Thế giới tiến đến cuộc cách mạng năng lượng

pdf 15 trang vanle 1820
Bạn đang xem tài liệu "Thế giới tiến đến cuộc cách mạng năng lượng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthe_gioi_tien_den_cuoc_cach_mang_nang_luong.pdf

Nội dung text: Thế giới tiến đến cuộc cách mạng năng lượng

  1. THẾ GIỚI TIẾN ĐẾN CUỘC CÁCH MẠNG NĂNG LƯỢNG
  2. I. BA THÁCH THỨC LỚN TOÀN CẦU 1. Tình trạng ấm lên toàn cầu và thay đổi khí hậu Bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp giữa thế kỷ 18 với phát minh của máy hơi nước, những phát triển kinh tế thế giới trong 150 năm qua đã góp phần gia tăng khí CO2 trong bầu khí quyển. Đồng thời nạn khai phá rừng trên toàn thế giới đã làm giảm đi khả năng hấp thụ khí CO2 trong không gian, gia tăng nhiệt độ toàn cầu khoảng 0,02oC mỗi năm. Vấn đề tăng nhiệt độ toàn cầu, hay còn gọi là ấm lên toàn cầu (global warming) được các nhà khoa học nhắc đến từ nhiều năm nay, nhưng hầu như mọi người đều không để ý đến. Thậm chí có người còn vội khẳng định là sẽ không xảy ra và con người không phải là ảnh hưởng lớn. Phần lớn những quốc gia và cá nhân không muốn đề cập đến vấn đề này vì lợi ích riêng. Giám sát và giảm khí CO2 sẽ trực tiếp gây khó khăn đến phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và hạn chế những tiện nghi đang có được trong đời sống mọi người. Cụ thể là ở Mỹ, việc hạn chế thải khí CO2 sẽ làm các hãng xe hơi Mỹ phá sản vì mức khí thải của ô tô ở Mỹ cao hơn tất cả các mức giới hạn của các nước tiên tiến khác. Việc hạn chế khí thải CO2 cũng sẽ làm chậm đi đà tăng trưởng của nền công nghiệp Trung Quốc, vì phần lớn nhiên liệu sản xuất ra năng lượng đang dùng là từ than đá. Những năm gần đây, thế giới không thể tiếp tục làm ngơ trước những biến chuyển thời tiết và môi trường toàn cầu. Bắt đầu từ những dữ kiện khoa học nói về các tảng băng ở Bắc cực và các sông băng trên thế giới tan với tốc độ nhanh, hiện tượng El Nino gia tăng, v.v Thời tiết ấm khiến phần trên lớp băng tuyết tan thành những hồ nước thiên nhiên. Các hồ nước này ăn dần xuống phía dưới thành những đường nứt khổng lồ. Kết quả là từng tảng băng có thể to bằng một tiểu bang nhỏ ở Mỹ bị tách ra và trôi về phía Nam. Những tảng băng này khi tan thành nước sẽ gây rối loạn trọng lượng muối trong nước biển. Trong khi đó, sự biến chuyển của trọng lượng muối trong nước biển là lý do chính khiến những dòng chảy được hình thành. Chính những “dòng sông trên biển” này là bộ máy điều hòa thời tiết toàn cầu. Những tảng băng tan sẽ gây rối loạn thời tiết toàn cầu và làm gia tăng mực nước biển. Lượng mưa thiên nhiên sẽ bị di dời đột ngột và kết quả là lũ lụt, bão tố và hạn hán sẽ xảy ra thường xuyên hơn. Trong lịch sử cận đại, sông băng khổng lồ bị tan xảy ra 4000 năm trước sau thời kỳ băng hà cuối cùng là ở Bắc Mỹ. Lượng nước tan hòa vào Đại Tây Dương đã làm cho châu Âu bị chìm trong băng tuyết 900 năm. Vết tích còn lại là Great Lakes ở miền Đông Bắc Mỹ. Sông băng có độ lớn tương đương ngày nay là Greenland (Đan Mạch), cũng đang bị tan dần và được các nhà khoa học rất quan tâm. Lịch sử sẽ tái diễn khi tảng sông băng này hoàn toàn biết mất. Phong trào bảo vệ Trái đất và môi trường sống được rộ lên toàn thế giới sau khi Ủy ban liên Chính phủ về Thay đổi Khí hậu (IPCC) cho phát hành một bản Báo cáo nói về thay đổi khí hậu (02/05/2007) và ảnh hưởng của con người nhằm kêu gọi các nhà lập pháp thế giới để ý đến vấn đề này. Bản Báo cáo bao gồm những tài liệu được hơn 200 nhà khoa học từ các nước khác nhau soạn thảo là một chứng minh hùng hồn về vấn nạn toàn cầu trong tương lai. Trong cuốn phim tài liệu “An Inconvenient Truth”, cựu Phó
  3. Tổng thống Mỹ Al Gore đã thu gom dữ kiện và thuyết trình một cách rõ ràng về vai trò của nhân loại đối với thiên nhiên. Ông cũng đã thành công trong những buổi thuyết trình khắp thế giới và được rất nhiều người ủng hộ, kể cả dân chúng Trung Quốc. Điều ông Al Gore muốn nhấn mạnh không phải là con người gây nên tình trạng ấm lên toàn cầu, mà là vòng tuần hoàn của địa cầu. Ông chỉ muốn mọi người nhận thức được là những phát triển toàn cầu của nhân loại là lý do chính khiến cho tình trạng đó xảy ra nhanh hơn và khốc liệt hơn. Việc nhân loại cần phải làm là ý thức được những ảnh hưởng của đời sống hàng ngày đối với môi trường trong tương lai và thay đổi cách sống để giúp Trái đất khôi phục lại mức bình thường, ít ra cũng có thể làm chậm lại mức gia tăng nhiệt độ. Khi các tảng băng cực Bắc hoàn toàn tan thì một phần lớn miền đất trên thế giới sẽ chìm trong biển và khí hậu sẽ khắc nghiệt hơn. Thành phố New York, và tiểu bang Florida ở Mỹ, cùng với Bangladesh ở Ấn Độ, Thượng Hải, và các quốc đảo khác sẽ chìm trong biển khi các tảng băng ở Đan Mạch, Bắc Cực, và Nam Cực hoàn toàn tan. Các cơn bão vùng nhiệt đới sẽ trở nên dữ dằn hơn, thu hết hơi nước trong không khí, gây hạn hán ở những nơi khác. Con người sẽ phải di cư, đời sống sẽ chật vật và khó khăn hơn. Sự va chạm trong cuộc sống sẽ tăng dần và chiến tranh là điều không thể không xảy ra. Các thế hệ đi sau sẽ phải đương đầu với kết quả nói trên. 2. Gia tăng dân số Tốc độ gia tăng dân số thế giới ngày càng nhanh, thể hiện ở chỗ thời gian cần thiết để dân số tăng thêm 1 tỷ và thời gian cần thiết để dân số tăng gấp đôi ngày càng rút ngắn, như được thấy ở 2 bảng dưới đây: Thời gian cần thiết để dân số tăng thêm 1 tỷ Dân số 1 tỷ 2 tỷ 3 tỷ 4 tỷ 5 tỷ 6 tỷ Năm 1802 1928 1961 1974 1987 1999 Thời gian 126 33 13 13 12 12 Thời gian cần thiết để dân số tăng gấp đôi Dân số 375 triệu 750 triệu 1,5 tỷ 3 tỷ 6 tỷ Năm 1420 1720 1875 1961 1999 Thời gian 300 155 86 38
