Những vấn đề thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long

pdf 27 trang vanle 4860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Những vấn đề thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnhung_van_de_thuy_loi_o_dong_bang_song_cuu_long.pdf

Nội dung text: Những vấn đề thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long

  1. Những vấn đề thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long
  2. NHỮNG VẤN ÐỀ THỦY LỢI Ở ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NGUYỄN MINH QUANG, P.E. Tháng 9 năm 2006 Làm thủy lợi ở đồng bằng sông Cửu Long sau 1975: “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” (?!) PHẦN DẪN NHẬP được thể hiện qua việc tiến hành nghiên cứu chuyên sâu có đề tài “Luận cứ khoa học cho Kể từ tháng 5 năm 1975, một hệ thống thủy giải pháp tổng thể phát triển kinh tế xã hội lợi qui mô đã được xây dựng trong toàn vùng ÐBSCL trong điều kiện sống chung với lũ” với Ðồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) ở Việt sự tham gia của trường Ðại học Kinh tế Thành Nam nhằm mục đích phát triển nhanh chóng phố Hồ Chí Minh cùng hàng trăm nhà khoa vùng đồng bằng trù phú nầy. Có thể nói hệ học, quản lý, chuyên viên ở các viện, trường thống thủy lợi đó đã góp phần không nhỏ đại học, và sở ngành liên hệ, được công bố trong việc phát triển kinh tế và xã hội của trong tháng 10 năm 2005. Bài viết nầy, được ÐBSCL và cả nước sau khi chủ trương “đổi đúc kết từ những bài phỏng vấn trong Tạp chí mới” được áp dụng từ năm 1986. Nhưng Khoa học và Môi trường của đài Á Châu Tự Do cũng chính hệ thống thủy lợi nầy đã phát sinh (Radio Free Asia) do phóng viên Ðỗ Hiếu phụ ra nhiều vấn đề, mà ảnh hưởng tiêu cực của trách, nhằm mục đích tìm hiểu những vấn đề nó càng ngày càng rõ nét (1-11) và có thể trở thủy lợi mà ÐBSCL đang phải đối mặt hiện nay thành một lực cản trong việc phát triển kinh tế và trình bày những giải pháp thực tiễn có thể xã hội vững chắc và lâu dài của ÐBSCL trong áp dụng được để ngăn ngừa, hay ít ra, giảm tương lai. Mức độ nghiêm trọng của vấn đề thiểu các ảnh hưởng tiêu cực do hệ thống thủy 1
  3. lợi nầy đã, đang, và có thể sẽ gây ra trong trong mùa khô. Ngoại trừ việc đáy sông Hồng tương lai. bị bồi lắng và đất đai bạc màu vì thiếu phù sa, nguyên tắc nầy tỏ ra có hiệu quả ở ÐBSH; SỰ HÌNH THÀNH CỦA nhưng nó không thể áp dụng ở ÐBSCL vì đồng HỆ THỐNG THỦY LỢI Ở ÐBSCL HIỆN NAY bằng nầy có đặc tính hoàn toàn khác với ÐBSH (13). Có thể nói, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL được bắt đầu xây dựng chỉ vài tháng sau khi chiến Dựa theo nguyên tắc nầy, “ ta đấp đê, xây tranh Việt Nam chấm dứt vào tháng 4 năm đập hoặc cống ngăn mặn dọc theo duyên hải 1975. Hệ thống thủy lợi nầy được đoàn Quy và dọc theo sông ở hạ lưu thường bị nước mặn hoạch Thủy lợi ÐBSCL, được gọi tắt là đoàn xâm nhập; dọc theo hai bờ sông Cửu Long, nơi Quy hoạch Cửu Long (ÐQHCL), đề nghị để nước lụt chảy tràn bờ, ta đấp đê ngăn lũ, xây “thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chánh trị to lớn” các công trình lấy nước; nơi nào không có là biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại ở nước ngọt để thâm canh tăng vụ, ta đào kênh ÐBSCL thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ dẫn nước sông Cửu Long vào, nếu nước không một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn tự chảy, ta xây dựng trạm bơm điện; nơi nào lúa/năm trong kế hoạch ngủ niên 1975-1980 bị úng, ta thực hiện các công trình tiêu úng, (12). chống úng.” Hàng loạt công trình thủy lợi đã được thực hiện một cách ồ ạt trong đó có ÐQHCL là một trong các đoàn quy hoạch, gồm