Bài giảng môn học An toàn mỏ hầm lò

pdf 79 trang vanle 1770
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn học An toàn mỏ hầm lò", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_hoc_an_toan_mo_ham_lo.pdf

Nội dung text: Bài giảng môn học An toàn mỏ hầm lò

  1. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP & XÂY DỰNG  BÀI GIẢNG MÔN HỌC AN TOÀN MỎ HẦM LÒ Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp (Lưu hành nội bộ) Người biên soạn: Phạm Ngọc Lợi Uông Bí, năm 2010
  2. LỜI NÓI ĐẦU Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, bảo vệ môi trường và an toàn lao động trở thành vấn đề bức xúc, cấp bách và là một nhiệm vụ hết sức quan trọng ở Việt Nam cũng như ở các nước khác trên thế giới. Đặc biệt vấn đề An toàn lao động là vấn đề nổi cộm trong mỗi quốc gia và mỗi ngành công nghiệp. Chính vì lý do đó kỹ thuật An toàn lao động là môn học không thể thiếu trong các ngành học về kỹ thuật nhất là ngành khai thác mỏ. Bài giảng “ Kỹ thuật An toàn mỏ” nhằm giúp Sinh viên nhận thức đầy đủ về mối lien hệ giữa môi trường và con người, sinh vật và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội đất nước. Đồng thời giúp cho Sinh viên nhận thức đúng hơn về An toàn lao động và liệt kê được các thành phần cơ bản của không khí và không khí mỏ. Đưa ra được các đặc trưng cơ bản của tính chất cháy nổ của khí Mê tan, mục đích, vai trò, ý nghĩa của công tác an toàn và bảo hộ lao động và các quy định an toàn khi đi lại, làm việc trong mỏ Hầm lò: Quy định an toàn khi vận chuyển người, thiết bị ra vào lò, quy định vận hành một số thiết bị mỏ chuyên dùng, quy định an toàn khi nổ mìn, khi đào chống lò Từ nhận thức đó hướng cho Sinh viên thấy được sự cần thiết nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường và các biện pháp phòng chống các tai nạn xảy ra trong quá trình sản xuất công nghiệp. Trong quá trình viết bài giảng, tác giả đã cố gắng rất nhiều nhưng bài giảng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để bài giảng ngày càng hoàn chỉnh hơn. Tác giả 1
  3. Phần 1: MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ MỎ Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG 1.1 Quan hệ giữa phát triển và môi trường Môi trường là tổng hợp của các điều kiện sống của con người. Phát triển là quá trình cải tạo và cải thiện các điều kiện đó. Giữa môi trừng và phát triển dĩ nhiên có mối quan hệ rất chặt chẽ. Môi trường là địa bàn và đối tượng của phát triển . Trong phạm vi của một quốc gia, cung như xét trên toàn thế giới luôn luôn song song tồn tại hai hệ thống: Hệ thống kinh tế xã hội và hệ thống kinh tế của môi trường. Hệ thống kinh tế xã hội cầu thành bới của các thành phần sản xuất, lưu thông và phân phối , tiêu dùng và tích lũy, tạo lên một dòng của nguyên liệu, năng lượng, hàng hóa, phế thải lưu thông của các phân tử cấu thành hệ thống môi trường và các thành phần môI trường thiên nhiên và môi trường của xã hội. Khu vực giao lưu giữa 2 hệ thống tạo thành “ môi trường nhân tạo “ có thể xem như kết quả tích lũi của một hoạt động tích cực hoặc tiêu cực của con người trong quá trình phát triển trên địa bàn của môI trường. Môi trường của thiên nhiên cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho kinh tế , đồng thời tiếp nhân chất thải từ hệ kinh tế. Chất thải này cí thể trỏ lại hẳn trong môi trường của thiên nhiên hoặc qua trế biến hoặc trở về hệ kinh tế. Một hoạt động sản xuất mà phế thảI khổng thể sử dụng trở lại được vào hệ kinh tế được xem như là hoạt động gây tổn hại đến môi trường. Lãng phí tài nguyên không tải tạo được sử dụng tài nguyên tái tạo được một cách quá mức khiến cho nó không thể phục hồi được, hoặc phục khồi được sau một thời gian quá dài, đưa ra những chất động hại với con người và môi trường sống của nó như hoạt động tồn hại đến môi trường. Những hành động gây nên những tác động như vậy là hành động tiêu cực về môi trường mà ĐTM có nhiệm vụ đánh giá mức độ nghiêm trọng và để xuất hiện biện pháp khắc phục hoặc đỉnh chỉ. Các hoạt động phát triển luôn luôn có hại mặt lợi và hại. Bản thân thiên nhiên cũng có hai mặt. Thiên nhiên là nguồn tài nguyên và phúc lợi đối với con người , nhưng đồng thời cũng là nguồn thiên tai thảm họa đối với đời sống sản xuất của con người. Khoa học kinh tế cổ điển không giải quyết thành công mối quan hệ phức tạp giữa phát triển và môi trường . Từ đó nảy sinh các lý thuyết không tưởng về “ đình trí phát triển “ ( Zero or Negative Growth ) , cụ thể là đo tốc độ phát triển bằng bằng không hoặc âm để bảo vệ được nguồn tài nguyên vật lý vốn hữu hạn của trái đất . Đối với tài nguyên sinh sinh học cũng có “chủ nghĩa bảo vệ” chủ chương không can thiệp và động trạm vào thiên nhiên, nhất là tại các địa bàn chua được điều tra và nghiên cứu đầy đủ. Chủ nghĩa bảo tồn “ Conservationism” cũng là một điều không tưởng nhất là trong điều kiện các nước đang phát triển mà tài nguyên thiên nhiên là nguồn vốn cơ bản cho mọi hoạt động của con người. Một phần đáng kể của nguồn nguyên liệu và năng lượng được tiêu thụ một cách quá mức tại các nước đang phát triển vốn được khai thác tại các nước đang phát triển. Bên canh hiện tượng “ ô nhiễm do giàu có “ ( Pollution of Affuence) xẩy ra tại các nước công nghiệp hóa phát triển, trong những thập kỷ 2
  4. ngần đây tại hầu hết các nước đang phát triển, thu nhập thấp đã xuất hiện tượng “ ô nhiễm do nghèo đói “( Pollution of Affuence), mà một phần nguồn góc là do loại ô nhiễm đã nói trước. thiếu lương thực , nước uống, nhà ở, thuốc men, vệ sinh, nghèo đói, mù chữ, bất lực trước thiên tai là nguồn gốc cơ bản của những vấn đề của môi trường nghiêm trong đang đặt ra cho nhân dân các nước đang phát triển . Hội nghị của LHQ về môi trường sống của con người họp năm 1972 ở thụy sỹ đã đi đến kết luận rằng nguyên nhân của nhiều vấn đề quan trọng về môi trường không phải là do phát triển mà chính là hậu quả của sự kém phát triển. Tư tưởng đó đã được liên hơpự quốc thể hiện trong chiến lược phát triển 10 năm lần thứ 3. Chiến lược đã được đề cập tới mối quan hệ giữa phát triển với môi trường, dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đất, bảo vệ rừng, vệ sinh của các khu” ổ chuột “ trong thành phố. Những tư tưởng về “ tiếp cận tổng hợp về môi trường và phát triển “ phát triển một cách có thể và phù hợp với môi trường “ Đã được nêu ra một cách rõ ràng “. Điều đó đã trở nên hiển nhiên đối với tất cả các nước, nhất là những nước đang phát triển, về mục tiêu của mục phát triển kinh tế và xã hội và bảo vệ môi trường phải được gắn bó với nhau trong xây dựng được mục tiêu kế hoạch hóa cũng như điều hành và quản lý những mục tiêu đó. Hội nghị thượng đinnhs toàn cầu về môi trường và phát triển bền vững với LHQ tổ chức năm 1992 tại Riode janeiro, với những quyết định về chương trình hành động của toàn cầu tới thế kỷ 21, với các công ước bảo vệ đa dạng sinh học, biến đổi của khí hậu tráI đất là mốc lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh và bảo vệ môi trường của nhân dân của toàn thế giới . 1.2 Quan hệ giữa phát triển và môi trường Theo Zacques Vallin vào năm 10.000 trước công nguyên, dân số trên trái đất chỉ mới 5 triệu người, đến giữa thiên nhiên kỷ thứ 4 trước công nguyên con số đó là 150 triệu. Đến đầu nguyên đại chúng ta , dân số trái đất chưa đầy 250 triệu. Để tăng gấp đôi con số đó đã phảI trảI qua 16 thế kỷ. Vượt qua con số 700 triệu vào năm 1750 và đạt 1tỷ vào năm 1829 . Chỉ 100 năm sau , con số đó đãn vượt trên 2 tỷ. Để đạt tới con số 3tỷ chỉ mất có 32 năm. Tháng 3.1976 là 4 tỷ người, tháng 7.1987 là 5 tỷ và tới nay (1999) là xấp xỉ 6 tỷ người. Một sự gia tăng dân số đến chóng mặt mà các nhà dân số gọi là “ cuộc bùng nổ của dân số”. Sự gia tăng của dân số đòi hỏi, một mặt phải có thêm diện tích để xây dựng các công trình nhà cửa dân dụng và công nghiệp, mặt khác phải có thêm diện tích để làm vườn hoa, công việc cho mọi người nghỉ ngơi, đặc biệt là phải tăng thêm diện tích cho trồng trọt. Những đòi hỏi đó sẽ làm cho trái đất ngày càng quá tải và dẫn đến sự phá vỡ cân bằng không khí đối với môi trường mà đối với ngay cả ban thân nó – sự phát triển của xã hội. Giữa dân số, môi trường và sự phát triển có mối quan hệ tương tác hai chiều có thể biểu đạt đơn giản theo sơ đồ sau: Điều kiện để sự gia tăng dân số một cách hợp lý là điều khiển để cải thiện môi trường, không gây ra sự cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên, tạo điều kiện để kinh tế – xã hội phát triển, cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Ngược lại tốc độ tăng dân số không hợp lý sẽ trở thành một nhân tố rất quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ làm ô nhiễm môi trường, can kiệt tài nguyên thiên 3
  5. nhiên, kìm hãm sự phát triển, gây ra đói nghèo. Đói nghèo là hậu quả của sự gia tăng dân số không hợp lý và sự gia tăng dân số cũng góp phần làm suy giảm, cạn kiệt tài nguyên để rồi dẫn đến đói nghèo bênh tât. Tình trạng đói nghèo hiện nay trên thé giới đang phát triển, nhất là ở khu vực các nước đang phát triển mà ở đó vẫn tồn tại tình trạng gia tăng dân số quá nhanh. Bởi vậy, biện pháp kiểm soát dân số là cách tốt nhất để bảo vệ môi trường tài nguyên thiên nhiên, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng của cuộc sống. Phân loại các nước giàu – nghèo trên thế giới ( 1994 ). Thu nhập bình quân đầu người , USD/ Quốc gia năm Cực giàu : ≥25.000 Thụy sĩ , nhật . Giàu : 20.000  25.000 Mỹ, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Canađa, Nauy . Khá giả : 10.000  20.000 Pháp, Aó, Hà Lan, Anh, Tây Ban Nha, Singapo, Ixaren . Trung lưu : 2.500  10.000 Irland, Hy Lạp, Han Quốc, Arập xêut , Nam Phi, Séc, Slovaki, Nga . Nghèo : 500  2500 Mêhicô, Iran , Irac, Bungari, Aicập , Achentina, Ruumani, Albani, Thổ Nhĩ Kỳ, Philipin . Cực nghèo : < 500 Ân Độ, Trung Quốc, Banglađet, Zaia, Kênia, Nêgiêria, Uganđa , Môdămbích, Êtopia , việt nam Nếu không kiểm soát được dân số, trên trái đất sẽ có khoảng 23 tỷ người vào năm 2160 , gấp đôi so với mực phát triển dân số thế giới bình quân 1% hàng năm. Theo tổ chức Lao Động Quốc Tế, để nằm 2000 thế giới sẽ có 1tỷ người nghèo và đến năm 2025 sẽ là 1,2 tỷ người. Nước ta được xếp vào một trong 20 nước có mức sống thấp nhất thế giới ( bảng 1.1). Hậu quả của sự tăng nhanh dân số có ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế – Xã hội mà loại người phải gánh chịu là : a) Đói nghèo : Ở những thế kỷ trước sự sản xuất nông nghiệp còn thấy, trên 50% nhân loại phải sống trong tình trạng đói ăn . Những năm 70, trên trái đất có 2 triệu người chết đói. Trong thập kỷ 80 dân số thế giới tăng nhanh, con số người chết đói lên tới 18 triệu người. Tổ chức nông Nghiệp thế giới ( FAO) cho biết vào năm 1996 trên thế giới có tới 800 triệu người chết đói và suy dinh dưỡng trầm trọng. Người ta ước tính, từ năm 1970- 1988 sản lượng lương thực thế giới đã tăng lên là 1,25 lần, nhưng dân số thế giới lại tăng 1,41 lần, bởi vậy bình quân lương thực đầu người giảm suống là 296 kg. b) Thất nghiệp: 4
  6. Vấn đề thiếu việc làm vẫn thường xuyên xẩy ra ở các nước đang phát triển và ngay ở các nước giàu có. Sự gia tăng dân số ở nhiều nước làm cho nạn thất nghiệp ngày càng thêm trầm trọng. Trên thế giới hiện nay hàng năm có khoảng 60 triệu người bước vào tuổi lao động , nhưng số đông không kiểm được việc làm. Ơ châu Á, phi và mỹ La Tinh tới 30% số người trong độ tuổi lao động không có việc làm. Toàn thế giới hiện có hơn 1tỷ người thất nghiệp. Trong nông nghiệp, tỷ lệ dư thừa lao động do không có việc làm trên toàn cầu là 45 -50%, trong đó có nước lên tới 70% . c) Thất học: Hiện nay có khoảng 10% dân số thế giới mù chữ, mà chủ yếu ở các nước đang phát triển. Số người mù chữ năm 1990 là 742 triệu và sẽ tăng lên 889 triệu vào năm 2000 . Theo tổ chức UNESCO, vào năm 1986 ở châu A có 618 triệu người mù chữ , đến năm 2000 con số đó là 645 triệu, vì không đủ ngân sách để xây dựng lớp học và đào tạo giáo viên. d) Thiếu nước: Nhu cầu tiêu thụ nước toàn cầu hàng năm tăng 2-3% nhưng nguồn cung cấp nước thì không đổi. Mặt khác, chất lượng nước ngày càng bị giảm do các nguồn ô nhiễm gây ra bởi con người. Trong vòng 30 năm tới nguồn tài nguyên nước bước vào thời kỳ khan hiếm. Trong thông điệp của UNEP ( Chương trình môi trường của LHQ ), nhân ngày thế giới về nước 22-3 1996 đã nhấn mạnh: “ Khoảng 1/3 dân số thế giới bị thiếu nước thường xuyên trong vòng 30 năm tới, mà nguyên nhân thiếu nước là do dân số tăng nhanh. Các quốc gia thiếu nước là 22 nước đang phát triển có số đông ở vùng Trung Cận Đông, Bắc Phi, Cận Sahara, MêhiCô, Ân Độ , Trung Quốc Theo LHQ, tại các nước đang phát triển , đã có hơn 1,2 tỷ người không có nước sạch để uống và 1,7 tỷ người không có tiện nghi vầ vệ sinh thích đáng và sự thiếu nước là nguyên nhân của 80% bệnh tật ở các nước trên thế giới và giết hại hành chục triệu người mỗi năm. Hàng năm có tới 1 tỷ trường hợp ỉa chảy và làm cho 18 triệu người bị chết trong đó có 6 triệu trẻ em , hơn 200 triệu trường hợp bị giun sán. Nhưng bệnh tật do nguồn nước bẩn gây ra như dịch tả kiết lỵ, sốt rét hàng năm cũng lên tới 5 triệu người. Năm 1994 người ta thấy rằng bệnh sốt rét đã có mặt ở 100 quốc gia và gây bệnh cho 270 triệu người. Bệnh chân voi gây ra bởi giun chỉ và sán máng, thông qua nước bị ôi nhiễm, gây bệnh cho 200 triệu người, nhiều nhất là ở Châu Phi. Các nhà khoa học trong các cuộc khảo sát đã nhận ra mối liên hệ giữa sự nghèo đói và việc phát sinh bệnh tật lan tràn ở các quốc gia có dân số khá đông. Sự da tăng dân số nhanh không chỉ tác động trực tiếp vào bản thân con người mà còn làm cho tài nguyên thiên nhiên mau cạn kiệt, diện tích cây rừng bị thu hẹp ( phá rừng để lấy củi và làm than, làm lương rẫy ), dẫn đến làm suy giảm nhanh các loại động thực vật. Đa dạng sinh học là tổng thể các gen và các hệ sinh thái trên trái đất. Các loại động vật và thực vật qua hàng trăm triệu năm đã làm cho hành tinh chúng 5