  4. Tình trạng gia tăng dân số đã bắt đầu từ khi nghành nông nghiệp nông thôn trên toàn cầu được công nghiệp hóa. Khoảng thời gian mà dân số thế giới tăng gấp đôi gần đây nhất chỉ cần 38 năm và số năm cần thiết để gia tăng dân số thêm 1 tỷ là 12 năm. Nếu không có gì thay đổi, nhiều nhất thì thêm 60 năm nữa, dân số thế giới sẽ tăng đến 12 tỷ. 3. Tài nguyên cạn kiệt Trong bài viết "Tác động của gia tăng dân số đến thực phẩm và môi trường", 4 nhà khoa học nông nghiệp từ trường Đại học Cornell, New York, đã tường trình những tác động của sự gia tăng dân số bằng cách ước tính về những tài nguyên thiên nhiên có sẵn. Từ nước uống, đất khai thác trồng trọt, nhiên liệu than và dầu, cho đến nguồn thủy sản ngoài biển cả. Tất cả đang được khai thác triệt để nhằm đáp ứng cho những nhu cầu hiện nay. Với mức khai thác trồng trọt hiện nay, nhu cầu khai thác đất hoang trồng trọt nhằm cung cấp cho dân số gia tăng sẽ tiêu hủy từ 60% đến 80% diện tích đất rừng, gia tăng tình trạng nóng lên toàn cầu. Sự khan hiếm nước uống sẽ gây nên bệnh dịch truyền nhiễm. Khan hiếm thực phẩm và nhiên liệu sẽ gây tranh chấp giữa các nước. Việc đánh bắt thủy sản bừa bãi ở các nước đang phát triển đang tạo làm cạn dần sự đa dạng của môi trường sống dưới đáy biển. Thêm vào đó là khí thải CO2 làm tăng khả năng hấp thụ ánh sáng trong bầu khí quyển và gia tăng nhiệt độ nước biển. Kết quả là những đảo san hô thiên nhiên trên toàn thế giới đang bị đe dọa bởi nguy cơ bị tiêu diệt. Khi những khối san hô bị mất đi, các sinh vật biển sẽ mất đi nguồn thực phẩm và chết dần. Lượng dầu hỏa thế giới được khai thác từ bấy lâu nay sẽ cạn hẳn trong một thời gian ngắn, khí đốt toàn cầu sẽ là một vấn đề nan giải cho các nước đang phát triển. II. MỘT CUỘC CÁCH MẠNG NĂNG LƯỢNG THỰC SỰ ĐÃ BẮT ĐẦU DIỄN RA Cuộc cách mạng năng lượng đang trở thành cấp bách đối với tất cả các quốc gia, trong bối cảnh thế giới đang phải đối phó với những thách thức to lớn nêu trên. Nhìn vào chiến lược năng lượng của các nước trên thế giới hiện nay, có thể thấy cuộc cách mạng đó được thể hiện ở 2 khía cạnh: Vừa tìm kiếm các nguồn năng lượng mới, vừa tiết kiệm các nguồn năng lượng sẵn có. Các nguồn cung năng lượng mới được hiểu hoặc là những mỏ dầu khí mới, hoặc các loại năng lượng thay thế, và các nước tuỳ theo thế mạnh của mình đang hoạch định những chiến lược cụ thể. Đi đầu trong phong trào phát triển năng lượng thay thế là những nước mạnh về công nghệ. Một ví dụ tiêu biểu được nhắc đến là Đan Mạch, quốc gia đã đề ra chiến lược năng lượng thay thế từ rất sớm, ngay từ thập niên 70 của thế kỷ trước, khi nổ ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất. Hiện Đan Mạch đã trở thành nước hàng đầu thế giới về năng lượng gió (phong điện). Trong khi sản lượng phong điện chỉ chiếm
  5. 3% tổng lượng điện tiêu thụ của nước này vào năm 1980, thì năm 2005 đã tăng gấp 5 lần và tăng gấp 8 lần vào năm 2007. Một số nước khác như Nga, Nhật Bản chọn hướng đầu tư vào năng lượng hạt nhân. Braxin đã lên 1 chiến lược toàn diện phát triển năng lượng sinh học ethanol sản xuất từ cây mía. Quốc gia có tốc độ tăng trưởng nóng nhất hiện nay là Trung Quốc lựa chọn cả 2 hướng, vừa đặt mục tiêu tăng gấp 10 lần tỷ trọng tiêu thụ năng lượng tái tạo, vừa triển khai một chiến dịch ngoại giao năng lượng tới khắp nơi trên thế giới từ châu Á, Trung Đông, tới tận Mỹ Latinh và châu Phi, để hợp tác tìm kiếm, khai thác năng lượng. Một cách tiếp cận khác để bảo đảm an ninh năng lượng chính là giải pháp bảo tồn, tiết kiệm năng lượng. Nó đang tạo ra một cuộc cách mạng tại những nước coi tiết kiệm năng lượng là quốc sách. Tại Nhật Bản, nhờ chiến lược tiết kiệm năng lượng bài bản, hiện nước này chỉ cần 55.000 lít dầu thô để tạo ra 100 triệu Yên trong tổng sản phẩm quốc nội GDP, tức là bằng một nửa so với cách đây 30 năm. Đan Mạch cũng đạt thành tựu đầy ấn tượng khi tổng năng lượng tiêu thụ các năm qua gần như không đổi mặc dù GDP sau 30 năm tăng gấp 2 lần. Tiết kiệm càng trở thành chính sách cần được ưu tiên tại các nước đang phát triển. Theo thống kê, mỗi đơn vị tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang sử dụng tới 65% nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong khi ở các nước phát triển chỉ có 25%. Do vậy Trung Quốc đang phải đề ra một chiến lược năng lược toàn diện để cải thiện tình hình. Tiết kiệm hay tìm kiếm các nguồn năng lượng mới - mỗi quốc gia đang có những sự lựa chọn ở những mức độ khác nhau, nhưng từ những ví dụ thành công, có thể thấy điều quan trọng nhất vẫn là một chiến lược năng lượng rõ ràng và hợp lý để bảo đảm một sự phát triển bền vững. Một số quốc gia và nhiều doanh nghiệp tích cực phát triển công nghệ thân thiện với môi trường, tạo ra cuộc cách mạng xanh trong công nghiệp. Ngày 16/02/2005, hãng Samsung trình làng mẫu điện thoại di động sử dụng năng lượng Mặt trời tại triển lãm điện thoại di động lớn nhất hành tinh diễn ra tại Barcelona, Tây Ban Nha. Mẫu điện thoại mới có tên là “Blue Earth” (Trái đất xanh), được gắn các tấm thu năng lượng Mặt trời trên vỏ mặt sau. "Blue Earth" cho phép đàm thoại liên tục tới 4 giờ sau khi được sạc pin đầy đủ dưới ánh nắng Mặt trời (khoảng 10-14 tiếng). Không chỉ Samsung, các hãng điện thoại và các hãng ô tô khác trên thế giới cũng đua nhau nghiên cứu, phát triển, đầu tư cho công nghệ xanh, tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường trong bối cảnh khủng hoảng tài chính đang lan rộng, bởi đầu tư công nghệ xanh là đầu tư cho tương lai. Mới đây, cơ quan quốc tế đầu tiên về năng lượng tái tạo được thành lập có nhiệm vụ cố vấn cho chính phủ các nước về các vấn đề kỹ thuật và tài chính liên quan tới các nguồn năng lượng có thể tái sinh và thúc đẩy những công nghệ này ở các nước đang phát triển. Điều này cho thấy, bên cạnh những nỗ lực tìm giải pháp thoát khủng hoảng, các nước đặc biệt chú trọng cho giai đoạn hậu khủng hoảng.