nhiều công trình chưa có “thiết kế.” Tính đến một số chuyên viên thủy lợi “được đánh giá là năm 1979 mà thôi, “ khối lượng đất được đào ưu tú” của miền Bắc, được đưa vào miền Nam đấp đã lên đến con số chục triệu m3; hàng để khảo sát, nghiên cứu, và thiết lập kế hoạch trăm đập, cống ngăn mặn; hàng trăm cây số khai thác tiềm năng thủy lợi ở miền Nam. Mỗi đê ngăn mặn, ngăn lũ; hàng chục trạm bơm đoàn phụ trách một vùng hoặc một lưu vực điện; hàng trăm cây số kênh đào lớn nhỏ.” sông. Mặc dù khả năng và kinh nghiệm Khối lượng công trình được thực hiện từ 1975 chuyên môn của thành viên trong đoàn rất hạn đến 1979 đã vượt gấp nhiều lần so với tổng số chế, nhưng họ lại rất tự hào về “khả năng khối lượng được thực hiện trước năm 1975 chiến đấu và chiến thắng,” nên họ đã không (12). cần nghiên cứu và tìm hiểu những đặc tính phức tạp của ÐBSCL, một đồng bằng có đặc Hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL bắt đầu có những tính hoàn toàn khác với Ðồng bằng sông Hồng ảnh hưởng tiêu cực về mặt thủy học ngay (ÐBSH). Họ cũng không để ý đến các ý kiến trong trận lụt năm 1978. Mặc dù mực nước của chuyên viên thủy lợi của miền Nam và rất sông Cửu Long tại Tân Châu và Châu Ðốc chưa nghi ngờ kết quả nghiên cứu của các cơ quan vượt quá mức kỷ lục trong trận lụt 1961 và hoặc công ty cố vấn quốc tế. Họ vẫn dùng các 1966, diện tích ngập của trận lụt 1978 trải nguyên tắc trị thủy được áp dụng ở ÐBSH từ rộng hơn, và thời gian ngập kéo dài hơn so với bao đời. hai trận lụt lịch sử nầy. Ảnh hưởng tiêu cực nầy lại tái diễn trong trận lụt năm 1984, nhưng Nguyên tắc trị thủy ở ÐBSH đã có từ ngàn xưa dường như vẫn chưa đủ sức để thuyết phục và được áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi, nhất là những người có trách nhiệm trong việc quy ở Trung Hoa. Nguyên tắc nầy có thể gọi là hoạch thủy lợi lúc bấy giờ. nguyên tắc đào đấp, vì chỉ cần đào kinh để dẫn nước và đấp đê để chận nước. Ở ÐBSH, Vào năm 1987, qua dự án VIE/87/031, Ngân một hệ thống đê điều kiên cố được đấp dọc hàng Thế giới (World Bank), Ủy ban Quốc tế theo bờ sông để ngăn chận nước lũ, và một hệ Mekong Lâm thời (Interim Mekong thống kinh được đào để dẫn nước sông vào Committee), và Chương trình Phát triển Liên nơi thiếu nước ngọt để thâm canh tăng vụ Hiệp Quốc (United Nations Development 2
  4. Programme (UNDP)) đã tài trợ việc soạn thảo Chính PVKSQHTLNB đã thừa nhận rằng, một kế hoạch tổng thể (master plan), trong đó “Trong hai thập kỷ vừa qua con người đã tác có hệ thống thủy lợi cho ÐBSCL, do hai hãng động mạnh mẽ lên vùng ngập lụt của châu thổ Kỹ sư cố vấn Netherlands Engineering sông Mekong. Nhiều kênh mới đã được đào, Consultants (NEDECO) của Hòa Lan và Rhein- nhiều kênh cũ đã được nạo vét, mạng lưới Ruhr Ingenieor-Gesellschaft (RRIG) của Ðức kênh cấp II ngày càng được đan dày đã làm phụ trách. Nhưng trên thực tế, hai hãng kỹ sư tăng khả năng chuyển lũ qua các vùng ngập. cố vấn nầy chỉ dựa theo chủ trương và chánh Mặt khác các hệ thống giao thông đường bộ sách do nhà cầm quyền Việt Nam đưa ra mà cũng được đan dày và tôn cao nhưng khẩu độ thôi. Thí dụ như Phân viện Khảo sát Quy cầu cống chưa đủ đã làm ách tắc việc thoát lũ, hoạch Thủy lợi Nam Bộ (PVKSQHTLNB), là hậu làm dâng mực nước lũ một số vùng, trong đó thân của ÐQHCL, đã yêu cầu NEDECO và RRIG đáng chú ý ở vùng ÐTM và TGLX của Việt đưa vào kế hoạch tổng thể ÐBSCL tất cả 45 Nam” (16). Nhưng họ vẫn tiếp tục khẳng định công trình thủy lợi do họ nghiên cứu trước rằng nguyên tắc trị thủy đang được áp dụng là đây, mà hầu hết là đào kinh và đấp đê, nhằm đúng. Họ lập luận rằng kinh đào không đủ bảo đảm cho việc