Võ thuật - Thái cực quyền hỏi đáp

pdf 37 trang vanle 1980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Võ thuật - Thái cực quyền hỏi đáp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvo_thuat_thai_cuc_quyen_hoi_dap.pdf

Nội dung text: Võ thuật - Thái cực quyền hỏi đáp

  1. tài liệu tổng hợp từ VNThuquan.net Thái Cực Quyền Hỏi Đáp (theo Trương Văn Nguyên) Lời Nói Ðầu Sức khỏe là ước mơ chung của loài người . Từ xưa , con người đã tốn nhiều thì giờ và công sức để tìm kiếm những biện pháp hửu hiệu để giử gìn và nâng cao sức khõe , trường thọ . Xưa nay con người dễ dàng nhận thấy là nếu thân thể khõe mạnh thì ít bệnh tật , do đó cũng có một ý hướng là lấy dưỡng sinh phòng bệnh làm chính , đồng thời với việc coi trọng chửa bệnh . Trong công tác điều trị nói chung , mục đích của người thầy thuốc và cũng là nguyện vọng của bệnh nhân là làm sao cho hết bệnh một cách đơn giản , ít tốn kém và hiệu quả lâu dài . Xu hướng lành mạnh trong y học ngày nay là khoa học điều trị ít dùng thuốc , dạy cho người bệnh các phương thức rèn luyện , ăn uống , nghĩ ngơi và sinh hoạt nói chung cho phù hợp với các quy luật sinh lý và bệnh học , nhờ đó lấy lại sức khõe , nâng cao sức đề kháng của cơ thể , chỉnh lý những rối loạn cơ năng dẫn tới mức điều hòa tối đa . Ngành trị bệnh này thường được gọi là "PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH" . Phương pháp dưỡng sinh có nền tảng là môn khí công - một phương pháp tự rèn luyện thân thể để giử gìn , nâng cao sức khõe , phòng và chửa bệnh , tương đối hoàn chỉnh . Về mặt hình thức , khí công chia làm hai phương thức : tĩnh luyện (tập ở tư thế tĩnh) , và động luyện (tập ở tư thế động) . Thái Cực Quyền (TCQ) thuộc về động luyện . TCQ thường được biết đến như một môn thể dục trị liệu . Trong thực tế , qua quá trình hình thành và phát triển , TCQ là một môn võ Ðường-bệ mà ngày nay được hâm mộ ở khắp nơi trên thế giới . Nó còn là một môn nghệ thuật vận động cấp cao , đầy tính thẩm mỹ , gây hứng thú cho người tập và làm say mê người xem . Do đó , TCQ ngày một được phổ biến . Sự ra đời của quyển sách này ," TCQ Thường Thức Vấn Ðáp" , là để đáp ứng với sự yêu cầu của những người trân trọng với sức khõe của mình qua môn Thái Cực Quyền . Nó vừa là Thầy , nó vừa là Bạn . Hy vọng rằng quyển sách này sẽ giúp cho các bạn học tập Thái Cực Quyền thực hiện được điều mình mong ước . ÐÀM TRUNG HÒA (Dịch giả) Dịch từ nguyên bản Trung Hoa : " TCQ Thường Thức Vấn Ðáp , của TRƯƠNG VĂN NGUYÊN " ( Hương Cảng : Thái Bình Thư Cục , 1970 )
  2. 1. Luyện tập Thái Cực Quyền có ích lợi gì ? Ích lợi của việc luyện tập Thái Cực Quyền rất nhiều. Mỗi động tác của Thái Cực Quyền hầu như là sự vận động của toàn thân, làm cho mỗi bộ phận trong thân thể chúng ta có dịp hoạt động. Trong khi luyện tập cần phải kết hợp động tác với sự hô hấp một cách tự nhiên, để làm phát triển cơ quan hô hấp và tăng gia lượng hoạt động của phổi. Lượng vận động tuy lớn nhưng không kịch liệt, làm cho huyết dịch tuần hoàn suông sẻ, phát triển cơ năng tim, làm cho tim đập một cách hòa hoãn nhưng khoẽ khoắn, làm giãm thiểu hiện tượng ứ máu và bệnh cứng động mạch. Ðồng thời việc thay cũ đổi mới các tế bào (hiện tượng chuyễn hóa hay còn gọi là tân trần đại tạ) được xúc tiến luôn, các phế vật trong cơ thể được bài trừ mau mắn. Sự luyện tập còn làm cho bao tử và ruột co thắt tốt hơn, thích ăn hơn, ngoài ra còn làm mất đi bệnh táo bón nữa. Việc luyện tập Thái Cực Quyền còn đòi hỏi "tâm tĩnh". Việc nội liễm tinh thần và tập trung tinh thần là một cách phát triển đại não rất tốt. Hơn nữa trong sự vận động mà các động tác vốn dĩ đã phức tạp lại nối với nhau một cách hoàn chỉnh, thì bộ phận đại não phải làm việc hết sức. Như vậy cũng chính là gây nên một tác dụng huấn luyện tốt đối với hệ thống trung khu thần kinh, phát triển cơ năng cũa hệ thần kinh, tăng cường một cách tự nhiên tác dụng điều tiết đối với các bộ máy, khí quản trong toàn thân, làm tăng gia tính thích ứng của thân thể đối với ngoại giới. Thí dụ như khả năng thích ứng với trời nóng nực hay giá lạnh và lực đề kháng với bệnh truyền nhiễm đều có thể tăng gia một cách tương ứng. Cho nên nếu kiên trì luyện tập Thái Cực Quyền, thì rõ ràng đó là một cách rèn luyện thân thể, tăng cường sức chống chọi, và ngay cả kéo dài tuổi thọ nữa. Ngoài ra việc luyện tập Thái Cực Quyền còn giúp ta rèn luyện được phẩm cách tốt đẹp như: trầm tĩnh, thanh thãn, kiên nghị, nhẫn nại, mẫn cảm và tập trung ý chí. Ngày nay, mục đích của chúng ta khi luyện tập Thái Cực Quyền không phải đơn thuần xem nó như một môn võ thuật, mà chủ yếu xem nó là phương pháp rèn luyện thân thể, khu trừ bệnh tật, làm chúng ta luôn luôn gín giữ tinh lực được sung túc.
  3. 2. Có phải ai cũng có thể luyện tập Thái Cực Quyền? Luyện tập Thái Cực Quyền có những ích lợi như vậy, thế thì có phải ai cũng có thể tập nó chăng? Ðúng vậy, hễ là người bình thường (không kể tuổi tác, gái trai) đều có thể tập (nhưng đối với người bệnh thì khác, như bệnh lạc huyết, bệnh tim ở thời kỳ nghiêm trọng). Còn như trẻ em khoẽ mạnh mà tập thì cũng không có gì trở ngại. Ðây chính là tính cách phổ biến của Thái Cực Quyền vì nó thích nghi với mọi người có thể chất, thể lực khác nhau. Chẳng qua, các huấn luyện viên cần chú ý đến trạng huống sức khoẽ của người học mà tùy nghi dạy quyền, như về mặt thời gian dài ngắn, số lượng động tác nhiều ít, vv. Ðó là tùy người mà dạy và dạy một cách linh động. Những lúc luyện tập một mình cũng nên chú ý đến điểm này. Giới người thích nghi nhất với việc tập Thái Cực Quyền, có thể chia ra như sau: 1. Từ trung niên đến lão niên, những ai không thể hoặc không muốn tập các môn vận động khác. 2. Thể chất suy nhược hoặc có bịnh mạn tính, như huyết áp quá cao, viêm khớp xương có tính phong thấp, phổi mới kết hạch, thần kinh suy nhược, cho đến bệnh kinh nguyệt không đều hòa ở phụ nữ. (Tốt nhất là nên đi khám bác sĩ xem tình trạng sức khoẽ). 3. Công chức, giáo sư, y sĩ, vv. Giới này vốn có nếp sinh hoạt an tỉnh, không ham thích những vận động kịch liệt (dữ dội), nên rất dễ thích nghi với việc tập TCQ. 4. Các bà các cô nội trợ, bất luận trung niên hoặc lão niên, đều có thể tập TCQ. Như vậy giới thanh niên không thích hợp ới TCQ chăng? Căn cứ vào giá trị và hiệu dụng của sự vận động TCQ, thì không có gì là không thích hợp cả. Nhưng căn cứ vào đặc điểm của sự vận động của TCQ là mềm mại, hòa hoãn cùng với tính cách của thanh niên thì không thích hợp lắm; bởi vì thể chất và thể lực của thanh niên phát triển rất nhanh, thanh niên thường có tính hiếu động, ham thích những vận động kịch liệt như điền kinh, cac bộ môn bóng, hoặc các môn quyền thuật và khí giới khác. Nhưng nếu giới thanh niên có người thấy hứng thú việc tập TCQ thì dĩ nhiên là vô hại. Có người cho rằng TCQ chỉ là một hình thức trị liệu đối với những người suy nhược vì bệnh. Ðiều này không đúng. Trên thực tế, chúng ta thấy rất nhiều người không bệnh hoạn mà tập TCQ thì tinh lực của họ vượng hơn, thịnh hơn, lòng dạ cởi mở tươi tắn hơn. Như vậy, môn quyền thuật này không phải dành cho những người bệnh nhược, mà đối với người không bệnh cũng có tác dụng dưỡng thân không kém.
  4. 3. Hai chữ "Thái Cực" trong TCQ có ý nghĩa gì? Tại sao môn quyền thuật này được gọi là Thái Cực Quyền? Trước hết chúng ta hãy liễu-giải khởi-nguyên và ý nghĩa của hai chữ "Thái Cực". Thái Cực là danh từ được dùng đầu tiên ở kinh Dịch. Quyển kinh này quan niệm rằng lúc Trời Ðất chưa hình thành là Thái Cực (còn gọi là Thái Sơ, Thái Nhất nữa). Sau đến đời nhà Tống, có Chu Ðôn Di vẽ ra một bức Thái Cực đồ, có thuyết minh kỹ càng, nhằm giải thích ý nghĩa hàm ngụ và sự biến hóa phát triển của ý niệm Thái Cực. Nghĩa đen của hai chữ Thái Cực: Thái là lớn lao, Cực là trạng thái ban sơ hoặc cao cấp nhất của sự vật. Bởi vì ngày xưa không có ai biết vũ trụ , lúc quả đất chưa xuất hiện , thực sự như thế nào, thời gian ấy dài bao nhiêu triệu năm? cho nên cổ nhân mới đành đặt gọi cái vũ trụ lúc bấy giờ là Thái Cực, hoặc là Vô Cực. Trong Thái Cực đồ khuyết của Chu Ðôn Di, câu đầu tiên là "Vô Cực Nhi Thái Cực" (Nhi ở đây có nghĩa "tức là", nghĩa là Vô Cực tức là Thái Cực, chớ không phải là từ Vô Cực mà sinh ra Thái Cực). Ý niệm này còn được mô tả trong câu "Thái Cực bản Vô Cực" (Thái Cực vốn là Vô Cực). Do đó, việc mệnh danh môn TCQ có nguồn gốc nhất định.Chúng ta có thể biện giải một cách giản đơn như sau: 1. Mỗi động tác của TCQ đều đi theo đường tròn giống như là các đường tròn được biểu thị trong Thái Cực dồ. Trong các động tác đường tròn này có chứa rất nhiều sự biến hóa, như hư thực, động tĩnh, cương nhu, tấn thối, vv. 2. Luyện TCQ, ta thấy các ý niệm động trung cầu tĩnh, tĩnh trung cầu động, dụng ý bất dụng lực, giống như điều thường gọi là vô trung sinh hữu ( thực ra không phải là từ không mà sinh ra có, mà là "cái không" phát triển dần dần thành "cái có", giống như cái lẽ Vô Cực mà Thái Cực). 3. Ðộng tác trong TCQ, từ khai thức đến thâu thức hoàn toàn liên tục, không một chổ nào đứt đoạn, giống như một vòng tròn hoàn chĩnh, không thể tìm được đầu mối; đó chính là cái lẽ "Thái Cực vốn là Vô Cực".
  5. 4. Tại sao Thái Cực Quyền còn gọi là Trường Quyền hoặc Thập Tam Thế? TCQ vốn có hai bộ phận: một bộ phận gọi là Trường Quyền, một bộ phận gọi là Thập Tam Thế. Trước đây có người cho rằng Trường Quyền và Thập Tam Thế là một, điều này sai. Nếu xét về mặt quyền lộ, thì Trường Quyền dài hơn là Thập Tam Thế, đúng với điều mà trong Thái Cực Quyền Luận (do Vương Tông Nhạc đời vua Càn Long viết) định nghĩa "Trường Quyền như sông dài biển rộng, chảy mãi không dứt". Nguồn gốc danh xưng của Thập Tam Thế là như sau. Căn cứ vào thuyết cũ, Thập Tam Thế hàm chứa quan niệm Ngũ Hành Bát Quái ở trong. Ngũ Hành là: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, được ví với năm loại bộ pháp. Bát Quái là: Càn, Khôn, Khãm, Ly, Chấn, Ðoài, Cãn, được ví với tám loại thủ pháp của TCQ. Năm hình thức bộ pháp của TCQ là: tiền tấn, hậu thối, tả cố, hữu phán và trung định. Dụng pháp của tay có tám loại: băng (quen đọc là bằng), lý, tê, án, thái, liệt, trửu, kháo, phân phối cho tám hướng: Ðông , Tây, Nam, Bắc, Ðông Bắc, Tây Bắc, Ðông Nam, Tây Nam. Bát phương này và ngũ bộ nói trên hợp lại gọi là Thập Tam Thế. Như vậy ý nghĩa của Thập Tam Thế chỉ là mười ba hình thái vận động của tay chân, chớ bảo là mười ba thức (tư thức) là lầm lẫn vậy. Phân tích Thập Tam Thế thành biểu đồ như sau:
  6. 5. Khởi Nguyên Của Thái Cực quyền Như Thế Nào ? Về nguồn gốc phát sinh Thái Cực Quyền (TCQ), có nhiều thuyết khác nhau mà cho đến nay chưa có thuyết nào đưa ra được kết luận xác thực. Căn cứ vào một số thuyết cũ, đều cho rằng người sáng chế ra môn này là Trương Tam Phong, người ta chưa xác quyết được là đã có một Trương Tam Phong thực hay không ? Quê quán ở đâu ? Có biết vũ thuật không ? Phát minh ra TCQ như thế nào ? Trong các loại thư tịch cổ (sách, bản văn, hành chính, v.v ) cũng không có sự ghi chép thống nhất; có loại thư tịch mà nội dung vẫn là thần thoại, không thể tin cậy. Tiên sinh Ðường Hào, một bậc tiền bối trong giới võ thuật, cũng nhận định : "Các thuyết cũ bảo TCQ được sáng chế bởi Trương Tam Phong vào thời kỳ suy vi của triều Bắc Tống (mà cũng có thuyết bảo là Trương Tam Phong thời Nguyên mạt Minh sơ). Nhận định nầy không đúng, tại vùng Trần Gia Câu không hề có truyền thuyết gì về một Trương Tam Phong nào cả. Căn cứ vào kết quả tìm tòi được ở Trần Gia Câu, người ta phát hiện TCQ ở đó có đại bộ phận động tác (gọi là thức tử) rút ra từ môn "Quyền Kinh" được tập đại thành bởi một tướng lãnh trứ danh nhà Thanh là Thích Kế Quang mà môn "quyền kinh" của Thích Kế Quang lại dựa vào 16 loại quyền pháp trong dân gian mà biến thành. Do đó mà có thể nói : TCQ bắt nguồn từ dân gian, trãi qua sự phát triển liên tục mà thành vậy". "TCQ của vùng Trần Gia Câu bắt đầu xuất hiện vào đầu triều nhà Thanh. Hoàng đế Sùng Trinh của triều nhà Minh mạt niên từng khuyến khích văn nhân luyện võ, vào thời ấy có Trần Nguyên Bình là người văn võ kiêm toàn. Nghiên cứu quyển kinh Hoàng Ðình của Ðạo gia (quyển kinh này nói về thuật hô hấp) , và tham chiếu môn quyền kinh của Thích Kế Quang, cho đến đầu đời nhà Thanh, sáng tạo xong TCQ Trần Gia Câu. Thế rồi về sau TCQ của Trần Gia Câu được một người họ Dương học lại, đem đi truyền thụ tại vùng Hà Bắc và dựng nên TCQ Dương gia rất nổi tiếng."