  7. ta có sự sống như đã thấy ngày nay. Hoạt động của con người đã thúc đẩy sự suy thoái của các loài và làm thay đổi điều kiện tiên hóa. Đây là vấn đề đang phải hết sức quan tâm , bởi vì các hệ sinh thái động vật và thực vật góp phần duy trì sự cân băngd sinh hóa trên trái đất và làm ổn định khí hậu, cung cấp cho loài người toàn bộ thức ăn và phần lớn nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp, dược học và công nghiệp. Sự gia tăngn dân số cũng góp phần thúc đẩy qua trình suy thoái đất đai, nước và không khí bởi hàng trăm triệu tấn rác thải sinh hoạt, chất độc khí độc, hàng năm do hoạt động của con người tạo ra. Những tác động mạnh mẽ tới môi trường do sự gia tăng dân số đã buộc loài người phảI tự kiểm soát mình. Cuối năm 1970,30 nước đại diện cho 70% dân số trên thế giới đã nhận trí một chinnhs sách và cfhương trình của dân số. Sau đó LHQ đã tổ chức hội nghị Quốc tế về dân số tại Bucaret ( Hungari ) từ ngày 19 đến 31 tháng 8 năm 1974 và thông qua một kế hoạch hành động quốc tế về dân số . Từ đó các nước trên thế giới lấy năm 1974 làm “ Năm dân số thế giới “ . Sau đó Hội Nghị Quốc Tế về dân số lần thứ 2 tổ chức tại Amsterdam ( Ha Lan ) từ ngày 6 đến ngày 9-11-1981 đã quyết định lấy ngày 11-7 hàng năm làm “Ngày dân số thế giới “ 6
  8. Ch­¬ng 2: MÔI TRƯỜNG MỎ HẦM LÒ 2.1 Không khí mỏ hầm lò 2.1.1 Khái niệm và đặc điểm không khí mỏ Không khí mỏ là một hỗn hợp các chất khí và hơi nước chứa đầy trong các đường lò và hầu như bao giờ cũng chứa một lượng bụi nhất định. Không khí mỏ chính là khí trời, khi đi từ mặt đất vào trong các đường lò, nó sẽ bị thay đổi hàng loạt tính chất lý hoá. Nghĩa là thành phần hoá học và những đặc tính vật lý thay đổi. Không khí trên mặt đất là một hỗn hợp với nhau theo một tỷ lệ nhất định. Thành phần trung bình của các chất khí ngoài trời (ở mực nước biển) thay đổi: Các chất khí (% theo thể tích): - Nitơ 78,08 - ôxi 20,95 - Cacbonic 0,03 - Argon 0,93 - Hêli, nêon, krripton, hiđro 0,01 Khi không khí vào trong đường lò, nó sẽ bị thay đổi, nói chung hàm lượng ôxi giảm đi còn CO2, N2 tăng lên, cũng như xuất hiện một số các chất khí mới và hàm lượng bụi cũng tăng lên. Khí độc: NO, NO2, N2O3, N2O4, N2O5, NH3, SO2, CO, H2S. Khí nổ: CO, H2S, CH4, CnHn, H2. Khí phóng xạ: Rn; Thr. Các luồng không khí trong mỏ được phân thành hai loại sau: - Luồng không khí sạch: khi thành phần không khí giống như thành phần không khí ngoài trời. - Luồng không khí bẩn: Khi thành phần của nó khác với thành phần khí trời. Luồng không khí bẩn có thể là: + Luồng không khí có hại: khi mà hàm lượng CO2 và N2 tăng lên, hàm lượng O2 giảm đi. + Luồng khí độc: Khi hàm lượng CO, H2S, SO2, tăng lên. + Luồng khí nổ: Khi chứa các khí nổ khác nhau. + Luồng không khí chứa bụi Những yếu tố làm bẩn không khí mỏ: - Hàm lượng khí của khoáng sản và đất đá. - Lưu lượng không khí chuyển dịch trong đường lò. - Chiều dài đường lò. - Mức độ hấp thụ ôxi, hoặc ôxi hoá khoáng sản có ích. - Loại quy trình sản xuất. 2.1.2 Thành phần chủ yếu của không khí mỏ 7
  9. a. Khí ôxi O2: - Là một chất khí không mầu, không vị, không mùi. Trọng lượng so với không khí 1,11. Trọng lượng phân tử 32. Khối lượng 1 lít ôxi nặng 1,44 gam. ôxi hoà tan trong nước kém (5% theo thể tích khi nhiệt độ 0oC). - ôxi là một nguyên tố rất hoạt động, cụ thể là có khả năng kết hợp trực tiếp hoặc gián tiếp với tất cả các nguyên tố khác. Trừ các chất khí hiếm tạo nên hiện tượng ôxi hoá như: + ôxi hoá từ từ (sự thở, ôxi hoá than ở nhiệt độ thấp). + Cháy (sự cháy của than, lưu huỳnh trong ôxi). + Nổ (những phản ứng ôxi hoá mạnh đến mức có thể tạo ra sự nổ). - ôxi là một nguyên tố quan trọng để duy trì sự sống cơ thể con người. Ví dụ: nếu con người không ăn có thể sống 30-40 ngày. Thiếu nước, sống 10-12 ngày. Thiếu ôxi chỉ sống 10-15'. Tổng bề mặt đường hô hấp tiếp xúc đạt 100m2. Cơ thể con người hấp thụ ôxi trong điều kiện thuận lợi, khi áp suất thành phần ôxi trong hỗn hợp khí là 211milibar (1bar = 103milibar = 750,06mmHg). Với áp suất của khí quyển là 1,01bar (hay 1at) thì hàm lượng ôxi tương ứng sẽ là 20,96%. Thế nhưng cơ thể con người có khả năng thích nghi với những điều kiện khó khăn. Vì vậy cơ thể có thể thở ngay cả khi áp suất riêng phần của ôxi là 86-120milibar. - Sự ảnh hưởng sinh lý của con người khi hàm lượng ôxi trong không khí thay đổi (bảng I.1): Bảng I.1 - ảnh hưởng của hàm lượng ôxi trong không khí đến sinh lý người ôxi ảnh hưởng sinh lý Hàm lượng % áp suất riêng (milibar) 21-18 211-182 Nhịp thở bình thường 18-12 173-121 Tăng cường độ thở, nhịp độ hổn hển 14-9 141-91 Cường độ thở và nhịp độ tăng dần trông thấy, thở hổn hển, thở dốc 10-6 101-60 Thở rất mạnh và nhanh 5-3 50-30 Chết ngay - Những nguyên nhân làm giảm hàm lượng ôxi trong không khí mỏ: + Quá trình ôxi hoá từ từ của than, gỗ, các chất hữu cơ và vô cơ do cháy mỏ, nổ khí, bụi. + Sự xuất khí tự nhiên của mê tan, cácbonic, đôi khi của nitơ, + Sự cháy của đèn. + Sự thở của con người + Sự hoà tan ôxi trong nước mỏ Hàm lượng ôxi nhỏ nhất cho phép ở một số nước Bảng I.2 - Hàm lượng ôxi nhỏ nhất cho phép ở một số nước 8
  10. Hàm lượng ôxi 19 19,5 20 Tên nước BaLan Mỹ Việt Nam Tiệp Liên Xô Anh BunGaRi Pháp Mêhicô Rumani b. Khí Nitơ N2 - Là một chất khí không mầu, không mùi, không vị - Là thành phần chủ yếu tạo nên không khí. Trọng lượng riêng 0,97. Trọng lượng phân tử 28. Khi ở 0oC và áp suất 760mmHg, 1 lít Nitơ nặng 1,25gam. 100 thể tích nước có thể hoà tan 1,54 thể tích Nitơ. Trong các đường lò hoạt động, hàm lượng của nitơ thay đổi không đáng kể. Trong đường lò không được thông gió, nó có thể đạt đến vài chục phần trăm. - Nitơ là một chất khí rất trơ về mặt hoá học và sinh lý học, không duy trì sự thở và sự cháy, đồng thời có tác dụng làm giảm tính nổ của khí mêtan. Ví dụ: hỗn hợp khí có 10% CH4 và 90% N2 thì không nổ. - Nguyên nhân chính tăng hàm lượng nitơ ở trong mỏ: + Sự phân huỷ các chất hữu cơ và vô cơ. + Khi nổ mìn. Ví dụ: Khi nổ hoàn toàn 1 kg thuốc nổ Đinamit sẽ sản sinh ra 640 lít khí, trong đó có 130 lít N2 . Hàm lượng nitơ trong không khí mỏ không được quy định. c. Khí Cacbonic CO2 Là một chất khí không mầu, không mùi, vị hơi chua, có tính axit yếu. Trọng lượng riêng so với không khí 1,52. Trọng lượng phân tử 44. Khối lượng 1 lít CO2 ở điều kiện tiêu chuẩn nặng 1,98 gam. Nó hoà tan nhiều trong nước (10 o thể tích hơi nước hoà tan 88 thể tích CO2 khi nhiệt độ là 20 C). Khí CO2 không cháy và không duy trì sự cháy, độc ở mức độ thấp có tác dụng kích thích đến màng niêm mạc của mắt, mũi, mồm. ảnh hưởng của khí CO2 đến cơ thể con người (bảng I.3) Bảng I.3 - ảnh hưởng của khí CO2 đến cơ thể người CO2 % Tác dụng sinh lý 0,5 Mức độ thở tăng lên một ít 2,0 Mức độ thở tăng đến 50% 3 Khó thở ngay cả lúc nghỉ ngơi 5 Thở khó khăn hơn và yếu dần 10 Chỉ chịu đựng được trong một vài phút 20 - 25 Con người bị ngộ độc Những nguyên nhân làm tăng CO2 ở trong không khí mỏ: - Quá trình phân huỷ các chất hữu cơ và vô cơ (sự ôxi hoá từ từ của than, sự phân huỷ khí cacbonic). - Những quá trình cháy và nổ (cháy mỏ, nổ mìn, nổ khí và nổ bụi). 9
  11. - Sự thở của con người (một người sản ra 50 lit CO2/giờ). - Sự xuất khí CO2 từ trong khoáng sản. Ví dụ: Hơn một nửa các vỉa than ở vùng ngoại ô Matxơcơva có lưu lượng 3 tuyệt đối CO2 thoát ra hơn 8000 m /ng. Các vỉa dốc ở vùng Kyzheu và Boheu: 200 000 m3/ng. Một số nước như: mỏ than của Pháp, mỏ muối của Tiệp, Tây Đúc, Pháp có sự phụt khí bất ngờ về CO2. Theo quy định an toàn, hàm lượng CO2 trong không khí mỏ không được vượt quá giá trị sau: - Tại vị trí làm việc, luồng gió thải của khu vực < 0,5%. Luồng gió thải của cánh tầng toàn mỏ < 0,75%. Khi đào lò thượng vào khu vực sụp lở < 1%. 2.1.3. Các chất khí độc và nổ trong mỏ a. Khí ôxit cacbon CO Là một chất khí không màu, không mùi, không vị. Trọng lượng riêng so với không khí 0,97. Trọng lượng phân tử 28. ở điều kiện tiêu chuẩn, 1 lit CO nặng 1,25 gam. Hoà tan trong nước khi nhiệt độ 20oC là 3%. CO là chất khí cháy và nổ trong hỗn hợp không khí khi hàm lượng đạt 16,2% đến 73,4 %. Nhiệt độ đốt cháy 630- 810oC. CO là một chất khí rất độc, tác dụng lên cơ thể biểu hiện ở việc hoá hợp với hêgolôbin trong máu (Hb), ngăn cản việc hoạt động sinh lý của máu trong việc vận chuyển ôxi từ phổi đến nuôi cơ thể. Mặt khác thực tế thấy rằng Hb của máu hoá hợp vô cùng dễ dàng với CO so với ôxi gấp 300 lần. Vì vậy khi hít thở không khí có CO thì máu đáng lẽ đồng hoá O2 nhưng lại thay bằng CO, khi đó chính ra máu lưu thông ôxit hêmôlôbin (Hb +O2 = HbO2) thì lại thay bằng các ôxit hêmôlôbin (HbCO): Hb + CO = HbCO. Tình trạng đói ôxi bắt đầu, khi cơ thể hít thở phải CO và khi máu hoàn toàn bão hoà CO thì con người có thể chết: Hb O2 + CO = HbCO + O2 Nghĩa là ôxit cacbon đẩy ôxi ra khỏi ôxit hêmôglôbin và ngược lại ôxi thì có thể đẩy ôxit cacbon ra khỏi cacbôxit hêmoglôbin. Nguyên nhân sinh ra ôxit cacbon: - Cháy mỏ, nổ khí, nổ bụi, nổ mìn. - Thỉnh thoảng xuất ra từ khoáng sản và đất đá bao quanh cùng với CH4, CO2, N2. Ảnh hưởng của CO đến cơ thể (bảng I.4): Bảng I.4 - ảnh hưởng của CO đến cơ thể người CO % Khi nghỉ ngơi Khi lao động nặng 0,5.10 -4 Không thấy Không cảm thấy ngay cả khi làm việc liên tục 1.10-3 Không thấy Hơi đau đầu sau 2-3 giờ 2.10-3 Đau đầu sau 3-4 Đau đầu khó thở, đe doạ sau 2 giờ giờ 10
  12. Theo quy định an toàn, giới hạn cho phép hàm lượng ôxitcacbon là CO = 0,0017%. b. Các ôxit Nitơ Ban gồm các chất khí: NO (ôxitnitơ), NO2 (điôxitNitơ), N2O4 (Tetraôxit Nitơ), N2O5 (peaxitnitơ). Chủ yếu trong không khí mỏ là NO2, N2O4. NO2 - Trọng lượng riêng 1,59 so với không khí. Nó hoà tan tốt trong nước tạo nên axit; mầu NO2 nâu tối. 2NO2 + H2O = HNO2 + HNO3 N2O4 - Trọng lượng 3,18. Hoà tan tốt trong nước. Các ôxitnitơ rất độc, chúng kích thích màng niêm mạc của mắt và các cơ quan hô hấp. Đặc biệt khi hàm lượng đạt 0,025% (0,5 mg/l) con người dễ dàng bị chết. Khi hít thở sâu không khí có chứa ôxitnitơ thì có thể gây phù phổi, trường hợp này xảy ra nhất là ở mỏ quặng. Tác dụng đặc biệt của ôxitnitơ ở trong phổi là tác dụng bệnh lý của nó, chỉ biểu lộ trong một khoảng thời gian nhất định (4-6 giờ hoặc đôi khi 20 giờ) kể từ khi tiếp xúc. ảnh hưởng của ôxitnitơ đến con người (bảng I.5) Bảng I.5- ảnh hưởng của ôxitnitơ đến con người Hàm lượng % Mức độ nhiễm độc 6.10-5 Gây khó chịu ở cổ 1.10-4 Gây ho nhanh chóng (1-1,5).10-4 Nguy hiểm đến tính mạng sau thời gian ngắn (2-7).10-4 Nguy hiểm sau thời gian rất ngắn Hàm lượng cho phép trong các đường lò đang hoạt động chuyển sang NO2 là 0,00026%. c. Suynphuarơ SO2: - Là một khí không màu, có mùi lưu huỳnh cháy, vị chua. Trọng lượng riêng 2,3. Trọng lượng phân tử 64. Hoà tan trong nước khi nhiệt độ 20oC là 40%. - Là một chất khí rất độc, ăn mòn mạnh màng niêm mạc của mắt và của hệ thống hô hấp. Khi hàm lượng của nó là 0,05% cũng nguy hiểm đến con người, thậm chí nếu khi hít thở trong thời gian ngắn. Khi SO2 = 0,005% gây tác hại mạnh với việc tạo thành H2SO3 hoặc H2SO4. Nhờ có mùi đặc biệt nên ta có thể phát hiện được SO2 ngay cả khi hàm lượng 0,0005%. - Hàm lượng cho phép SO2 = 0,00038. Những nguồn gốc tạo thành SO2 trong không khí mỏ là do cháy mỏ, sau khi nổ mìn, nhất là khi nổ trong đá và khi khoáng sản có chứa lưu huỳnh xuất ra từ đất đá cùng với CH4, d. Suynfua Hyđrô H2S - Là một chất khí không màu, mùi đặc biệt (trứng thối) và vị hơi ngọt. Nhờ có mùi đặc biệt ta dễ dàng phát hiện ngay ở hàm lượng thấp 0,0001%. Trọng lượng riêng 1,19. Trọng lượng phân tử 34. Hoà tan trong nước khi 20oC là 2,5%. 11