trồng lúa trong 10-15 năm rộng và sâu để thoát nước lũ và hệ thống đê sắp tới (14). Thậm chí có nhiều phần trong kế bao và đường giao thông không đủ cao để hoạch được giao cho chuyên viên trong nước ngăn chận nước lũ nên trận lụt năm 2000 mới soạn thảo và viết phúc trình. Cho nên, hệ gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng (17,18). thống thủy lợi trong Kế hoạch Tổng thể ÐBSCL do NEDECO và RRIG soạn thảo chỉ “hợp thức hóa” cái hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL do ÐQHCL đưa ra trước đó mà thôi. Chính vì lý do đó mà ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL càng ngày càng nghiêm trọng hơn. Sau một loạt các trận lụt xảy ra liên tiếp vào năm 1991, 1994, và 1995; hệ thống được điều chỉnh và được chánh phủ phê duyệt qua quyết định số 99/TTg của Thủ Lụt 2000 ở ÐBSCL (17) tướng ngày 9 tháng 2 năm 1996 nhằm nạo vét sâu hơn, đào nhiều kinh hơn, đấp đê bao Lập luận nầy được thể hiện trong Phúc trình nhiều và cao hơn, và đấp đê và cống ngăn Phân tích Phân vùng 10V, Kế hoạch Phát triển mặn nhiều hơn. Kết quả là nước lũ nội đồng Lưu vực (Report Analysis of Sub-Area 10V, trong trận lụt 1996 ở vùng Ðồng Tháp Mười Basin Development Plan) được PVKSQHTLNB (ÐTM) và Tứ giác Long Xuyên (TGLX) đã phá và Ủy ban Quốc gia sông Mekong/Việt Nam kỷ lục. Sau trận lụt 1996, hệ thống thủy lợi ở công bố vào tháng 11 năm 2003 (19). Phúc ÐBSCL lại được điều chỉnh một lần nữa, và trình nầy, nằm trong khuôn khổ của chương như chúng ta đã biết, trận lụt năm 2000 đã trở trình soạn thảo một kế hoạch phát triển hạ lưu thành một trận lụt lịch sử, mặc dù mực nước vực sông Mekong do Ủy hội sông Mekong thực tại Tân Châu và Châu Ðốc vẫn thấp hơn mực hiện, bao gồm các công trình thủy lợi đáng nước của hai trận lụt 1961 và 1966 (15). chú ý như xây 74 km đê biển Rạch Giá - Hà Tiên có cao độ +2,0 m; nạo kinh Vĩnh Tế đến Mãi đến năm 1999, những người có trách cao độ -3,0 m và xây đê ngăn lũ trên bờ nam; nhiệm trong việc quy hoạch và xây dựng hệ nạo kinh Tân Thành - Lò Gạch đến cao độ -3,0 thống thủy lợi ở ÐBSCL và các cơ quan chức m và xây đê ngăn lũ có cao độ từ +5,5 đến năng ở Việt Nam mới chánh thức công nhận +6,5 m trên bờ nam; nạo các kinh 2/9, 79, các tác hại của hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL. Kháng Chiến, Bình Thạnh, Thống Nhất, Sông 3
  5. Trăng, và An Phong - Mỹ Hòa - Năm Ngàn - trong sông tăng cao. Nước lũ có thể chảy tràn Bắc Ðông đến cao độ -3,0 m; nạo kinh Ðồng qua biên giới Việt Miên, chảy tràn qua các Tiến - Lagrange đến cao độ -3,5 m; và nạo giồng cao dọc theo sông Tiền và Hậu, hoặc kinh Hồng Ngự đến cao độ -4,0 m. theo các mương rạch tự nhiên để vào ÐTM và TGLX và làm ngập hai vùng trũng nầy. Từ NHỮNG VẤN ÐỀ THỦY LỢI đây, nước lũ có thể chảy trở lại sông Tiền và Ở ÐBSCL HIỆN NAY Hậu ở hạ lưu, hoặc đổ ra sông Vàm Cỏ Tây hoặc vịnh Thái Lan. Những vấn đề do hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL phát sinh có liên quan đến nhiều phương diện, nhưng bài viết nầy chỉ chú trọng đến phương diện thủy học và môi trường, vì đây là hai phương diện quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn lao đến các phương diện khác, chẳng hạn như nông ngư nghiệp và xã hội. Về phương diện thủy học, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL đã làm thay đổi cơ chế thủy học (flow regime) tự nhiên của ÐBSCL, mà hậu quả là (a) thay đổi tình trạng lũ lụt ở ÐBSCL, (b) gia tăng mức độ sạt lở và bồi lắng ở lòng lạch và cửa sông, và có khả năng ảnh hưởng đến việc xói mòn của bán đảo Cà Mau, và (c) giúp cho nước mặn xâm nhập vào đất liền xa hơn, lâu hơn, và cao hơn. Về phương