  7. 6. Hiện Nay Có Bao Nhiêu Phái TCQ ? Mỗi Phái Có Ðặc Ðiểm Nào ? Các hệ phái TCQ rất là phức tạp. Nếu lấy sự lớn nhỏ của chiêu-thức (dáng, hình thức di chân múa tay) mà phân biệt thì có thể chia làm ba phái chính. Nếu căn cứ vào nội dung quyền thức và nguồn gốc khác nhau thì có thể chia làm bảy nhà. A. Ba Hệ Phái : 1. Ðại Giá Thức : Do Dương Trừng Phủ làm đại biểu. Loại quyền giá này được truyền thụ bởi cha ông là Dương Kiện Hầu, và đến ông thì có sửa đổi lại đôi chút. Quyền thức mở rộng, nhẹ nhàng, trầm trọng (trầm ổn), thường gọi là Dưong phái. 2. Trung Giá Thức : Do Ngô Giám Tuyền làm đại biểu. Giá thức không lớn không nhỏ (không rộng, không hẹp) mà vừa vừa, nổi bật ở sự nhu hóa. Nguồn gốc của loại quyền giá này như sau: Cha của Ngô Giám Tuyền là Ngô Toàn Hựu, đầu tiên học đại giá thức với Dương Lộ Thiền, rồi lại học tiểu giá thức với Dương Ban Hầu (con của Dương Lộ Thiền), và truyền cả hai môn này lại cho con mình là Ngô Giám Tuyền. Giám Tuyền bèn dung hợp chiết trung , tự mình thành một phái, gọi là Ngô phái. 3. Tiểu Giá Thức : Do Vũ Vũ Tương làm đại biểu. Họ Vũ vốn người huyện Vỉnh Niên, phủ Quảng Bình, Tỉnh Trực Lệ, đến Ôn Châu Hà Nam, theo học với Trần Thanh Bình. Học được bộ thứ hai của tân giá tử, rồi tự mình cải tiến. Quyền thức khéo léo, khít khao, kín đáo, thân pháp thì thấp. Tự dựng thành một phái, gọi là Vũ phái. B. Bảy Nhà Giá Thức : 1. Trần Thị Lão Giá : (Quyền phổ nhà họ Trần) Truyền bởi Trần Trường Hưng thuộc Trần Gia Câu, Ôn Châu, Hà Nam. Quyền thức là đại giá thức của lão giá nhà họ Trần. 2. Trần Thị Tân Giá : Truyền bởi Trần Hữu Bản của Trần Gia Câu, quyền thức thuộc bộ đầu trong tân giá của nhà họ Trần, cũng thuộc đại giá. 3. Trần Thị Tiểu Giá : Truyền bởi Trần Thanh Bình ở làng Siêu Bảo (gần Trần Gia Câu), quyền thức thuộc bộ thứ hai trong tân giá của nhà họ Trần, thuộc tiểu giá. 4. Dương Thị Ðại Giá : Truyền bởi Dương Trừng Phủ (Hà Bắc). Ông nội của Dương Trừng Phủ là Dương Lộ Thiền, vào khoãng các năm Hàm Phong đời vua Văn Tông triều Thanh (tức là từ 1851 trở đi), đem TCQ đến Hà Bắc, sau đó cha con Dương Kiện Hầu, Dương Trừng Phủ cải tiến mà thành. 5. Vũ Thị Tiểu Giá : Truyền bởi Vũ Vũ Tương, người huyện Vỉnh Niên, sau truyền cho Hác Vi Trinh và ông này đem truyền ở Bắc Kinh. 6. Ngô Thị Trung Giá : Do cha con Ngô Toàn Hựu, Ngô Giám tuyền truyền bá, như đã nói trên. 7. Tôn Thị Tiểu Giá : Truyền bởi Tôn Lộc Ðường (Bắc Kinh) , họ Tôn học với Hác Vi Trinh rồi cải tiến, tự dựng thành một nhà. Những điều trình bày ở trên chỉ cứ vào các tài liệu đích thực và xác thực, và phân biệt một cách đại cương thành ba phái bảy nhà; còn nếu muốn phân biệt tường tận hơn thì vấn đề rất phức tạp, nhà nào cũng có ưu điểm riêng, người học tùy theo thể chất, tuổi tác và sở thích mà chọn lựa cho mình.
  8. 7. TCQ Có Ðặc Ðiểm Chủ Yếu Nào ? TCQ là một loại vận động rất đặc thù, không những khác với các môn thể thao thường mà ngay cả đến những bộ bộ môn quyền thuật khác của Trung Hoa nó cũng có phong cách riêng biệt. Về vấn đề đặc điểm, sách này có đề cập từng điểm dưới một chuyên đề. Ở đây chỉ giới thiệu các đặc điểm chủ yếu : 1. Ðộng tác nhu hòa hoãn mạn : (Ðộng tác mềm mại, buông lơi, thong thả) TCQ đòi hỏi người tập "Dụng ý bất dụng lực" , tuyệt không được gồng cứng các cơ, toàn thể các khớp xương phải lỏng (tung khai), bất kỳ động tác nào cũng phải mềm mại, buông lơi, thong thả, tốc độ không nhanh mà chậm chạp, như Quyền Luận có nói "Vận kình như trừu ty" (vận kình như kéo tơ), "Mại bộ như miêu hành" (bước chân như mèo đi), thời gian đi một bài quyền thường mất 15 đến 20 phút. 2. Ðộng tác nào cũng là hoạt động toàn thân : Ở mõt số bộ môn thể thao, thường phân chia vận động của tay, vận động của chân,v.v Một số quyền thuật cũng thế, trước là đấm một quyền rồi đá một ngọn,v.v Nhưng luyện tập TCQ thì khác, TCQ đòi hỏi sự chuyển động của toàn thân thể, hễ động một thì không chổ nào không động "Nhất động vô hữu bất động", hễ tĩnh một thì không nơi nào không tĩnh "Nhất tĩnh vô hữu bất tĩnh" , "Thượng hạ tương tùy, nội ngoại tương hợp" . Nếu như luyện TCQ mà không luyện được toàn thân hoạt động, mà có bộ phận trong người đứng chết trân, thì đó là một đại khuyết điểm vậy. 3. Mỗi động tác cần kết hợp hô hấp với vận động một cách tự nhiên : TCQ cũng còn khác với các loại vận động thường thấy ở điểm này nữa. Có người bảo rằng : Trong khi tập các loại vận động khác, có bao giờ ngưng hô hấp đâu ? Tại sao TCQ lại cho hô hấp là một đặc điểm của mình ? Lý do là như thế này : sự hô hấp trong TCQ là có quy luật, khi nào hít vào, khi nào thở ra, đều được thực hiện nghiêm túc, chớ không phải là hít thở một cách tự nhiên mà bình thường người ta thường không chú ý tới, mà cũng không phải là miễn cưỡng (gắng gượng) dồn nén hơi thở. Sự hô hấp phải làm sao đạt đến tình trạng "Thâm, trường, quân, tĩnh, khai thoát tự nhiên" (sâu, dài, đều, im, thoải mái tự nhiên). Còn đối với người mới học, chỉ cần hít thở bình thường tự nhiên là được rồi. 4. Khi vận động cần phải "Tâm Tĩnh" : "Tâm tĩnh" tức là tâm thần an tĩnh, tinh thần nội liễm, không hoang loạn, không tâm viên ý mã, hồ tư loạn tưởng (không suy nghĩ lung tung viễn vong), cốt làm sao cho vỏ ngoài đại não êm dịu lại một cách từ từ, tuyệt đại bộ phận đi vào trạng thái bị khống chế tức là có nhiều dịp nghĩ ngơi. Ngoài ra lượng hô hấp tăng nhiều, huyết dịch tuần hoàn mau chóng, giúp cho đại não thu được nhiều dưỡng liệu và dưỡng khí, điều này có tác dụng rất tốt đối với việc nâng cao và tăng trưởng cơ năng, và mực độ làm khõe mạnh bộ phận cao cấp của hệ thống trung khu thần kinh. Năng lực hoạt động của hệ thống thần kinh được mạnh mẻ, thì có ảnh hưởng rất tốt đến việc điều tiết, sự phối hợp hoạt động của các hệ thống khí quan trong cơ thể. Do đó chúng ta có thể nói, sự yêu cầu "tâm tĩnh" của TCQ có cơ sở sinh lý học vững chải, và cũng là đặc điểm quan trọng nhất của TCQ.
  9. 8. TCQ giản hóa và TCQ nguyên hữu, giống và khác nhau ở những điểm nào ? TCQ giản hóa giống TCQ nguyên hữu ở các điểm sau : 1. Về phương diện động tác tư thức, tức là có cùng cơ bản với TCQ nguyên hữu, vì TCQ giản hóa chủ yếu được rút từ giá tử của Dương Trừng Phủ. 2. Về nguyên tắc của thể thế (như trầm kiên trụy trửu, hàm hung bạt bối); yêu cầu về tâm lý (như tinh thần nội liễm, tư tưởng tập trung); yếu điểm của động tác (như thượng hạ tương tùy, phân thanh hư thực). 3. Về phương diện rèn luyện thân thể và nâng cao mức độ khõe khoắn, cũng có cùng hiệu quả. Các điểm khác nhau được liệt vào bảng như sau : TCQ giản hóa TCQ nguyên hữu Phương diện động tác Tự giản đến phồn, trước dễ sau khó Từ phồn đến giản, trước khó sau dễ Phương diện tư thức Lập lại ít Lập lại nhiều Toàn bộ quyền lộ Ngắn, cả thảy có 2 lần tới lui Dài, cả thảy có 5 lần tới lui Phương diện học tập Ðộng tác của tư thức rõ ràng Gần đây mới xuất hiện một tài tài liệu mà sự mô tả cũng rõ ràng, nên rất liệu tham duyệt chu đáo và hoàn thiện, rất tiện cho huấn luyện viên, người bị, thích hợp cho người có căn nguyên cũng như mới học hoặc tự học, hoặc người sành về TCQ giản hóa.
  10. 9. Có Người bảo rằng TCQ rất là khó học Ðâu là những khó khăn chính ? Làm thế nào để khắc phục ? Vấn đề TCQ khó hay dễ học , mỗi người đều có quan điểm khác nhau . Một số người bảo rằng nó tương đối khó học ; nhất là trong giai đoạn mới bắt đầu , cái khó khăn nhiều khi khó diễn tả . Nhưng một số khác cho rằng , TCQ không khó khăn như vậy , tức là tuy có khó khăn nhưng vẫn có thể khắc phục được. Như đã nói trên , TCQ có phong cách và đặc điểm riêng , mà những đặc điểm này người ta ít khi gặp , hay thực hành trong sinh hoạt hàng ngày . Do đó khi họ làm những động tác của TCQ , họ thấy không quen thuộc . Chúng ta có thể cho vài thí dụ để làm sáng tỏ điểm này như sau : 1. Bình thường , khi ta tập những động tác thể dục thể thao , hơn phân nữa các động tác là vận động cục bộ , vận động theo đường thẳng. trong khi đó , mỗi động tác của TCQ là vận động toàn thân , vận động đường tròn ; cho nên người mới học , khi tập luyện , nếu chú ý tay trái thì lại quên mất tay phải , nếu chú ý hai tay thì lại quên mất hai chân . Chính vì phải chú ý đến toàn diện thân thể và lại thêm thực hiện động tác đường tròn nên mới sinh ra cảm tưởng khó khăn. 2. Lúc bình thường, ta đứng trên hai chân , trọng lượng của toàn thân do hai chân chia nhau gánh chịu , nhưng khi đi quyền , hai chân phải phân thanh hư thực (hư thực phân minh) , thường là một chân đứng gập gối chịu đựng trọng lượng của toàn thân , còn chân kia biến thành hư bộ . Ðây cũng không phải là thói quen của người mới tập TCQ. 3. Bình thường chúng ta hít thở rất tự nhiên , không hề thấy khó khăn gì , nhưng trong khi luyện TCQ , hơi thở phải phối hợp đều đều với động tác. Ðiều này đối với người mới học cũng là khó. Thế nhưng , cần phải nói rõ là chẳng có gì lạ nếu người mới học gặp những khó khăn nêu trên trong thời gian luyện quyền , và về sau những khó khăn này sẽ từ từ biến mất. Làm thế nào giúp cho người mới học khắc phục khó khăn ? Về mặt này , huấn luyện viên nên tùy học viên mà ấn định giáo trình và phương pháp chỉ dạy , và trong khi dạy quyền không nên nói một cách cưởng điệu hóa và khoa trương những khó khăn , để tránh cho học viên tránh khỏi tâm trạng lo lắng . Ðối với từng tư thức hoặc động tác , nên chia thành đoạn mà dạy , còn về việc kết hợp hô hấp với động tác , không nên đòi hỏi nhiều ở người học để làm tăng thêm lòng tin tưởng tập luyện của họ. Về phần người học TCQ , phải dốc lòng mà học tập , phải cẩn thận ghi nhớ mỗi động tác , mỗi tư thức và tập đi tập lại nhiều lần . Chớ nên mong mỏi thành công nhanh chóng hoặc nữa chừng thấy khó mà bỏ bê (bán đồ nhi phế) . Cần nhớ là lúc mới học bao giờ cũng khó , nhưng sau giai đoạn nhập môn rồi , nắm được quy luật nguyên lý TCQ rồi , dần dần mới thể nghiệm được sự kỳ diệu của trạng thái viên hoạt khinh linh do môn quyền thuật này đem lại.
  11. 10. Chúng ta có thể tự học TCQ được không ? Và nếu được , thì tự học như thế nào ? Ðối với vấn đề có thể tự học được hay không thể tự học TCQ thì quan điểm trong quá khứ và hiện nay khác nhau. Khi xưa , ai cũng công nhận rằng TCQ là môn học "khẩu thụ diện truyền" (thầy trực tiếp dạy và xem học trò tập) , chỉ có lối truyền thụ có sư có đồ thì mới thấy được cái ảo diệu của TCQ . Lúc trước các thư tịch (sách vở) về TCQ được xuất bản thật là ít ỏi , chỉ có một số trước tác của các nhà như Ngô Giám Tuyền , Hứa Vũ Sinh , Dương Trừng Phủ , Bành Quảng Nghĩa và Ngô Ðồ Nam , nhưng các tác phẩm ấy sự giải thích vẫn còn thiếu sót , chỉ có ích lợi với tính cách tài liệu tham khảo cho người đã học tập trong các phái , chớ đối với người mới bắt đầu học thì thật là khó . Nhưng nay tình huống rất khác biệt , người học quyền tăng rất nhiều , sách báo về TCQ cũng tăng rất nhiều , do đó tạo nên nhiều điều kiện thuận lợi cho người tự học TCQ . Sau đây là những đề nghị cho người muốn tự học TCQ : 1. Khi tự học , nên tập từ hai người trở lên là tốt nhất (không nên đông quá) để giúp nhau sửa chửa động tác tư thức . 2. Sau mỗi kỳ tự học , nên mời (hay nhờ) người học theo lối sư truyền đến sửa những sai lệch của mình . 3. Nên tham khảo nhiều sách báo hữu quan . 4. Sau khi học xong TCQ giản hóa , nên tiếp tục học TCQ cổ truyền .