  13. - Là một chất khí cháy nổ khi hàm lượng trong không khí đạt đến 6%. - Là một chất khí rất độc tác dụng lên niêm mạc của mắt và hệ thống hô hấp. - Các nguồn thành tạo H2S: + Sự mục nát của các chất hữu cơ (gỗ ở lò cũ) + Sự phân huỷ pêrit và Suynfua canxi: FeS2 + 2H2O = Fe(OH)2 + H2S + S CaS + CO2 +H2O = CaCO3 + H2S + Sự xuất khí tổng hợp từ các kẽ nứt và khoảng trống của đất đá và khoáng sản có ích, đặc biệt ở mỏ muối, dầu, đá dầu ở các suối nước khoáng. + Do cháy mỏ, nổ mìn (dây cháy chậm) ảnh hưởng của H2S đến con người (bảng I.6) Bảng I.6 - ảnh hưởng của H2S đến con người Hàm lượng Tác hại đến cơ thể % mg/l 0,01 0,14 Ngộ độc nhẹ trong một vài giờ 0,02 0,28 Ngộ độc chưa nghiêm trọng 0,05 0,70 Ngộ độc nguy hiểm 0,5-1 giờ 0,1 1,40 Chết ngay trong vài phút - Hàm lượng cho phép H2S = 0,00017%. e. Amôniăc NH3: Là loại khí không màu, có mùi khai. Trọng lượng riêng 0,59. Trọng lượng phân tử 17. Dễ hoà tan trong nước. Trong không khí khi hàm lượng của nó đạt 16 - 26% gây nổ. Là một chất khí độc kích thích màng niêm mạc và da - Nguồn gốc tạo thành NH3: + Do nổ mìn + Do dập cháy (phản ứng giữa nước và than nóng) - Hàm lượng cho phép NH3: 0,002%. f. Mêtan CH4 * Tính chất lý học. Mêtan là một khí đơn giản nhất trong số các khí thuộc cácbua-hiđrô no. Mêtan sạch là một khí không màu, không mùi và không vị. Nhưng do sự có mặt của các hiđrô-cácbua thơm và dấu vết của sun-fua hiđrô trong bầu không khí mỏ, nên đôi khi mêtan có mùi đặc biệt tương tự như mùi táo chín. Mêtan không độc, nhưng khi hàm lượng của nó trong không khí mỏ tăng lên sẽ làm cho hàm lượng ôxy giảm đi và gây nguy hiểm về nổ. Trọng lượng riêng của mêtan là 0,554g/cm3, trọng lượng phân tử là 16,03, còn ở điều kiện áp suất bình thường (1at), một m3 mêtan nặng 0,716kg. Vì là một chất khí nhẹ, nên trong mỏ mêtan thường tập trung ở trần lò. Nó là một chất khí rất linh động và dễ dàng khuyếch tán hơn không khí 1,6 lần. Mêtan ít hoà tan trong nước (dưới 1% theo thể tích), bị nén và dẫn nhiệt kém. Khi áp suất bình thường, mêtan hoá ở nhiệt độ - 161,60C và đông đặc ở nhiệt độ - 182,50C. Mêtan cháy với ngọn lửa ít sáng và toả ra một nhiệt lượng là 12
  14. 13.300kcal/kg. Nhiệt độ bình thường làm cháy mêtan là 650-7500C, nhưng nó có thể tăng hoặc giảm tuỳ theo điều kiện xung quanh. Mêtan xuất ra trong mỏ không phải là một chất khí sạch mà cùng với mỏ, ở phần lớn các trường hợp, còn kèm theo các loại hiđrô-cácbua khác (êtan C2H6, prôpan C3H8, butan C4H4 v.v ), cũng như một số khí khác (cácboníc, nitơ, sunfua hiđrô, oxyt lưu huỳnh và đôi khi cả hiđrô). Sự có mặt của các khí này làm tăng mức nguy hiểm về nổ. * Tính chất hoá học. Khi hỗn hợp với không khí, mêtan sẽ tạo nên một hỗn hợp cháy và nổ. Quá trình cháy của mêtan khi đủ ôxy được biểu diễn bởi phương trình sau: CH4 + 2O2 = CO2 + 2H2O. Hoặc: CH4 + 2(O2 +4N2 ) = CO2 +2H2O +8N2 Từ hai phương trình trên ta nhận thấy mêtan cháy và nổ mạnh nhất khi kết hợp với 2 thể tích ôxy hoặc 10 thể tích khí. Khi không đủ ôxy, mêtan cháy và phương trình cháy: CH4 +O2 = CO + H2 + H2O Mêtan có thể tham gia các phản ứng thế halôgen như sau: CH4 + Cl2 = CH3.Cl +HCl CH3CL + Cl2 = CH2.CL2+ HCl CH2.Cl2 + Cl2 = CH.Cl3 + HCl g. Hyđrô H2 - Là khí không màu, không vị, về mặt sinh lý là một khí trơ, rất nhẹ. Trọng lượng riêng so với không khí 0,07. ở điều kiện tiêu chuẩn nặng 0,09 3 Kg/m . H2 là một khí cháy, nổ khi hàm lượng của nó trong không khí 4-74%. Nhiệt độ gây cháy 100-200oC. H2 thường xuất hiện ở các mỏ than nâu, than gầy, mỏ muối Kali xuất ra từ khoáng sản cùng với CH4, Ví dụ: ở mỏ khoáng sản canatit Statfu (Đức), người ta tìm thấy H2 gần như nguyên chất (84-93%), bên cạnh đó có hàm lượng nhỏ CH4=3,2%, N2=14%. Ngoài ra H2 xuất hiện trong không khí mỏ do việc nạp ắcquy và nổ mìn. - Căn cứ vào khả năng thoát khí của H2 và CH4, người ta phân các mỏ nguy hiểm về khí cháy như sau: Cách tính về phân chia: Khối lượng khí cháy (H2+CH4) thoát ra trong một ngày đêm cho 1m3 quặng tính bằng m3 khí (m3/m3) Mỏ loại I: 21 m3/m3 3 3 Khi tính đổi tương đương cứ 1m H2= 2m CH4. Hàm lượng cho phép của H2=0,5%. 2.2 Bụi mỏ và cách phòng chống 2.2.1 Bụi mỏ a. Khái niệm. 13
  15. Bụi mỏ là tập hợp các hạt khoáng vật phân tán, mịn, tham gia vào bầu không khí mỏ trong quá trình tiến hành các công tác và có khả năng tồn tại trong trạng thái lơ lửng trong một thời gian tương đối dài. Bụi mỏ trong quá trình sản xuất có một ảnh hưởng không tốt đối với sức khoẻ con người. Căn cứ vào tác dụng đối với cơ thể, bụi được phân thành hai loại; - Loại gây độc: Chì, Mangan,, thạch tín, thuỷ ngân có thể gây nhiễm độc, làm giảm thị lực của mắt, làm tắc hoặc kích thích mặt, da, phần trên của đường hô hấp và phổi. - Bụi không chỉ gây độc: Bụi than, bụi đá, lưu huỳnh không những gây độc mà còn gây nổ và là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh bụi phổi khác nhau. Bụi mỏ thành tạo khi nổ mìn chứa các khí độc: ôxitcacbon (CO) 0,0007 mg, peoxitNitơ 0,2265 mg trong 1 gam bụi. b. Nồng độ bụi trong mỏ và cách xác định. + Nồng độ bụi trong không khí mỏ. Nồng độ bụi là trọng lượng bụi chứa trong một đơn vị thể tích không khí có bụi. Nồng độ bụi được biểu diễn dưới 2 dạng: - Dạng trọng lượng: Là trọng lượng bụi tính bằng mg trong 1m3 không khí (mg/m3), ký hiệu là K. - Dạng số hạt: Là số hạt chứa trong 1cm3 không khí. + Phân loại không khí theo nồng độ bụi. - Không khí ít bụi: K < 1mg/m3. - Không khí hơi bụi: K = 1 - 1,5 mg/m3. - Không khí bụi: K = 5 - 10 mg/m3. - Không khí rất bụi: K = 10 - 20 mg/m3. - Không khí cực kỳ bụi: K < 100 mg/m3. + Các phương pháp xác định nồng độ bụi. - Xác định nồng độ bụi theo trọng lượng: Sử dụng thiết bị dựa trên nguyên tắc lọc khí và máy quang học Tyntaloscop. - Thiết bị dựa trên nguyên tắc lọc khí: Hút một lượng nhất định không khí có chứa bụi qua một bộ lọc. Cân bộ lọc trước và sau khi không khí chứa bụi đi qua ta xác định được lượng bụi bị bộ lọc giữ lại rồi chia cho thể tích không khí đã hút qua. Cuối cùng sẽ xác định được nồng độ bụi theo trọng lượng. Thời gian và lượng không khí hút qua phụ thuộc vào nồng độ bụi. Cụ thể, khi nồng độ bụi càng nhỏ thì lượng không khí hút qua càng lớn: P P K 2 1 .1000, mg/m3. V.t Trong đó: P1, P2 - trọng lượng màng lọc khi sạch và khi có bụi, mg. V- tốc độ hút không khí chứa bụi, l/phút. t - thời gian lấy mẫu, phút. K - nồng độ bụi. 14
  16. - Máy quang học Tyntaloscop: Xác định nồng độ bụi trong một thể tích không khí đã biết bằng cách so sánh cường độ ánh sáng bị tán xạ bởi các hạt bụi với một thước đo kèm theo máy. - Xác định nồng độ bụi bằng cách đếm Các thiết bị này gồm một số bình hình trụ cấu tạo đặc biệt, với một thể tích xác định trong đó sẽ chứa mẫu khí có bụi. Sau khoảng 2-3 giờ, bụi sẽ lắng đọng trên những tấm kính bôi mỡ đặt ở phía trước các buồng lấy mẫu khí. Nhờ kính hiển vi, ta xác định được số hạt bụi trên một diện tích nhất định và sau đó tính tổng số hạt bụi chứa trong thể tích không khí ở các buồng rồi biểu thị nồng độ bụi theo số hạt/cm3. 2.2.2 Những nguồn tạo bụi trong mỏ Bụi mỏ được sinh ra hầu hết ở các khâu công tác những nguyên nhân chính sinh ra bụi như sau: - Khoan nổ mìn. - Khấu than bằng cơ học. - Vận tải và bốc dỡ vật liệu. - Chèn lò (Nhất là dùng khí ép). - Phá hoả đá vách. - Công tác phá vỡ đất đá quá cỡ. - Do phun bụi trơ để chống nổ khí, nổ bụi. Người ta phân các nguồn tạo bụi trong mỏ thành hai loại sau: - Nguồn tạo bụi nguyên sinh. - Nguồn tạo bụi thứ sinh. 2.2.3. các phương pháp chống bụi a. Các phương pháp chống bụi nguyên sinh. + Chống bụi khi khoan các lỗ mìn. 1) Biện pháp khoan ướt: Đây là biện pháp rửa lỗ khoan bằng nước,, nhờ biện pháp này nên bụi không thoát ra khỏi lỗ khoan dưới dạng tự do mà hỗn hợp với nước rồi bị đẩy ra ngoài dưới dạng dung dịch. Việc rửa lỗ khoan có thể cung cấp nước dọc trục và cung cấp nước bên sườn. Khi rửa lỗ khoan cung cấp nước dọc trục, nước đi vào rãnh của cần khoan qua rãnh ở choòng và rãnh ở thân búa. Còn khi rửa lỗ khoan cung cấp nước bên sườn, nước đi qua đường ống qua khe hở ở khớp nối cần rẽ vào cần khoan. Phương pháp thứ hai hiệu quả hơn vì nó sử dụng ngay cả với máy khoan điện. - Loại cung cấp nước dọc trục áp dụng cho khoan khí ép, khoan điện cầm tay, khoan điện cột. - Loại cung cấp nước bên sườn áp dụng cho khoan điện cột. Lượng nước cần cung cấp cho lỗ khoan để đạt được hiệu quả khử bụi không được nhỏ hơn 3l/phút đối với loại khoan nhẹ và 5l/phút đối với loại khoan nặng. 2) Khoan bán ướt. Đây là biện pháp khử bụi khi khoan nhờ bọt, váng. Miệng lỗ khoan được bịt kín nhờ một lớp bọt váng, nó có thể giữ bụi tạo ra do khoan, làm cho bụi không có khả năng tung vào không khí. Phương pháp này thường dùng ở những 15
  17. mỏ nước hiếm, hoặc để giảm độ ẩm trong không khí hay để bảo vệ đất đá ở nền lò. 3) Chống bụi khi khoan khô. Bụi khoan được hút ra khỏi lỗ khoan theo hai cách sau: hút bụi qua miệng lỗ khoan và qua rãnh của ti khoan. + Chống bụi khi khoan lỗ khoan lớn. Khi khoan những lỗ khoan có đường kính lớn như máy khoan LBC, BCA-6, MBC-2, SB, người ta sử dụng phương pháp tưới nước miệng lỗ khoan dưới dạng sương mù nhờ thiết bị tạo sương. Khi khoan theo hướng từ dưới lên, người ta sử dụng hỗn hợp nước-không khí và thiết bị tạo sương. Còn khi khoan theo hướng từ trên xuống, người ta dùng vòi phun nước. + Chống bụi khi nổ mìn. Công tác nổ mìn là một trong những nguồn tạo bụi chủ yếu trong mỏ. 1) Dùng màn sương nước. Biện pháp này tiến hành bằng cách tạo ra sau gương lò một đoạn dài từ 10-20m một màn sương gồm những hạt nước vô cùng nhỏ, các hạt nước này làm ẩm bụi khiến cho trọng lượng của chúng tăng lên và bắt buộc phải lắng đọng (hình VIII.1). Để tăng hiệu quả thì cần cho thêm vào nước phun ướt các chất thấm ướt, có thể làm giảm 80-95% bụi. 2) Nạp bua cho lỗ mìn bằng nước. Nạp bua cho lỗ mìn bằng nước là đặt các túi nước vào lỗ mìn, tiếp theo sau là các thỏi thuốc thay cho đất sét, các túi nước này được lèn chặt bằng đất sét. Vỏ của các túi nước được chế tạo từ các ống Pôliêtylen có đường kính nhỏ hơn đường kính lỗ mìn 1-3mm, chiều dày túi 60-70m. Các đầu túi được bịt chặt hoặc được bịt kín bởi van 1 chiều. Khi nổ mìn, các túi nước bị nổ tung và tạo ra những hạt nước nhỏ liti, các hạt nước nhỏ này một mặt làm ướt bụi, mặt khác do tác dụng làm lạnh cho nên tạo ra khả năng chống cháy khí và bụi than, đồng thời hấp thụ tốt khí nổ, nhất là những oxitnitơ. Hiệu quả so với bua bằng đất sét là trong giới hạn rất rộng (22-70%). Tuy vậy không bao giờ đạt được khả năng giảm bụi dưới mức an toàn cho phép. 3) Sử dụng túi nước treo khi nổ mìn. Hiệu quả của phương pháp này cũng tương tự như ở phương pháp nạp bua cho lỗ mìn bằng các túi nước. Các túi nước được treo trước gương lò khoảng 1,5-2m và chúng sẽ bị nổ tung ra khi mìn nổ, tạo nên một lớp sương mù trước gương lò. Các túi đựng nước được chế tạo từ chất dẻo Etilen dày 60-70 m, rộng 250-300 mm. Số lượng túi cần thiết cho một lần nổ được xác định sao cho đối với 1m2 tiết diện lò sẽ có không ít hơn 5 túi, mỗi túi có dung tích 10-12 lít. b. Các phương pháp chống bụi thứ sinh. + Chống bụi khi xúc bốc: 16
  18. Khi xúc bốc tạo ra tương đối nhiều bụi, mặc dù vậy hiện nay các thiết bị xúc bốc vẫn chưa có phương tiện chống bụi. Do vậy biện pháp chủ yếu chống bụi là dùng tưới nước, tức là phun nước lên khoáng sàng và đất đá khi xúc bốc. + Chống bụi khi vận chuyển. Khi vận chuyển, bụi tạo ra tương đối nhiều. Do bụi tạo ra khi vận chuyển nên nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố do vậy biện pháp chống bụi cũng phức tạp hoặc phải kết hợp hiều phương pháp chống bụi. - Làm ẩm than trước khi khai thác. - Hạn chế chiều xúc đổ của các thiết bị xúc bốc vận tải. - Hạn chế tốc đọ gió. - Phun nước tưới ở nơi xúc bốc. +. Chống bụi bằng phương pháp thông gió. Trong chống bụi, người ta coi thông gió là một biện pháp chống bụi, vì làm tốt công tác này cũng có khả năng chống bụi có hiệu quả cao. Muốn vậy, thông gió phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Không khí đưa vào mỏ phải sạch, không chứa bụi, nồng độ bụi tối đa trong không khí 2mg/m3 không khí. Lưu lượng gió đưa vào mỏ phải đủ để làm loãng nồng độ bụi. Tức là tính lượng gió theo yếu tố bụi: G. 3 Qyc (b ) , m /s. K K0 Trong đó: G- tổng số lượng bụi ở luồng gió ra, mg/s. K- nồng độ bụi cho phép, mg/m3. 3 Ko- nồng độ bụi có sẵn trong luồng gió vào, mg/m . - hệ số phụ thuộc vào lò khô hay ướt (khô: = 1; ướt = 0,5). - Để phục vụ tốt thì luồng gió bẩn chứa bụi được đưa thẳng ra luồng gió thải ra ngoài. - Hạn chế tốc độ gió cho phù hợp: Lò chợ v=1,4-1,8m/s; Lò chuẩn bị: v = 0,4-0,8m/s. - Vận chuyển đất đá, than cùng chiều với chiều gió chuyển động. Thông gió chỉ là biện pháp hỗ trợ cho các biện pháp chống bụi khác. Nếu chỉ có thông gió thì không đạt được hiệu quả mong muốn. + Chống bụi bằng cách gây ẩm vỉa than. Làm ẩm trước khi khối than được áp dụng khai thác ở các gương lò chợ , trong các gương lò chuẩn bị đào trong than hoặc ở các gương lò xung quanh. Việc ép nước vào vỉa than được thực hiện bằng 3 phương pháp sau: - Qua các lỗ mìn có chiều dài 2-5 mét. - Qua các giếng ngắn có chiều dài 5-15 mét. - Qua các giếng sâu > 15 mét. Các giếng ngắn và các lỗ mìn được khoan từ luồng khai thác của lò chợ và được bố trí thẳng góc hoạc xiên góc với mặt phẳng gương lò. Các giếng sâu được bố trí song song với mặt phẳng gương lò. áp suất các máy bơm 10-80 at. 17