diện môi trường, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL (a) làm nhiều vùng ở hạ nguồn bị nhiễm nước phèn (acid water) nhiều hơn, nhất Hệ thống kinh đào ở ÐBSCL ngày trước (22) là ở cuối ÐTM, (b) là một trong những tác nhân làm suy thoái phẩm chất nước ở ÐBSCL, Hệ thống kinh đào hiện nay ở ÐBSCL; sâu hơn, và (c) góp phần không nhỏ trong việc xâm lấn rộng hơn, và dày đặc hơn so với hệ thống kinh vào những vùng sinh thái tự nhiên còn lại đào trước năm 1975; đã tạo thành những lòng trong vùng ÐTM và TGLX và có thể làm cho lạch thuận lợi khiến cho nước lũ từ Kampuchia chúng suy thoái trong tương lai. và sông Tiền và Hậu chảy vào ÐTM và TGLX sớm hơn, nhiều hơn, và nhanh hơn. Ở thượng Thay đổi tình trạng lũ lụt nguồn, hệ thống đê đập làm giảm diện tích của đường thoát lũ khiến mực nước lụt dâng Nói một cách chính xác, hệ thống thủy lợi ở cao hơn. Ở hạ nguồn, lượng nước lũ nầy đã bị ÐBSCL được xây dựng từ năm 1705 khi ông hệ thống đường giao thông được nâng cao Nguyễn Cửu Vân đào Bảo Ðịnh Hà tức rạch hoặc hệ thống đê đập cống ngăn mặn ngăn Bảo Ðịnh nối liền sông Tiền tại Mỹ Tho với chận khiến cho mực nước lụt ở ÐBSCL sâu hơn sông Vũng Gù (Vàm Cỏ Tây) tại Tân An (20). và thời gian ngập lụt kéo dài hơn trước (21). Nhưng mãi đến 1975, hệ thống nầy dường như Những ảnh hưởng nầy đã được kiểm chứng. không có ảnh hưởng đáng kể đến đường thoát lũ thiên nhiên ở ÐBSCL. Nước trong sông Theo dữ kiện đo đạc của PVKSQHTLNB, sự gia Mekong vẫn có thể tràn bờ rồi làm ngập một tăng lưu lượng qua biên giới Việt Miên - từ vùng rộng lớn ở hạ lưu Kratie khi lưu lượng 6.300 m3/sec trong trận lụt 1991 đến 8.270 4
  6. m3/sec trong trận lụt 1996, so với 2.930 m đến +6,5 m để ngăn chận nước lũ tràn qua m3/sec trong trận lụt 1961 - là do các kinh cấp biên giới Việt Miên (19). Những thay đổi nầy I và II nối từ rạch Cái Cỏ - Long Khốt vào không những không có tác dụng tích cực, mà ÐTM. Thời gian truyền lũ từ Tân Châu đến ngược lại, làm cho tình hình lũ lụt ở ÐBSCL Mộc Hóa, thường mất từ 15 đến 17 ngày trong ngày càng thêm nghiêm trọng. Thí dụ như thập niên 1970, chỉ còn khoảng 3 đến 5 ngày trong mùa nước nổi 2005, mặc dù mực nước lũ trong thập niên 1990 (16). Trong trận lụt cao nhất trong sông Tiền và Hậu chỉ đạt mức 2000, mực nước lụt nội đồng trong vùng ÐTM 4,35 m ở Tân Châu và 3,86 m ở Châu Ðốc và TGLX cao hơn mực nước cao nhất các năm (thấp hơn mực nước lũ cao nhất 4,82 m ở Tân 1978 và 1996 từ 20 đến 50 cm (15). Châu và 4,42 m ở Châu Ðốc trong trận lụt năm 2002), mực nước lụt trong vùng ÐTM đã tăng nhanh hơn và vượt quá mực nước cao nhất trong năm 2002 (23). Ðập Trà Sư (92) Hệ thống kinh đào ở ÐBSCL ngày nay (16) Nhưng những người có trách nhiệm trong việc quy hoạch hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL vẫn khẳng định rằng, sở dĩ có những ảnh hưởng tiêu cực như nhận thấy trong thời gian qua là Lụt 2000 ở Tam Nông, Ðồng Tháp (15) vì hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL chưa được hoàn chỉnh nên chưa phát huy hết tác dụng của nó. Một sự kiện thủy học nổi bật được quan sát lần Họ dự trù nâng cao trình cho đập Trà Sư từ đầu tiên trong lịch sử, đó là, trong 23 trạm của cao độ +3,8 m như hiện nay lên cao độ +4,2 hệ thống đo đạc thủy học ở hạ lưu vực sông hoặc +4,5 m (17); nâng cao trình các quốc lộ Mekong, do Ủy hội sông Mekong điều hành, 62, 30, 91 và hệ thống đê bao cao hơn mực chỉ có 5 trạm có mực nước vượt quá mức báo nước lụt năm 2000 (18). Họ dự trù nạo vét động do Ủy hội ấn định trong năm 2005. Ðó các kinh hiện có như Hồng Ngự và 79 cho sâu là các trạm Thakhek và Pakse ở Lào, hơn và rộng hơn để thoát nước lũ. Và họ dự Mukdahan ở Thái Lan, và Tân Châu và Châu trù xây một con đê dọc theo bờ phía Nam của Ðốc ở Việt Nam. Tuy nhiên, sông Mekong kinh Tân Thành – Lò Gạch có cao độ từ +5,5 vượt quá mức báo động chỉ có 5 ngày ở 5