  6. Hàn Quốc đặt mục tiêu trở thành "quốc gia xanh" hàng đầu thế giới Hàn Quốc dự kiến sẽ chi trên 1.200 tỷ won (852 triệu USD) trong 10 năm tới để đưa nước này vào nhóm những "quốc gia xanh" hàng đầu thế giới. Thông cáo của Phủ Tổng thống Hàn Quốc ngày 16/02/2008 khẳng định Hàn Quốc sẽ nỗ lực tự chủ về năng lượng và nâng cấp công nghệ xanh để đứng vào hàng 10 nước phát triển nhất thế giới vào năm 2030, tạo lập hình ảnh một "Hàn Quốc Xanh" trong mắt bạn bè quốc tế. Theo kế hoạch, Hàn Quốc sẽ xây dựng một hệ thống đường dành riêng cho xe đạp dài 3.114 km trong vòng 10 năm tới để khuyến khích người dân sử dụng xe đạp, giảm thiểu nhu cầu năng lượng và đăng cai giải đua xe đạp quốc tế mang tên "Vòng quanh Hàn Quốc" khi dự án này hoàn thành vào năm 2012. Bên cạnh đó, Chính phủ nước này sẽ thúc đẩy sử dụng các nguồn năng lượng thay thế như năng lượng Mặt trời, năng lượng gió; thay toàn bộ hệ thống bóng đèn chiếu sáng công cộng bằng loại đèn tiết kiệm năng lượng là đi-ôt phát quang (LED) vào năm 2012. Tổng thống Hàn Quốc là người hết sức tích cực lãnh đạo thực hiện kế hoạch tăng trưởng xanh. Ông khẳng định các dự án trên sẽ là động lực lớn cho tăng trưởng kinh tế khi thế giới ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Chính phủ Hàn Quốc sẽ tích cực theo đuổi chiến lược phát triển xanh bởi vấn đề này không chỉ liên quan đến tình trạng biến đổi khí hậu, mà còn là yếu tố sống còn đối với nền công nghiệp của Hàn Quốc hậu khủng hoảng. Phát biểu với các thành viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc (KCCI), ông Lee cho biết đó là cách để chấm dứt cuộc khủng hoảng và là lý do tại sao Hàn Quốc phải chuẩn bị những gì sẽ diễn ra trong khi đang nỗ lực vượt qua cuộc khủng hoảng. Ông Lee cũng nhấn mạnh Hàn Quốc sẽ thiết lập một Hội đồng khẩn cấp để giải quyết các vấn đề liên quan nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng hiện nay. Lãnh đạo KCCI cho biết sẽ có kế hoạch biến cuộc khủng hoảng hiện nay thành một cơ hội nhằm tạo bước nhảy vọt tiếp theo. Trong bối cảnh các điều kiện kinh tế còn chưa được sáng sủa, đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2009, có thể huy động vốn cho đầu tư tăng trưởng trong tương lai. Mỹ nỗ lực đi đầu trong phát triển công nghệ xanh Chính quyền của Tổng thống Barack Obama đã bắt đầu thực hiện các cam kết trong chiến dịch tranh cử về chính sách mới nhằm bảo vệ môi trường và chống sự biến đổi khí hậu. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Obama đặt bút bãi bỏ các chính sách về môi trường và khí hậu của chính quyền tiền nhiệm khi ông phê duyệt 2 văn kiện đầu tiên liên quan đến năng lượng và môi trường. Những văn kiện này đề cập tới một loạt biện pháp nhằm khuyến khích việc sản xuất ô tô tiết kiệm nhiên liệu, giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính và cam kết sẽ đi đầu trong cuộc đấu tranh chống sự biến đổi khí hậu Trái đất. "Chúng tôi sẽ cho thế giới thấy rõ rằng nước Mỹ đã sẵn sàng đi đầu trong vấn đề này". Tuyên bố này của tân Tổng thống Mỹ trái ngược với thái độ miễn cưỡng của cựu
  7. Tổng thống Bush đối với những nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Tổng thống Obama nêu rõ: "Để bảo vệ khí hậu và an ninh tập thể, nước Mỹ phải kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng liên kết hợp lực thực sự". Trong một tín hiệu thay đổi khác, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã chỉ định ông Todd Stern, một cựu chuyên viên đàm phán về Nghị định thư Kyoto dưới thời Tổng thống Bill Clinton, làm cố vấn đặc biệt và nhà thương thuyết hàng đầu về biến đổi khí hậu. Động thái này được đưa ra trong bối cảnh các nhà lãnh đạo thế giới đặt mục tiêu trong năm nay sẽ hoàn tất một hiệp ước mang tính lịch sử tại Hội nghị Copenhagen cuối 2009. Nước Đức vươn tới mục tiêu sử dụng 100% năng lượng tái tạo Đức đang nỗ lực để trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới sử dụng 100% năng lượng tái tạo. Với nỗ lực hiện tại, Đức có thể đạt được mục tiêu vào năm 2050. Đức là quốc gia có sẵn nguồn lực về kỹ thuật, vì thế, nếu chuyển sang nền kinh tế năng lượng xanh, vấn đề chỉ là ý chí chính trị và khung pháp lý. Bộ Môi trường Liên bang Đức đã công bố Bản lộ trình mới, phác thảo tiến trình thực hiện các kế hoạch hướng tới một nền kinh tế sử dụng hoàn toàn năng lượng tái tạo. Dự kiến vào năm 2030, khi đạt được mục tiêu đề ra, sẽ có 800.000 đến 900.000 việc làm mới trong ngành công nghệ sạch. Bản Lộ trình đưa ra cách tiếp cận tổng hợp đi kèm với các biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng cũng như phát triển các loại năng lượng tái tạo, chú trọng nhiều hơn đến nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh Năm 2008, năng lượng tái tạo chiếm 7% tổng lượng tiêu thụ năng lượng gốc của Đức, nhưng con số dự báo sẽ tăng lên 33% vào năm 2020, khi quốc gia này nhanh chóng vượt lên các nước châu Âu khác trong lĩnh vực phát triển năng lượng