  19. Việc làm ẩm vỉa than không những làm giảm khả năng sinh bụi mà còn làm giảm sự tự cháy của than, sự xuất khí CH4 và CO2. Ngoài các phương pháp chống bụi kể trên, người ta còn dùng biện pháp chống bụi bằng cách phòng hộ cho công nhân như dùng mặt nạ, chế độ bồi dưỡng hợp lý, giảm cường độ lao động. Phần 2: AN TOÀN VÀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG 18
  20. Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC AN TOÀN VÀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG 3.1 Khái niệm – nội dung – vai trò, ý nghĩa của công tác an toàn và bảo hộ lao động 3.1.1 Khái niệm: Lao động là nhu cầu thiết yếu của loài người, nhờ có lao động mà con người mới tạo ra của cải vật chất làm cho xã hội tồn tại và phát triển. Bất cứ chế độ xã hội nào, sức lao động cũng là yếu tố quyết định nhất, cách mạng nhất trong sản xuất. Trong giai đoạn công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, các ngành công nghiệp phát triển nhanh chóng, kỹ thuật sản xuất ngày càng nâng cao, lực lượng lao động ngày càng tăng. Vì vậy, yêu cầu nâng cao quản lý xí nghiệp, nâng cao trình độ nghề nghiệp và kỹ thuật an toàn ngày càng bức thiết, nhất là đối với những ngành công nghiệp nặng có điều kiện làm việc dễ gây ra tại nạn lao động và môi trường làm việc kém vệ sinh. Sức lao động là yếu tố quyết định nhất trong sản xuất, vì vậy muốn tiến hành sản xuất phải bảo vệ sức lao động. Ngược lại, sức lao động càng được bảo vệ tốt thì càng phát huy được tác dụng phát triển sản xuất, điều đó nói lên quan hệ biện chứng giữa hai vấn đề: sản xuất và bảo hộ lao động. 3.1.2 Nội dung của công tác bảo hộ lao động Công tác bảo hộ lao động trong hoạt động khai thác mỏ hàm lò có các nội dung sau: - Lập pháp bảo hộ lao động. - Kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp. - Phòng chống cháy mỏ. - Cấp cứu mỏ. - Cải tiến kỹ thuật, thiết bị máy móc. a. Lập pháp bảo hộ lao động. - Quy định những chế độ về thời gian làm việc và nghỉ ngơi, về bồi dưỡng sức khoẻ cho công nhân, quy định những quy tắc kỹ thuật an toàn, vệ sinh công nghiệp và chế độ trách nhiệm trong công tác bảo hộ lao động. - Lập pháp bảo hộ lao động thể hiện đường lối, chính sách bảo hộ lao động của Đảng và thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với người lao động. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh bảo hộ lao động của Nhà nước là điều kiện có ý nghĩa quyết định trong việc đẩy lùi nguy cơ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, đồng thời bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho người lao động. b. Kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp. Đây là nội dung chủ yếu của công tác bảo hộ lao động. - Nhiệm vụ của kỹ thuật an toàn là phân tích nhân tố trực tiếp và gián tiếp gây ra tai nạn, nhiễm độc, và nghiên cứu tiến hành những biện pháp về tổ chức, kỹ thuật để khắc phục những nhân tố đó nhằm đảm bảo cho công nhân làm việc an toàn. - Nhiệm vụ của vệ sinh công nghiệp là nghiên cứu điều kiện làm việc ở nơi sản xuất, đề ra các biện pháp ngăn ngừa tác hại của môi trường làm việc, đảm bảo cho công nhân làm việc trong điều kiện vệ sinh cho phép. 19
  21. Muốn làm tốt vấn đề kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp cần phải nghiên cứu tỷ mỉ các quá trình sản xuất, vì hai mặt của công tác này có quan hệ chặt chẽ với quá trình sản xuất. c. Cải tiến kỹ thuật, thiết bị. Bảo hộ lao động không chỉ nhằm đảm bảo an toàn lao động và sức khoẻ cho công nhân mà còn giảm nhẹ sức lao động bằng cách không ngừng cải tiến kỹ thuật, thiết bị máy móc, nghiên cứu cơ giới hoá, tự động hoá, điều khiển từ xa các khâu trong dây chuyền sản xuất. 3.2 Các tính chất và trách nhiệm trong công tác bảo hộ lao động 3.2.1 các tính chất trong công tác bảo hộ lao động a. Tính chất quần chúng. Công tác bảo hộ lao động chỉ đạt được kết quả mong muốn khi có sự tham gia đông đảo của quần chúng. Bởi vì: - Quần chúng là người tiếp xúc với máy móc và môi trường làm việc nhiều nhất, có khả năng phát hiện những thiếu sót về kỹ thuật an toàn và vệ sinh lao động. - Muốn đảm bảo an toàn thì việc quan trọng là phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy tắc an toàn. Việc đó chỉ có thể thực hiện được khi ý thức đề phòng tai nạn của quần chúng thấy trách nhiệm phải bảo vệ mình và đồng chí của mình trong sản xuất. Tính chất quần chúng còn được thể hiện ở chỗ quần chúng tham gia xây dựng và giám sát thực hiện kế hoạch bảo hộ lao động, tham gia xây dựng quy tắc an toàn và góp ý kiến về mẫu mực, quy cách các phương tiện phòng hộ. b. Tính chất pháp lệnh. - Để làm tốt công tác bảo hộ lao động, không những chỉ đi sâu tuyên truyền giáo dục phát động quần chúng, giúp quần chúng nâng cao ý thức tự giác chấp hành các quy tắc an toàn, động viên quần chúng tham gia tốt công tác bảo hộ lao động mà cạnh đó còn phải có các hình thức kỷ luật với những người làm ẩu hoặc cố tình vi phạm các quy tắc an toàn. - Những điều lệ an toàn, những quy định về chế độ, trách nhiệm, những hình thức đề ra đối với người bị sai phạm, chính là kỷ luật thể hiện tính chất pháp lệnh của công tác bảo hộ lao động. c. Tính khoa học kỹ thuật. Sản xuất gắn liền với khoa học kỹ thuật nên phải dùng con mắt khoa học kỹ thuật mà khắc phục những yếu tố độc hại do quá trình sản xuất sinh ra, từ việc che chắn những bộ phận máy dễ sinh ra tai nạn tới những biện pháp cụ thể cải tiến kỹ thuật. Tính chất quần chúng, pháp lệnh và khoa học kỹ thuật là 3 tính chất cơ bản, có liên hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Muốn làm tốt công tác bảo hộ lao động, phải giải quyết 3 tính chất cơ bản của bảo hộ lao động, làm tốt công tác quần chúng để biến pháp luật của Nhà nước thành kỷ luật tự giác của quần chúng, trao khoa học cho quần chúng. 3.2.2. Trách nhiệm trong công tác bảo hộ lao động a. Trách nhiệm của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động sản xuất phải phụ trách an toàn lao động: 20
  22. - Lập kế hoạch bảo hộ lao động và bảo đảm thực hiện đầy đủ, kịp thời kế hoạch đó. - Lập các quy trình kỹ thuật an toàn cho từng nghề, từng máy và tổ chức huấn luyện cho người lao động nắm vững các phương pháp làm việc an toàn. - Hàng quý tổ chức việc kiểm tra kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp trong xí nghiệp mình. - Báo cáo thống kê các tai nạn lao động và nghiên cứu thực hiện các biện pháp ngăn ngừa cần thiết. b. Trách nhiệm của công đoàn. Nhiệm vụ của công đoàn các cấp về bảo hộ lao động được quy định trong chương VIII, Pháp lệnh bảo hộ lao động của Nhà nước ban hành ngày 1/1/1992 và chương XIII Bộ Luật lao động nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 5/7/1994 và chương VI, Nghị định số 06/CP ngày 20/1/1995 của Chính Phủ quy định chi tiết về một số điều của Bộ Luật lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động: - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tham gia với cơ quan Nhà nước xây dựng chương trình Quốc gia vèe bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học và xây dựng Luật, chính sách, chế độ về bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. - Tổ chức công đoàn phối hợp với cơ quan Lao động-Thương binh-Xã hội, cơ quan y tế cùng cấp tham gia kiểm tra, giám sát việc quản lý Nhà nước, việc thi hành các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, tham gia điều tra tai nạn lao động. - Công đoàn cơ sở có trách nhiệm giáo dục, vận động người lao động chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, nội quy về an toàn lao động, vệ sinh lao độg, xây dựng phong trào đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp, đơn vị, xây dựng và duy trì hoạt động của mạng lưới an toàn và vệ sinh viên. c. Trách nhiệm của người lao động. Trách nhiệm của người lao động được quy định tại điều 15 và 16 chương IV, Nghị định số 06/CP ngày 20/1/1995 của Chính phủ: - Chấp hành các quy định, nội dung về an toàn lao động, vệ sinh lao động có liên quan đến công việc, nhiệm vụ được giao. - Sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được trang cấp, các thiết bị an toàn, vệ sinh nơi làm việc, nếu làm mất hoặc hư hỏng thì phải bồi thường. - Phải báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, gây độc hại hoặc sự cố nguy hiểm, tham gia cấp cứu và khắc phục hậu quả tai nạn lao động khi có lệnh của người sử dụng lao động. - Yêu cầu người sử dụng lao động bảo đảm điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh, cải thiện điều kiện lao động, trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân, huấn luyện thực hiện biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động. - Từ chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, đe doạ nghiêm trọng tính mạng, sức khoẻ của mình và 21
  23. phải báo ngay với người phụ trách trực tiếp; Từ chối trở lại làm việc ở những nơi nói trên nếu những nguy cơ đó chưa được khắc phục. - Khiếu nại hoặc tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động vi phạm quy định của Nhà nước hoặc không thực hiện đúng các giao kết về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động. d. Trách nhiệm của thanh tra Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động, thương binh và xã hội ở địa phương thực hiện chức năng thanh tra Nhà nước về an toàn lao động. Bộ Y tế và cơ quan quản lý Nhà nước về Ytế ở địa phương thực hiện chức năng thanh tra Nhà nước về vệ sinh lao động. Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động có quyền hạn sau: - Thanh tra việc chấp hành các quy định về an toàn lao động, yêu cầu kiến nghị biện pháp bảo đảm an toàn lao động, cải thiện điều kiện lao động, điều tra tai nạn lao động. - Đến những nơi thuộc đối tượng, phạm vi thanh tra của mình bất cứ lúc nào để thanh tra về an toàn lao động và yêu cầu người có trách nhiệm nơi tiến hành thanh tra cung cấp tình hình, số liệu, tài liệu liên quan đến thanh tra, điều tra. - Tạm đình chỉ việc sử dụng máy, thiết bị, nơi làm việc có nguy cơ gây tai nạn lao động và ấn định thời hạn khắc phục nguy cơ đó. - Cảnh cáo, phạt tiền hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra hình sự trường hợp vi phạm pháp luật về bảo hộ lao động, nếu xét thấy có dấu hiệu cấu thành tội phạm. - Xem xét, chấp thuận các tiêu chuẩn an toàn lao động, các giải pháp an toàn lao động trong các luận chứng khoa học kỹ thuật, các đề án thiết kế, đăng ký và cho phép đưa vào sử dụng những cơ sở, máy thiết bị vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn thuộc danh mục do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định. Thanh tra Nhà nước về vệ sinh lao động có nhiệm vụ: - Thanh tra việc chấp hành các quy định về vệ sinh lao động, yêu cầu hoặc kiến nghị biện pháp bảo đảm vệ sinh môi trường lao động, điều tra những vụ vi phạm tiêu chuẩn vệ sinh lao động. - Đến những nơi thuộc đối tượng, phạm vi thanh tra của mình bất cứ lúc nào để thanh tra về vệ sinh lao động và yêu cầu người có trách nhiệm nơi tiến hành điều tra cung cấp tình hình, số liệu, tài liệu liên quan đến việc thanh tra, điều tra. - Tạm đình chỉ nơi làm việc vi phạm tiêu chuẩn vệ sinh gây ô nhiễm môi trường lao động. - Cảnh cáo, phạt tiền hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra hình sự trường hợp vi phạm về vệ sinh lao động nếu xét thấy dấu hiệu cấu thành tội phạm. 22