  7. Thakhek, 7 ngày ở Pakse, và 9 ngày ở chân đập. Càng xa về hạ lưu, ảnh hưởng sẽ Mukdahan, nhưng kéo dài đến 30 ngày ở Tân giảm dần và đến lúc nào đó thì không còn Châu và 60 ngày ở Châu Ðốc. đáng kể. Nếu dựa theo dữ kiện thủy học được đo đạc trước và sau khi xây dựng các đập thủy điện, thì ảnh hưởng thủy học của chúng được quan sát ở trạm Chiang Saen ở Thái Lan, là trạm cực bắc của hệ thống đo đạc thủy học ở hạ lưu vực sông Mekong. Nhưng ảnh hưởng tương tự thì chưa quan sát được ở trạm Tân Châu và Châu Ðốc (31). Trạm quan trắc của MRC ở phía bắc hạ lưu vực Mekong (MRC) Trạm quan trắc của MRC ở phía nam hạ lưu vực Mekong (MRC) Trạm quan trắc của MRC ở miền trung hạ lưu vực Mekong (MRC) Có nhiều nguồn dư luận Việt Nam và quốc tế cho rằng các đập thủy điện đã và đang được xây dựng trên sông Mekong ở Trung Hoa có Ðập thủy điện Manwan ở Trung Hoa (31) ảnh hưởng đến tình trạng lũ lụt ở ÐBSCL (24- 30), nhưng có nhiều lý do để có thể kết luận Trên phương diện thủy học, do điều kiện khí rằng các nguồn dư luận đó chỉ là những suy hậu và địa hình, lượng mưa trong vùng trung luận mang nhiều cảm tính và không có cơ sở lưu vực sông Mekong chạy dọc theo triền phía khoa học. Trước hết, lưu lượng phát xuất từ Tây dãy Trường Sơn có ảnh hưởng quan trọng Trung Hoa chỉ chiếm khoảng 15 đến 25 phần nhất đến tình trạng lũ lụt ở ÐBSCL. Trung trăm lưu lượng lũ của sông Mekong ở Kratie. bình, vùng nầy đóng góp khoảng 60 đến 75 Thứ hai, ảnh hưởng của đập thủy điện đối với phần trăm lưu lượng lũ của sông Mekong tại tình hình lũ lụt chỉ đáng kể ở vùng hạ lưu sát Kratie, trong số đó khoảng 20 đến 30 phần 6
  8. trăm từ lưu vực sông Sre Pok ở hạ Lào, cao sông Tiền và Hậu với chiều dài khoảng 162 nguyên miền Trung Việt Nam, và vùng đông km, mà nghiêm trọng nhất là ở thị xã Sa Ðéc. bắc Kampuchia. Thí dụ như trận lụt lịch sử Ở tỉnh An Giang, có khoảng 50 điểm sạt lở mà năm 2000 là do lượng mưa rất cao trong vùng nghiêm trọng nhất là thị trấn Tân Châu và xã nầy gây nên. Kế tiếp, bất cứ một dự án thủy Mỹ Hòa Hưng thuộc thành phố Long Xuyên. Ở lợi nào làm thay đổi lưu lượng phát xuất từ tỉnh Vĩnh Long, có 56 điểm sạt lở bờ sông Hậu, vùng nầy đều có khả năng thay đổi tình trạng Cổ Chiên, và Măng Thít với chiều dài khoảng lũ lụt ở ÐBSCL. Thí dụ như việc xả lũ từ đập 80 km. Tỉnh Cần Thơ có 14 điểm sạt lở. Tỉnh thủy điện Yali ở Việt Nam vào đầu tháng 8 Hậu Giang có 3 điểm sạt lở lớn ở Ngả Sáu, Ngả năm 2005. Việc xả lũ nầy đã gây lũ lụt ở hạ Bảy, và kinh Xà No. Tỉnh Bến Tre có 2 điểm lưu sông Sesan trong tỉnh Ratanakiri của sạt lở ở sông Giao Hòa (An Hóa), huyện Châu Kampuchia (32) và có lẽ đã làm mực nước ở Thành và sông Hàm Luông ở huyện Giồng nội đồng ÐTM đang tăng nhanh lại càng tăng Trôm. Ở tỉnh Bạc Liêu, mỗi năm có hàng chục nhanh hơn vào trung tuần tháng 8 (33). vụ sạt lở dọc theo sông Gành Hào ở huyện Ðông Hải và Giá Rai. Nhiều tuyến kinh ở Cà Gia tăng mức độ sạt lở và bồi lắng Mau cũng bị sạt lở nghiêm trọng trong 10 năm trong lòng lạch và cửa sông qua (36-45). Rạch Bảo Ðịnh ở thành phố Mỹ Tho cũng bị sạt lở (46). Một ảnh hưởng tiêu cực khác của hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL, cũng gây tai hại có lẽ không kém sự thay đổi tình trạng lũ lụt, là tình trạng sạt lở và bồi lắng. Tình trạng nầy không những xảy ra trong sông rạch tự nhiên và kinh đào lớn nhỏ, kể cả sông Tiền và sông Hậu, mà nó còn có ảnh hưởng đến việc bồi