tái tạo Theo bản kế hoạch này, nước Đức sẽ xây dựng mạng lưới điện “thông minh", giảm tiêu thụ năng lượng quốc gia khoảng 28% trong vòng 20 năm tới. Kế hoạch này hứa hẹn cắt giảm hàng tỷ USD trong các hóa đơn mà Đức phải chi trả cho nhập khẩu năng lượng. Tới năm 2020, 30% năng lượng điện tiêu thụ ở Đức sẽ có nguồn gốc từ năng lượng tái tạo, trong đó năng lượng gió đóng góp nhiều nhất với tỷ trọng là 15%, năng lượng sinh học đứng thứ hai với tỷ trọng là 8% và tiếp sau là thủy năng là 4%. Nguồn tài nguyên gió ở Đức được khai thác tốt nhất. Ở dọc bờ biển phía Bắc, các bãi tuốc bin gió xa bờ khổng lồ trên Biển Bắc có khả năng sản xuất hơn 10.000MW điện. Theo ước tính vào năm 2030, sẽ có tới 50% nguồn điện của Đức sẽ được lấy từ các nguồn năng lượng tái tạo. Trong 20 năm tới, một "mạng lưới thông minh" kết nối với toàn bộ mạng lưới điện của châu Âu cũng sẽ được thiết lập. Bản Lộ trình cũng ước tính, việc đưa ra các biện pháp sử dụng năng lượng hiệu quả hơn sẽ làm giảm tổng nhu cầu điện ở Đức khoảng 10% mỗi năm vào năm 2020. Xe hơi điện cũng sẽ sử dụng pin sạc
  8. bằng năng lượng tái tạo, giúp làm giảm nhu cầu về xăng, dầu và giảm lượng phát thải các loại khí nhà kính. Đức dự định sử dụng tất cả các nguồn năng lượng tái tạo mà nước này có như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt và sinh khối như một sự kết hợp tối ưu. Thực tế, Đức đã trở thành trung tâm công nghệ năng lượng tái tạo trong nhiều năm, là nơi các công nghệ năng lượng tái tạo quan trọng mới được phát triển. Không chỉ Chính phủ mà các công ty của Đức cũng đang tập trung nhiều nguồn lực hơn vào việc nghiên cứu và phát triển (R&D) năng lượng tái tạo. Dự báo, năng lượng sinh học sẽ đóng vai trò quan trọng trong ngành năng lượng tương lai của quốc gia. Tất nhiên, điều lý tưởng nhất cho lĩnh vực này là đối với những khu vực có khả năng cung cấp nguồn năng lượng này một cách bền vững, không cạnh tranh với các cây trồng cung cấp lương thực. Năng lượng sinh khối ở Đức hiện đang phát triển với tốc độ nhanh nhất trong tất cả các nguồn năng lượng tái tạo và lần đầu tiên vượt qua thủy năng trong việc cung cấp nguồn điện năng. Năm 2008, năng lượng sinh khối cung cấp khoảng 3,7% lượng tiêu thụ điện ở Đức, tăng so với mức 3,1% năm 2007, trong khi đóng góp của năng lượng gió năm 2008 chỉ đạt 6,5% tăng khoảng 0,1% so với mức 6,4% của năm 2007. Với rất nhiều các dự án nghiên cứu khoa học được khởi động, Đức đang được kỳ vọng có nhiều bước đột phá hơn nữa nhằm trở thành nền kinh tế năng lượng xanh đầu tiên của thế giới. Cuộc chạy đua sản xuất xe hơi điện của các hãng ô tô toàn cầu Hãng sản xuất ô tô nổi tiếng của Mỹ Ford Motors đề ra kế hoạch trưng bày sản phẩm xe hơi sẽ chạy hoàn toàn bằng năng lượng điện vào năm 2011. Những chiếc xe này có thể chạy tối đa được khoảng 100 dặm (tương đương 160 km) với một chiếc bình ắc quy. Tại buổi lễ công bố chiến lược sản xuất xe ô tô điện của mình trong một cuộc triển lãm ô tô quốc tế khu vực Bắc Mỹ tại Detroit (Michigan, Mỹ), hãng Ford cho biết hãng này cũng có kế hoạch sẽ tung ra thị trường các phiên bản xe hơi xăng điện có thể sẽ sạc bằng điện vào năm 2012. Còn trước đó, vào năm 2010, hãng có kế hoạch đưa ra thị trường sản phẩm xe tải thương mại chạy bằng ắc quy. Hãng Ford nhấn mạnh chiến lược điện khí hóa của tập đoàn này hoàn toàn phù hợp với sự quan tâm ngày càng tăng đối với các công nghệ tiên tiến có thể giúp giảm mức tiêu thụ nguyên liệu. Ông Derrick Kuzak, Phó Chủ tịch phụ trách phát triển sản phẩm toàn cầu của Ford, cho biết hãng dự kiến sẽ bán được từ khoảng 5.000-10.000 xe hơi điện mỗi năm. Trước đó, hãng sản xuất xe hơi Nissan của Nhật Bản tuyên bố sẽ tung dòng xe hơi điện sang thị trường Mỹ vào 2010. Kế hoạch này đánh dấu bước tiến mới của Nissan trong cuộc đua về dòng xe hơi "thân thiện với môi trường". Theo Carlos Ghosn, Tổng Giám đốc Nissan, đây là lần đầu tiên nhà sản xuất xe hơi này đưa ra dòng xe có mức khí thải "bằng zero" tới thị trường Mỹ. Nissan cũng kỳ vọng vào năm 2012, dòng xe này sẽ
  9. được bán trên toàn thế giới. Các nhà sản xuất khác như Mitsubishi và Fuji cũng sẽ đưa vào thử nghiệm xe ô tô chạy bằng điện. Còn General Motors (GM) và Toyota đang bắt tay sản xuất loại xe chạy ắc quy sạc bằng động cơ xăng. Dự kiến GM sẽ bắt tay chế tạo Chevrolet Volt vào 2010. Cùng thời gian đó, Toyota có kế hoạch ra mắt mẫu xe "hybrid plug-in" có pin sạc không cần thay. III. CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG SẠCH ĐANG NGÀY CÀNG KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ 1. Phong điện Hiệp hội Năng lượng gió của Mỹ (AWEA) và Hiệp hội Năng lượng gió của châu Âu (EWEA) cho biết, sản xuất năng lượng từ gió trên toàn cầu tăng lên 26% so với năm ngoái, đạt 39.294 megawatts (MW). Nhưng cũng theo 2 hiệp hội này thì sự gia tăng có được phần lớn là từ những chương trình xây dựng tập trung ở một số nước châu Âu. Trong đó dẫn đầu là Đức