  12. 11. Nếu có thầy dạy nên học như thế nào ? Nếu học TCQ với quyền sư , dĩ nhiên là tốt hơn người tự học nhiều , nhưng đấy chỉ là một điều kiện cần thôi , còn như người học trò có học được hay không ? Lĩnh hội được quyền lý hay không ? Có luyện tốt hay không ? Là tùy mỗi nổ lực riêng của người học trò . tục ngữ có câu : "Sư truyền lĩnh tiến môn , tu hành tại cá nhân" (Thầy cho vốn làm ăn , còn ăn nên làm ra là do ở trò) . Như vậy người học trò phải cố gắng như thế nào ? Xin thưa ít nhất cũng phải đạt được mấy điểm nhỏ cỏn con như sau : 1. Phải nhẩn nại và tin tưởng . Như đã nói trước , học TCQ không phải là dễ như lấy đồ chơi trong túi , mà nhất là đối với những ai thân thể suy nhược , có bệnh tật hay hiếm khi vận động , thì lại càng khó hơn . Cho nên phải luôn luôn giử vững nghị lực , kiên định lòng tin , xây dựng tinh thần lạc quan tất thắng , để tùy lúc khắc phục khó khăn , tùy lúc mà cãi tiến phương pháp tập . Người mới học nên biết rằng đây là điểm cực kỳ quan trọng . 2. Phải tập trung tinh thần nghe giảng . Mỗi lời nói , mỗi chân đi tay múa của thầy đều đáng chú ý . Lúc đầu học động tác , tất nhiên là xem thầy đi một hai ba lần . Phải cố gắng ghi nhớ cẩn thận lời giảng giải , hay khi thầy làm động tác mẫu , để sau đó bắt chước . Khi thầy sửa tư thức mình lúc đi quyền , cần nắm lấy trọng điểm và nhớ thật chắc . Mỗi người thường chỉ phạm một hai lổi lầm quan trọng mà thôi ; những lúc tự mình sửa chửa lổi , nên sửa những lổi nặng trước , sau đó mới sửa những lổi thứ yếu . Bất cứ động tác nào do thầy chỉ dạy , phải nắm ngay yếu quyết của động tác để về nhà tập lại , 3. Phải biết mong mỏi mình tiến bộ , luyện tập được tốt hơn . Muốn được vậy phải tập đi tập lại . Sau khi thông qua phần phức tạp , công phu càng thâm hậu , nâng cao chất lượng của sự vận động và tình trạng sức khõe . Trong thời kỳ sơ học , học trò có thể có cãm giác đau eo mỏi gối , thì nên cố gắng lướt qua , đây là hiện tượng tất nhiên đối với người mới học ; chỉ có chuyên cần , khổ luyện , mới đi đến thành công . Mỗi động tác tư thức cần hiểu cho thấu đáo , phải biết thắc mắc xem động tác nào hãy còn sượng sùng khó chịu , để mà lưu tâm tìm kiếm giải đáp . Khi ôn tập , hai ba người cùng hội lại mà ôn thì tốt nhất , giúp nhau quan sát và phê bình cùng là sửa chửa tư thức cho được tốt đẹp hơn , đó gọi là "Thủ trường bổ đoản" (lấy dài bù ngắn) , vì đó là lúc dễ phát hiện khuyết điểm nhất . 4. Nên chịu khó suy nghĩ đặt vấn đề. Bất luận vấn đề thuộc mặt lý thuyết hay kỹ thuật , nên tùy lúc nêu ra với thầy để được giải đáp . Ngay cả đến những cảm giác không thơ thới về thân thể như đau nhức , buồn rầu ủ rũ , thở hổn hển ,v.v đều nên nêu ra kịp thời để thầy giải quyết.
  13. 12. Người tập luyện TCQ có thể tập các môn võ thuật khác không ? Về vấn đề này , giới võ thuật từ trước tới nay vẫn còn tranh luận . Trong quá khứ có hai quan điểm bất đồng : Một quan điểm cho rằng không thể cùng lúc tập TCQ và Thiếu Lâm quyền , môn đấu vật , cùng các vận động như xà đơn, v.v Lý do là : cách dụng lực và khí của hai môn này khác nhau hoàn toàn . TCQ chủ trương dụng ý bất dụng lực , lấy mềm mại làm chính . Trong khi đó quyền pháp Thiếu Lâm và các loại vận động của môn đô vật chẳng hạn , chủ trương dụng lực bất dụng ý , lấy cương ngạnh làm cốt cán . Nếu như học cùng một lúc thì không thể chăm sóc cả hai được , hơn nữa trong lúc mới học chưa hiểu rõ , chưa nắm được cách vận khí , cách chuyễn lực,v.v mà lại gắng gượng luyện tập , thì dễ sinh ra hậu quả xấu , nhẹ thì mệt nhọc , phí công sức , phí thì giờ , nặng thì bị nội thương . Quan điểm này đúng không ? Thưa không , vì nó không căn cứ vào khoa học nào . Thật vậy , nếu tập quyền mà bị nội thương là vì tập sai đường lối (bất đắc pháp) , chứ nào phải vì tập cả hai . Ai cũng biết , nếu tập bất kỳ môn vận động nào mà tập không đúng phương pháp , thì đều nhận phải một kết quả tương phản . Một quan điểm khác cho rằng : Mọi người đều có thể cùng lúc tập hai , hay nhiều hơn , những môn quyền thuật hay các loại vận động khác mà có tính chất khác biệt nhau . Quan điểm này xác định là , chỉ cần tập luyện đúng cách (đắc pháp) là có thể tập song song hay nhiều môn khác nhau cùng một lúc . Có người nói rằng : "Chỉ yếu luyện , tựu năng trường" (cứ tập đi rồi sẽ giỏi ; chữ 'trường' ở đây có nghĩa là công phu tiến triển) . Luyện Thiếu Lâm trường quyền sẽ phát triển được cương kình , luyện TCQ sẽ phát triển được nhu kình . Người đã luyện TCQ còn luyện tập Thiếu Lâm quyền sẽ dung hợp được cương nhu (cương nhu tương tế) , sẽ gồm nắm ưu điểm của các danh phái . Như ở môn đấu vật , tuy có các yếu quyết "súc , tiểu , miên , nhuyển , xảo" (co rút , nhỏ nhắn , ràng rịt , mềm mại , khéo léo) , có thể nói đều là cách dụng kình , nhưng thuợc loại cương kình ,ít có năng lực nhu hòa như nhu kình . Nếu như các đấu thủ đấu vật lại am hiểu TCQ , tức là biết nhu biết cương , mới giỏi "Ðổng kình" (hiểu kình) và do đó mới dễ thắng hơn . Chúng tôi cho rằng quan niệm sau này hợp lẻ hơn . Vậy thì làm thế nào mà người tập TCQ có thể tập các môn vận động khác , hay ngược lại người đã tập các môn vận động khác nay tập TCQ thì hậu quả sẽ như thế nào ? Luyện tập như thế nào mới gọi là đúng cách ? Có thể nói như thế này : 1. Những người mới học , trong cùng một thời gian nào đó , có thể tập hai loại vận động khác tính chất , Thí dụ : như buổi sáng (hoặc hôm nay) tập môn này , buổi chiều (hoặc ngày mai) lại tập môn khác .Nếu như tập nhiều môn hơn thì chỉ có thể ấn định một tuần lễ làm đơn vị thời gian , từng ngày từng ngày một , tập một cách có kế hoạch , để nâng cao toàn diện thể chất , thể lực và kỹ thuật vận động . Nếu tập như thế này được một thời gian nào đó mà công phu của các môn vận động đều có một căn bản nhất định thì cứ tiếp tục luyện tập , một cách đồng thời , mà không sao cả . 2. Không nên vận động quá độ . Bất kỳ tập một môn vận động nào cũng không nên tập quá mức , vì tập quá mức thì sức lực tiêu hao quá nhiều dễ làm cho thân thể suy nhược nặng nề , như vậy chính làm tổn hại thân thể mình mà thôi .
  14. 13. Trong Khi Tập TCQ Nếu Muốn Luyện Thêm Công Phu Khác Thì Môn Công Phu Nào Là Thích Hợp Nhất ? Mỗi người ngoài việc tập TCQ ra , còn có thể tập thêm môn công phu khác . Trước nhu cầu này , có thể đại khái chia làm hai hạng người : Một là loại ham thích vũ thuật muốn hiễu biết nhiều , hai là hạng vì thân thể đau yếu nên muốn nhờ vũ thuật để tu dưỡng thân tâm , khu trừ bệnh tật , áp dụng thể dục trị liệu . Căn cứ vào sự yêu cầu của hai hạng người trên , có thể đề nghị hai đáp ứng như sau : Ðối với những ai muốn trị liệu bệnh tật , tu dưỡng thân tâm , thì ngoài môn TCQ ra còn có thể tập thêm các môn khí công như tọa công , trạm công , ngọa công , bởi vì các môn công phu này có tính chất rất gần gủi với TCQ , cùng với TCQ tương bổ tương thành cho việc tu dưỡng thân tâm , điều trị bệnh tật một cách tốt đẹp . Ðối với những người ham chuộng vũ thuật , ngoài TCQ ra còn có thể tập các môn như Hình Ý quyền , Bát Quái quyền , Ðại Thành quyền , vì tính chất của chúng giống TCQ về đại thể . Các nguyên tắc về "vận kình" , "dụng ý" ,v.v về cơ bản cũng tương đồng với TCQ . Nếu như luyện thêm các công phu quyền Thiéu Lâm , không phải là không được ; trong võ lâm , có rất nhiều vũ thuật gia gồm kiêm công phu tuyệt học của hai ba danh môn chính phái là chuyện bình thường .
  15. 14. TCQ Luyện Tập Vào Giờ Nào Thì Tốt Nhất? Luyện Bao Nhiêu lần Là Vừa ? Thời gian thích hợp nhất cho việc tập TCQ là lúc trời còn tờ mờ sáng và lúc hoàng hôn . Ðối với người không ốm đau , mỗi ngày tập trên dưới một giờ là vừa . Trong một giờ đồng hồ này là gồm cả thời gian khởi động làm nóng người , tản bộ hoặc nghỉ ngơi và vận động hoàn chỉnh lúc kết thúc . Trong khoảng thời gian ấy , hoàn tất đi hai bài TCQ thì tốt . Tuy nhiên , nên căn cứ vào tình huống sức khõe cá nhân mà điều chỉnh cho thích đáng , thời gian và nội dung của buổi tập , chớ không nên quy định cứng ngắc . Ðối với những người lao động vào ban ngày , thì buổi sớm mai là lúc luyện tập tốt nhất , thứ đến là hoàng hôn . Ðể đúng là rèn luyện thân thể thì buổi sáng , sau khi dậy , phải mất đến nữa giờ để đánh răng , rửa mặt , lau mình rồi mới tập , tập xong mới ăn sáng , Còn nếu tập vào lúc thì giờ rãnh rổi thì sau khi tập xong phải đợi đến nữa giờ sau mới ăn cơm tối . Nếu tập sau khi ăn tối thì phải cách ít nhất là một giờ . Tập quyền vào buổi sáng sớm có ưu điểm là : không khí trong lành , hoàn cảnh yên tĩnh , tinh thần cũng sung mãn,v.v Tập quyền vào hoàng hôn cũng có ưu điểm của nó : không khí cũng tương đối trong lành , hoàn cảnh cũng có phần yên tĩnh . Những người phải làm việc cả ngày , nhờ luyện tập TCQ mà sự mệt nhọc của não lực được giảm thiểu và hơn nữa sự khôi phục của não lực rất mau lẹ , đó chính là một phương pháp nghỉ ngơi rất tích cực . Người xưa sở dĩ kén chọn giờ giấc luyện tập là lúc canh hai và canh năm , gọi là "Nhị ngũ canh công phu" , tức là trước bình minh và sau hoàng hôn . Những người bị suy nhược thần kinh , hay mất ngủ , thì một mặt tuy có làm thân thể vốn đã yếu bị mệt nhọc thêm , nhưng mặt khác sự vận động này làm cho đại não trở nên an tĩnh , và lúc lên giường là an nhiên nhập thụy (đi vào giấc ngủ một cách thãnh thơi) . Thế nhưng không nên vận động quá nhiều để tránh hậu quả tương phản có ảnh hưởng xấu tới giấc ngủ . Tập quyền lúc bình minh hay hoàng hôn cũng có khuyết điểm là thiếu ánh mặt trời , không hấp thụ được tác dụng ích lợi của ánh nắng . Nếu không thể thực hiện được việc luyện tập vào những thời gian nói trên , thì mỗi cá nhân tùy theo giờ giấc thuận tiện của mình mà lập nên thời khóa biểu tập luyện . Thời gian vận động nhiều hay ít trong mỗi ngày , nên căn cứ vào thể lực và thời gian có thể bỏ ra mà quyết định , thông thường mỗi ngày một tiếng là trung bình . Thời gian ngắn quá thì hiệu quả không nhiều , mà thời gian dài quá thì hao tổn sức lực . Nếu không có khoảng thời gian trọn vẹn thì "Hóa chính vi linh" (chia trọn thành lẻ) , chia việc tập luyện ra làm mấy lần . Kiên trì luyện tập , bền bỉ không gián đoạn là sự bảo đảm quan trọng cho việc nâng cao chất lượng , vận động để rèn luyện thân thể vậy .
  16. 15. Khi Tập TCQ Vấn Ðề Giầy Dép Quần Áo Phải Như Thế Nào ? Trong khi tập TCQ , vấn đề quần áo giầy dép chỉ cốt ở chổ sao cho sự hoạt động được tiện lợi . Mặc quần áo thể thao tốt hơn là mặc quấn áo thường nhật . Mặc quần áo kiểu Trung Hoa tốt hơn là mặc quần áo kiểu Âu Mỹ . Ði giầy thì cốt ở chổ chân được nhẹ nhàng thoải mái , như giầy lực sĩ , giầy đá bóng , giầy bố đều được cả . Không nên đi giầy da , nhất là giầy da đế cứng . Vào mùa Ðông , nếu không chịu được lạnh , có thể đội mũ đeo găng tay mà không có chi trở ngại cho việc tập luyện cả . Sau khi vận động , người toát mồ hôi , đây là hiện tượng thông thường . Ðiều cần nhớ là không nên cởi mũ cởi áo mà đón gió , để tránh bị trúng gió . Về nhà nên thay quần áo ấm , lau ráo mồ hôi , và nếu tốt hơn nữa thì đi tắm một lần .