  24. - Xem xét, chấp thuận các địa điểm, các giải pháp về vệ sinh lao động khi xây dựng mới hoặc mở rộng cải tạo cơ sở để sản xuất, sử dụng, lưu giữ các chất phóng xạ, chất độc thuộc danh mục do Bộ Ytế quy định. Thanh tra Nhà nước về an toàn lao độg, vệ sinh lao động phải chịu trách nhiệm về những quyết định và biện pháp xử lý trong quá trình thanh tra. 3.3. Tổ chức công tác bảo hộ lao động ở Việt Nam Ngay từ lúc Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà mới ra đời, bản Hiến pháp đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay thảo ra năm 1946 đã quy định rõ quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi, quyền hưởng chế độ bảo hiểm của người lao động. Điều đó đã nói rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là mặc dù trong hoàn cảnh nào cũng phải bảo vệ và bồi dưỡng người lao động. Hệ thống chế độ chính sách, luật lệ bảo hộ lao động hình thành dần cùng với quá trình xây dựng luật pháp ở nước ta. Năm 1991, Pháp lệnh bảo hộ lao động đã được Nhà nước ban hành. Trong Pháp lệnh đã quy định rõ nội dung, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, các ngành, các cấp, các tổ chức Đoàn thể, các giám đốc, chủ cơ sở (những người sử dụng lao động) cũng như người lao động trong công tác bảo hộ lao động. Công tác quản lý Nhà nước về bảo hộ lao động được chỉ rõ trong Điều 29, chương VI-Pháp lệnh bảo hộ lao động năm 1991 có hiệu lực từ ngày 1.1.1992 như sau: "Quản lý Nhà nước về bảo hộ lao động bao gồm: 1. Xây dựng và ban hành các quy định về bảo hộ lao động. 2. Xây dựng chương trình Quốc gia về bảo hộ lao động và đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách của Nhà nước. 3. Thanh tra việc thực hiện các quy định về bảo hộ lao động" Cùng với Pháp lệnh về bảo hộ lao động, bộ Luật lao động của Nhà nước được công bố ngày 5/7/1994 đã quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động. Bộ Luật lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hoà, ổn định. Điều 7, chương I của Bộ Luật lao động ghi rõ: "Người lao động trả lương trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động nhưng không thấp hơn mưcs lượng tối thiểu do Nhà nước quy định và theo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc, được bảo hộ lao động, nghỉ theo chế độ, nghỉ hàng năm có lượng và được bảo hiểm xã hội theo quy định chế độ lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ và các loại lao động có đặc điểm riêng". Về an toàn lao động, vệ sinh lao động được Luật lao động quy định tại chương IX, điều 95 đến điều 108. Mục 3, điều 95 có ghi " Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tham gia với chính phủ trong việc xây dựng chương trình Quốc gia về Bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học và xây dựng pháp luật về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động". 23
  25. Chương4: CÁC QUY ĐỊNH AN TOÀN TRONG MỎ HẦM LÒ 1.4. Quy định an toàn khi đào lò chuẩn bị Công tác chống giữ lò được thực hiện ngay sau khi đã tạo đủ khoảng trống trước gương theo thiết kế. Cấm để lưu không trước gương (không trống) 24
  26. quá 1,5lần tiến độ chống theo quy định. Trước khi chống giữ phải loại bỏ hết đá om, đá treo (nếu có) đưa gương vào trạng thái an toàn. Tiến hành dựng khung chống. Hoàn thành khung chống đảm bảo kỹ thuật cơ bản theo quy định thiết kế. Chèn kích chắc chắn, đầy chặt phần rỗng, thừa của tiết diện sau khung chống. Khi làm việc ở độ cao ≥ 02m phải đứng trên sàn công tác đảm bảo chắc chắn, an toàn. 1.4.1 Quy định về kích thước tiết diện ngang của đường lò. Để cho các thiết bị vận tải hoạt động an toàn không ảnh hưởng đến công tác thông gió quy phạm an toàn quy định tiết diện ngang của đường lò như sau: Các đường lò vận chuyển và thông gió chính. + Nếu chống giữ bằng gỗ, kim loại hoặc bêtông đúc sẵn tiết diện ngang tối thiểu 4.5m2. + Nếu xây bằng gạch đá, đổ bêtông trực tiếp tiết diện ngang tối thiểu 4.0m2. Các đường lò vận chuyển và các đường lò thông gió khu vực lò thượng, lò hạ khu vực tiết diện ngang tối thiểu 3.7m2. Lò liên lạc rãnh gió hỏng sáo, phống rót tiết diện ngang tối thiểu 1.5m2. Để đảm bảo an toàn cho người đi lại và các thiết bị vận tải hoạt động quy định các kích thước sau: Khoảng cách từ hông lò (ở độ cao 1.8m tính từ mặt ray trở lên ) đến mép thành tàu hoặc toa goòng. + Đối với bên ngoài đi lại (m) không nhỏ hơn 0.7m. + Đối với bên rải cáp điện ống gió, ông dẫn khí nén (n) không nhỏ hơn 0.25m. Những đường lò có hai đường xe, khoảng cách giữa hai thanh tau của hai đoàn tàu (c) không nhỏ hơn 0.25m. Những vị trí hoặc dồn toa khoảng cách cả hai bên từ mép toa goòng đến hông lò là bằng nhau (m = n = 0.7m). Các đường lò áp dụng vận tải phối hợp vừa bằng băng tải vừa bằng tàu điện.Khoảng cách tối thiểu từ mép băng tải đến mép thành tối thiểu là 0.4m. Trường hợp chống lò vào vùng than, đá có độ liên kết yếu, dễ tụt lở phải khống chế tốt hông và nóc lò. Trước khi chống phải cược chặt mặt gương và nhanh chóng dựng cột chống. Đối với lò đá: Chỉ sử dụng đá chọn, rắn cứng để chèn om – le. Cấm sử dụng đá Acghilt để chèn. Việc chèn được thực hiện theo thứ tự: Hai bên hông nóc lò. Trường hợp đặc biệt: nếu nóc lò tụt đổ cao cho phép xếp dá chèn om-le với chiều dầy lớp chèn ≤0,7m. Phần còn lại phía trên cho phép dùng gỗ xếp cũi lợn kích sát nóc. Trường hợp nóc yếu có thể lên xà trước khi dựng cột chống với sự hỗ trợ của “Xà tiến trước”, chèn kích nóc chắc chắn, mới dựng cột kỹ thuật của vì chống. 1.4.2 Quy định an toàn khi đào lò bằng. Trong quá trình đào lò bằng cần phải thực hiện các công việc sau: 25
  27. Phải tiến hành kiểm tra xử lý nóc lò và gương lò khi đảm bảo an toàn mới được tiến hành công tác khoan hoặc phá vỡ đất đá bằng máy liên hợp đào lò. Phải tiênh hành sau trước khi tiến hành xú bốc đất đá và chống vì chống mới. Cạy đất đá om, đá treo ở nóc lò và hông lò. Nếu gương có hiện tượng dễ sập lở phải tiến hành cược gương trước khi làm ở gần gương. Trường hợp nóc lò đất đá mềm yếu phải tiến hành đóng chèn nhói. 1.4.3 Quy định an toàn khi đào lò nghiêng Khi đào lò nghiêng yêu cầu về công tác an toàn cũng gần tương tự như đào lò bằng tuy nhiên khi đào lò nghiêng có độ dốc á > 450 thường xảy ra các tai nạn do các nguyên nhân sau ( thường xảy ra khi đào lò thượng ). Trượt chân bị ngã. Đất đá và than sau khi nổ mìn văng ra trôi rất mạnh trên nền lò bắn vào người đi lại hoăc đang làm gần đó. Để không xảy ra các tai nạn do các nguyên nhân trên ta tiến hành các công việc sau để loại bỏ tai nạn: Tại các đường lò sát gương đặt các dầm gỗ ngang dưới nền lò, dầm đặt vuông góc với đường lò 2 đầu tự vào 2 chân cột của vì chống để khi công nhân làm việc ở gần gương đứng trên các dầm ngang đó. Cược ngang đoạn lò gàn gương để hạn chế than và đát đá trôi. Khi nổ mìn xong tháo các dầm gỗ cược cho than chảy dần xuống chân lò. Trường hợp khi đào lò hạ: Để ngăn chặn các tai nạn do tụt goòng xuống gương cần phải đặt ngáng chắn cách gương khoảng 2m, trước khi làm việc ở gần gương phải kiểm tra ngáng chắn mới được làm việc. Trường hợp gương lò hạ có nhiều nước gây khó khăn cho quá trình làm việc phải bố trí máy bơm, bơm nước thường xuyên. 1.4.4 Quy định an toàn khi chống giữ lò chuẩn bị a. Quy định an toàn khi dựng vì chống gỗ Trước khi dựng vì chống phải kiểm tra tình trạng đất đá nóc và hông lò . Nếu có đất đá om phải cạy xuống . Trường hợp nóc và hông mềm yếu phải đóng chèn nhói lên nóc và hông để chống sạt lở . Phải chẩn bị đầy đủ dụng cụ làm việc như : búa chặt , choòng , xẻng Khi dựng vì chống tối thiểu phải có 3 người . Khi tiến hành các công việc không đứng quay lưng vào gương lò , không gian cột chống ở vị trí gần gương . Khi dựng cột chống phải dùng choòng hoặc thanh chèn giữ chắc chắn rồi mới lên xà . Khi lên xà xong phai đóng nêm gáy cột , gáy xà để cố định tạm vì chống . Cấm đồng thời dựng 2 vì chống liên tiếp gần nhau . b. Quy định an toàn khi dựng vì chống bằng kim loại . Vì chống kim loại nói chung đều có khối lượng lớn hơn vì chống gỗ rất nhiều , kí thuật dựng cũng phải phức tạp hơn để đảm bảo an toàn khi tiến hành dựng phải thực hiện các quy định sau : Phải chuẩn bị đầy đủ thiết bị như : palăng , các loại Clê , mỏ lết , gông , giằng , giá sàn để đứng khi thao tác 26
  28. Dựng 2 cột chống rồi cố định bằng thanh giằng giứa cột chống cũ và cột chống mới. Đặt xà ghép vào cột rồi gá lắp tạm thời bằng gông và bu lông , lắp thanh giằng xà. Cài chèn nóc và hông, nếu nóc và hông bi rống phải lây gỗ chèn kích nóc và hông 1.4.5 Quy định an toàn khi củng cố và sủa chữa đường lò Do áp lực mỏ hoặc các vì chống sử dụng lâu ngày bị hư hỏng do mục nát . Đường lò bị suy yếu và biến dạng tiếp diện lò bi thu hẹp không đảm bảo các yêu cầu kĩ thuật gây khó khăn cho công tác vận chuyển và đi lại , tủy thuộc vào tình hình thực tế của đương lò có thể chống xén hoặc chống dặm . a. Quy định an tòan khi chống dặm . Là trường hợp 1 số vì chống cũ bị hư hỏng hoặc suy yếu không liên tục nhưng có thể làm cho đất đá ở nóc và hông lò sập đổ vào đường lò bất cứ lúc nào. Để đảm bảo an toàn cho đường lò phải tiến hành củng cố bằng chống dặm . Chống dặm là công việc thay cột hoặc xà sửa chữa vì chống cũ hoặc có thể chống thêm một vì chống mới vào khoảng cách giửa 2 vì chống cũ . Khi thực hiện công việc chống giặm cần phải thực hiện các quy định sau : Nhóm làm việc chống giặm ít nhất phải có 2 người . Nếu đất đá ở nóc hoặc hông lò mềm yếu nhất thiết phải đóng chèn nhói trước khi tháo bỏ vì chống cũ. Khi phá bỏ xà cũ của vì chống cũ , phải dùng choòng và nhất thiết phải đứng dưới vì chống an toàn , chắc chắn để cạy bỏ . Khi tháo cột phải thay lần lượt từ bên chắc chắn rồi mới thay xà . Chèn phải kích nóc và hông , ỏ những vị trí rỗng phải dùng gỗ hoặc chèn lấp đầy khoảng trống đó. Khi đánh khuôn vuông ở lò dọc vỉa than thực hiện theo trình tự sau: Hạ dầm nền nếu hộ chiếu quy định. Lên thìu hông thứ nhất, lựa sao cho thìu tiếp xúc nhiều nhất với các cột của vì chống. Dùng dây thừng buộc hai đầu lại, đánh văng chân ở hai đầu thìu hông. Lên thìu hông thứ hai theo trình tự trên. lê thìu nóc thứ nhất, lựa sao cho thìu tiếp xúc nhều nhất với xà của vì chống, dùng dây thừng buộc chặt hai đầu lại. Lên thìu nóc thứ hai theo trình tự trên. Đánh văng nóc ở hai đầu thìu nóc. Đánh văng vai ở hai đầu thìu khuôn tạo thành hai vòng khuôn hoàn chỉnh ở hai đầu khuôn. Đánh văng tiếp các vòng khuôn còn lại và thêm các chỗ chưa tiếp xúc với vì chống. b. Quy định an toàn khi chống xén. Khi đường lò bị nén ép tiết diện lò bị thu hẹp, ảnh hưởng đến quá trình vận chuyển, đi lại và thông gió thì phải phá bỏ vì chống cũ, xén bỏ phần đát đá để mở rộng tiết dienj đường lò theo kích thước quy định rồi dựng vì chống mới vì chống xén thường xảy ra các tai nan do đất đá ở các khu vực xén tơi vụn, khả 27
  29. năng liên kết yếu sau khi xén bớt đi tiếp tục sập lở gây tai nạn. Để đè phòng các tai nạn trên cần phải thực hiện các biện pháp sau: Muốn chống xén 1 đoạn lò hay dường lò phải chon vị trí có độ ổn định cao ít bị biến dang củng cố thật chắc chắn để làm vị trí khởi điểm. Nghiêm cấm xén đuổi nhau hoặc quay lưng vào nhau trong 1 đoạn đường lò nhỏ hơn 10m.ở những đường lò độc đạo nhất thiết phải xén từ ngoài vào trong khi tiến hành chống xén nghiêm cấm nọi người làm viecj trong khu vực chống xén. Khi chống xén tiến hành trình tự theo các bước sau : + Đóng chèn nhói lên nóc về phía phần lò cần chống xén để liên két đất đá nóc ( nếu đất đá mềm yếu). + Đánh cột bích để dữ xà của vì chống cần tháo dỡ. + Tháo một bên cột của vì chống cần tháo dỡ dùng choòng , cuốc mở rộng lò ở phía cột vừa tháo đến chiều sâu quy định rồi dựng côt mới chỉ khi thực hiện xong cột thứ nhất mới được tháo cột thứ 2. + Chặt chèn nóc, dùng cuốc hoăc choòng tại đường rach trên nóc để nâng chiều cao theo kích thước quy định rồi mới lên xà. + Đóng nêm, chèn nóc, chen hông, đánh văng. Chỉ được tháo dỡ và thực hiện từng vì chống 1 và chỉ khi dựng lai chắc chắn mới được chống xén vì tiếp theo. 4.2 Quy định an toàn khi sản xuất ở lò chuẩn bị Sau khi bắn mìn xong lò chợ phải được thông gió từ 10 đến 15 phút mới được vào đo thử khí, nếu đảm bảo an toàn về khí CH4 và các khí độc hại khai thác thì phó quản đốc trực ca hoặc lò trưởng vào kiểm tra. Nếu thấy đảm bảo an toàn tuyệt đối mới cho công nhân vào gương làm việc. Nếu lò biến dạng thì phải được củng cố chắc chắn dưới sự chỉ huy của phó quản đốc trực ca hoặc lò trưởng, rồi mới bố tri công nhân vào gương làm việc. 4.2.1 Quy định an toàn khi phá than ở lò chợ Khi phá than ở lò chợ sẽ tạo ra khoảng trống phá vỡ thế cân bằng ứng lực tự nhiên làm cho đất đá ở trên nóc lò dễ bị sập đổ gây tai nạn hoặc ách tắc sản xuất. Để ngăn ngừa sự sập lở cần phải có các biện pháp sau: Thường xuyên kiểm tra và củng cố lò chợ vào đầu các ca sản xuất. Nếu phá than ở lò chợ bằng thủ công thì tạo đường rạch ở sát nóc lò đủ cài chèn và đặt thìu, tạo rạch đến đâu cài chèn đén đó. Khi cài chèn đủ 4m chiều dài theo hướng dốc thì khẩn trương lên thìu rồi dùng cột đạp giữ thìu rồi sau đó mới tiến hành sửa gương hạ nền và dựng cột. Nếu phá than bằng khoan nổ mìn. Trước khi nổ mìn phải tiến hành củng cố bằng các hình thức đánh gánh, luồn thìu ruột và đánh thêm cột đạp. Mọi người không có nhiệm vụ phải rút ra nơi an toàn. Nếu phá than bằng máy liên hợp khai thác, các công tác di chuyển máng và chống giữ phải thực hiện kịp thời ngay đằng sau máy khấu. Qúa trình làm các công việc ở gương nếu có hiện tượng lở gương phải kịp thời sử dụng các bạnh gỗ hoạc thanh chèn tiến hành cược gương. 4.2.2 Quy định an toàn khi chống giữ lò chợ a. Quy định an toàn khi chống giữ luồng khai thác 28