đạt 2.645MW trong năm qua, nâng tổng số năng lượng từ gió của nước này là 14.609MW, chiếm 40% năng lượng gió trên toàn thế giới. Mỹ đứng thứ hai đã sản xuất thêm 1.687MW, nâng tổng số lên 6.374MW, tiếp theo là Tây Ban Nha tăng thêm 1.377MW để đạt được tổng số là 6.202MW, Đan Mạch tăng thêm 1.377, đạt tới tổng số là 3.110MW. Ấn Độ nằm ở vị trí thứ 5 với tổng năng lượng từ gió là 2.110MW. Ghi nhận về tốc độ phát triển hàng năm của nguồn phong điện trong hơn 5 năm qua là hơn 35%, nhưng hầu hết là ở châu Âu và Mỹ, chiếm 88% tổng số lượng phong điện toàn thế giới. Tổ chức môi trường Hòa bình xanh cho biết: “Trung Quốc sẽ có một nguồn lợi tức khổng lồ từ năng lượng gió và có khả năng trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới trong cuộc cách mạng năng lượng sắp tới”. Trung Quốc sắp ban hành đạo luật đầu tiên về việc phát triển những nguồn năng lượng tái tạo và theo tổ chức Hòa bình xanh thì việc này sẽ giúp nước này tạo ra thêm 382.000 việc làm mới. Xu Dingming, một quan chức cấp cao chịu trách nhiệm về năng lượng thuộc Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia của Trung Quốc đã phát biểu: “Tôi có một giấc mơ vàng. Năng lượng gió là của chung mọi người, sạch và có nhiều sức mạnh. Tôi hy vọng giấc mơ của tôi thành hiện thực”. Sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc khiến nước này đang lâm vào cơn khát năng lượng. Năm ngoái, Trung Quốc đã qua mặt Nhật Bản, trở thành nước nhập khẩu dầu thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Từ tháng 8/2008, các tập đoàn điện lực ở Đức triển khai xây dựng một công viên điện gió ở ngoài khơi thuộc vùng biển nước này. Các chuyên gia dự báo sẽ có một cuộc chạy đua trên biển Bắc và biển Đông (Nord - und Ostsee). Tổng thống Đức Horst Kohler rất ủng hộ nguồn năng lượng điện này, theo ông thì "phong điện có một tương lai xán lạn và hết sức quan trọng" và "là một sự dung hòa với thiên nhiên".
  10. Từ khoảng 10 năm nay, Chính phủ và các doanh nghiệp Đức đã có chủ trương xây dựng các công viên điện gió khổng lồ ở ngoài khơi. Tuy nhiên, cho đến nay trên các vùng biển của Đức chưa xuất hiện một quạt gió - Offshore nào. Nguyên nhân cho tình trạng này là: khó khăn về kỹ thuật, thiếu vốn đầu tư, khó khăn về việc xây dựng hệ thống cáp điện. Nhưng trong tháng 8/2008, trên vùng biển Bắc cách Borkum 45km đã hình thành công viên điện gió ngoài khơi đầu tiên của Đức với cái tên Alpha Ventus; Theo người phát ngôn, mỗi quạt gió có trọng lượng khoảng 1.000 tấn và cao khoảng 140m. Chủ đầu tư là các tập đoàn năng lượng E.ON, Vattenfall và EWE. Hiện các tập đoàn điện lực này không quan tâm đến năng lượng sinh thái trên đất liền, các doanh nghiệp này sản xuất điện chủ yếu từ than đá, than nâu và điện hạt nhân. Lãnh đạo các tập đoàn điện lực nói trên hy vọng sẽ kiếm được hàng tỉ USD thông qua các nhà máy điện gió ở ngoài khơi. Chính thức thì dự án Alpha Ventus chỉ được coi là một công trình nghiên cứu và người ta chưa quan tâm đến sự khai thác thương mại. Hơn nữa dự án này không phải là một dự án lớn, chỉ có 12 quạt gió với tổng công suất 60MW - đủ để cung cấp điện cho khoảng 60.000 hộ gia đình. Tuy vậy dự án Alpha Ventus có thể tạo nên một cuộc cách mạng trong ngành điện lực ở Đức vì các chuyên gia đều cho rằng, sau khi “nổ phát súng” đầu tiên sẽ diễn ra một cuộc chạy đua trên biển Bắc và biển Đông . Theo dự báo của Chính phủ Đức thì đến năm 2020 các nhà máy điện gió ở ngoài khơi của Đức sẽ đạt tổng công suất 10.000MW - tương đương với lượng điện của 10 nhà máy điện hạt nhân. Nhờ gió biển, tỉ trọng điện sinh thái trong ngành công nghiệp điện của Đức từ 12% sẽ tăng lên 20%. Hiện nay cơ quan hữu quan của Đức đã xác nhận 20 khu vực để xây dựng các công viên phong điện ngoài khơi biển Bắc và biển Đông. Phần lớn các dự án này còn ở giai đoạn quy hoạch nhưng cạnh đó đã có một vài dự án có mức độ cụ thể hóa khá cao. Doanh nghiệp Bard Engineering đã phát triển dự án phong điện ngoài biển đầu tiên của Đức phục vụ mục đích thương mại, ngoài ra doanh nghiệp này đã đăng ký xây dựng tiếp 7 công viên phong điện ở ngoài khơi biển Bắc. Nhà đầu tư tài chính cỡ lớn của Mỹ là Blackstone cũng đang thâm nhập thị trường xây dựng các công viên phong điện ở Đức. Trước mắt, họ sẵn sàng đầu tư khoảng 1 tỷ euro và sau vài năm có khả năng cung cấp điện cho khoảng 500.000 hộ gia đình. Các tập đoàn năng lượng lớn đều quan tâm đến thị trường phong điện ngoài khơi. Riêng Tập đoàn EBW dự kiến trong 5 năm tới sẽ xây dựng 260 hệ thống và sau đó tiếp tục lắp đặt 500 hệ thống nữa. Theo dự kiến thì tổng số tiền đầu tư của các tập đoàn điện lực ở Đức là nhiều tỷ euro để xây dựng các nhà máy điện gió ở ngoài khơi. Lý do cho sự bùng nổ nhà máy điện gió ngoài khơi là do sửa đổi Luật về Năng lượng tái tạo (EEG) mới được thông qua gần đây. Luật EEG ghi rõ giá đối với điện sinh thái. Trước đây giá mua phong điện ở ngoài khơi là 9 cent/kWh, nay tăng 15 cent.
