitney Griswold, tuyên bố rằng một Yalie (sinh viên trường Yale) lý tưởng không phải là một kẻ “mặt lầm mày lì, chỉ biết chú tâm vào học thuật chuyên ngành, mà phải là một con người phát-triển-toàn-diện”. Một chủ nhiệm khoa khác thì nói với Whyte rằng “khi chọn lọc hồ sơ từ những trường cấp III, ông thấy hoàn toàn hợp lý khi luôn cân nhắc đến không chỉ những điều mà trường đại học muốn, mà cả những điều mà bốn năm sau này, các chủ doanh nghiệp sẽ muốn ở các cử nhân mới tốt nghiệp. “Họ thích những người hướng ngoại, chủ động”, ông nói. “Vậy nên với chúng tôi, ứng cử viên hoàn hảo nhất là những người đạt