  17. 16. Sân Tập Phải Như Thế Nào Mới Thích Hợp ? Khung cảnh tập cần có : a. Ðầy đủ ánh nắng . b. Không khí trong lành . c. Mặt đất bằng phẳng rộng rải . d. Không gian yên tĩnh . Lý do là : Vận động dưới ánh nắng rất có ích . Tia tử ngoại của ánh nắng có tác dụng sát hại vi khuẩn , da dẻ được nắng chiếu thì các tế bào dưới da sinh ra sinh tố D , là loại sinh tố có tác dụng làm cứng cát xương cốt , răng . Nhưng nếu tập dưới ánh nắng gắt thì trong cơ thể sinh ra phó tác dụng , cho nên tập TCQ lúc nắng xiên là tốt nhất . Vào mùa Hè , những ai yếu đuối lại càng nên tránh tập luyện dưới ánh nắng chiếu thẳng , mà nên chọn nơi có bóng râm mát mà tập . Không khí càng trong lành càng tốt , vì khi tập luyện phải hô hấp , hơn nữa số lượng hô hấp lại càng gia tăng (gấp 3 đến 5 lần bình thường) . Không khí càng trong lành lượng dưỡng khí tốt càng nhiều và tạp chất ít đi , do đó không những đạt được mục đích "hô hấp dưỡng thần" mà còn tăng cường sức hoạt động của phổi . Ngược lại , nếu không khí ô trọc , tức là chứa nhiều thán khí (CO2) , khói , bụi , vi khuẩn,v.v Thì khi ta hít vào quả là có hại không ít . Vả lại nếu không khí quá bẩn thì tốt nhất là không nên vận động mà cũng chẳng nên ở đó làm gì . Mặt đất bằng phẳng của sân tập và rộng rải cũng rất cần thiết (điều kiện bằng phẳng quan trọng hơn điều kiện rộng rải) , bởi vì khi đi quyền , hai chân phải phân hư thực . Chân đạp thức cần có mặt bằng phẳng thì mới đứng vững được . Nếu sân tập không được bằng phẳng thì cũng luyện tập được , nhưng dĩ nhiên là có đôi chút ảnh hưởng . Còn sự yêu cầu sân tập rộng rải cũng không gắt gao lắm . Thông thường một người tập cần khoãng sân rộng cở 1 trượng , dài 2 trượng là đủ , hẹp hơn cũng không sao . Ðối với việc luyện TCQ , khung cảnh u tĩnh rất là cần thiết , bởi vì luyện quyền không phải chỉ là vận động thân thể mà còn là tu dưỡng tinh thần . Khi luyện quyền , cần phải "Tâm tĩnh" tức là "Tâm thần an tĩnh" , tư tưởng tập trung , tránh được sự chi phối , ảnh hưởng không có lợi của sự ồn ào náo nhiệt . Ðối với người mới học , điều kiện này cũng rất là trọng yếu , bởi vì người mới học lại càng dễ bị lôi cuốn bởi các yếu tố kích thích bên ngoài , như xe cộ qua lại , âm thanh tạp loạn , khiến cho tai mắt bị sao lảng , tâm thần động đẳng , không đi vào trạng thái "Nhập tĩnh" được . Tuy nhìn bề ngoài tay chân múa may thật đầy , nhưng chẳng qua chỉ có hình thức , cái võ bề ngoài mà thôi , chứ trên thực tế cái múa may đó chẳng phải là TCQ một tí nào cả . Tóm lại , trong bốn điều kiện trên thì hai điều kiện về không khí trong lành và khung cảng u tĩnh là quan trọng hơn cả . Rất nhiều người thích ra công viên hoặc sân vận động khoảng khoát vào sáng sớm để tập luyện , chính cũng vì muốn có được những điều kiện nêu trên
  18. 17. Trước Khi Ði Quyền , Cần Có Những Vận Ðộng Chuẩn Bị Nào ? Nội dung của sự vận động chuẩn bị gồm có hai mặt như sau : 1. Chuẩn Bị về mặt sinh lý : Tức là chuẩn bị về thân thể . Về phương diện này , ý nghĩa của vận động chuẩn bị là làm cho một thân thể đang ở trạng thái tương đối tĩnh , chỉ thông qua một hình thức hoạt động nhất định nào đó , tiến dần tới vận động chính thức . Mục đích là làm cho cơ , nhục , cân , kiên (thịt , gân , sụn) được buông lỏng (tung thỉ) , các quan tiết buông lỏng (tung khai) , phởi nở nang (thư triển) , huyết mạch thông suông . Nói cụ thể , thì trước tiên là tản bộ , tiếp theo là hoạt động tứ chi và thân , như uy yêu uy thối (vận động tròn cho eo và chân) , đi miêu bộ , làm thêm hô hấp , làm một chút tán thủ (như vân thủ , Lãm tước vĩ) . Vì tính chất hòa hoãn của dộng tác TCQ nên yêu cầu về vận động chuẩn bị tương đối không gắt lắm , thông thường tập chừng 15 phút là vừa . 2. Chuẩn bị về mặt tâm lý : Tức là chuẩn bị về mặt tinh thần . Sự chuẩn bị này có ý nghĩa quan trọng hơn . Như đã nói trên , luyện TCQ đòi hỏi tâm tĩnh , tư tưỡng tập trung thì hiệu quả mới cao . Ðể đạt được mục đích này , thì ngay tại khai thức , ta đã tĩnh tâm lại , gạt bỏ mọi tạp niệm mà hết sức chú ý vào việc lườm mà không phải lườm , hít thở đều đặn nhẹ nhàng , dùng ý giữ đan điền (ý thủ đan điền) , cho đến khi thực sự thấy tinh thần nội liễm , tâm bình , khí hòa , rồi mới đi quyền . Dĩ nhiên , trừ sự chuẫn bị này , vẫn còn có một vài chuẫn bị khác , như xem quần áo giày dép có tiện không ; có nên thay không ; mặt đất có phẳng không ; nếu có gạch vụn mãng sành thì nên quét nhặt đi . Thắt lưng cho vừa bụng , lõng quá cố nhiên không tiện , chặc quá làm trở ngại sự tuần hoàn của huyết dịch . Cho nên khạc nhổ cho sạch miệng mũi . Như vậy , ngoài không còn vướng vít khó chịu , trong không gì chướng ngại , trong ngoài chuẩn bị xong mới bắt đầu luyện quyền .
  19. 18. Người Mới Tập TCQ, Thường Thấy Hai Chân Ðau Mỏi Là Vì Sao? Làm Thế Nào Khắc Phục? Người mới tập TCQ thường bị mõi hai chân là hiện tượng bình thường ; ở những người thể chất suy nhược hoặc chưa từng luyện tập quyền thuật thì hiện tượng này rất rõ rệt . Ðây là hiện tượng tất nhiên phát sinh rất thường , không có gì đáng ngại . Nguyên cớ phát sinh sự đau mõi có thể kể ra là : 1. Bởi lẽ một trong các đặc điểm của TCQ là hạ chi phân hư thực , trọng lượng của thân thể thường do một chân gánh chịu . Sự gánh chịu này không phải chỉ do một mình xương cốt mà còn do ở chân loạn khúc (gập cong) , độ căng thẳng của bắp thịt khi co rút tăng lên cao ; sự biến đổi từ thức này sang thức kia rất chậm rãi tức là thời gian kéo dài , sự chịu đựng của bắp thịt gia tăng khiến cho có cảm giác đau mõi . Trên mặt sinh lý học mà nói , sự vận động của chân như vậy rất dễ làm tăng gia phế lao tố (như cơ toan , lân toan) . Sự mệt mõi này đòi hỏi một thời gian nhất định nào đó mới khôi phục được . 2. Sự vận động của TCQ , không giống như hoạt động hàng ngày , như sự mại bộ (đi bước chân) cùng với sự đi đứng bình thường không giống nhau ; vận động khác lúc bình thường đối với người mới học lại càng khác với thói quen cho nên khi vận động mau thấy mõi mệt . 3. Dụng kình trong TCQ khác với sự dùng sức thông thường (xem câu số 36) , đặc điểm của TCQ vốn dĩ như thế không khác được . Người mới học muốn đem cái lực bắp thịt của mình biến thành cái lực theo quan điểm của TCQ (ngôn ngữ thường nói là "hoán kính"-đổi kình) không phải là dễ , mà phải trãi qua một thời gian luyện tập chuyên cần đúng đắn (ít lắm cũng dăm ba tháng , nhiều thì một hai năm) , vào lúc đổi kình , đặc biệt là lúc đổi kình đầu tiên , hai chân thường có cảm giác đau mõi . Ðễ giãm bớt phần nào sự đau mõi , nên chú ý vài đìểm sau đây : 1- Lúc chưa chính thức luyện quyền cần phải làm các động tác chuẩn bị. . 2- Lượng vận động tùy điều kiện thể chất mỗi người . Lượng vận động và thời gian cần tăng dần , chớ đừng tham nhiều , hiếu thắng , tránh sự vận động quá độ gây mệt mõi thái quá . 3- Chớ xem nhẹ sự vận động chĩnh lý sau khi đi quyền , như tãn bộ chậm chậm , (xem câu 45) . 4- Sau khi luyện , nên dùng nước nóng rửa chân (hoặc tắm) , vì nước nóng làm máu huyết lưu thông , gân thịt thư triển , giúp cơ thể mau khôi phục . 5- Làm ma xát , mỗi lần tập xong tự mình ma xát thân thể nhè nhẹ , chân thì nên chà xát nhiều lần hơn , có thể giúp giãm thiểu sự mệt mõi . Các biện pháp vừa nêu chỉ có tính cách hổ trợ , có thể làm bớt mệt mõi một cách tương đối , không làm cho sự mệt mõi di hại chớ không thể nào giải quyết tận căn bản của sự đau mõi được . Cần biết rằng đau mõi không phải là hiện tượng bệnh lý , mà là hiện tượng sinh lý . Khi luyện đến một trình độ nhất định , hiện tượng này tự nhiên biến mất .
  20. 19. Luyện Giá Tử Là Gì ? Tại Sao Ðộng Tác Tư Thức Của TCQ Ðòi Hỏi Phải Chính Xác ? Gọi là luyện giá tử khi ta đi liên tiếp từ thức này sang thức kia theo một thứ tự nhất định của bài quyền . Luyện giá tử còn gọi là bàn giá tử . Giá tử tức là giá thức hay tư thức . Tập các động tác tư thức phải chính xác bởi vì mỗi động tác của TCQ là sự vận động của toàn thân , tức là mọi phần cơ thể đều hoạt động , phát triển nhịp nhàng . Thường người mới học khó làm đúng ; không chiếu cố một hay hai bộ phận nào đó trong cơ thể . Nên nhớ rằng bất kỳ động tác nào của TCQ cũng là động tác đồng thời của toàn thân , không được có một bộ phận cơ thể nào bị ngưng trệ . Hơn nữa tư thức bài quyền còn phải đi cho đẹp . Ðộng tác của tay đi theo đường tròn hoặc đường cung . Ðiều này người mới học cũng thấy khó làm . Như vậy , làm các động tác tư thức phải chính xác thì mới có ích lợi cho thân thể và thể hiện được vẽ mỹ quan và sự mực thước của TCQ . Ðễ thực hiện mỗi động tác tư thức một cách tận thiện tận mỹ , người học quyền phải chú ý tới hai vấn đề sau đây : 1. Tiến độ luyện tập không được nhanh . Người mới học thường bị tính hiếu kỳ xúi dục , chỉ cố ý ham học cái mới mà không ôn luyện cái cũ và thường biện minh là " Học hết bài quyền trước rồi sẽ sữa tư thức sau" mà kỳ thực học xong bài quyền rồi , sự lầm lẫn về nội dung lẫn hình thức của tư thức đã trở nên định hình (tật) , bây giờ sữa chữa lại mới thật là khó . Ngược lại , nếu học chậm , học hết một thức rồi đến thức khác , làm sao cho đến mức mà cổ nhân nói "Chiêu chiêu đắc pháp , thức thức chính xác" thì cơ sở quyền thuật mới vững chắc , công phu tự nhiên sẽ thành thục . 2. Học xong một bài quyền cần phải luyện tập thường xuyên và dốc lòng nghiên cứu , tự mình thể nghiệm yếu lý của mỗi động tác , thì mới diễn quyền ngày một chính xác , không những nâng cao chất lượng vận động mà còn nuôi dưỡng được tập quán ứng biến nhậm lẹ . Nếu kém sức khõe , tiến độ tập chậm , thì chhớ nên lấy làm tự ty . Cổ nhân có câu "Cong phu bất khuy nhân" (công phu không phụ lòng người) , ngụ ý rằng gắng được một phần sức nào thì được bấy nhiêu phần hiệu quả . Chỉ cần có hằng tâm , không lười biếng , thì nhất địng sẽ thành công .
  21. 20. Quyền Lộ Của TCQ Có Bố Trí Ra Sao ? Mỗi nhà có quyền lộ khác nhau . Xét các quyền lộ trước đây truyền thụ bởi Dương Trừng Phủ , Vương Kiều Vũ , Hứa Vũ Sinh thì có chổ bất đồng . Hiện nay có hơn mười cách bố trí quyền lộ không giống nhau .Quyền lộ TCQ bây giờ căn cứ vào quyền lộ được lưu truyền rất rộng rãi của Dương Trừng Phũ , được ghi thành biểu đồ dưới đây , có thể có đôi chút dị biệt so với quyền lộ nguyên thủy . Thứ Tự tư thức trong quyền lộ . Tên Hán Việt Tên nôm 1. Thái Cực khai Thức Thức bắt đầu 2. Lãm Tước Vĩ Vuốt đuôi công 3. Ðơn Tiên Một cây roi 4. Ðề Thủ Thượng Thức Cất tay lên 5. Bạch Hạc Lưỡng Xí Hạc trắng xòe cánh 6. Lâu Tất Ảo Bộ Vuốt gối đánh tay 7. Thũ Huy Tì Bà Tay gãy đàn tì bà 8. Lâ Tất Ảo Bộ Vuốt gối đánh tay 9. Thủ huy tì bà Tay gãy đàn tì bà 10. Ban Lan Trùy Ém gạt đấm 11. Như Phong Tự Bế Như ngăn như đóng 12. Thập Tự Thủ Tay chữ thập 13. Bảo Hổ Quy Sơn Ôm cọp về núi 14. Lãm Tước Vĩ Vuốt đuôi công 15. Ðơn Tiên Một cây roi 16. Trửu Ðề Khán Trùy Xem đấm dưới cùi chỏ 17. Ðảo Niện Hầu Lui đuổi khỉ 18. Tả Phi Thức Bay nghiêng 19. Ðề Thủ Thượng Thức Cất tay lên 20. Bạch Hạc Lưỡng Xí Hạc trắng xòe cánh 21. Lâu Tất Ảo Bộ Vuốt gối đánh tay 22. Hải Ðể Châm Mò kim đáy bể 23. Phiến Thông Bối Quạt lưng 24. Phiệt Thân Trùy Ném vồ 25. Ban Lan Trùy Ém gạt đấm 26. Lãm Tước Vĩ Vuốt đuôi công 27. Ðơn Tiên Một cây roi 28. Ðơn Tiên Một cây roi 29. Vân Thủ Tay như mây cuốn 30. Ðơn Tiên Một cây roi 31. Cao Thám Mã Vổ đầu ngựa 32. Phân Cước Ðá bằng mũi bàn chân 33. Ðắng Cước Ðá bằng gót chân 34. Lâu Tất Ảo Bộ Vuốt gối đánh tay 35. Tài Trùy Ðấm xuống như gieo hạt 36. Phiệt Thân Trùy Ném vồ 37. Ban Lan Trùy Ém gạt đấm 38. Ðắng Cước Ðá bằng gót chân 39. Ðả Hổ Thức Ðánh cọp 40. Ðắng Cước Ðá bằng gót chân 41. Song Phong Quán Nhĩ Hai luồng gió thổi vào tai