  30. Chống giữ luồng khai thác phải được tiến hành kịp thời và đúng hộ chiếu quy định. Khi di chuyển cột chống cho máy khai thác làm việc hoặc di chuyển máng cào hay sau khi nổ mìn phá than mà nóc lò bị sập phải nhanh chóng chống giữ và củng cố lò. Nếu cột hoặc thìu bị gãy phải đưng dưới vì chống chắc chắn để thay cột hoặc hoặc thìu, trường hợp nóc lò quá yếu không thể thay cột hoặc thìu thì phải dựng thêm cột, hoặc dựng thêm thìu mới áp sát thìu cũ. Đối với lò chợ có độ dốc lớn thì đầu cột nghiêng về phía trên theo hướng dốc một góc khoảng 100. Nếu nóc lò mềm yếu đất đá dễ sập lở thì phải chèn sít nhau và đánh văng tăng cường giữ các thìu. Không sử dụng những cột chống ngắn hơn kích thước quy định. Nếu chống lò bằng cột thủy lực hoặc giá thủy lực di động nhất thiết phải gia tải ban đầu cho cột thủy lực. Phải thường xuyên kiểm tra áp lực cột. Nếu áp lực cột không đảm bảo yêu cầu phải bơm dung dịch bổ sung kịp thời. Khi thao tác dựng vì chống người công nhân phải đứng về phía trên theo hướng dốc đối vì cần dựng, thường xuyên quan sát tình trạng nóc lò và gương lò. + Đối với lò chợ chống bằng gỗ : Trước khi vào làm thìu ở đoạn nào thì phải củng cố đoạn lò chuẩn bị khấu than đó. Củng cố luồng gương và luồng bảo vệ đảm bảo chắc chắn, an toàn trong quá trình làm việc. Khi chống cuốc một thìu lò chợ phải tuyệt đối tuân theo quy trình làm việc sau: Cuốc từ chân khay lên hoặc từ chân khay xuống (lò chợ có góc dốc < 400- ). Khi cuốc được từ 30 đến 40 cm phải cài chèn nóc cho chắc chắn. Nừu chèn không sát nóc phaỉ dùng gỗ kích lại cho sát nóc. Phải chèn chân khay lại. Sau khi khấu được một khoang phải đánh cột đạp ra thìu ngoài, xong một thìu hay đoản phải đủ hai cột đạp. Lên thìu phải theo thứ tự từ dưới lên (chân khay ngược thì từ trên xuống). Trước khi hạ trụ thì phải đánh đủ bốn văng chắc chắn. Trước khi đánh cột chính thức số 2 thì phải thêm cột tạm ở khoang thứ 3 của thìu. Trước khi tháo cột đạp thì phải đánh đủ hai cột trụ.Trong quá trình chống cuốc thìu cần chú ý : Nghiêm cấm tạo thành hàm ếch hoặc vạc gương gây tụt đổ bất ngờ các khối than làm đổ lò và gây tai nạn cho người. Việc cuốc phá gương phải tuân theo nguyên tắc cuốc dần từ tren nóc lò xuống nền. Nghiêm cấm làm từ dưới lên. Khi gương than rắn, khó cuốc thì được phép tạo rạch nhỏ có kích thước như sau : + Khi phân khoảng để tạo rạch theo chiều từ vách xuống trụ cách nhau không quá 50cm. + Chiều sâu và chiều rộng của rạch vào gương than không quá 30cm. + Chiều dài của rạch không qua 50cm. Khi tạo xong một rạch phải cuốc gương thẳng đứng để phá khối than đã tạo rạch đó rồi mới tạo rạch khác. Yêu cầu chung sau khi chống xong một thìu phải đạt được những điêm sau : 29
  31. Các đầu thìu phải tiếp xúc nhau, ăn sát chèn, thẳng luồng. đúng độ dốc và đủ tiến độ. Cột phải đối nhau, ke thìu, ke văng đủ độ sâu chân cột 20cm, ăn khớp mồm, đúng khoảng cách. Cột đầu và cột cuối thìu cách đầu thìu 20cm. Chèn phải ke thìu, song song đủ khoảng cách từ 20 đến 25cm một mảnh. Một thìu đủ từ 15 đến 20 mảnh chèn. Trường hợp lò dốc hơn 450 cột dễ bị trượt thì cột được phép đánh đứng lên một góc 30 đến 50 và phải đặt dầm nền. Nếu nóc cắm xuống thì đánh chân cột thách ra ngoài, nếu nóc ăn lên đánh chân cột lặn vào gương sao cho cột ke với nóc lò chợ. Một thìu hoặc đoản phải đủ hai gánh, mỗi gánh hai cột. Đối với thìu đầu sảttụ bảo vệ, cột đầu thìu phải mộng bậc, chân cột đào sâu 30cm trở lên. Dùng chèn cược mặt trụ bảo vệ lại. Gương lở phải cược gương, nếu lở sâu hơn 50cm phải lên gá, cài chèn và đánh gánh chắc chắn. + Đối với lò chợ chống bằng thuỷ lực đơn : Kiểm tra củng cố lò chợ : Phải thường xuyên kiểm tra áp lực trong các cột chống bằng đồng hồ chuyên dùng. áp lực tối thiểu của cột chống phải đảm bảo 8PMa, nếu nhỏ hơn 8PMa phải bơm bổ xung cho đủ. Trong khi bơm, phải thực hiện từ từ và theo dõi tình trạng cá vì chống bên cạnh để tránh xảy ra hiện tượng lệch,đổ cột. Những cột bên cạnh cột bơm bổ xung có hiện tượng giảm áp lực cũng phải được bơm bổ xung. Khi thấy cột bị hỏng hóc, dung dịch nhũ hoá bị dò rỉ, Xi lanh biến dạng phải cho thay thế cột mới đảm bảo kỹ thuật. Ngoài ra cần kiểm tra chốt, nêm liên kết xà, nếu thấy bị nới lỏng phải đóng chặt. Trước và sau mỗi ca sản xuất phải kiểm tra tình trạng lò chợ, khi phát hiện vì chống có nguy cơ mất an toàn phải tổ chức củng cố kịp thời. Chỉ cho phép công nhân vào sản xuất khi lò chợ đã đảm bảo tuyệt đối an toàn. Quy trình khấu chống : - Trước khi tiến hành khấu chống khấu chống phải kiểm tra hệ thống thuỷ lực bao gồm : bơm thuỷ lực, đường ống, súng bơm dung dịch, các mối nối ống và các van đóng mở dung dịch. - Trước khi bắn mìn các cột thuỷ lực xung quanh khu vực nổ mìn phải được chắn cẩn thận, các đường ống thuỷ lực phải được hạ xuống tránh va đập khi nổ mìn. - Sau khi nổ mìn, thông gió, đo thử khí đảm bảo an toàn và và được lệnh của người chỉ huy thì người công nhân mới được vào củng cố lò và kiểm tra hệ thống đường ống cao áp. Chỉ khi nào hệ thống dung dịch hoạt động tốt, tuyệt đối an toàn mới được tiến hành làm việc. - Trình tự trong mỗi đoạn sẽ được tiến hành từ dưới lên. - Trước khi lên xà, cài chèn phải kiểm tra củng cố lò chợ, cậy om triệt để. Tiêu sơ bộ than sát nóc đảm bảo không gian thao tác lên xà và cài chèn. - Cuốc sửa nóc gương đủ điều kiện len xà. Chọc lỗ tai xà sâu vào gương từ 10cm đến 15cm. - Lên xà, chỉnh xà đúng vị trí,đóng chốt xà, nêm cứng xà lại. Đầu nhỏ của chốt hướng lên trên,của nêm hướng xướng dưới. Nêm xà phải đóng chắc chắn tạo liên kết cứng của khớp nối xà. Đánh văng liên kết các vì chống để tránh xô 30
  32. lệch. Văng phải được đánh căng đúng vị trí, gỗ làm văng phải có đường kính từ 10cm đến 15cm. - Lên xà, chỉnh xà đúng vị trí, đóng chốt xà, nêm cứng xà lại. Đầu nhỏ của chốt hướng lên trên, của nêm hướng xuống dưới. Nêm xà phải đóng chắc chắn tao liên kết cứng của khớp nối xà. Đánh văng liên kết các vì chống. Để tránh xô lệch. Văng phải được đánh căng, đúng vị trí, gỗ làm văng phải có đường kính ≥10cm. - Cài chèn đủ mật độ và khoảng cách theo hộ chiếu quy định. Chèn phải tiếp sát nóc, nếu không sát nóc phải dùng cục gỗ kích nóc chắc chắn. - Khi lên xà, cài chèn xong phải đảmbảo các yêu cầu : đầu xà phải sâu vào gương từ 10cm đến 15cm. Xà phải vuông góc với gương và bám đều theo đọ dốc của vỉa. Nóc phai được kích chắc chắn. - Trước khi dựng cột phải tiêu sạch than, hạ nền lò chợ đủ chiều cao khai thác. Đào lỗ chân cột xuống nền 15 đến 20cm và phải đặt đế chống lún. Khi dựng cột bố trí 2 người để kết hợp làm việc. Một người giữ và đưa đế phụ và cột và lỗ chân cột đã đào, dựng cột thẳng đứng, người kia dùng súng bơm dung dịch vào cột qua van 3 tác dụng đến khi cột chịu lực ban đầu. - Khi dựng cột chống phai đảm bảo các yêu cầu sau : + Cột phải vuông góc với xà và vách vỉa, phai đủ áp lực (tối thiểu đạt 8MPa). + Lắp đầu cột phải ăn khớp với răng xà và cách đầu xà 35cm. Cột và xà phải được liên kết chắc chắn bằng dây thép 20mm. + Các cột chống phải thẳng hàng và đúng khoảngcách theo hướng dốc là 0,8m/khoang. b. Quy định an toàn khi chống giữ luồng bảo vệ bằng cũi lợn gỗ. Hàng cột chống đặc biệt ở luồng bảo vệ phải dựng đúng với hộ chiếu quy định vế kỹ thuật dựng cũng như khoảng cách giữa hai cột chống. Hai đoạn gỗ đầu tiên của cũi lợn phải được xếp song song với gương lò và phải được đặt xuống rãnh với chiều sâu tối thiểu 1/3 đường kính cây gỗ. Hai đoạn trên cùng phải gánh được ít nhất hai thìu tại vị trí xếp cũi lợn. Trong quá trình tháo dỡ và di chuyển cột chống đặc biệt từ luồng bảo vệ cũ sang chống giữ luồng bảo vệ mới phải căn cứ vào độ dốc của lò chợ: Nếu độ dốc lò chợ á 150 thì chỉ được phép dựng và tháo dỡ cột chống đặc biệt từ dưới lên theo hướng dốc. Khi tiến hành thu hồi cột chống đặc biệt phải chọn vị trí rút lui an toàn để đề phòng khi xảy ra sập lở. Nếu áp dụng phương pháp chèn lò từng phần thì chiều rộng dải đá chèn xếp ở luồng bảo vệ không nhỏ hơn 4m. - Khi chuyển luồng sang cũi lợn phải phân ra từng nhóm( mỗi nhóm hai người). Trong nhóm có một công nhân bậc 5 ( hoặc bậc 6) và một công nhân bậc 4 có sức khoẻ mạnh nhanh nhẹn, nhiều kinh nghiệm. Mỗi nhóm cách nhau từ 2 ữ 4 cỗ cũi lợn. - Trước khi tháo dỡ cũi lợn luồng trong, khu vực làm việc phải bổ xung, thay thế các chi tiết của thìu cũi lợn bị mất, gãy, chèn kích nóc rỗng, đánh cột 31
  33. đạp chắc chắn đồng thời chuẩn bị vị trí xếp và chạy 04 luồng cột vững chắc ( không được tháo cột thìu làm cột chuồng). - Nếu khu vực làm việc chưa được củng cố chắc cấm tháo dỡ cũi lợn. - Cục cũi lợn tháo dỡ ra phải được để nơi thật gọn gàng, chắc chắn, dễ lấy để xếp không ách tắc lối đi lại, lối tháo than, luồng thông gió. Nghiêm cấm vừa tháo dỡ cũi lợn luồng trong vừa xếp cũi lợn luồng ngoài. - Trước khi tiến hành xếp cũi lợn phải chọn vj trí xếp hợp lý, đúng khoảng cách , đúng hướng, thẳng hành theo hộ chiếu quy định. Mỗi cặp tháp dỡ và xếp phải có đầy đủ dụng cụ làm việc như : choòng, búa cán dài, cuốc và xẻng - Cũi lợn phải xếp sát nền, không được độn than, cục hụt, cục mục xuống dưới. Cũi lợn xếp xong phải đạt yêu cầu sau : - Mỗi cũi lợn phải đảm bảo có đủ 4 cột chuồng, vuông vắn, ke với vắch vỉa( nóc lò chợ), không loe loa kèn, phình tang trống. Trong một luồng cũi lợn phải thẳng hàng. - Các cục cũi lợn phai đảm bảo chiều dài 1,2m và có đường kính tối thiểu 14cm. gỗ phải đảm bảo phẩm chất. - Trong một cỗ cũi lợn cố định không được vừa xếp thanh pin vừa xếp cũi lợn. - Không được để mất cũi lợn trong trường hợp có thể lấy được, khi lò chợ sang cũi lợn phá hoả. Trường hợp cũi lợn bị nén bẹp, vùi lấp không thể lấy được( phải để lại) thì phải được sự đồng ý của phó Quản Đốc trực ca. c. Quy định an toàn khi phá hỏa đá vách. Khi phá hỏa đá vách có thể gây ra sập đỏ trong phạm vi nhỏ hoặc lớn, ngay khi bắt đầu tháo dỡ cũi lợn hay cột chống đặc biệt, vì vậy trước khi tháo dỡ cần phải xem xét củng cố các luồng bên ngoài và luồng cần đánh đạp đá vách. Đối với các luồng bên ngoài có thể củng cố bằng các vì gánh hoặc đánh va gô. Trình tự phá hỏa phải tiến hành từ dưới lên theo hướng dốc và từ trong ra ngoài.(Nếu độ dốc á < 150 có thể phá đá từ trên xuống). Khi tiến hành phá hỏa phải ngừng các công việc phá than ở gương lò. Khi đã tháo dỡ hàng cột chống đặc biệt ở luồng bảo vệ cũ và chặt một số cột chống mà đá vách không sập xuống, thì phải tiến hành phá hỏa đá vách bằng khoan nổ mìn (phá hỏa cưỡng bức). Phá hoả thường kỳ : - Người làm công tác phá hoả phải là thợ có kinh nghiệm, có sức khoẻ và mang đầy đủ dụng cụ làm việc như : choòng dài, búa cán dài, búa chém, dây xích sắt - Đầu tiên là việc chuyển cũi lợn từ trong ra ngoài, tù dưới lên trên. Người làm phía trong phải có người phía ngoài quan sát, theo dõi diễn biến của nóc lò. Các cũi lợn phải xếp gọn gàng không gây ảnh hưởng của người làm công tác phá hoả. - Xếp đầy đủ cũi lợn ở luồng ngoai theo quy định ở điều 85. - Quá trình phá hoả, mọi công việc theo sự chỉ đạo của quản đốc hoặc phó quản đốc trực ca hoặc lò trưởng. 32
  34. - Trước khi chặt luồng phá hoả luồng trong thì các luồng ngoài phải đwcj củng cố thật vững chắc, các chi tiết của thìu chống đầy đủ chắc chắn. Cĩ lợn hoặc pin xếp xong phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Mỗi thìu cho đánh hai cột đạp, đầu cột đạp đội vào hàng thìu thứ hai( tính từ gương ra) chân cột sâu vào gương 20cm. Gương lở phải được cược chặt, nếu lở sâu hơn 50cm thì phải cài chèn lên gá đánh cột đạp chắc chắn. - Nhóm phá hoả phải có hai người ( một người chặt cột, một người quan sát) và phải đứng ở vị trí chắc chắn, an toàn chặt cột để phá sập nóc Phá hoả ban đầu lò chợ : - Phá hoả ban đầu là việc đánh sập lần đầu tiên đá vách của vỉa than. - ở những lò chợ điều khiển đá vách bằng phá hoả toàn phần thi sau khi lò chợ tiến được một số luồng nhất định theo tính toán được quy định trong hộ chiếu và biện pháp phá hoả thì tiến hành tổ chức phá hoả ban đầu. - Lò chợ trước khi phá hoả ban đầu phải củng cố chắc chắn, lò chợ có hai lối thông lên lò cái đầu và hai lối thông xuống lò cái chân, đảm bảo cao ráo, chắc chắn, lò chợ không còn chân khay( thẳng luồng). - Khi phá hoả : 02 hàng cũi lợn sát luồng gương, 03 hàng cũi lợn đầu,03 hàng cũi lợn chân lò chợ( theo hướng dốc) để lại không phá. Trường hợp lò chợ khấu càn trụ bảo vệ đầu và chân lò chợ thì có thể tháo dỡ hoàn toàn cũi lợn tới sát lò cái chân và lò cái đầu. - Trước khi chặt cột phá hoả ở luồng trong thì các luồng ngoài phải được củng cố thật vững chắc, các chi tiết của thìu chống đầy đủ chắc chắn. Cũi lợn xếp xong phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Mỗi thìu cho đánh hai cột đạp, đầu cột đạp đội vào hàng thìu thứ hai ( tính từ gương ra) chân cột sâu vào chân gương 20cm. Gương lở phải được cược chặt, nếu lở sâu hơn 50cm thì phải cài chèn lên gá đánh cột đạp chắc chắn. - Người làm công tác phá hoả phải là thợ có sức khoẻ và có kinh nghiệm. Khi làm việc phải có đầy đủ dụng cụ như : Choòng dài, búa cán dài, búa chém, dây xích. - Nhóm phá hoả phải có 02 người ( một người chặt cột, một người quan sát) và phải đứng ở vị trí chắc chắn, an toàn chặt cột để phá sập nóc. - Một người tiến hành chặt cột( từng thìu một) từ dưới lên trên và từ trong ra ngoài. Những người khác phải tuyệt đối im lặng nghe ngóng, quan sát nếu có hiện tượng nóc sập đổ phải báo cho mọi người rút ra vị trí an toàn. Cột ở phía trong chặt ắ đường kính cột. Cột ở hai luồng ngoài sát luồng bảo vệ thì chặt 2/3 đường kính cột. - Dùng cây gỗ dài chắcc chắn( 3m đến 4m đường kính 10cm đến 12cm) đứng ở vị trí an toàn đập mạnh cho những cây cột đã chặt gẫy hẳn hoặc dùng xich và kích để kéo nhổ cho cột gãy. - Sau khi cột đã gãy hết mà nóc không sập đổ thì phải tiến hành khoan nổ mìn cho nóc sập đổ ( có biện pháp cụ thể). - Trong quá trình phá hoả mọi công việc phải dùng lại hoàn toàn, trừ công việc củng cố chống dặm dò. Những người không có trách nhiệm làm cong tác phá hoả tuyệt đối không được đến lò chợ phá hoả. 33