  11. 2. Sản xuất điện từ năng lượng mặt trời Năng lượng từ gió có thể rất hứa hẹn trong tương lai. Nhưng gió chỉ là một điểm dừng tạm thời trên chuyến hành trình tới một thế giới mà điện không còn dựa vào nhiên liệu hoá thạch. Mục đích cuối cùng vẫn là phải khai thác trực tiếp nguồn năng lượng mặt trời chứ không phải đợi mặt trời khuấy động không khí, làm quay turbin và tạo ra điện.Những nhà phát minh đã nghĩ ra các ý tưởng từ việc tận dụng ánh sáng mặt trời, từ việc chạy các hệ thống sưởi đơn giản cho các toà nhà, đến công nghệ siêu nhỏ nano để đảm bảo mỗi photon đều được giữ lại và chuyển hoá thành điện năng.Bên cạnh đó, còn một cách khác để thu hút năng lượng mặt trời, tạo ra điện. Đó là tập trung các tia sáng mặt trời lại với nhau, sau đó sử dụng chúng để đun nước, dùng áp lực của hơi nước để làm quay turbin. Tuy nhiên cả hai phương pháp này đều chưa giải quyết được vấn đề của nguồn năng lượng trong tương lai: liệu nó có thể được tạo ra một cách tập trung và vận chuyển tới những người tiêu dùng ở xa (như trong những thập kỷ gần đây) hay chỉ được tạo ra và tiêu thụ trong một khu vực nhất định nào đó (như cách đây hàng thế kỷ). Năng lượng mặt trời sẽ tiếp tục phát ra cho đến khi phản ứng hạt nhân trên mặt trời hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa. Theo Báo cáo của Viện Chính sách Địa cầu Mỹ, các nhà đầu tư đang ngày càng quan tâm tới việc tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ. Nguồn tài nguyên năng lượng mặt trời là vô tận: "Nó có thể cung cấp hơn 10.000 lần số lượng điện tiêu thụ đang được sản xuất ra trên toàn thế giới". Ước tính đến năm 2012, công suất một nhà máy điện năng lượng mặt trời có thể đạt 6.400 kW, gấp 14 lần công suất hiện nay. Các nhà máy điện qui mô lớn cũng không dừng lại ở việc sử dụng các loại pin quang điện mà sẽ sử dụng các tấm gương khổng lồ để thu năng lượng mặt trời. Hiện nay, các thiết bị thu năng lượng mặt trời được lắp đặt gia tăng 40%/năm trên thế giới Những nhà phân tích tài chính cho rằng, thị trường này đã vượt quá 5.000 megawatt (MW) trong năm 2008 đạt 7.000 trong năm 2010 và đạt đến 20.000 trong năm 2012. Thị trường pin mặt trời chỉ tập trung ở 5 quốc gia: Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Italia. Theo các chuyên gia, giá điện mặt trời vào khoảng từ 0,13 - 0,17 USD/kW, đủ sức cạnh tranh với nhiệt điện sử dụng khí đốt. Trước đây, các tấm thu ánh sáng mặt trời được làm bằng silic, sau đó, người ta nghiên cứu thay silic bằng một hợp chất kim loại (gồm nhiều chất hoá học khá độc hại), tuy hiệu quả không cao nhưng lại đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng do giá thành rẻ hơn và mức độ ứng dụng rộng rãi và linh hoạt hơn. Hiện tại, công ty dẫn đầu lĩnh vực này là First Solar, một công ty của Mỹ, sử dụng chất cadmium telluride làm tấm film thu năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, First Solar chuẩn bị phải đối đầu với một đối thủ khá mạnh khác là Miasole, một hãng nhỏ tại California. Miasole thông báo sẽ thay thế hợp chất cadmium telluride của First Solar bằng một hợp chất mới gồm đồng, indi, gali, seli (CIGS) được cho là hiệu quả hơn. Ngoài ra, Miasole cũng giành được sự ủng hộ của cộng
  12. đồng khi sản phẩm của họ không chứa cadmium, một hoá chất cực độc. Điều này nghe dễ chấp nhận hơn đối với người tiêu dùng mặc dù First Solar tuyên bố họ đã bao bọc rất kỹ và bảo đảm cadmium không thể gây hại cho người sử dụng. Mới đây, ông Joseph Laia, Tổng giám đốc của Miasole còn tuyên bố các tấm film của họ được gắn trên một loại thép đủ tiêu chuẩn gọn nhẹ và dẻo dai (trong khi First Solar dùng thủy tinh) và có thể sử dụng làm vật liệu xây dựng cho các toà nhà. Tính đến năm 2007, Đức đã vượt qua Nhật Bản để thống lĩnh ngành sản xuất năng lượng quang điện trên thế giới. Chỉ tính riêng năm 2007, Đức đã sản xuất 1063 MW điện mặt trời, là nhà lắp đặt hệ thống quang điện hàng đầu thế giới, với sản lượng chiếm gần một nửa sản lượng toàn cầu. Quang điện hiện nay đã đạt ngưỡng 1% nhu cầu tiêu thụ điện của nước Đức và được các nhà phân tích dự báo rằng có thể đạt mức 25% vào năm 2050. Theo Hans-Josef Fell, Nghị sĩ Quốc hội Đức, thì "nguồn năng lượng từ pin mặt trời có khả năng thay thế năng lượng nguyên tử của Đức trong vài thập kỷ tới". Trong khi đó, Nhật Bản tiếp tục là quốc gia sản xuất tấm hấp thụ năng lượng mặt trời nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác với tổng công suất điện năng sản xuất trong năm 2007 là 920 MW. Ở Pháp, trung bình 1m2 đất có thể thu nhận mỗi năm 1 MWh điện năng lượng mặt trời. Nếu thu được 10% số năng lượng ấy thì sẽ đảm bảo được toàn bộ lượng điện tiêu thụ của cả nước. EDF (Tổng Công ty Điện lực Pháp) đã đạt được những thành công lớn: Mỗi tháng, EDF kết nối 800 điểm sản xuất điện từ pin