  22. 42. Ðắng Cước Ðá bằng gót chân 43. Ban Lan Trùy Ém gạt đấm 44. Như Phong Tự Bế Như ngăn như đóng 45. Thập Tự Thủ Tay chữ thập 46. Bảo Hổ Quy Sơn Ôm cọp về núi 47. Lãm Tước Vĩ Vuốt đuôi công 48. Ðơn Tiên Một cây roi 49. Ngọc Nữ Xuyên Thoa Thiếu nữ đưa thoa cửi 50. Tả Phi Thức Bay nghiêng 51. Lãm Tước Vĩ Vuốt đuôi công 52. Ðơn Tiên Một cây roi 53. Vân Thủ Tay như mây cuốn 54. Ðơn Tiên Một cây roi 55. Hạ Thế Ngồi xuống về đàng sau 56. Kim Kê Ðộc Lập Gà vàng đứng một chân 57. Ðảo Niện Hầu Lui đuổi khỉ 59. Tả Phi Thức Bay nghiêng 60. Ðề Thủ Thượng Thức Cất tay lên 61. Bạch Hạc Lưỡng Xí Hạc trắng xòe cánh 62. Lâu Tất Ảo Bộ Vuốt gối đánh tay 63. Hải Ðể Châm Mò kim đáy bể 64. Phiến Thông Bối Quạt lưng 65. Bạch Xà Thổ Tín Rắn trắng thè lưỡi 66. Ban Lan Trùy Ém gạt đấm 67. Lãm Tước Vĩ Vuốt đuôi công 68. Ðơn Tiên Một cây roi 69. Vân Thủ Tay như mây cuốn 70. Ðơn Tiên Một cây roi 71. Cao Thám Mã Ðái Xuyên Chưởng Vổ đầu ngựa và xoè tay ngữa 72. Thập Tự Bãi Liên Tay thập tự và đá như gió tạt lá sen 73. Lâu Tất Ảo Bộ Vuốt gối đánh tay 74. Chỉ Ðáng Trùy Ðấm bụng dưới 75. Lãm Tước Vĩ Vuốt đuôi công 76. Ðơn Tiên Một cây roi 77. Hạ Thức Ngồi xuống về đàng sau 78. Thất Tinh Bãy vì sao 79. Khóa Hổ Cưỡi cọp 80. Song Bãi Liên Gió tạt mạnh lá sen 81. Loan Cung Xạ Hổ Giương cung bắn cọp 82. Ban Lan Trùy Ém gạt đấm 83. Như Phong Tự Bế Như ngăn như đóng 84. Hợp Thái Cực Thức chấm dứt
  23. 21. Vì Sao Cần Phải Kết Hợp Hô Hấp Với Ðộng Tác? Ý Nghĩa Chủ Yếu Của Nó Là Gì? Sự hô hấp có tính quy luật trong khi vận động là một đặc điểm chủ yếu của TCQ . Ðể làm sáng tỏ ý nghĩa này , trước hết cần nói rõ (a) Cái ảnh hưởng của sự hô hấp đối với sức khõe , và (b) Sự quan trọng của hô hấp trong vận động TCQ . (a) Hô hấp là hai phương diện hít thu dưỡng khí và thở ra thán khí của cơ thễ . Dưỡng khí được hít vào càng nhiều , ích lợi cho cơ thể càng tăng . Do đó , trong khi vận động , sự gia tăng dung lượng khí trao đổi do sự hô hấp chính là một vấn đề then chốt . trong lúc chúng ta ở trạng thái tương đối an tĩnh , thì mỗi phút số lần hô hấp ước chừng 16 đến 18 lần . Nhờ hô hấp mà dung lượng khí trao đổi ước chừng 350 Cm3 . Dung lượng trao đổi này trong trạng thái an tĩnh tương đối không phải luôn luôn đũ dùng . Bởi vì trong lúc chúng ta lao động thể xác hoặc vận động thân thể , không phải chúng ta chỉ cần hấp thụ nhiều dưỡng khí , mà cả đến sự Oxy-hóa và sự phân giãi của oxygen cũng tăng gia rất nhiều , dung lượng khí trao đổi trong cả hai buồng phổi có thể tăng lên đến 1200 Cm3 . Do đó , sự vận động thể dục và sự lao động thân xác trong tương quan với việc nâng cao lượng trao đổi khí của phổi , nghĩa là làm thể chất mạnh khõe , có một tác dụng cực kỳ trọng yếu . (b) Sự luyện tập TCQ đòi hỏi phải kết hợp sự hô hấp với động tác . Sự đòi hỏi này thật là thỏa đáng . Vì sao ? Bởi vì TCQ nắm được cái chìa khóa quan trọng mở được cánh cửa đi vào sức mạnh của thể chất . Nội dung của chìa khóa ấy ít nhất gồm có ba ý nghĩa sau : 1. Rèn luyện cơ hô hấp , gia tăng hoạt lượng của phổi (phế hoạt lượng) : Cơ hô hấp bao gồm luôn các bắp thịt của các bộ phận mạng ngực (hoành cách mô) và cơ giữa hai sườn . Mạngngực co rút lại khiến cho xoang ngực nở lớn ra , cơ ở giữa hai sườn (tầng ngoài) co rút lại làm cho xoang ngực nở to ra . Như vậy , xoang ngực nở lớn làm cho phổi nở nang , dung lượng khi trao đổi tự nhiên tăng gia . Phế hoạt lượng là cái gì ? Khi ta hít vào một hơi một cách đầy đủ , rồi lại thở hết hơi ấy ra , thì cái dung lượng khí mà phổi đã dung nạp ấy gọi là phế hoạt lượng . Phế hoạt lương có thể tăng gia nhờ sự luyện tập . Về mặt biểu khán , động tác TCQ trông thì chậm chạp , nhưng lượng vận động lại không ít , do đó cũng làm tăng gia lượng khí trao đổi khi hô hấp .Nhưng điều đáng nói là cái ưu điểm nổi bật hẳn của TCQ , là ở chổ thay đổi một cách có ý thức số lần hô hấp và mở rộng phế hoạt lương , làm cho sự hô hấp và động tác phối hợp lại . Hơn nữa , phải hô hấp cho đúng phép " sâu , dài , đều , im " (Thâm , trường , quân , tĩnh) . Cứ luyện tập bền bĩ như vậy , thì tự nhiên phát triển được cơ hô hấp , tăng gia được phế hoạt lượng . Sự phát triển và tăng gia này có một tác dụng rất tốt đẹp đối với sự cải tiến cơ năng và tình trạng lành mạnh của khí quan hô hấp . 2. Ðạt đến mục đích "Hấp khí dưỡng thần" : " Thần " chính là hệ thống thần kinh , đúng hơn nữa là bộ phận cao cấp của hệ thần kinh tức là não . Khi vận động , do sự tăng cường tác dụng tân trần đại tạ , mà nhu cầu về dưỡng khí tương đối nhiều . Luyện tập TCQ đòi hỏi nâng cao dung lượng khí trao đổi của phổi một cách có ý thức . Trên thực tế , lượng dưỡng khí thu vào này lớn hơn mức đòi hỏi cần thiết của thân thể , do đó các bộ phận trong thân thể , và nhất là não , hấp thụ dưỡng khí một cách sung túc , làm cho thần khí thanh sãng (tinh thần , ý chí trong lành và khoan khoái) . Như vậy , chính là đạt đến mục đích "Hấp khí dưỡng thần" . Mặt khác khi luyện tập TCQ còn phải thực hiện được yêu cầu "Ðộng trung cầu tĩnh" , "Tĩnh" là làm cho các bộ phận của thân thể , nhất là não bộ , trở nên êm đềm , yên ấm , làm cho tốc độ chuyển hóa không quá nhanh , lượng tiêu hao cũng có thể giảm thiểu . Ðồng thời , do ảnh hưởng của phương thức hô hấp đặc thù trong sự vận động TCQ , tốc độ tuần hoàn của máu tăng nhanh , làm cho các bộ phận của thân thể , nhất là não , hấp thụ dưỡng liệu và oxygen nhiều hơn , và mặt khác chất dinh dưỡng và oxygen trong cơ thể bị tiêu hao ít hơn , điều này rõ rệt là cải tiến trạng huống của thể chất . Ðồng thời trong lúc vận động , đại bộ phận của lớp võ ngoài của đại não (đại não bì tằng) bị đặt trong trạng thái ức chế , do đó đại não có cơ hội nghĩ ngơi rất bổ ích , đây là bước đưa đến "Dưỡng thần" . Cái kết quả dưỡng thần đạt được từ phương thức này , so với phương cách nghĩ ngơi thông thường khác , là cao hơn nhiều , bởi
  24. vì kết quả ấy là kết quả thu lượm do ở sự phát triển cái tác dụng tích cực của sự vận động . Phàm những bệnh tật nào liên quan đến hệ thần kinh , sẽ chuyễn biến tốt đẹp một cách từ từ , như các bệnh suy nhược thần kinh , mất ngũ , di tinh , huyết áp cao , , sẽ dần dần biến mất nhờ luyện tập TCQ . 3. Tiêu trừ sự ứ huyết trong cơ thể , xúc tiến (làm nhanh hơn) sự tuần hoàn của máu : "Thực hiện sự hô hấpvà sự vận động một cách tương ứng cũng có thể gia tăng sự hồi lưu của tĩnh mạch , thí dụ như lúc hít vào , dung tích của lồng ngực lớn ra ,áp suất nội bộ tăng cao , kết quả là áp lực trên tĩnh mạch ở soang trên dưới giảm bớt , sự hồi lưu của tĩnh mạch nhanh hơn . Trong quá trình luyện tập TCQ , điểm này biểu hiện rất là rõ rệt . Khi tập TCQ , toàn thân buông lõng không căng thẳng , hơn nữa lại kết hợp một cách có ý thức hô hấp với vận động , như thế mới có thể làm cho hô hấp thuận với tự nhiên . Hiệu quả của sự hô hấp sẽ tăng gia , nói khác đi , chính là sự tuần hoàn của máu và chất bạch huyết tăng nhanh hơn một cách tốt đẹp ." "Ngoài ra trong TCQ , sự hô hấp đòi hỏi phải sâu , phải "Khí trầm đan điền" nữa , đây chính là một loại hô hấp bằng hoành cách mô . Phương thức hô hấp này , trên bình diện y liệu và dưỡng sinh , có tác dụng rất hữu ích . Sự co rút và dãn nở của các cơ hoành cách và các cơ bụng làm cho áp lực trên bụng không ngừng thay đổi . Lúc phúc-áp tăng cao , tĩnh mạch trong xoang bụng chịu tác dụng của áp lực sẽ đem máu về tâm-phòng (tâm thất) phải , ngược lại lúc phúc áp giảm thiểu , máu lại đi về xoang bụng . Như vậy là cải thiện trạng huống tuần hoàn của máu . Thêm vào đó , sự vận động của hoành cách mô làm cho gan được xoa bóp , làm tiêu trừ sự ứ huyết ở gan và cải thiện công năng của gan " . (Trích từ bài 'Cơ sở sinh lý học của TCQ' của Khúc Miên Thành ) . Cho nên , sự kết hợp hô hấp với sự vận động của TCQ có một ý nghĩa dưỡng sinh rất rõ rệt và chắc chắn .
  25. 22. Làm Thế Nào Kết Hợp Một Cách Có Ý Thức Sự Hô Hấp Và Ðộng Tác? Cần Ðề Phòng Những Thiên Hướng Nào ? Trong TCQ , sự kết hợp hô hấp với động tác tùy thuộc vào sự biến hóa của động tác mà tự nhiên hình thành . Khi thực hiện động tác , lúc nào hấp khí , lúc nào hô khí , đều có chuẩn tắc nhất định . Ðể người học dễ nắm yếu điểm của sự hô hấp , chúng tôi đem một số qui luật thông thường mà quy nạp lại như sau : 1. Hấp khí (hít vào) : khởi thân , khuất tý , đề thối , thích thối (cất mình , co tay , treo chân , đá chân ) . 2. Hô khí (thở ra) : tồn thân , thân tý (đã quyền , xuất chưởng) , lạc bộ (thả chân) cho đến lúc các động tác đi hết đến điểm nhất định thì thở ra . Dưới đây là mấy trường hợp biện minh : 1. Hể cất mình đứng lên , thì thường là hít vào , như làm xong thức Hải Ðề châm , Tấn Bộ Tài Trùy , Tả Hữu Kim Kê Ðộc Lập , khi đứng lên đều là lúc hít vào . Hể hai cánh tay hay một co rút vào thân là lúc ấy hít vào , như lúc cánh tay làm xong động tác Lãm Tước Vĩ , lúc cánh tay trái từ bên phải thâu về trong thức Ðơn Tiên , lúc hai tay rút về như thức Như Phong Tự Bế , thì tất cả những lúc ấy đều hít vào . Về động tác của chân , thì khi nào treo chân lên , hoặc đá chân ra là lúc hít vào , điều quan trọng là các động tác treo chân , bật mũi đá ra hay đạp ra phải phối hợp nhịp nhàng với hơi thở , như trong các động tác Tả Hữu Phân Cước , Tả Hữu Ðắng Cước , Chuyển Thân Ðáng Cước , Thập Tự Ðơn Bãi Liên , Chuyễn Thân Song Bãi Liên . 2. Ðộng tác nào đòi hỏi thân phải rùn xuống , thì lúc ấy thở ra , như trong lúc làm các thế Hải Ðề Châm , Tấn Bộ Tả Ðắng Cước , Ðơn Tiên Hạ Thức , đều phải thở ra . Mỗi khi một tay hay hai tay duỗi ra , tức là lúc đánh quyền ra hoặc vổ chưởng ra , thì là lúc thở ra . Như lúc hai chưởng án ra trong thức Lãm Tước Vĩ , lúc tay trái đẩy ra trong thức Ðơn Tiên , lúc đánh quyền ra trong các thức Ban Lan Trùy , Chỉ Ðắng Trùy , Tấn Bộ Tài Trùy , đều là lúc thở ra cả . Hể khi nào chân thả xuống đất là thở ra . Mỗi khi làm xong các động tác Lâu Tất Ảo Bộ , Tả Hữu Phân Cước , Tả Hữu Ðắng Cước , thì khi gót chân vừa thâu về đó đặt xuống đất là lúc bắt đầu thở ra . Những trường hợp trình báy ở trên là thông thường , tất nhiên trong lúc kết hợp hơi thở với từng động tác một có thể có sự biến đổi , chớ không phải chắc nịt như nói trên . Trong lúc kết hợp hơi thở với động tác , cần chú ý là hít thở không thể gắng gượng miễn cưỡng - dĩ nhiên đây là vẫn là sự điều tiết hơi thở một cách có ý thức - , không dồn hơi thở , không dùng sức thở ra hít vào , mà phải làm sao kết hợp hơi thở và động tác , chứ không phải kết hợp kiểu ép dầu ép mở . Ðối với người mới luyện tập , không thể đòi hỏi phải thực hiện được điều này , chỉ cần giử cho hơi thở tự nhiên và đều là được rồi .
  26. 23. Luyện Tập TCQ , Tại Sao Phải Chú Ý Nhãn Thần ? Làm Sao Chú Ý Nhãn Thần ? Luyện tập TCQ , dứt khoát phải chú ý đến nhãn thần . Gọi là nhãn thần , tinh thần của toàn thân thể hiện qua hai con mắt . Không riêng gì về TCQ , mà các môn phái quyền thuật khác cũng thế . Mà nhãn thần cũng chỉ là một trong năm điều quan yếu cần phải tập luyện của quyền thuật . Ở đây chúng ta chỉ nói tới nhãn thần mà thôi . Trong quyền thuật , tại sao phải chú ý nhãn thần ? Trước hết , chúng ta cần phải biềt rằng quyền thuật là kỹ thuật công kích và phòng ngự . Do ở tính cách chiến đấu trực tiếp với địch bằng tay chân , mà khi chiến đấu đương nhiên không thể khép mi nhắm mắt , cho nên nhất định phải nhìn , phải chú ý động tĩnh của đối phương . Thí dụ như xem đối phương dùng chiêu thức gì , tấn công làm sao , tránh né đòn như tế nào , , để nắm chắc đường đi nước bước của địch mới có thể thấy chiêu phá chiêu , thấy thức phá thức , sáo thức hoàn chiêu . Ðó chính là tri kỹ tri bĩ bách chiến bất đải vậy . Thị giác có linh mẫn , thì lúc giao thủ . mới phát huy được tác dụng của đòn thế . Hơn nữa khi giao thủ , nhãn thần ta có bén nhọn sắc sảo thì cũng đũ để làm khiếp vía đối phương rồi . Khi tập một mình , tức là không trực tiếp giao thủ , chỉ là múa từng chiêu từng thức một cách đơn điệu , nhưng tự nó vẫn là động tác giao thủ , cho nên vẫn phải thể hiện tư thái như khi chiến đấu . Ðiều trọng yếu là nhãn thần phải quán chú (như rót vào một chổ) , mới khiến cho ý chí tập trung , tâm thần không loạn , do đó nâng cao hiệu quả của sự vận động . Chú ý nhãn Thần như thế nào ? Quy luật thông thường là như sau : Trong hai tay của mỗi thức , thường thường một tay làm động tác tấn công , một tay làm động tác phòng thủ , thì nhãn thần chú ý đến tay tấn công ,cũng chính là tay tỏ lộ ở đàng trước . Thí dụ như ở động tác Ðơn Tiên , cần chú ý tay trái ; ở động tác Hải Ðề Châm cần nhìn tay phải ; ở động tác Vân Thủ cần chú ý hoặc tay trái hoặc tay phải vào lúc mà tay ấy lật chưởng đi vòng lên . Nhưng không được chú ý nhìn kiểu dương mắt ếch , hoặc là nhìn đờ con mắt , mà phải nhìn làm sao giống như lườm mà không phải lườm , giống như khép mà không phải muốn khép . Ðứng trên mặt giá trị y liệu mà nói , nhìn kiểu này có thể làm cho tinh thần nội liễm , làm cho đại não nghĩ ngơi một cách an tĩnh , và đó chính là đạt đến mục tiêu dưỡng thần rồi vậy .