đấp bờ biển ở phía Nam cửa sông Cửu Long, và có thể có ảnh hưởng đến sự an nguy của bán đảo Cà Mau trong tương lai. Sạt lở ở Ðồng Tháp (44) Sạt lở bờ sông Cửu Long (43) Tình trạng sạt lở và bồi lắng đã và đang diễn ra ở một mức độ chưa từng thấy ở khắp nơi trong ÐBSCL. Sạt lở diễn ra liên tục trong mùa lũ lẫn mùa cạn, từ thượng nguồn đến hạ Sạt lở sông Giao Hòa (41) nguồn sông Tiền và sông Hậu, trong các sông rạch nội đồng, và ngay cả vùng ven biển (34- Mức độ bồi lắng thì cũng không kém so với 35). Thí dụ như ở tỉnh Ðồng Tháp, có 89 khu mức độ sạt lở (47). Một thí dụ điển hình là sự vực sạt lở thuộc 42 xã, phường, thị trấn ven xuất hiện của những “cồn mới nổi” trong sông 7
  9. Tiền ở xã An Phong, Tân Bình và Tân Quới, tốc dòng chảy gia tăng. Ở hạ nguồn, việc lấy tỉnh Ðồng Tháp và trong sông Hậu ở xã Mỹ nước canh tác cùng với hệ thống đê đập ngăn Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên (42). Tình mặn và đê biển làm giảm vận tốc dòng chảy, trạng bồi lắng khiến cho sông Ba Lai, một mà có nhiều nơi, nước không còn luân lưu nhánh của sông Tiền, đang cạn dần. “Ðoạn được nữa. sông Hậu từ Ða Phước đến thị trấn An Phú một phần bị bồi lắng nên khô cạn nặng, lòng sông chỉ còn rộng hơn 10 m” (48). Mức độ nghiêm trọng của tình trạng bồi lắng được thể hiện qua việc bồi lắp cửa Ðịnh An, một trong những cửa sông Hậu chảy ra biển Ðông. Theo một nghiên cứu của Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, cửa Ðịnh An đang bị cát bồi lắp với một mức độ khủng khiếp khiến cho độ sâu ở đây chỉ còn khoảng 3 mét và không ổn định (49). Cống đập Ba Lai (52) Cống đập Ba Lai ở tỉnh Bến Tre là một thí dụ điển hình, vì công trình nầy là 1 trong 9 công trình của dự án đại thủy nông có tên là Dự án Ngọt hóa Bắc Bến Tre, với kinh phí lên đến 1.230 tỉ đồng (khoảng 92 triệu Mỹ kim). Cống được khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 30 tháng 4 năm 2002 (52). Từ đó đến nay, vì cửa sông Ba Lai bị cống bít kín, nước sông Ba Sông Hậu ở Châu Ðốc bị bồi lắng (48) Lai dồn vào sông Giao Hòa để chảy qua sông Mỹ Tho; do đó, nước chảy rất xiết và làm cho Theo khoa học sông ngòi, một dòng sông chỉ hai bờ sông đều bị sạt lở (41). Cống Ba Lai có ổn định khi cơ chế và tình trạng thủy học của lẽ cũng là nguyên nhân chính khiến cho cồn Bà nó cân bằng với tình trạng địa chất ở nơi mà Ðáng ở huyện Châu Thành đang chìm xuống nó chảy qua. Khi sự cân bằng nầy mất đi, sông Ba Lai. Ngày trước, cồn có diện tích dòng sông sẽ tự điều chỉnh để lập lại sự cân khoảng 300 ha được dự trù xây dựng điểm du bằng đã mất qua hiện tượng sạt lở, bồi lắng, lịch sinh thái, nay chỉ còn vài chục mét vuông hoặc mãnh liệt hơn là di chuyển lòng lạch. Sạt mà thôi (42). Cũng cần nói thêm là, ngoài ảnh lở xảy ra khi bờ hoặc đáy sông mất cân bằng hưởng tiêu cực về mặt thủy học, cống Ba Lai do dòng chảy trong sông đổi hướng hoặc gia còn có những ảnh hưởng tiêu cực khác, chẳng tăng vận tốc. Khi vận tốc dòng chảy giảm đi, hạn như về mặt môi trường, nông ngư nghiệp, phù sa sẽ lắng xuống gây bồi lắng (50-51). Hệ và xã hội (4,53-57). thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL đã làm cho cơ chế và tình trạng thủy học của sông Mekong Các cơ quan chức năng và những người có mất cân bằng, không những trong lãnh thổ trách nhiệm quy hoạch thủy lợi ở Việt Nam đã Việt Nam mà cả trong lãnh thổ Kampuchia, nhận thấy ảnh hưởng tai hại của hệ thống thủy nhất là vùng dọc theo biên giới Việt-Miên. Ở lợi đối với tình trạng sạt lở và bồi lắng ở thượng nguồn, hệ thống đê đập ngăn lũ không ÐBSCL, nhưng họ không muốn hoặc không cho nước lũ chảy tràn qua biên giới mà tập dám khẳng định trực tiếp và rõ ràng. Thí dụ trung vào sông rạch làm cho chiều sâu và vận như Phó giáo sư - Tiến sĩ (PGS-TS) Lê Minh 8