mặt trời vào lưới điện. Trung Quốc là nước có tiềm năng lớn nhất có thể tiêu thụ các sản phẩm tấm pin năng lượng mặt trời, trong vài năm qua cũng trở thành một trong những nước đi đầu trong lĩnh vực này nhưng lượng tiêu thụ rất thấp, khoảng 100MW trong năm 2007. Nhà máy nhiệt điện mặt trời trên sa mạc Những ai ủng hộ năng lượng nhiệt điện thường có cái nhìn hoài nghi đối với các tấm thu năng lượng mặt trời. Cadmium telluride và CIGS có thể rẻ hơn silic, nhưng thép và thuỷ tinh mới là rẻ nhất. Và họ tưởng tượng ra một viễn cảnh: các sa mạc chứa đầy những tấm gương lớn làm bằng thép và kính và sử dụng ánh sáng mặt trời phản chiếu để đun nước sôi và tạo ra điện, sau đó chuyển về các thành phố. Ý tưởng trên không phải là viển vông, và quốc gia như Algeria đã đón nhận nó. Nằm bên bờ Địa Trung Hải, bên cạnh những thị trường lúc nào cũng “khát” điện ở châu Âu, phía Nam là sa mạc Sahara quanh năm nóng bỏng, Chính phủ Algeria không muốn bỏ lỡ cơ hội. Nước này đang xây dựng một nhà máy nhiệt điện mặt trời thí điểm ở Hassi R’mel, cách Thủ đô Algier 400 km về phía Nam, dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm tới. Đặt các tấm gương trên sa mạc: ý tưởng cần được kiểm chứng tính khả thi. Châu Mỹ cũng là nơi có nhiều sa mạc và do đó, kế hoạch sản xuất điện tương tự như của Algeria cũng đang được tiến hành thử nghiệm tại các khu vực sa mạc ở phía Tây Nam Mỹ. Được biết, công suất hiện nay của các nhà máy tại đây chỉ đạt mức 400 megawatt, song hứa hẹn sẽ tăng gấp 10 lần, thậm chí nhiều hơn trong bốn năm tới.
  13. Hội nghị Thượng đỉnh thành lập Liên minh Địa Trung Hải đầu tháng 7/2008 khẳng định, sẽ cho xây dựng một nhà máy điện mặt trời lớn trên sa mạc Sahara, nhằm cung cấp điện cho châu Âu và châu Phi. Dự kiến, năm 2050, nhà máy này sẽ đạt công suất 100.000 MW. Dự án liên quan đến một tập đoàn gồm khoảng 20 công ty - bao gồm Siemens, Deutsche Bank và các công ty năng lượng như RWE - và chi phí đầu tư là 400 tỉ euro (tức khoảng 555,3 tỉ USD). Dự án có tên gọi "Desertec" hướng đến năng lượng mặt trời công nghệ tương đối thấp - bằng việc sử dụng những chiếc gương khổng lồ đặt trong sa mạc để đun sôi nước làm chạy những turbine trong một nhà máy năng lượng địa phương. Theo tính toán của dự án Desertec, nếu chỉ 0,3% bề mặt sa mạc Sahara được bao phủ bởi các panel mặt trời thì toàn bộ châu Âu sẽ được cung cấp điện năng; còn nếu tỉ lệ đó lên đến 1% thì toàn bộ thế giới sẽ hưởng lợi. Một nhà máy năng lượng tương tự đã hoạt động ở California (Mỹ) trong thập niên 80 của thế kỷ 20 và 3 nhà máy như thế mới được xây dựng ở Tây Ban Nha. Tham gia vào dự án có Bộ Kinh tế Đức và Câu lạc Bộ Roma, một tổ chức phi Chính phủ đặt tại thành phố Zurich. Desertec hy vọng sẽ xây dựng các cánh đồng panel mặt trời nằm rải rác khắp các phần khác nhau của vùng Bắc Phi trong vòng 10 đến 15 năm nữa. Và các chuyên gia của dự án dự đoán những hệ thống này sẽ cung cấp sản lượng điện năng là khoảng 100 gigawatt và được chuyển đến châu Âu theo những đường dây cao áp một chiều nằm dưới Địa Trung Hải. 3. Nhiên liệu sinh học Những nhà chế tạo ôtô đang cho xuất xưởng những loại ô tô chạy "xăng mía" hay "xăng rơm". Tại châu Âu, Mỹ, Braxin và Trung Quốc đang bùng nổ cuộc cách mạng công nghệ nhiên liệu sinh học. Các nhà khoa học đã thành công trong việc sản xuất trên phạm vi công nghiệp nhiên liệu từ nguồn dầu thực vật, từ đường mía hay củ cải, từ gỗ vụn, thậm chí từ nguồn rơm, rạ bỏ đi sau thu hoạch. Công nghệ mang tính đột phá này không còn là những thí nghiệm tại các trường đại học, mà nó đã được áp dụng đại trà tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Braxin, taxi không còn chạy xăng mà đều chuyển sang chạy ethanol được sản xuất từ mía. Tại Đức và Mỹ, các lái xe đứng xếp hàng chờ mua xăng từ hạt cải dầu. Ở Trung Quốc, đã đưa vào vận hành nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học lớn nhất thế giới, còn tại thành phố Graz (Áo) các xe buýt đều chạy bằng dầu chế tạo từ dầu rán phế thải của nhà hàng McDonald's. Trong cuộc đua xe ôtô được tổ chức tại Le Mans tháng 6/2005, đoàn xe của Anh đã chạy thi trong suốt 24 tiếng đồng hồ, chỉ dùng nguồn nhiên liệu được sản xuất từ các loại dầu thực vật. Ông Lew Fulton, chuyên gia hàng đầu về nguồn nhiên liệu sinh học, thuộc Tổ chức Năng lượng Quốc tế (IEA) đã nhận xét rằng, sau những cú sốc về sự leo