  27. Tìm hiểu thêm về Thái cực quyền (theo Nguyễn Duy Chính) Tại các nước Tây Phương, Thái Cực Quyền được coi như một môn thể thao dưỡng sinh thì người Việt chúng ta mỗi khi nghe tới Thái Cực Quyền lại thấy ẩn náu một vẻ huyền bí, mơ hồ mang màu thoát tục, hình dung ra một Trương Tam Phong, với nhân dáng uy nghi, tiêu sái mà Kim Dung đã vẽ ra trong tác phẩm Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Điều đó cũng dễ hiểu vì rất nhiều người đã bị ảnh hưởng nặng nề của võ hiệp tiểu thuyết và chính những tác phẩm của Kim Dung đã đúc cho chúng ta những khuôn mẫu suy nghĩ, biến những nhân vật vốn dĩ chỉ là huyền thoại thành một con người của lịch sử. Sau đây là một vài đoạn ngắn viết về Trương Tam Phong dưới ngòi bút Kim Dung: “Trong ánh sáng mông lung mờ ảo chàng thấy một người thân cao lưng rộng, bước chân ngưng trọng, chính là sư phụ. Trương Thúy Sơn náu mình sau cột, không dám cử động, nghĩ thầm phải quay về phòng ngay. Thế nhưng ắt là sư phụ sẽ hay biết, nếu bị tra hỏi, đành phải nói thực thì thể nào cũng bị trách mắng (Trương Thúy Sơn toan lẻn ra trừng trị những tiêu đầu của Long Môn tiêu cục-NDC). Chỉ thấy Trương Tam Phong đi lại một hồi, ngửng đầu ngẫm nghĩ, bỗng nhiên đưa tay phải, tại không trung làm bút viết lên thành chữ. Trương Tam Phong cả văn lẫn võ đều thông, ngâm thơ viết chữ, học trò đều biết nên cũng không lấy làm lạ. Chàng theo dõi nét bút ở tay, hóa ra ông viết đi viết lại mấy lần hai chữ “tang loạn”, rồi lại viết hai chữ “đồ độc”. Trương Thúy Sơn trong lòng rung động, nghĩ thầm: - Sư phụ trong lòng đang nghĩ đến “Tang Loạn Thiếp”. Chàng có ngoại hiệu là “Ngân Câu Thiết Hoạch”, vốn bởi tay trái sử dụng hổ đầu câu bạc vụn, tay phải sử phán quan bút thép ròng mà ra. Từ khi mang cái tên đó rồi, Thúy Sơn e ngại danh quá kỳ thực, sợ giới văn nhân chê cười, nên tiềm tâm học phép viết chữ, chân thảo triện lệ, loại nào cũng tập. Khi đó chàng thấy sư phụ dùng ngón tay làm bút, đạt đến tình trạng “không nét nào duỗi ra mà không thu vào, không nét nào đi ra mà không quay lại” chính là bút ý của Vương Hi Chi trong Tang Loạn Thiếp. Tang Loạn Thiếp hai năm trước chàng đã tập qua, biết là nét bút túng dật, mạnh mẽ chắc nịch nhưng không bằng được nét chữ trang nghiêm cẩn thận, khí tượng vững vàng trong “Lan Đình Thi Tự Thiếp”, hay “Thập Thất Thiếp”. Lúc này, chàng thấy sư phụ đưa tay viết liên tiếp: “Hi Chi đốn thủ, tang loạn chi cực, tiên mộ tái ly đồ độc, truy duy kháo thậm” mười tám chữ, mỗi nét, mỗi chữ đều tràn đầy uất hận, bi phẫn, nên bỗng cảm thông được tâm tình Vương Hi Chi khi viết “Tang Loạn Thiếp”. Trương Tam Phong viết đi viết lại mấy lần, bỗng thở dài một tiếng, bước tới giữa sân, đứng trầm ngâm một hồi rồi đưa ngón tay, lại bắt đầu viết chữ. Lần này cách viết chữ hoàn toàn khác hẳn. Trương Thúy Sơn theo nét bút thì thấy chữ đầu tiên là chữ "võ", rồi đến chữ "lâm", tiếp tục hai mươi bốn chữ chính là
  28. câu người thường truyền tụng "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long. Hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” Dường như Trương Tam Phong đang tìm cách suy nghĩ cho ra thâm ý của hai mươi bốn chữ này để biết vì cớ gì Du Đại Nham bị thương? Việc này có liên hệ gì đến hai món thần binh lợi khí là đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên? Chỉ thấy ông viết một lần hai mươi bốn chữ rồi viết lại lần nữa, nét bút mỗi lúc một dài, nhưng đưa tay mỗi lúc một chậm, đến về sau ngang dọc, đóng mở, chẳng khác gì thi triển quyền cước. Trương Thúy Sơn ngưng thần theo dõi, trong lòng vừa mừng vừa sợ, hai mươi bốn chữ mà sư phụ vừa viết kia hóa ra là một pho võ công thật cao minh, mỗi chữ bao gồm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại bao gồm nhiều cách biến hóa. Chữ long và chữ phong nhiều nét, chữ đao, chữ hạ ít nét. Thế nhưng nhiều nét mà không rườm rà, ít nét cũng không thô lậu, lúc thu vào thì ngưng trọng như con sâu co mình, lúc bung ra thì nhanh nhẹn như con thỏ vuột chạy, lâm ly sảng khoái, nét thì cương kiện hùng hồn, nét thì phóng dật vi vu, nét nhẹ nhàng như tuyết rơi lả tả, nét hậu trọng nặng nề như voi đi, uy nghi như hổ bước. Trương Thúy Sơn sau phút giây thảng thốt, vội định thần chú tâm ghi nhớ. Hai mươi bốn chữ đó bao gồm hai chữ bất, hai chữ thiên, thế nhưng những chữ đó viết ra hình giống nhau mà ý thì không đồng, khí tưởng giống mà thần thì không giống, biến hóa ảo diệu, quả thật là một công trình.” (Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Minh Hà Xã, Hongkong 1976 tr.127-129) Cũng dưới bút pháp của Kim Dung, ông mô tả lần đầu tiên Trương Tam Phong thi diễn Thái Cực Quyền để truyền lại cho đệ tử: “Trương Tam Phong từ từ đứng dậy, hay tay buông thõng, lưng bàn tay hướng ra ngoài, ngón tay để tự nhiên, hai chân dang ra ngang nhau, kế đến hai cánh tay từ từ đưa lên đến ngang ngực thì tay trái ôm thành hình bán nguyệt, lòng bàn tay úp thành âm chưởng, tay phải lật lên thành dương chưởng, nói: - Đây là thế khởi đầu của Thái Cực Quyền. Rồi tiếp tục từng chiêu, từng thức diễn ra một lượt, miệng đọc các tên thế: Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Xí, Lâu Tất Câu Bộ, Thủ Huy Tì Bà, Tiến Bộ Ban Lan Truy, Như Phong Tự Bế, Thập Tự Thủ, Bão Hổ Qui Sơn Trương Vô Kỵ ngưng thần nhìn không nháy mắt, lúc đầu tưởng là thái sư phụ cố ý đem từng thức diễn thật chậm, cốt để cho Du Đại Nham nhìn cho rõ ràng, nhưng đến chiêu thứ bảy “Thủ Huy Tì Bà”, chỉ thấy ông tay trái dương chưởng, tay phải âm chưởng, mắt chăm chú nhìn cánh tay bên trái, hay tay từ từ hợp lại, xem tưởng ngưng trọng như núi, lại tựa nhẹ nhàng như lông. Trương Vô Kỵ đột nhiên tỉnh ngộ: - Đây là một loại võ công thượng thừa lấy chậm chống với nhanh, lấy tĩnh chế động, không ngờ là trên thế gian này lại có một loại công phu cao minh đến thế. Chàng vốn dĩ võ công cực cao, một khi đã lãnh hội, càng xem càng thêm nhập thần. Chỉ thấy Trương Tam Phong hai tay ôm thành hình vòng tròn, chiêu nào cũng hàm ý âm dương biến hóa, tinh vi ảo diệu, quả thực mở ra một khung trời mới cho võ học. Ước chừng ăn xong một bữa cơm, Trương Tam Phong sử đến thượng bộ Cao Thám Mã, thượng bộ Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên rồi hợp trở lại thái cực. Ông đứng yên thần định khí nhàn, tuy mới bị trọng thương mà luyện xong quyền pháp, tinh thần xem ra lại sung vượng hơn. Trương Tam Phong hai tay ôm vòng thành thức thái cực, nói: - Quyết khiếu của môn quyền pháp này là mười sáu chữ "hư linh đính kình, hàm hung bạt bối, túng yêu
  29. thùy đồn, trầm kiên trụy trửu". Thuần lấy ý mà đi quyền, tối kỵ dùng sức, hình thần hợp nhất, đó chính là yếu chỉ của quyền pháp. (Kim Dung tr. 963- 964) Theo nhiều nhà nghiên cứu về văn minh Trung Hoa, võ thuật, khí công và nhiều ngành khác đều có chung một nguồn gốc, mỗi ngành là một chi lưu nhưng đều đem phương pháp lý luận âm dương ngũ hành khai triển mà thành. Tuy những biến chuyển đó đồng bộ với tiến triển xã hội, nhưng con người thích đặt ra những tổ sư để một phần huyền thoại hóa ngành của mình, phần khác gán cho những tính ly kỳ ngõ hầu gia tăng giá trị và xóa nhòa những chỗ không rõ nét. Vì thế khi nghiên cứu về lý học người ta có Trần Đoàn, nghiên cứu về y học có Thần Nông, Hoàng Đế, còn nghiên cứu về võ thuật không thể không biết đến nhà sư Đạt Ma hay đạo sĩ Trương Quân Bảo. Tuy nhiên, một khi loại trừ được những chi tiết huyền bí, và nhất là nhìn được vấn đề một cách tỉnh táo hơn, chúng ta sẽ thấy rằng mọi ngành đều có những liên quan mật thiết với đời sống, và đều là sản phẩm đóng góp của rất nhiều người, rất nhiều đời và biến cải theo thời gian cho phù hợp với hoàn cảnh. Có như thế, chúng ta mới không bị trói mình vào những kỳ kinh, bảo khíp, chân truyền, chính thống đã giam hãm con người vào những định đề cứng ngắc thay vì linh hoạt và biến hóa. Trong thiên khảo luận này, chúng tôi nhìn môn Thái Cực Quyền coi đó như một sản phẩm sống chứ không câu chấp vào môn phái hay quyền thức. Thái Cực Quyền sẽ được nhìn như một sản phẩm của nền văn hóa Trung Hoa, một trong những kết quả mà con người đã tạo ra được qua một quá trình lâu dài. Theo sử sách, khởi nguyên của Thái Cực Quyền không có gì rõ ràng nhưng phần lớn đều đồng ý là môn võ này phát xuất từ lâu, biến chuyển và tu bổ từ đời này sang đời khác chứ không phải của riêng một ai. Khởi nguyên của Thái Cực Quyền có lẽ từ những động tác thể dục để làm cho thân thể khỏe mạnh, rồi chính những động tác đó được dung nạp, trộn lẫn trong nền văn minh Trung Hoa để phát triển thành những ngành như khí công, võ thuật với những mục đích khác nhau. Cứ theo lịch sử Tàu, những chi tiết có liên quan đến võ thuật xuất hiện vào thời Chiến Quốc (475-221 TTL). Thời đó có những hiệp khách, sống bằng sức khỏe và thanh gươm, là một loại “lính đánh thuê” thường đi từ nước này sang nước khác, để tìm một vương tôn, phú hộ thu nạp làm môn khách. Thích Khách Liệt Truyện trong Sử Ký viết về những người này dường như có biết võ nghệ, nhưng chưa được hệ thống thành môn phái mà phần nhiều do kinh nghiệm chiến đấu bản thân. Có lẽ giai đoạn đó quan niệm trọng văn khinh võ còn nặng nên không ai lưu tâm đến võ nghệ, nhất là việc ghi chép còn rất giới hạn nên chỉ ghi lại những gì hết sức thiết yếu. Đến thời Tần (221-207 TTL) và thời Hán (206 TTL – 220 STL), xã hội cũng vẫn đặt nặng những mô thức hành chánh, tư tưởng, triết học mà chưa coi võ làm trọng. Sách vở thời kỳ này cũng không thấy đề cập đến nhiều mặc dầu đã có nhiều người nghiên cứu về binh bị, chiến thuật chiến lược nhưng không phải là luyện tập cá nhân mà là tập thể. Tuy thời kỳ này người ta việc đúc binh khí đã tiến bộ nhưng việc dùng các binh khí đó sao cho hữu hiệu lại chưa đặt ra. Sử chép rằng Kinh Kha khi mưu toan hành thích Tần vương đã dấu một con dao Chủy Thủ (loại gươm ngắn, tương tự như dao găm) trong cuộn địa đồ, để khi dâng bản đồ được đến gần Tần vương, mở ra dùng dao đâm. Thế nhưng Kinh Kha lại đâm trượt. Tần vương có đeo kiếm nhưng lại không rút được, nên hai người cứ đuổi nhau chạy vòng quanh cây cột. Nhờ có kẻ đứng hầu nhắc Tần vương quàng tay ra sau lưng rút kiếm, nên đã đâm chết Kinh Kha. Người ta cho rằng hoặc Kinh Kha không giỏi võ, cũng không nhanh nhẹn nên không giết nổi Tần vương. Còn chuyện thứ hai là chuyện Chuyên Chư dấu dao trong bụng con cá, nấu dâng lên Vương Liêu, nhân đó rút
  30. dao đâm chết Vương Liêu. Sau đó chính Chuyên Chư cũng bị vệ sĩ của Vương Liêu giết chết. Xét như thế, việc tập luyện võ thuật có lẽ thời đó chưa phổ biến mặc dù đã chế tạo được nhiều loại binh khí. Theo sách vở, thời đó kỹ thuật luyện kim đã khá cao, người ta đã đúc được nhiều bảo kiếm có tên Thái A, Trạm Lư, Ngư Trường Nhiều huyền thoại về đúc kiếm cũng được ghi chép trong sách vở, chẳng hạn như chuyện vợ Can Tương là Mạc Tà phải nhảy vào lò thì kim khí mới dung hợp để tạo thành bảo kiếm. Những động tác có tính thể dục đầu tiên được ghi nhận từ thời Tam Quốc (khoảng 220-265 TL) do Hoa Đà, một y sư danh tiếng không những giỏi y lý mà còn về các động tác thể dục. Tương truyền ông sáng tạo ra những động tác tập luyện dựa theo năm loài vật gọi là Ngũ Cầm Hí – hổ, hươu, gấu, khỉ và chim – dạy cho học trò để thân thể khỏe mạnh và sống lâu. Chính những động tác này là căn nguyên của võ học. Đến thời nhà Lương (502-557), có một nhà sư tên là Đạt Ma từ bên Thiên Trúc qua bên Tàu truyền đạo. Vua nhà Lương vời ông đến nhưng ông từ chối, rồi sang chùa Thiếu Lâm ở trên núi Tung Sơn, tỉnh Hà Nam tu hành, quay mặt vào vách đá chín năm liền. Ông mất năm Đại Đồng nguyên niên (535 sau TL). Khi còn sống, Đạt Ma sợ các học trò của mình mệt mỏi, trễ nải nên dạy cho họ một số quyền pháp, đó là khởi thủy của võ Thiếu Lâm. Đây cũng là khởi đầu của những môn tập luyện có mục đích chiến đấu không phải theo hàng ngũ tập thể như trong quân đội hay trận đồ. Võ Thiếu Lâm về sau lan rộng khắp nơi, biến chuyển theo từng nơi từng vùng và phân ra thành hàng trăm môn phái. Tựu trung người phương Nam Trung Hoa thích dùng quyền (tay) - có lẽ vì miền nam nhiều sông ngòi, người ta phải luyện võ ngay trên thuyền nên phải tìm cách khai thác cái sở đoản chật hẹp - còn người miền Bắc lại thích dùng cước (chân) vì miền bắc nhiều thảo nguyên rộng rãi, đi ngựa nhiều. Nam quyền Bắc cước chính là vì thế. Tuy nhiên vì cùng từ võ Thiếu Lâm mà ra, cả hai bên đều trọng cương mãnh, có tính chất công phá hay ngoại công. Sở dĩ đặt tên ngoại công vì về sau một nhánh khác có chủ trương ngược lại được mệnh danh là nội công. Cứ theo sách vở thì hai phần nội công, ngoại công được phân ra đầu tiên chỉ mới xuất hiện vào đời Thanh do Hoàng Lê Châu đề trên mộ bia Vương Chinh Nam (sống cuối đời Minh). Trên bia có đoạn như sau: “Quyền thuật phái Thiếu Lâm đã nổi danh trên toàn quốc, chủ yếu là tấn công người ta nhưng cũng có thể bị người tấn công trả lại. Cũng có một phái gọi là nội gia quyền, lấy tĩnh chế động, khiến cho người tấn công vừa chạm tay là ngã. Vì thế gọi Thiếu Lâm là ngoại gia. Người sáng thủy ra nội gia sống vào đời Tống tên gọi Trương Tam Phong ”. Cứ như thế người ta thấy rằng phân ra nội gia, ngoại gia là sau khi Thái Cực Quyền đã bắt đầu. Cũng trên bia đó, có một đoạn khác viết: “Thuật của Tam Phong, hơn một trăm năm sau, truyền vào Thiểm Tây, mà Vương Tông là người nổi danh nhất”. Vương Tông sống vào đời Tống, và như thế Trương Tam Phong được coi là người sáng tạo ra Thái Cực Quyền. Đời Hậu Lương (907-923), một người đất An Huy tên Trình Linh Tẩy học được từ thầy là Hàn Củng Nguyệt môn Thái Cực Công gồm 14 thức, tên và động tác còn truyền đến tận ngày nay. Có thể nói đây là hình thức đầu tiên của Thái Cực Quyền. Trình Linh Tẩy sáng tác “Quan Kinh Ngộ Hội Pháp”, trong có viết :Nếu không hiểu Dịch Kinh thì không thể thông suốt Thái Cực Quyền. Chỉ một cuốn Kinh Dịch ngày đêm nghiền ngẫm, vượt lên trên mọi tượng, quái để đi sâu vào vòng trong, hiểu được cái chỗ vi diệu mà người khác không hiểu được (thì sẽ thông được Thái Cực Quyền). Trình Linh Tẩy gọi thập tứ thức Thái Cực Công là Thái Cực Quyền, có thể coi như khởi nguyên của ba chữ này là ở đây. Họ Trình cũng là người đầu tiên đem Kinh Dịch gắn liền với Thái Cực Quyền, cũng là người đưa quyền thuật lên một mức