  10. Hùng, Viện Khoa học Thủy lợi thì cho rằng Cửu Long bồi đấp, và hiện tượng nầy vẫn đang “ tình trạng xói lở bờ sông, lòng sông có tiếp diễn. Ngày trước, phù sa trong nước lũ nhiều nguyên nhân; trong đó nổi cộm là sự tác chảy tràn lắng đọng đồng đều ở nội đồng động trực tiếp từ con người” (46). Giáo sư trong vùng ÐTM và TGLX. Sự bồi lắng nầy Tiến sĩ (GS-TS) Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng tương đương với mức lún do nền đất phù sa Trường Ðại học An Giang cũng nói rằng: “Ngày nén lại, nên ÐBSCL vẫn duy trì được cao độ. nay, do tác động của con người, dòng chảy Hệ thống thủy lợi hiện nay ngăn chận phần lớn biến đổi nhanh, tình trạng sạt lở càng phức lượng nước lũ chảy tràn; do đó, vùng nội đồng tạp” (58). Kỹ sư (KS) Huỳnh Thế Năng, Giám không còn được bồi đắp như trước, mặt đất sẽ đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn mất dần cao độ và toàn thể ÐBSCL có nguy cơ (NNPTNT) An Giang thì trực tiếp và rõ ràng tụt thấp hơn mặt nước biển (3,47). hơn một chút, khi ông nhận xét như sau: “Ðến nay, việc quy hoạch khai thác cát, nuôi trồng thủy sản và hệ thống kênh thoát lũ ở ÐBSCL đang diễn ra một cách tự phát, manh mún và bất hợp pháp làm ảnh hưởng bờ, gây xói lở vách sông. Khắc phục và điều chỉnh việc nầy vượt quá khả năng của từng địa phương. Vì vậy, rất cần Bộ NNPTNT tiến hành ngay đề tài nghiên cứu chuyên sâu, giúp các địa phương có cơ sở khoa học để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại và khai thác lợi thế dòng sông, theo định hướng phát triển bền vững cả về môi trường và xã hội” (58). Sụp kè Tràm Chim (58) Một vài biện pháp cục bộ được đưa ra ở một Phù sa trong nước lũ cũng được sông Tiền và vài địa phương, nhưng những biện pháp nầy Hậu mang ra biển Ðông. Với một vận tốc cân cũng không có hiệu quả, mặc dù rất tốn kém. bằng với dòng nước biển ven bờ, lượng phù sa Thí dụ như việc lún sụt bờ kè dài 338 m ở thị nầy lắng đọng ven bờ khiến bán đảo Cà Mau trấn Tràm Chim, Tam Nông (59). Bờ kè dài lấn ra biển hàng trăm mét mỗi năm. Hệ thống 612 m với trị giá khoảng 120 tỉ đồng được xây thủy lợi hiện nay không những làm giảm lượng dựng để bảo vệ thị trấn Tân Châu, nhưng thị phù sa mà còn làm tăng vận tốc dòng chảy trấn nầy đang có nguy cơ chìm xuống sông trong sông Tiền và sông Hậu. Hậu quả là Tiền (45). Gần đây hơn, bờ kè ở Cà Mau cũng lượng phù sa đã ít lại bị đẩy ra xa ngoài biển bị chìm xuống sông vì sạt lở (60). Bờ kè ở khu Ðông nên không thể bồi đắp bán đảo Cà Mau vực Tỉnh ủy An Giang ờ thành phố Long Xuyên như trước (47). cũng đang bị sạt lở uy hiếp (42). Còn những biện pháp tổng thể cho toàn vùng ÐBSCL, Gia tăng sự xâm nhập của nước mặn cũng theo lời KS Huỳnh Thế Năng, Giám đốc Sở NNPTNT An Giang, thì chưa được nghiên Sự xâm nhập của nước mặn trong sông ngòi là cứu (58). một hiện tượng tự nhiên do sự khác biệt về tỉ trọng giữa nước ngọt và nước mặn. Hiện Về lâu về dài, hệ thống thủy lợi hiện nay ở tượng nầy chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ÐBSCL có thể có ảnh hưởng đến việc bồi đấp như lưu lượng và thời lượng của nước sông, bờ biển ở phía Nam cửa sông Cửu Long, và có cao độ của đáy sông so với mặt nước biển, độ thể có ảnh hưởng đến sự an nguy của bán đảo dốc của lòng sông, biên độ thủy triều, vận tốc Cà Mau trong tương lai. Như chúng ta đã biết, và chiều gió, và nhiệt độ của nước; trong đó, vùng ÐBSCL hình thành do phù sa của sông lưu lượng (discharge) và thời lượng (duration) 9