  35. - Trong quá trình phá hoả ban đầu mọi công việc phải theo sự chỉ đạo của ban chỉ huy phá hoả ban dầu do Giám đốc công ty quyết định. Phai cược chặt đất đá phá hoả không để tràn ra luồng bảo vệ. 4.2.3. Quy định an toàn khi đi lại và vận chuyển vật liệu chống giữ trong lò chợ. Để đảm bảo an toàn trong qua trinh vận chuyển vật liệu chống dữ và đi lại trong lò chợ. Các lò chợ phải có từ 2-3 lối ra ngoài tùy thuộc vào độ dốc của lò chợ.Một lối thông với lò thông gió, 1 đến 2 lối thông lò vận chuyển. Khi đi lại trong lò chợ phải đi dưới các vì chông chắc chắn, không được bán vào máy móc thiết bị. Không đi trên máng cào, máng trượt. Không bước qua máng cào khi nó đang làm việc. Khi vận chuyển gỗ hoặc cột chông thủy lực từ ngoài vào hay trong lò chợ nghiêm cấm lao gỗ hoặc cột chống ở trong lò chợ. Gỗ hoặc cột chống chưa sử dụng đến phải được xếp vào vị trí gọn gàng không gây cản trở đến các hoạt động ở trong lò. Vận chuyển gỗ hay cột chống thủy lực, xà kim loại phải chấp hành đúng các quy định các quy định về vận chuyển gỗ trong lò. 4.3 Quy định an toàn trong công tác nổ mìn 4.3.1 Quy định an toàn khi bảo quản và vận chuyển vật liệu nổ. a. Quy định an toàn khi vận chuyển vật liệu nổ. Phương tiện vận chuyển vật liệu nổ có thể là ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, xe xúc vật kéo hoặc mang vác trực tiếp, khi vận chuyển vật liệu nổ cần phải thực hiện các quy định an toàn sau. Tất cả các phương tiện vận chuyển vật liệu nổ phải được cơ quan công an phòng chống cháy nổ cấp tỉnh, thành phố kiểm định và cấp giấy phép. Các phương tiện vận chuyển vật liệu nổ phải có biển báo theo quy định. Sàn xe chở vật liệu nổ phải là sàn gỗ, đảm bảo phải khô ráo, sạch sẽ, không có đầu mỡ hoặc hóa chất. Tình trạng các thiết bị vận tải phải tốt, phải đủ khung mui vá có cửa khóa chắc chắn. Nghiêm cấm chở người trên phương tiện vận chuyển vật liệu nổ. Nghiêm cấm chở chung thuốc nổ với kíp nổ trên cùng một phương tiên vận chuyển. Nếu chuyên chở bằng tàu hỏa thì kíp nổ va thuốc nổ phải cách nhau ít nhất là 6 toa. Đưa vật liệu nổ từ kho đén nơi sử dunhj được phếp sử dụng xe cải tiến, gánh hoặc mang vác. Khi đưa vật liệu nổ phải để trong hòm kím hoặc đẻ trong các túi vải mềm. Kíp nổ phải được để trong hòm gỗ và được chèn chắc chắn bằng vật liệu mềm. Trên đường vận chuyển vật liệu nổ bằng xe ôtô nếu phải dùng xe dê nghỉ ngơi chỉ được dừng ở ngoài khu vực dân cư và phải dừng cách xa đường quốc lộ ít nhất 100m. Khi không có điều kiện dừng xe ở xa đường thì cho phép dừng ở bên lề đường nhưng cách xa vùng dân cư tối thiểu 200m. Khi mang vật liệu nổ từ kho dến nơi nổ mìn bằng các phương tiện thô sơ hoặc mang vác trực tiếp tuyệt đối không được dừng nghỉ dọc đường trong khu vực dân cư. 34
  36. b. Quy định an toàn khi bảo quản vật liệu nổ. Tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vật liệu nổ công nghiệp đều phải có khó chứa. Vị trí đặt kho và thiết kế kho chứa phải được các cơ quan thanh tra kỹ thuật an toàn, cơ quan phòng cháy chữa cháy, cơ quan phòng chống bảo lụt cấp tỉnh thành phố kiểm tra và cấp giấy phép xây dựng. Vị trí đặt kho thuốc nổ tới các công trình xung quanh được xác định theo công thức sau: L = K.Q (m) Trong đó: Q: Lượng thuốc nổ tối đa chứa trong kho (kg) K: Hệ số an toàn phụ thuộc vào kiểu kho chứa K = 2 đến 4 nếu là kho chứa ngầm K = 5 dến 8 nếu là kho nổi Không đặt kho chứa VLNCN trong ranh giới nguy hiểm của đường dây điện cao thế. Xung quanh kho phải được phát quang, làm đường cản lửa và rãnh thoát nước, phải có rào chắn bảo vệ và treo biển cấm không có nhiệm vụ vào kho chứa VLN. Nhất thiết phải xây dựng hệ thống chống sét và phải có hệ thống chiếu sáng, điện áp chiếu sáng cho kho là 120V. Tại kho chứa VLN nhất thiết phải có đầy đủ các thiết bị phòng cháy, chữa cháy như bình dập lửa, cát, thùng chứa nước, xẻng lúc nào cùng ở trạng thái tốt nhất. Trong kho chứa phải có các giá hàng khoảng cách cách nền tối thiểu là 2cm. Không được xếp chung thuộc nổ với kíp nổ trên cùng một giá. Người giữ kho phải được đào tạo về chuyên môn, chỉ được cấp phát VNLCN khi có phiếu xuất của thủ trưởng đơn vị. Đối với thở nổ mìn khôi lượng VLN đã sử dụng trong 1 ca phải được nhật ký vào sổ báo cáo sau ca, nếu còn thừa phải mang nhập lại kho. Thủ kho có trách nhiệm mở sổ theo dõi khối lượng thuốc nổ nhập trở lại của các thợ mìn. 4.3.2 Quy định an toàn trong công tác nổ mìn. Phương pháp nổ mìn điện đang được áp dụng phổ biến hiện nay ở các mổ hầm lò, quy phạm an toàn quy định: Tất cả các kíp điện trước khi đem sử dụng phải được đo điện trở. Việc đo điện trở phải được tiến hành trên thiết bị chuyên dùng (kíp đặt trong ống kim loại hoặc sau tấm gỗ dày > 10cm). Sau khi đo kiểm tra xong 2 đầu dây dẫn của kíp phải được đấu chập lại đảm bảo tiếp xúc tốt.Dây dẫn chính phải là dây bọc cách điện, không được phép sử dụng dây trần. Trước khi nạp mìn đấu nối mạng nổ, mọi người không có nhiệm vụ phải ra khỏi khu vự bãi mìn. Đồng thời tiến hành cắm biển báo hiểu các ở các vị trí xung yếu. Chỉ thở mìn có nhiệm vụ mới được làm việc ở khu vực nạp mìn. Chỉ sau khi nạp mìn và lấp bua xong tất cả các phát mìn của một đợt nổ vá đã đưa những người không liên qua đến việc ;ắp ráp mạng điện nổ ra nơi an toàn mới được phép nối các đầu dây nhánh với nhauvaf dây nhánh với dây dẫn chính. Chìa khóa của dây nổ mìn, khóa hộp cầu dao phải do người chỉ huy nổ mìn hiuwx trong suốt thời gian từ lúc chuẩn bị nạp đén khi nổ và cả sau khi nổ 35
  37. mìn xong, khi kiểm tra bãi mìn. Cấm đấu mạng điện nổ theo hướng từ nguồn điện đến các phát mìn. Hai đầu dây dẫn chính của mạng nổ phải được bện chập với nhau cho đến khi đấu xong mạng nổ và người chỉ huy nổ mìn là người đấu dây dẫn chính vào cọc đấu dây của máy nổ mìn hoặc cầu dao điện. Sau khi nổ mìn thông gió xong. Hai đầu dây dẫn phải được tháo ra và bện chặt đảm bảo tiếp xúc tốt. Chìa khóa của máy nổ mìn, cầu dao điện do ngưởi chỉ huy nổ mìn giữ lúc này mới được vào kiểm tra bãi mìn. Chỉ khi có thông báo của người chỉ huy nổ mìn bảo đảm an toàn mợi người mới được trở lại làm việc bình thường. Trước khi và sau nổ mìn đều được phải đo kiểm tra hàm lượng khí CH4<1%. 4.3.3.Nổ mìn ở mỏ có nguy hiểm về khí nổ bụi nổ. Công tác nổ mìn ở mỏ hầm lò nguy hiểm về khí nổ và bụi nổ rất phức tạp, nó có thể gây ra cháy nổ hỗn hợp khí CH4 và bụi nổ. Đặc biệt là những vị trí gần gương lò. Để ngăn ngừa khả năng cháy nổ hỗn hợp khí CH4 và bụi nổ, quy phạm ano toàn quy định: Chỉ được phép nổ mìn ở những gương lò thông gió liên tục và hàm lượng khí CH4 < 1%. Đồng thời sử dụng thuốc nổ an toàn. Những vỉa than có khả năng phụt khí bất ngờ chỉ cho phép nổ mìn làm om than. Bao thuốc cố kíp phải được đặt ở đáy lỗ khoan. Chiều sâu tối thiểu của lỗ khoan nhỏ trong than và trong đá không được nhỏ hơn 0.6m. Khi trong gương lò có một số mặt thoáng tự do thì khoảng cách tại một điểm bất kỳ của phát mìn đến bề mặt gần nhất không được nhỏ hơn 50cm trong than và 30cm trong đá.Chiều dài nút bua quy định như sau: + Khi chiều sâu lõ khoan từ 0.6m đến 1m: LB = # LK. + Khi chiều sâu lỗ khoan lớn hơn 1m: LB không nhỏ hơn 0.5m. Các vỉa nguy hiểm về khí nổ, bụi nổ có thể áp dụng biện pháp an toàn bổ xung như dùng tui nước treo, phun nước vào gương trước khi nổ hoặc nút mìn bằng bua nước. 4.3.4. Các nguyên nhân gây ra tai nạn trong công tác nổ mìn. Trong công tác nổ mìn dù nổ mìn lổ thiên hay trong hầm lò đều có thể xảy ra tai nạn. Các nguyên nhân gây ra tai nạn chủ yếu ở hai nhóm nguyên nhân chính sau: a. Nguyên nhân về kỹ thuật. Trong quá trình sản suất nếu phải tiến hành nổ mìn nhất thiết có hộ chiếu nổ mìn. Người chỉ huy nổ mìn phải thực hiện đúng quy chiếu. Trong những trường hợp do bị biến đổi về địa chất, hoặc những trường hợp bất khả kháng phải thay đổi hộ chiếu bắt buộc người chỉ huy nổ mìn phải báo cáo về thay đổi, hình thức và biện pháp cho phù hợp. trong những trường hợp nếu thợ mìn áp dụng cứng nhắc có thể xảy ra các tai nạn vì những nguyên nhân sau: Khối lượng thuộc nổ cho mỗi lổ mìn quá lớn không phù hợp với đối tượng cần phá vỡ. Nếu cứ áp dụng sẽ dẫn đến sập đổ lò. Mật độ lỗ khoan quá dày, các thông số của lỗ khoan không phù hợp cũng có thể dẫn đến làm hưu hỏng đường lò với một loạt nổ không cần thiết lớn như vậy. 36
  38. Khoảng cách dây dẫn chính không phù hợp.Như như nổ mìn đồng loạt trong lò chợ khi điều kiện vách đá không ổn định hoặc chiều dày vỉa lớn Hay thiết kế nổ đồng thời khi gương lò lớn, số lượng lộ khoan nhiều Tất cả các nguyên nhân trên là do sai sót trong thiết kế kỷ thuật. Ngoài ra có thể có những sai sót trong kỹ thuật làm thuốc nổ, kỹ thuật làm mìn mồi, kỷ thuật đấu dây không đúng quy định cũng xảy ra các tai nạn dẫn đến tử vong. b. Nguyên nhân về tổ chức sản xuất. Nổ mìn là một công đoạn trong một chu kỳ sản xuất. Đây là công việc mang tings đặc thù mức độ nguy hiểm cao. Vì vậy công tác tổ chức quá trình nạp nổ mìn phải hết sức chặt chẽ.tuy nhiên trong thực tế cũng xảy ra tai nạn lao động do công tác tổ chức sản xuất không thực hiện đúng quy định quy phạm, và thiếu sử chi huy đồng bộ như: Người chỉ huy nổ mìn không thống nhất tín hiểu, không khóa máy nổ mìn hoặc cầu dao điện, không mang theo chìa khóa trong người mà để lại vị trí đặt máy. Để cho người không có chuyên môn, nhiệm vụ sử dụng máy nổ mìn. Trong quá trình nạp nổ mìn vẫn để các công việc sản xuất khác diễn ra đồng thời gần khu vực nổ mìn.Tất cả các nguyên nhân trên đều là những nguyên nhân chính dẫn đén các tai nạn. Ngoài ra còn có thể do chính những người thợ mìn bất cẩn trong qua trình làm việc, hoặc không chấp hành các quy định khi làm nhiệm vụ. 4.3.5. Quy định an toàn khi xử lý mìn câm. Sau khi nổ mìn xong cần có một khoảng thời gian cần thiết đẻ thông gió làm loãng khí độc và khói mìn (tối thiểu phải 15 phút) thợ mìn mới được vào kiểm tra bãi mìn, lúc này chưa được dỡ bỏ các biển báo và trạm gác. Nếu kiểm tra thấy có mìn câm ( phát mìn chưa nổ ) thì phải xem xét kỹ lưỡng tình trạng, vị trí, số lỗ ghi chép đầy đủ rồi quay ra ngoài báo cáo với người chỉ huy nổ mìn để lập biện pháp. Công việc xử lý mìn câm là một công việc nguy hiểm và phức tạp vì vậy ngoài người trực tiếp được giao nhiệm vụ xử lý và người chỉ huy nổ mìn còn lại các người khác kể cả thợ nổ mìn không được giao nhiệm vụ phải rời khỏi khu vực có mìn câm. Khi kiểm tra và xử lý mìn câm nghiêm cấm kéo dây kíp trong lỗ mìn câm, đào hoặc khoan trực tiếp lỗ mìn câm. Trình tự xử lý phải thực hiện như sau : + Nếu phát mìn câm còn nguyên dây cháy chậm hoặc dây dẫn điện lộ ra ngoài thì cho phép kiểm tra chắc chắn và khởi nổ lại. + Trường hợp không thể thực hiện được thì dùng tay bới nhẹ lớp phủ bên trên rồi sử dụng 1 lượng thuốc nổ ốp lên trên và cho nổ để kích nổ phát mìn câm ( nếu lõ mìn câm có chiều dài bua < 0.4m). + Nếu không sử dụng được các hình thức trên thì tiến hành khoan 1 lõ khoan song song với lỗ khoan cũ khoảng cách tối thiểu là 0.3m đối với lỗ khoan nhỏ và 3m đối với lỗ khoan lớn, rồi tiến hành nạp thuốc cho nổ để phá hủy quả mìn câm. Sau khi xử lý xong kiểm tra lần cuối.Chú ý thu dọn sạch thuốc nổ vung vãi, kíp nổ ( nếu có) kiểm tra lại tình trạng của lò và gương lò để có những 37