  31. độ cao và gắn liền với đạo dưỡng sinh, gán cho những động tác một ý nghĩa. Tới đời nhà Đường (618-907), một ẩn sĩ tên Hứa Tuyên Bình, ở tại huyện Nam Dương, Hà Nam, thân thể cao lớn, râu dài tới bụng, tóc chấm gót chân, chạy nhanh như ngựa. Ông ta thường mang củi ra chợ bán, vừa đi vừa ngâm: Sáng vác củi đi bán, Chiều mua rượu đem về. Ai hỏi nhà đâu tá, Xuyên mây, núi là quê. (Phụ tân triêu xuất mãi, Cô tửu nhật tịch qui. Nhược vấn gia hà xứ, Xuyên vân nhập thúy vi.) Nhà thơ Lý Bạch đã từng đến tìm ông nhưng không gặp. Thầy của Hứa Tuyên Bình là Hoan Tử, học được Thái Cực Công bao gồm 37 thức, những tên thức so với tên trong Thái Cực Quyền ngày hôm nay không khác bao nhiêu. Ba mươi bảy thức đó còn gọi là Trường Quyền, vì khi diễn tập thao thao bất tuyệt như nước chảy trên Trường Giang. Phương pháp luyện thì cứ luyện thuần thục một thức rồi mới luyện sang thức khác, các thức cũng không có một thứ tự nhất định, mà tùy ý. Tất cả luyện xong sẽ liền lạc với nhau như một chuỗi. Lại còn một người khác tên là Lý Đạo Tử, người đất An Khánh, tỉnh An Huy, cùng thời với Hứa Tuyên Bình. Ông này đã từng đến núi Võ Đương, tu tại Nam Nhạc. Họ Lý luyện Thái Cực Công, còn có tên là Tiên Thiên Quyền Trường Quyền, cũng gần giống như ba mươi bảy thức ở trên. Lý Đạo Tử không ăn cơm, mỗi ngày chỉ ăn một ít cám nên người ta gọi là Phu Tử Lý (ông Lý ăn cám). Tuy đời Đường chưa có tên Thái Cực Quyền nhưng cứ theo quyền pháp của hai người này thì chúng ta có thể tin rằng ý niệm và hình thức đã manh nha. Đến đời Tống, Thái Cực Quyền cũng được lưu truyền. Những người nổi danh hơn cả là Hồ Kính Tử, Trọng Thù, Ân Lợi Hanh. Quyền pháp của những người này được gọi là “Hậu Thiên Quyền”, bao gồm 17 thức, nhưng chỉ có ba thức là chưởng pháp quyền pháp, còn lại là dùng cùi chỏ. Trửu pháp (phép dùng cùi chỏ) dùng để đánh gần, phòng ngừa địch nhân ôm nắm cũng là một trong những phát triển đáng kể của Thái Cực Quyền. Qua đời Nguyên (1268-1368), nước Tàu dưới quyền cai trị của người Mông Cổ. Trong suốt thời gian này, chỉ thấy có ở tỉnh Thiểm Tây, đất Tây An một người tên là Vương Tông Danh học được Thái Cực Công. Về sau có một người khác là Trần Châu Đồng, tỉnh Triết Giang, Ôn Châu đến học họ Vương. Cuối đời Tống, một nhân vật thần kỳ mà người sau cho là sáng tổ của Thái Cực Quyền, một nhân vật giống như huyền thoại mà ngay từ đầu chúng tôi đã đề cập đến. Đó là đạo sĩ Trương Tam Phong của phái Võ Đương. Trương Tam Phong không ai biết rõ sinh năm nào, chết năm nào nhưng cứ như những dật sự còn truyền ông sống đến hơn 120 tuổi, và cũng chính là người sáng tạo ra Thái Cực Quyền. Trong mục Phương Kỹ Truyện của Minh Sử, Trương Tam Phong truyện ghi chép như sau: “Trương Tam Phong người đất Liêu Đông, Ý Châu, tên là Toàn Nhất, tự là Quân Bảo, hiệu là Tam Phong. Ông thân hình cao lớn, tướng như rùa, lưng như hạc, mắt tròn, tai to, râu cứng như kích, mùa hè mùa
  32. đông cũng chỉ mặc một bộ quần áo cũ. Ông ăn mỗi lần cả thùng gạo nhưng có khi mấy ngày mới ăn một lần, có khi mấy tháng không ăn. Sách chỉ đọc qua là nhớ. Lúc đầu ông tu tại Kim Đài Quan, núi Bảo Kê, sau qua Thục rồi Sở. Đầu đời Minh ông lên núi Võ Đương, tiếng tăm cũng khá lớn, ảnh hưởng đến cả trong triều ngoài nội. Ông ngao du không biết đâu mà kể, một ngày đi cả ngàn dặm. Khi ông đến núi Võ Đương, nói với người ta rằng: “Núi này ngày sau ắt sẽ hưng thịnh”. Vào thời binh lửa, các núi Ngũ Long, Nam Nham, Tử Tiêu đều bị phá hủy, ông cùng các đồ đệ phải sống trong bụi cây, gai góc. Vua Thái Tổ nghe tiếng ông, năm Hồng Võ thứ hai mươi bốn, cho sứ đến vời mấy lần nhưng không gặp được. Năm Vĩnh Lạc nguyên niên, vua Thành Tổ lại sai sứ đi tìm mấy bận, trong tờ chiếu “Tứ Trương Tam Phong thư” có viết: “Hoàng Đế kính phụng thư chân tiên Trương Tam Phong tiên sinh túc hạ: Trẫm đã ngưỡng mộ chân tiên từ lâu, nên mong mỏi được gặp ngài, nên thường sai người mang thư, đi khắp các danh sơn để mời về triều. Chân tiên đạo đức cao cả, sống hơn hẳn mọi người, hợp với tự nhiên, thần diệu không sao đo lường được. Trẫm vì tài mạo tầm thường, đức hạnh lại mỏng, nên chỉ biết lấy tấm lòng thành, ngày đêm mong nhớ, nên lại sai sứ đem thư này đến Hương Phụng, mong mây gió đưa được đến ngài, để tỏ được tấm lòng trẫm ngưỡng mộ”. Tay tấm lòng cầu tiên của vua nhà Minh thành khẩn như thế, ở ngôi vị chí tôn mà mấy lần phải hạ mình nhưng Trương Tam Phong vẫn nhất định không gặp, chỉ đề một bài thơ tại vách đá phía nam núi Võ Đương, mấy câu cuối như sau: Tam Phong ẩn giả thùy năng tầm, Cửu thất vân nhai thâm cánh thâm. Huyền viên bạn ngã tiêu sinh lự, Bạch hạc y nhân dẫn đạo tâm. Tiếu bả hoàng quan xu phú quí, Tịnh vô nhất giới thị tri âm. (Tam Phong đố ai tìm, Mây nổi chín từng thâm. Vượn đen là bầu bạn, Hạc trắng nuôi đạo tâm, Cười khinh danh với lợi, Nào đâu kẻ tri âm)” Năm Vĩnh Lạc thứ mười lăm, Minh Thành Tổ lại sai Công Bộ Thị Lang Quách Tấn, Long Bình Hầu Trương Tín đôn đốc trên ba mươi vạn phu phen, phí tổn hàng trăm vạn quan tiền để xây đạo quan trên núi Võ Đương, cả thảy hai trăm chín mươi gian đặt tên là “Ngộ Chân Cung”, lại ban cho núi này là Thái Hòa Thái Nhạc sơn. Tất cả mất 13 năm mới xong, bao gồm 8 cung, 2 miếu, 36 đạo quan, 72 sơn miếu, và hàng trăm cầu, cổng vòm, lương đình, am Núi Võ Đương trở thành một trong những thánh địa của đạo gia. Hiện nay vẫn còn tượng Trương Tam Phong bằng đồng mạ vàng, thần thái tiêu nhiên, đầu đội nón lá, chân đi giày cỏ, coi như một bậc thần tiên, là một di tích đáng kể của đời Minh. Cứ theo sử sách, Trương Tam Phong là một đạo sĩ giỏi võ thuật. Sách Đạo Thống Nguyên Lưu chép là ông “hiếu đạo thiện kiếm” (thích học đạo, giỏi đánh kiếm), phái Võ Đương cũng còn có tên là Tam Phong Phái, cũng lại có tên là Liệp Thạp Phái (phái nhếch nhác, có lẽ vì Trương Tam Phong vốn ăn mặc lôi thôi, dơ bẩn nên có tên như thế). Tới thời gần đây, nhiều học giả khác cũng đã khởi công đi tìm di tích về
  33. Trương Tam Phong, tìm kiếm trong các hang động của núi Võ Đương để xem ông thuộc đời nào thì thấy phù hợp với những điều chép trong Minh sử. Tại chân núi Võ Đương có một cổng vòm bằng đá có tên Huyền Nhạc, đi qua khỏi vòm đá này thì tới Ngộ Chân cung, chính là nơi Trương Tam Phong tu đạo thời Vĩnh Lạc. Dân chúng trong vùng cũng còn truyền lại nhiều sự tích về ông, nhất là những truyện hiệp nghĩa, cứu khổn phò nguy. Ngoài Trương Tam Phong đời Tống và đời Minh, nhiều sách khác cũng có ghi truyện tích về Trương Tam Phong. Có sách chép ông sống đời Kim mạt, Nguyên sơ, học cùng thầy với Lưu Bỉnh Trung, sau đến Thái Thanh cung ở Lộc Ấp học đạo. Vua Anh Tông có ban cho danh hiệu Thông Vi Linh Hóa Chân Nhân năm Thiên Thuận thứ ba, nhưng không biết có thật hay không. Sách Huyện chí của huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây cũng có chép một truyện khác về Trương Tam Phong nhưng hơi thần hóa, nói ông có thể phân thân, chết đi sống lại. Năm 1933, đời Dân Quốc, một nhóm khảo sát đã tới vùng bắc tỉnh Thái Nguyên, huyện Dương Khúc để truy tìm tung tích Trương Tam Phong. Dân vùng đó cho hay ở tây nam huyện, nơi tây bắc Lan Thôn có núi, đi sâu vào khoảng chục dặm trên đỉnh núi có Huyền Nham động, trong động có tượng Trương Tam Phong. Khi phái đoàn đó đến động thì không thấy tượng nhưng có tìm được một tấm bia đá đã mòn, khi cạo rửa còn đọc được hàng chữ “Đời Gia Tĩnh, Trương Tam Phong đã từng tu đạo nơi đây”. Núi Võ Đương vốn không phải chỉ là một ngọn núi mà là một quần sơn bao gồm cả thảy 72 ngọn, với tổng số diện tích lên đến 77 dặm vuông trong tỉnh Hồ Bắc. Vì hẻo lánh và tĩnh mịch như thế, rất ít ai đặt chân tới. Theo những nghiêm luật do chính những đạo sĩ đặt ra, gần như họ không cho ai, ngoài người trong môn phái họ được tới đây nghiên cứu. Từ những di tích còn sót lại, những đền miếu ở đây có từ thời nhà Đường, hiện nay còn tồn tại là 46 đạo quan lớn và 72 am nhỏ. Võ Đương được liệt vào một trong 72 phúc địa của Trung Hoa, thoạt đầu có tên là Tiên Thất sơn, ngọn cao nhất là Thiên Trụ Phong. Đến đời Vĩnh Lạc nhà Minh, Chân Võ (một vị thần trong Đạo giáo thờ tại đây) được nâng lên hàng Đế, vì thế cải danh thành Thái Nhạc hay Huyền Nhạc. Thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, Chu Ân Lai đã phải cử quân đội đến bảo vệ khu vực Võ Đương nên nhờ đó đã ngăn được đám Hồng Vệ Binh không phá hủy. Hiện nay, núi Võ Đương là một trong những thắng tích của Trung Hoa được UNESSCO giúp trùng tu và liệt vào những khu vực văn hóa thế giới. Gần đây, nhà cầm quyền Trung Hoa đã kiến tạo nhiều cao ốc, trang bị những tiện nghi để du khách có thể đến thăm các nơi mà trước đây coi là cấm địa như Tử Tiêu Cung, Ngọc Hư Điện, Triều Thiên Cung, Nguyên Hòa Quan Trên núi Võ Đương, những đạo sĩ vẫn tập những môn võ công bí truyền và tu luyện theo đường lối truyền lại mấy trăm năm qua. Kiếm pháp là môn được coi như quan trọng và đặc sắc nhất, ngoài luyện tập cá nhân, họ còn tiếp tục rèn luyện kiếm trận, theo biến hóa của bát quái, âm dương, không giống như Thái Cực Kiếm mà ta thấy lưu hành ở bên ngoài. Những công phu quyền cước cũng khác, tuy cũng là đạo gia nhưng nặng về luyện khí và gần như khác hẳn phương pháp đi quyền nhẹ nhàng chậm rãi của Thái Cực Quyền đang phổ biến khắp mọi nơi.(A Taoist Sanctuary: Wudang Mountain, China, May 1999 HK China Tourism Press, HK) Như trên đã thuật, sử chép tới hai người cùng tên Trương Tam Phong, một người vào thời Bắc Tống, một người thời Minh sơ, không biết ai là người khai sáng ra Thái Cực Quyền. Tuy nhiên, tất cả những môn phái nội gia quyền thuật đều có liên quan đến âm dương, ngũ hành, đều từ các đạo sĩ lấy ý của Đạo Đức Kinh “vô vi vô bất vi”, và “nhu nhược thắng cương cường” mà ra. Ngoài ra, nhiều người khác lại cho rằng Trương Tam Phong chỉ là một nhân vật tưởng tượng không có thật, những điều sách vở chép không có
  34. gì xác đáng. Hoặc giả nếu có thực, ông cũng không phải là người sáng tạo ra Thái Cực Quyền mà chỉ biến cải một số động tác và qui tắc của võ Thiếu Lâm thành một môn phái mới. Những kỹ thuật về Thái Cực Quyền chỉ mới được hình thành một cách qui mô do những quyền gia, đạo sĩ vào đời Thanh. Theo sách “Nội Gia quyền” của Hoàng Bách Gia đời Thanh, thì “Những môn ngoại gia thì võ Thiếu Lâm là tinh vi hơn hết. Trương Tam Phong vốn tinh thông võ Thiếu Lâm, nên từ đó biến cải mà hình thành nội gia quyền". Theo sách “Thiếu Lâm Quyền bí quyết” của Tề Chủ thì “Trương Toàn Nhất, tự Quân Bảo, là bậc Thái Sơn, Bắc Đẩu trong võ thuật, tinh thông môn Thiếu Lâm. Về sau đi khắp Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc, kỹ thuật càng tiến, không những giỏi võ Thiếu Lâm mà còn tinh thông cả khí công nữa. Về cuối đời, ông phát minh ra Thất Thập Nhị Điểm Huyệt Thuật, nên quyền pháp Thiếu Lâm đến họ Trương thì biến cải. Phương pháp điểm huyệt của họ Trương học từ đạo gia Phùng Nhất Nguyên vốn chỉ bao gồm ba mươi sáu chiêu”. Theo những nhà nghiên cứu, Trương Tam Phong đã biến đổi một nguyên tắc hết sức quan trọng trong quyền thuật. Trước đây, người luyện võ thuần dùng sức hậu thiên, nghĩa là sức khỏe do công phu của bắp thịt và các động năng cơ thể để phát chiêu, lấy sức mạnh thắng sức mạnh, lấy nhanh thắng chậm, lấy tinh vi chế ngự giản dị, vụng về. Ông là người đầu tiên dùng lý của kinh Dịch, chủ yếu phát triển khí tiên thiên, từ thái cực biến sang bát quái, mọi động tác đều dựa vào khí tiên thiên, đạt thành công phu luyện khí hóa thần, đưa ra những nguyên tắc hoàn toàn ngược lại, lấy yếu chống mạnh, lấy mềm chống cứng. Cứ như thế, môn võ mà Trương Tam Phong sáng tạo chưa phải là Thái Cực Quyền mà chỉ là căn bản của Thái Cực Công, làm nền tảng cho người luyện Thái Cực Quyền mà thôi. Từ căn bản đó, hậu nhân đã sáng tạo nhiều môn phái nhưng tựu trung đều gắn liền với thuật dưỡng sinh của đạo gia, chúng ta có thể kể Thái Cực Quyền, Bát Quái Quyền, Hình Ý Quyền, Đại Thành Quyền, Võ Đương Kiếm Sang đời Minh, một số Thái Cực Quyền gia nổi danh có thể kể Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Trương Thúy Sơn, Ân Lợi Hanh, Mạc Cốc Thanh. Những người này kế thừa Tiên Thiên Quyền đời Đường Tống, tức Trường Quyền (tên gọi khác của Thái Cực Quyền). Ca quyết của Tiên Thiên Quyền cũng hàm chứa những tinh túy của Thái Cực Quyền: Vô thanh vô tượng, Toàn thân thấu không. Ứng vật tự nhiên, Tây sơn huyền khánh. Hổ hống viên minh, Thủy thanh hà tĩnh. Phiên giang đảo hải, Tận tính lập mệnh. Những người này chuyên tâm tu tập quyền thuật đạt tới trình độ cao. Về sau cả bọn cùng nhau tới Võ Đương sơn cầu kiến Trương Tam Phong, bái Trương làm thầy, học hơn một tháng về yếu lĩnh của quyền thức, sau lại học thêm mười ba thức, tức Thái Cực Quyền ngày nay. Thế nhưng họ học như thế nào, và những thức ấy ra sao không ai biết, nhưng kỳ tích chỉ có trong truyện chép về Trương Tùng Khê. Trương Tùng Khê người gốc Triết Giang, sinh vào đời Minh, từng được Trương Tam Phong truyền thụ.