  14. thang của giá dầu thô đã buộc nhiều quốc gia có những đối sách mang tính đột phá trong việc tìm kiếm nguồn nhiên liệu thay thế xăng, dầu truyền thống. Các nhà đầu tư đã tung tiền ra mua bản quyền và áp dụng những công nghệ mới nhất về sản xuất nhiên liệu từ nguồn thực vật. Tại Mỹ, Braxin và châu Âu, việc sản xuất nguồn nhiên liệu sinh học đang tăng đột biến. Ông Lew Fulton cho rằng năm 2005 là năm đánh dấu sự khởi đầu cuộc cách mạng nhiên liệu xanh. Nguồn nhiên liệu sinh học là một lĩnh vực mới mẻ. Song trong thực tế, đó là bước trở về cội nguồn. Năm 1900, trong triển lãm về động cơ được tổ chức tại Paris, động cơ gây được nhiều sự quan tâm chú ý và trở thành sản phẩm mới mẻ nhất tại triển lãm chính là động cơ đốt trong chạy bằng dầu lạc. Tác giả của nó là nhà chế tạo động cơ nổi tiếng Rudolf Diesel lúc đó đã tiên đoán rằng, nguồn nhiên liệu có nguồn gốc thực vật cũng sẽ quan trọng như nguồn nhiên liệu từ dầu mỏ. Những năm 20 của thế kỷ 20, đại gia ô tô Henry Ford cũng từng tuyên bố rằng, nguồn nhiên liệu từ thực vật, nhất là mía và đậu nành, sẽ thay thế nguồn nhiên liệu lỏng từ dầu mỏ. Nhưng sau đó, những lời tiên đoán đó bị lãng quên và người ta cho rằng nguồn dầu thô dồi dào với giá rẻ sẽ đủ cung cấp cho nhu cầu của con người trên thế giới ít nhất qua nhiều thập kỷ. Song đến nay, thực tế không còn mấy lạc quan như những gì đã đự đoán, các chuyên gia năng lượng đã cảnh báo rằng, trong năm 2006 ngành khai thác dầu thô sẽ đạt đỉnh điểm, sau đó trữ lượng dầu mỏ sẽ giảm dần và giá dầu thô sẽ tăng. Tại các quốc gia châu Âu cũng đã khởi động cuộc chạy đua xây dựng các nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học. Liên minh châu Âu đã đưa ra quy định trong mỗi lít xăng bán ra phải pha vài phần trăm ethanol. Tại Tây Ban Nha, hãng Abengoa đã hoàn tất xây dựng 4 nhà máy sản xuất ethanol. Anh cũng đang tiến hành xây dựng một nhà máy khổng lồ sản xuất nhiên liệu từ thực vật có công suất 100.000 tấn nhiên liệu sinh học. Tại Pháp, Chính phủ đã đưa ra kế hoạch gia tăng sản lượng nhiên liệu sinh học gấp 3 lần mức sản lượng hiện nay để thay thế nguồn xăng, dầu truyền thống. Braxin đang trở thành ông trùm sản xuất nhiên liệu sinh học - được mệnh danh là "Ảrập Xêút": sản lượng ethanol đã chiếm tới trên 30% sản lượng của ngành nhiên liệu lỏng. Tại quốc gia này đã có trên 90% ôtô, xe máy chạy bằng nhiên liệu sinh học được sản xuất từ cây mía và hạt cải dầu. Các đại gia nhiên liệu như BP, Shell đã có kế hoạch đầu tư vào Braxin 6 tỷ USD để xây dựng những nhà máy sản xuất ethanol từ cây mía. Đức cũng đang trở thành ông trùm nguồn nhiên liệu sinh học với sản lượng 1,5 triệu tấn cùng với mức gia tăng sản lượng 50% hàng năm. Theo dự kiến của Chính phủ, thì trong vòng 5 năm tới, sản lượng nhiên liệu sinh học sẽ thay thế khoảng 20% lượng xăng, dầu truyền thống. Chính phủ Ấn Độ và Thái Lan cũng có kế hoạch sản xuất nguồn nhiên liệu sinh học để thay thế 10% nhu cầu về xăng, dầu. Công ty Fortum Oil đang tiến hành xây dựng nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học cho động cơ diesel tại ngoại ô Helsinki, Phần Lan.
  15. Do những khó khăn về điều kiện tự nhiên, nên Nhật Bản chưa tự sản xuất được nguồn nhiên liệu sinh học, song cũng đã nhạy bén ký hợp đồng dài hạn với Braxin để nhập khẩu ethanol với giá chỉ có 25 USD/thùng (giá dầu thô là 78 USD/thùng), thay thế 3% số lượng nhập khẩu xăng, dầu truyền thống. Theo nhận xét của các chuyên gia thuộc Tổ chức năng lượng Quốc tế (IEA), công nghệ sản xuất nhiên liệu sinh học thay thế xăng, dầu có những bước tiến bộ hằng ngày. Trong tháng 7/2005, Tạp chí Science đã thông báo về phương pháp công nghệ mới cho phép sản xuất 2,2 đơn vị năng lượng từ một đơn vị nguyên liệu thực vật. Đây là bước tiến có ý nghĩa so với 8 tháng trước, khi từ một đơn vị nguyên liệu thực vật chỉ cho 1,4 đơn vị năng lượng. Gần đây, tổ hợp dầu khí Shell cũng đã đầu tư để phát triển công nghệ sản xuất 3.325 lít dầu sunfuel từ 1 hecta cải dầu, so với công nghệ trước đây chỉ cho 1.300 lít dầu. Ngoài ra Shell còn hợp tác với công ty Iogen của Canada để phát triển công nghệ sản xuất ethanol từ nguồn rơm, rạ sau thu hoạch. "Đây là những tiền đề vững chắc để khẳng định khởi động một cuộc cách mạng trong việc thay thế dần xăng, dầu truyền thống từ dầu mỏ bằng nguồn nhiên liệu sinh học" - đó là lời khẳng định của của ông Lew Fulton. Ông cho biết thêm việc khởi động các chương trình sản xuất nhiên liệu sinh học còn là cơ hội cho các nước châu Phi xoá đói giảm nghèo, vì họ có thể trồng sắn hay mía cho công nghiệp nhiên liệu sinh học để đổi lấy lúa mì và gạo. Xử lý: Kiều Gia Như TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. The Sixth Revolution: The Coming of Clean tech, Merrill Lynch, 11/2008. 2. Energy Revolution: A sustainable Pathway to Clean Energy Future for Europe. A European energy Scenario for EU-25, Greenpeace International, 9/2005. 3. Financing The Energy Technology Revolution. Meeting Summary, Final version, HSBC, 2008. 4. The Cleantech Opportunity. Harvard Business School Press, Boston, 2003. 5. The Next Technological Revolution:will the US Lead, or Fall Behind? The Wall Street Journal, Charles Duke and Ken Dill, 2/04.