  39. khuyến nghị hoặc chỉ dẫn xử láy để đảm bảo an toàn cho những người làm việc trong gương rồi mới phát lệnh an toàn. 4.4 Quy định an toàn trong công tác vận tải Chỉ cho phép sử dụng các tầu điện ắc quy và cá phương tiện vận tải khác đảm bảo tiêu chuẩn phòng nổ được quy pham cho phép.Quá trình sử dụng các phương tiện vân tải phải tuyệt đối tuân theo”Quy điịnh vận hành”. Đầu tầu kéo đoàn xe từ ngoài vào đến ga hoặc cúp gần nhất(đối với gương lò đá đang thi công).Từ vị trí này vào gương lò đá được phép để đầu tầu điện ở cuối đoàn xe để dồn toa. Người lái tầu điện phải luôn nhìn về phía trước,quan sat chương ngại vật và người nhằm chủ động phanh hamư tầu kịp thời.Khicho tầu chạy qua khớp xén,ngã ba,cửa cúp,ga phai giảm rốc độ chob tầu chậm lại. Không được giao tầu cho người khác lái khi đang làm việc.Muốn rời tầu,người lái tầu phải tắt máy,hãmchặt phanh,tháo chìa khoà khỏ bộ phận điều khiển,để đèn sáng.Khi làm việc người lái tầu phải chú ý người làm nhiêm vụ dồn xe,đóng móc và những người xung quanh. Chỉ được phép cho tầu chạy khi người đóng móc xe ra hiệu lệnh.Nghiêm câ,s việc vừa đóng móc vừa cho tầu chạy.Nếu có toa bị căm phải cho tầu dừng lại rồi tháo xe bị cặm ra khỏi đoàn xe mới tiến hành bốc cặm. Cấm cho tầu chạy trong trương hợp sau: -Phanh tay không đảm bảo. -Bánh xe quá mòn. -Không có cát đẻ rắc dọc đường. - Các bộ phận của tầu không đảm bảo an toàn,phát ra tua lửa điện,rò điện. - Tăm-pông và móc của toa xe bị hỏng hoặc không có. - Đèn chiếu sáng quá kém. Khi đẩy xe goòng bằng thủ công phải thực hiên đầy đủ các quy định an toàn: Người đẩy xe phải thường xuyên phát hiện những sai sót về kỹ thuật đường sắt. Không được để xe chạy tự do khi có cũng như khi không tải.Khi đẩy xephải luôn quan sát phía trước. - Người đẩy goòng phải luôn luôn bám sát goòng,cấm để goòng tự động phóng ra phía ngoài.Mỗi xe cần phải có một cây chèn tốt để lúc cần có thể hãm được ngay. - Cấm đứng phía trước để kéo xe hoặc hãm goòng. 0 - Khoảng cách giữa hai xe tối thiểu là 10m khi đi trên đoạn đường dốc 5 /00 0 và 20m khi đi trên đường dốc 5-7 /00 . - Cấm để tay lên miêng xe goòng để đẩy,Goòng phải có tay cầm để đẩy. - Cấm trèo lên goòng hay đứng lên tăm-pông(kể cả lúc goòng đứng). - Chỉ cho phép sử dụng nhưng xe goòng còn tốt bảo đảm kỹ thuật. - Khi goòng bị cặm phải báo ngay cho người đẩy goòng phía sau biết đẻ hãm xe lại, đông thời bỏ xe để tránh về phía hông lò 4.4.1 Quy định an toàn khi vận chuyển người ở giếng đứng. - Khi vận chuyển người lên xuống ở giếng đứng nhất thiết phải đưa người vàp thùng cũi. để đề phòng người rơi xuống giếng, các mức lò có cựa lò tiếp xúc với giếng phải có cựa chắn bảo vệ. 38
  40. Cửa ra vào ở miệng giếng phải có cựa chắn bảo vệ, phải treo bảng nội quy ra vào thùng cũi và tín hiệu nâng hạ để mọi người biết. Số người quy định trong một chuyến không quá năm người trên một mét vuông đáy thùng. Các dụng cụ chuyên chở cung với người phải gọn gang không được chuyên chở vật liệu cháy nổ với chuyên chở người. Chỉ đựoc ra hoặc vào thùng cũi khi thùng cũi đã dừng hẳn. nghiêm cấn ra vào thùng cũi khi đã truyền tín hiệu nâng hoặc hạ cho thợ vận hành trục tải. 4.4.2 Quy định an toàn khi vận chuyển người ở lò nghiêng. ở những lò nghiêng có chiều dài lớn hơn 25m phải sử dụng thiết bị vận chuyển người lên xuống. tuỳ theo độ dốc của lò để sử dụng thiết bị vận chuyển. Nếu độ dốc của lò nghiêng từ 50 đến 100 cho phếp dung đàu tàu chuyên dung. Nếu lò có độ dốc 130 đến 180 có thể dung băng tải chuyên dung hoặc vận chuyển người bằng cáp treo. Nếu độ dốc của lò nghiêng từ 180 đến nhỏ hơn 500 sử dụng các trục tải kéo các toa xe chuyên dung để chuyên chở người. Nếu độ dốc của lò nghiêng lớn hơn 500 thì phải dung trục tải và thùng cũi như ở giếng đứng. Hiện nay ở Việt Nam, cũng như các nước có công nghiệp khai thác tiên tiến thường sử dụng trục tải kéo các toa chuyên dung có mái che chuyển người. Yêu cầu của đoàn tàu phải có cấu tạo chắc chắn có hệ thống phanh hãm nhẹ nhàng, ở mỗi tao phải có cơ cấu hãm tự động để đề phòng tố độ táu vượt quá 25% tốc độ định mức hoặc các móc xích giữa các goòng bị đứt. Đầu tàu phải có đèn pha sang trắng, cuối đoàn tàu phải có đèn tín hiệu màu đỏ ngoài ra phải có đủ tín hiệu còi hoặc chuông và hệ thống lien lạc tự động Trước khi vận hành phải kiểm tình trạng an toàn của các thiết bị. trong khi vận hành tàu nhất thiết phải có 2 người, người thợ vận hành phải ngồi ở phía trước đoàn tàu để quan sát và thợ phụ đièu hành công nhân lên xuống. trước khi chuyển động nhất thiết phải phát tín hiệu cho mọi người biết. Ngoài thiết bị vận chuyển người, đối với các lò nghiêng có chiều dài nhỏ có thể bó trí đường bậc thang có tay vịn để ngưòi đi bộ. 4.4.3 Quy định an toàn khi vận chuyển ngưòi ở lò bằng. Để tận dụng thời gian làn việc và đạm bảo sức khoẻ cho công nhân.Nếu khoảng cách từ sân ga đến bến giếng hoặc từ cửa lò bằng đến vị trí làm việc lớn hơn 1000m thì phải sử dụng thiết bị vận chuyển để chuyên chở công nhân đến nơi làm việc. Quy định về thiết bị vận chuyển có thể vận chuyển bằng băng tải chuyên dung hoặc tau điện.Nếu vận chuyển bằng tàu điện thì đoàn tàu phải có phanh hãm ở tất cả các goòng.Phía trước đoàn tàu phải có đèn pha màu sang trắng.Phía sau đèn màu đỏ va có đủ tín hiệu còi hoặc chuông. Quy định về tốc độ: + Đoạn đường thẳng không có chướng ngại vật phía trước nếu là toa xe chở người có mái che thì tốc độ không được vượt quá 20km/h. + Người vận hành phải tuyệt đối tuân thủ các hướng dẫn, biển báo tốc độ tại các đường giao nhau và đường vòng trong lò. Tại các vị trí ga phải có đèn sáng cố định. 39
  41. Nghiêm cấm chở các vật liệu cồng kềnh, vật liệu dễ cháy, nổ cùng với đoàn tàu chở người Khi đi lại ở lò bằng mọi người phải chấp hành các quy định sau: Đi về một phía được quy định. Khi đang đi nếu thấy tín hiệu đoàn tàu sắp đi qua phải đứng nép vào hông lò vị trí ở khoảng trống giữa 2 cột của 2 vì chống, khi tàu đi qua mới tiếp tục được đi. Nếu là đường lò có dây điện trần (trôlây) thì cấm vác dụng cụ dài ở trên vai. Phải thực hiện đúng các chỉ dẫn, biển báo hiệu ở trong lò. 4.5 Quy định an toàn khi sử dụng các thiết bị điện mỏ hầm lò 4.5.1. Tác dụng của dòng điện đối với cơ thể người. Khi tiếp xúc với các bộ phận mang điện thì dòng điện sẽ chảy qua cơ thể người. Căn cứ vào tác dụng củ dòng điện đối với cơ thể người có thể chia làm 2 loại tác dụng đó làm tác dụng kích thích và tác dụng chấn thương. a. Tác dụng kích thích Khi người tiếp xúc với các vật mang điện có điện áp không lớn lắm (lưới điện hạ áp) thì dòng điện chạy qua người tương đối nhỏ (khoảng 25mA đến 100mA) và thời gian tiếp xúc tương đối ngắn thì tác dụng của dòng điện đối với cơ thể người diễn biến như sau: Khi tiếp xúc Rng còn đủ lớn lên dòng điện chảy qua người nhỏ. Do đó chỉ làm cho cơ bắp và ngon tay co quắc nhẹ. Nếu nạn nhân không thể rời mang điện thì cơ thể người nóng dần lên và điện trở người giảm xuống nên dòng điện qua tăng lên, làm tăng hiện tượng co quắc các bắp thịt và ngón tay. Nếu thời gian tiếp xúc với vật mang điện càng lâu thì da người nóng lên và ra mồ hôi, làm cho điện trở của người càng giảm xuống và dòng điện qua người tăng nhanh. Hậu quả làm tê liệt cơ qua hô hấp và tim dẫn đến tử vong. Đặc điểm của nạ nhân bị tử vong do tác dụng kích thích là cơ thể không gây thương tích khó phát hiện vị trí dòng điện qua cơ thể. Trong sản xuất và sinh hoạt con người chủ yếu tiếp xúc với lưới điện hạ áp vì vậy tai nạn về điện chủ yếu là tác dụng kích thích của dòng điện. b. Tác dụng chấn thương. Khi tếp xúc hoặc đến gần vật mang điện cao áp (U > 6000V), với điện áp đó, mặc dù chưa chạm vật mang điện cũng đã bị dòng điện cao áp phóng ra tia hồ quang. Khi bị phóng tia hồ quang con người sẽ xảy ra các hiện tưởng sau: Thời gian dòng điện chạy qua cơ thể rất ngắn chưa kịp gây các tác dụng kích thích thì cơ quan hô hấp và tuần hoàn đã bị tê liệt và cơ thể bị đốt cháy hoặc bỏng nặng. Theo phạn xạ tự nhiên người bị nạn tránh vật mang điện có thể bị ngã và đập vào các vạt rắn khác hoặc ngã tư trên cao xuống gây thương tích hoặc tử vong. 4.5.2. Các biện pháp đè phòng điện giật. Để đề phòng điện giật người ta áp dụng nhiều biện pháp trong đó phổ biến nhất là tránh va chạm vào vật mang điện và triệt tiêu dòng điện rò. Để người không chạm phải có các bộ phận mang điện có các biện pháp sau: 40
  42. Các bộ phận mang điện hở như cầu dao, dây dẫn trần phải đặt ở vị trí cao mà người vô ý cũng không chạm phải. Chế tạo các thiết bị điều khiển kiểu kín kết hợp với cơ cấu liên động để đảm bỏ cho người không tiếp xúc được với bộ phận mang điện khi chưa cắt điện khỏi bộ phận ấy. Các thiết bị cầm tay như máy khoan, các thiết bị chiếu sáng, dùng điện áp không quá 127 V. Các máy công tác công suất lớn phải có thiết bị khởi động, điện áp khởi động nhỏ. Tại trạm điện trung tâm phải có thảm cách điện, thợ vận hành phải mang ủng và gang tay cách điện. Triệt tiêu dòng điện rò bằng phương pháp tiếp đất, có hai phương pháp là tiếp đất tại trung tâm. Tiếp đất trực tiếp (hình a ) : nối bộ phận kim loại của thiết bị phần không mang điện như vỏ động cơ, vỏ khởi động từ, vỏ máy với cọc tiếp địa chôn ngay dưới đất để khi có dòng điện rò thì dòng điện sẽ qua dây này đi xuống đất. Do đó ở vỏ thiết bị sẽ không có dòng điện nguy hiểm. Tiếp đất ở trung tâm (hình b) : Các máy điện được nối bộ phận không mang điện với dây trung tính. Còn dây trung tính được tiếp đất ở trung tâm. Dây tiếp đất phải được kiểm tra thường xuyên về vị trí của dây tiếp đất và kiểm tra điện trở cách điện của các thiết bị bằng dụng cụ đo lường. Bố trí các dụng cụ báo điện rò hoặc thiết bị tự động ngắt điện khi có điện rò. Trong hầm lò tất cả các thiết bị điện bắt buộc phải tiếp đất, điện trở của hệ thống tiếp đất càng nhỏ càng tốt. Theo quy phạm an toàn quy định : + Tổng điện trở của mạng tiếp đất ở hầm lò từ điểm xa nhất đén cọc trung tâm (đáy giếng, cửa lò) không được lớn hơn 2 ôm. + Điện trở tiếp đất từ một vỏ máy lưu động nào đó tới điểm gần nhất của mạng tiếp địa không qua 1 ôm. a. Tiếp đất cho các thiết bị điện. Một trong nhuwngx thiết bị bảo vệ con người khỏi bị điện giật đó là tiếp đất. Thiết bị tiếp đất bao gồm các loại sau (theo quy phạm TCN ngày 14\06\2002 ) Vật tiếp đất chính: Được đặt trong giếng, bể chứa nước hoặc hố chuyên dùng. Được chế tạo bằng thép tấm có diện tích không nhỏ hơn 0.75 m2, chiều dày không dưới 5mm, chiều dài không dưới 2,5 m. Vật tiếp đất trong rãnh nước: Chế tạo bằng thép tấm có diện tích không nhỏ hơn 0,6 m2, chiều dày không nhỏ hơn 3 mm, chiều dày không nhỏ hơn 2,5 m. Được đặt chỗ sâu nhất của rãnh nước trên lớp cát hoặc sạn vụn dày 150 mm ( hình a ). 1. Dây tiếp đất 2. Vật tiếp đất 3. Cát, sỏi sạn vụn 4. Nước Vật tiếp đất bằng ống thép : Sử dụng với đường lò không có nước, ống thép có đường kính không nhỏ hơn 30 mm, dài không dưới 1,5 m trên thành ống khoan khoảng 20 lỗ cố đường 41
  43. kính 5 mm, đặt trong lỗ khoan đứng hoặc nghiêng 300, sâu 1,4 m. Cũng có thể làm giảm điện trở bằng cách đổ đầy chất ẩm ướt (cát, tro ) vào khoảng trống giũa ống thép và thành lỗ khoan. Chất đổ phải được làm ẩm định kỳ (hình b). b. Phân loại thiết bị điện theo phạm vi sử dụng. Để đảm bảo an toàn cho người và thiết bị làm việc ở mỏ hầm lò. Tùy theo mỏ người ta sử dụng các thiết bị điện có ký hiệu sau: Thiết bị có cấu tạo thông thường (PH): Dùng ở các mỏ hầm lò không có khí nổ, bụi nổ có cấu tạo chắc chắn có khả năng chịu được va đập, chống được bụi, có cơ cấu khóa liên động, có thiết bị phòng ngừa điện rò. Thiết bị có cấu tạo chắc chắn (PH) : Được sử dụng trong trạm máy cố định ở các đường lò có khí và bụi nổ nhưng phải đặt ở nơi có luồng gió sạch. Thiết bị này có cấu tạo chắc chắn, có cơ cấu khóa liên động, độ cách điện cao, có bộ phận dập tia lửa điện khi đóng ngắt điện, có khả năng chống bụi nước. Thiết bị có cấu tạo phòng nổ (PB) : Được sử dụng ở mỏ có khí nổ, bụi nổ có cấu tạo chắc chắn, có cơ cấu khóa liên động độ kín khít cao, an toàn tia lửa khi đóng ngắt điện, có khả năng chịu áp suất lớn khi xảy ra nổ thiết bị. Thiết bị có cấu tạo phòng nổ đặc biệt (PO) : Được sử dụng ở lò chợ có độ dốc lớn, các đường lò nguy hiểm về khí nổ, bụi nổ, có thể đặt trong luồng gió thải của mỏ. 4.5.3. Quy tắc an toàn khi sử dụng cáp điện. Cáp điện sử dụng trong mỏ hầm lò có nhiều loại như : Cáp lực, cáp điện thoại, cáp đền, cáp tín hiệu nếu phân chia theo cấu tạo thì có cáp cứng và cáp mềm (cáp cứng là cáp có vỏ bọc thép. Cáp mềm có vỏ bọc cao su hay chất dẻo) Điều 1. Không cho phép đấu song song các trạ biến áp di động khu vực để cung cấp cho trạm phân phối mà các hộ nhân điện đấu vào đó có tổng công suất vượt quá công suất của từng trạm. Trong trương hợp này,phải tách trạm phân phối thành hai phần độc lập để đấu vào các trạm biến áp riêng biệt. 1. Việc lựa chọn,sử dụng và bảo vệ cáp điện trong mỏ phải ohù hợp với”Quy phạm an toàn trong các hầm lò than và diệp thạch”. 2. Bán kính cong bên trong của cáp khi bị uốn so với đường kính ngoài của cáp khi lắp đặt vận hành,phải có bội số không nhỏ hơn: a)25 đối với cáp lực nhiều lõi có cách điện băng giấy”tẩm dầu ít cháy”trong vỏ chì bọc thép. b)15 đối với cáp lực nhiều lõi và cáp kiểm tra có cách điện băng giấy trong vỏ trì bọc và không bọc thép. c)10 đối với cáp lực và cáp kiểm tra có cách điện băng cao su hoặc polivinilon. d)5 đối với cáp mềm. Trong phạm vi mặt băng công nghiệp mỏ cáp đươc đặt trong các rãnh bê tông hoặc gạch xây,trong hào đất,dọc theo cầu vượt có cấu trúc kim loạihoăch treo trên các cột có dây căng đỡ cáp. 42