  35. Ông tính tình nghiêm cẩn như một nhà nho, gặp ai cũng rất cung kính. Có người xin học ông quyền pháp, ông từ chối nói là không có khả năng, hoặc lánh mặt không gặp. Thời đó quyền thuật Thiếu Lâm nổi danh khắp nước, nhân giặc cướp nổi lên, có bảy mươi nhà sư vâng chiếu tới trừ bọn giặc cỏ. Những nhà sư nghe danh Trương Tùng Khê nên đến Ngân Huyện xin gặp, Trương náu mặt không ra. Khi đó có một số thanh niên đến xin ông ra gặp họ một lần, ông đành phải nhận. Những nhà sư đang đối luyện võ nghệ tại một tửu lâu, Trương Tùng Khê đứng xem bất giác mỉm cười. Chúng tăng hỏi ra biết là ông nên nhất định đòi tỉ thí. Trương bằng lòng nhưng đòi phải có người làm chứng ngõ hầu nếu có thương vong không ai bị phiền trách. Khi đó Trương Tùng Khê đang ngồi bên bàn rượu, một nhà sư tiến tới tấn công, giơ chân đá vào ông. Trương lách qua lấy tay đẩy nhẹ, nhà sư bay bổng qua cửa sổ rớt xuống lầu. Cả bọn sư Thiếu Lâm kinh hãi phục tài ông. Một lần khác, Trương Tùng Khê đi chơi bên ngoài thành gặp một đám thanh niên yêu cầu ông biểu diễn võ nghệ. Trương bất đắc dĩ, bảo bọn họ xếp chồng ba tảng đá lên nhau, cả thảy phải đến mấy trăm cân, rồi nói: Tôi là một ông già bảy chục tuổi đầu, làm không ra trò trống gì, các cậu đừng cười nhé! Nói xong lấy cạnh bàn tay chém xuống, cả ba hòn đá đều vỡ thành hai mảnh. Đời Minh (1368-1644) là một thời kỳ mà võ học tương đối phát triển vì thời này lắm chiến tranh, nhiều giặc giã nên người ta học võ để phòng thân. Có hai nhân vật nổi danh thời đó là Thích Kế Quang đề xuất việc tập luyện võ nghệ cho binh sĩ, và Trương Tam Phong. Thích Kế Quang (1528-1637) thuở trẻ thích đọc binh thư, làm tham tướng dưới thời Gia Tĩnh. Khi trấn nhậm vùng Triết Giang, Phúc Kiến, ông đã nhiều lần đánh dẹp được bọn hải khấu Nhật Bản (oải khấu) thường cướp phá dọc theo bờ biển nên được thăng lên tổng đốc Phúc Kiến. Ông rất chú trọng việc tập luyện binh lính, quân của ông được gọi là Thích Gia Quân, rất nổi tiếng thời bấy giờ. Ông cũng trước tác nhiều sách vở về huấn luyện sĩ tốt và tác chiến, quan trọng nhất là cuốn “Kỷ Hiệu Tân Thư” viết theo lối hỏi đáp. Ông viết: - Việc quan phủ thường dạy binh sĩ múa thương, múa đao, múa côn liệu có dùng được trong chiến trận chăng? - Khi ra trận, ở trong đại quân, đối phó với địch đông người, so với việc biểu diễn múa may trong võ trường khác nhau xa. Khi hàng trăm, hàng ngàn người dàn ra xung sát, kẻ dũng cảm muốn tiến lên trước cũng không được, kẻ nhút nhát muốn lui về sau cũng không được. Khi đao thương đâm chém, muốn né tránh cũng đã khó, huống chi nhảy qua nhảy lại, nhảy tới nhảy lui. Dù kẻ thập phần võ nghệ, lâm chiến dùng được năm phần đã hiệu quả, nếu như dùng được tám phần thì thiên hạ vô địch rồi. Cho nên trong tình huống đó, Thích Kế Quang đưa ra phương pháp như sau: - Trường thương là binh khí của quân lính, nên phải tập cho họ thủ pháp để cầm cho vững, luyện cho họ thân pháp, để biết cách tiến thoái. Còn những loại biểu diễn múa may gọi là hoa thương, không nên học. Học thương nên có hai người để tập đỡ gạt, nắm bắt, mỗi chiêu sao cho thật thuần thục. Ở nơi chiến trường thì phải tùy ý mà đối phó với địch. Thích Kế Quang từ phương pháp đánh thương mà đề ra phép gọi là “trường binh (khí) đoản dụng”. Ông cho là thương vì dài nên khó dùng, phải làm sao đâm cho trúng địch, nếu không địch dùng đoản binh khí xáp lại gần, kẻ dùng thương sẽ vướng víu không đỡ kịp. Cho nên, đoản dụng là phải biết cách dùng tay chân, bộ pháp để một khi không đâm trúng địch thì biết tiến lui, phòng ngừa kẻ dùng binh khí ngắn
  36. không tiến đến gần được. Từ những chi tiết mà Thích Kế Quang mô tả, người ta biết rằng đời nhà Minh, võ thuật tập luyện trong dân gian và trong quân đội khác nhau xa. Đến đời Thanh (1644-1911), việc tập Thái Cực Quyền trở nên phổ thông, và cũng nhiều môn phái. Đầu tiên phải kể đến Vương Tông Nhạc và Trần Vương Đình. Trần Vương Đình sống vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh, người đất Ôn huyện, tỉnh Hà Nam, ông cha đời đời làm quan. Ông lập được nhiều chiến công, từng giữ chức vụ tuần phủ, án sát ở Sơn Đông, Trực Lệ (Hà Bắc), Liêu Đông kiêm chức giám quân, chống nhau với quân Thanh hơn bốn năm. Khi nhà Minh mất, ông ẩn cư, đem phối hợp các sở trường của nhiều môn phái, lấy ra hai mươi chín thức của ba mươi hai thức trong Quyền Kinh của Thích Kế Quang cải tạo thành một bài quyền riêng, truyền lại cho con cháu. Trong Trần gia phổ chép là ông sáng tạo ra ba môn quyền, đao, thương nhưng về sau chỉ truyền lại quyền pháp mà thôi. Quyền nhà họ Trần lưu truyền tới nay có hai loại: trường quyền vốn lấy từ quyền pháp của Thích Kế Quang dài và phức tạp, và thập tam thức vốn lấy từ Thái Cực Quyền phổ của Vương Tông Nhạc. Tuy Trần gia quyền có cả thập tam thức lẫn trường quyền nhưng quyền pháp chính yếu của họ Trần vẫn là trường quyền, còn thập tam thức là do con cháu sau này học của Vương Tông Nhạc. Do đó, phần lớn ngày nay đều công nhận rằng sáng tổ của Thái Cực Quyền là Vương Tông Nhạc, mặc dầu cũng có người nối kết sự tích từ Trương Tam Phong truyền cho Trương Tùng Khê rồi truyền cho Vương Tông Nhạc. Vương Tông Nhạc (1733-1795) sinh vào đời Càn Long, tham bác các lý luận của người xưa viết thành Thái Cực Quyền Kinh. Võ học của Vương Tông Nhạc sau truyền cho Tưởng Phát người Hà Nam sau truyền đến con cháu họ Trần là Trần Trường Hưng. Trần Trường Hưng tính hạnh đoan chính, đi đứng cũng lấy tôn chỉ “bất thiên bất ỷ” (tức đạo trung dung) nên người đời gọi ông là Bài Vị Trần (ông Trần nghiêm trang như bài vị để trên bàn thờ). Học trò ông rất đông nhưng người nổi tiếng hơn cả là Dương Lộ Thiền. Dương Lộ Thiền tên thật Phúc Khôi (1799-1872), người tỉnh Hà Bắc, huyện Vĩnh Niên. Thuở trẻ ông học Nhị Lang quyền, nghe nói Thái Cực Quyền của Trần Trường Hưng rất hay nên đến xin học. Vì đã học quyền pháp ngoại công, nên ông không tập theo nhu được. Trần Trường Hưng vì thế dạy ông phép thôi thủ. Dương học rất chăm chỉ nên Trần Trường Hưng đẹp lòng, đem hết bí quyết của Thái Cực Quyền ra truyền dạy cho ông. Dương Lộ Thiền rất thông minh, đang học mà cũng đã có nhiều tư tưởng mới, nên ông được giới võ lâm kính nể tặng ông tám chữ “cương nhu tương tề, thiên hạ vô song”. Học trò và con cháu ông có những người nổi tiếng như Dương Ban Hầu (1837-1892), Dương Kiện Hầu (1839-1917), Dương Thiếu Hầu, Dương Trừng Phủ (1883-1936), Ngô Toàn Cổ, Ngô Giám Tuyền, Kỷ Đức. Trong số này thì con thứ ba của ông là Dương Ban Hầu là người xuất sắc hơn hết. Môn đồ ông thì Ngô Toàn Cổ ngoài việc theo học ông còn nghiên cứu thêm, gia giảm để tự mình thành một môn phái. Họ Ngô vốn là một vệ sĩ trong cung vua ở Bắc Kinh, vừa học Dương Lộ Thiền (bố) lại cũng học cả Dương Ban Hầu (con). Con ông là Ngô Giám Tuyền (1870-1942) cũng cải tiến thêm và thành một chi lưu trong phái của Dương Ban Hầu tức Ngô phái. Một đệ tử của Dương Kiến Hầu là Hứa Vũ Sinh tinh thông kinh dịch nên đã dùng triết học giải thích những ảo diệu trong Thái Cực Quyền. Cũng thời đó, cháu mười bảy đời của Tống Viễn Kiều là Tống Thư Minh cũng là một nhà nghiên cứu Dịch học, phối hợp với Thái Cực Quyền bao gồm ba mươi bảy thức,
  37. còn gọi là trường quyền. Ngô Giám Tuyền, Kỷ Đức, Hứa Vũ Sinh lúc đó đang ở tại Bắc Kinh dạy Thái Cực Quyền cũng khá nổi tiếng, nghe tiếng Tống Thư Minh nên cùng đến gặp. Khi họ đẩy tay (thôi thủ) với họ Tống, cả ba đều bị Tống đánh ngã nên đều bái Tống Thư Minh làm thầy. Tuy nhiên Tống bắt họ phải cam kết không được truyền ra ngoài. Kỷ Đức nói: - Tôi học nghề chính là cốt để truyền ra ngoài, nếu như giữ bí mật không truyền cho người khác thì học làm gì? Tống Thư Minh có soạn sách Quyền Phổ và Nội Công Nguyên Đạo nhưng tiếc là không dạy cho ai nên về sau môn của ông ta bị thất truyền. Cũng đồng thời với Dương Lộ Thiền có Võ Vũ Tương (1812-1880), người huyện Vĩnh Niên, tỉnh Hà Bắc. Ông nghe tiếng họ Dương cao minh nên đến Trần Gia Cấu tìm thầy dạy của Dương là Trần Trường Hưng xin học. Lúc đó, Trần Trường Hưng đã lớn tuổi, lắm bệnh nên Võ lại xin học Trần Thanh Bình. Học được hơn một tháng thì thông lý pháp. Anh của Võ Vũ Tương là Võ Trừng Thanh làm tri huyện Hứa Xương, nên võ đến đó ở. Ngay lúc đó, Võ Trừng Thanh lại tìm được cuốn Thái Cực Quyền Phổ của Vương Tông Nhạc ở Vũ Dương nên đưa cho Vũ Tương nghiên cứu. Vũ Tương gia tâm nghiên cứu và sáng lập nên một chi mới gọi là “tiểu giá Thái Cực Quyền” truyền đến nay tức Võ Thị Thái Cực Quyền. Võ Vũ Tương cũng viết những điều mình sở đắc thành một bản Thái Cực Quyền Luận, có cả chú giải Thập Tam Thức. Ngoài ra ông còn viết Đả Thủ Yếu Ngôn, Thân Pháp Thập Yếu. Tuyệt kỹ của Võ Vũ Tương truyền lại cho người cháu gọi ông bằng bác (con người em gái ông) là Lý Diệc Dư (1832-1892). Lý Diệc Dư không những chú tâm quyền kỹ mà còn cố gắng nghiên cứu tinh nghĩa quyền lý. Theo người cháu là Lý Hòe Ấm viết trong lời mở đầu của Thái Cực Quyền Phổ thì khi vào cuối đời Lý Diệc Dư viết cuốn này, ngày đêm trăn trở, viết rồi lại xé, viết đi viết lại nhiều lần, tốn phí không biết bao nhiêu tâm huyết. Thái Cực Quyền ngày nay lưu truyền rộng rãi phần lớn là theo Dương Gia quyền. Tuy nhiên, về phương diện lý luận và nghiên cứu thì Võ Vũ Tương là nguyên thủy, truyền xuống Lý Diệc Dư sau đó dạy cho cha con nhà họ Hác, và cũng nhiều lần tu cải. Thành ra, Thái Cực Quyền hiện nay có hai xu hướng chính, một đằng chuyên về động tác, tư thế và một đằng chuyên nghiên về quyền lý. Học trò của Lý Diệc Dư là Hác Vi Chân (1849-1920) là người được coi như kiệt xuất về quyền lý. Con của Hác Vi Chân là Hác Nguyệt Như cũng nghiên cứu tiếp, và cháu nội ông là Hác Thiếu Như bốn mươi năm trước được đưa vào nghiên cứu và huấn luyện tại Viện Thể Dục Thượng Hải. Cứ như thế, lai nguyên của Thái Cực Quyền chỉ mới xuất hiện khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh. Nhiều người muốn gắn liền Thái Cực Quyền với Trương Tam Phong để cho môn võ này thêm phần huyền bí. Tuy nhiên những khảo cứu gần đây cho thấy sự liên kết đó rất mơ hồ. Ngày hôm nay, Thái Cực Quyền trở thành một môn thể dục rất phổ biến, ở đâu cũng có ngưới tập luyện. Nếu ai sáng tinh mơ vào những công viên nơi có đông người Á Châu, thể nào cũng gặp một số người chăm chú đi những động tác chậm chạp nhẹ nhàng. Tuy nhiên để đạt tới tinh nghĩa và dùng vào việc chiến đấu thì phải mất một thời gian rất lâu. Thái Cực Quyền là một triết học rất thâm ảo của Đông phương mà một biến thể của nó là Hiệp Khí Đạo đã nổi tiếng và được ngưỡng mộ khắp hoàn cầu.