  11. của nước sông là yếu tố quyết định (61). đến 11,0 g/lít trong sông Tiền và sông Hậu. ÐBSCL hội đủ các yếu tố thuận lợi nầy. Ranh giới mặn, tức độ mặn 4,0 g/l, càng ngày càng tiến sâu vào đất liền (64). Theo một Hệ thống thủy lợi hiện nay đã làm thay đổi cơ nghiên cứu của Phân viện Khí tượng thủy văn, chế thủy học tự nhiên của ÐBSCL, nhất là lưu ranh giới mặn tiến sâu vào đất liền từ 26 đến lượng và thời lượng của sông Tiền và sông 43 km trong khoảng thời gian từ năm 1977 Hậu, là hai yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến 1982 (62). Nó tiến sâu vào đất liền đến nhất đến sự xâm nhập của nước mặn. Theo 50 km trong năm 1995 và 70 km trong năm Kế hoạch Tổng thể ÐBSCL do NEDECO và 1999. Riêng trong năm 2005, nó tiến vào đất RRIG soạn thảo (14), 45 dự án thủy nông do liền từ 80 đến 120 km, và có nơi lên đến 140 của PVKSQHTLNB cần 841 m3/sec trong số km (64). Sự xâm nhập của nước mặn khiến 1.540 m3/sec lưu lượng kiệt của sông Cửu cho độ mặn trong sông vượt quá tiêu chuẩn Long trong tháng 4 (62). Việc lấy nước cho hệ nước uống, thí dụ như 1,8 g/l ở thành phố Mỹ thống thủy lợi nầy khiến lưu lượng của sông Tho và 3,0 g/l ở thị xã Bến Tre, khiến cho các Tiền và sông Hậu bị giảm trong một thời gian nhà máy nước ở đây phải ngưng hoặc hạn chế dài, nhất là vào mùa khô, khiến hai con sông hoạt động. Nguồn nước gia dụng của thành nầy không còn khối lượng nước ngọt thích hợp phố Cần Thơ cũng đang bị đe dọa, vì độ mặn 1 để đẩy lùi hoặc ngăn chận sự xâm nhập của g/l trong sông Hậu chỉ còn cách thành phố nầy nước biển. Ở hạ nguồn và ven biển, hệ thống có 8 km (65). đê đập ngăn mặn khiến cho nước biển không thể chảy tràn vào những vùng đất ngập mặn mà chỉ tập trung trong lòng sông, khiến cho nước biển xâm nhập vào đất liền nhanh hơn và xa hơn vì vận tốc cao hơn. Ở một vài nơi, thí dụ như trong vùng TGLX, hệ thống kinh mương thoát lũ ra vịnh Thái Lan đã trở thành những lòng lạch cho nước mặn xâm nhập vào mùa khô (63). Tiêu chuẩn thông dụng dùng để so sánh phạm vi và mức độ xâm nhập của nước mặn là độ mặn. Ðộ mặn là nồng độ của muối ở trong nước, có đơn vị thông thường là gram trên lít (g/l). Nước biển có độ mặn trên 30 g/l, nước sông có độ mặn dưới 1 g/l. Ðộ mặn 4 g/l thường dùng để ấn định ranh giới mặn, nhưng cây trồng sẽ chết nếu độ mặn cao hơn 1 g/l. Ðổi nước uống ở Bến Tre (93) Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, độ mặn trong Các cơ quan chức năng và những người có nước gia dụng không được quá 0.25 g/l. trách nhiệm trong việc quy hoạch thủy lợi ở ÐBSCL cho rằng, sở dĩ nước mặn có thể xâm Theo tin tức báo chí trong nước thì tình trạng nhập sâu vào đất liền là vì một số công trình xâm nhập của nước mặn càng ngày càng chưa hoàn chỉnh nên nó chưa phát huy tác nghiêm trọng và tràn lan, không những trong dụng đúng mức (2). Còn các công trình đã sông rạch mà còn ở trong hệ thống kinh thủy hoàn chỉnh và đã phát huy tác dụng thì, “ lợi nội đồng. Trong mùa khô 2005 vừa qua, trước đại họa ngập mặn quá lớn, những công độ mặn tại các trạm quan trắc đã vượt mức kỷ trình nầy tựa như muối bỏ biển, không thấm lục với 15,5 g/lít trong sông Vàm Cỏ Ðông, vào đâu” (64). Nói một cách ngắn gọn, họ 15,2 g/lít trong sông Vàm Cỏ Tây, và từ 10,8 cho rằng, lý do của sự xâm nhập nước mặn 10
  12. ngày càng gia tăng ở ÐBSCL là do các công (d) bố trí thời vụ để giảm lượng nước tưới trình ngăn mặn hoặc chưa được xây xong hoặc trong mùa khô, và (e) đẩy nhanh việc xây chưa được xây đúng mức. dựng công trình thoát lũ cho việc chuyển thời vụ. Trong đó, cần có giải pháp linh động thích hợp cho năm nước mặn lên cao (67). Thồ nước ngọt ở Kiên Giang (94) Nhưng các công trình ngăn mặn hiện nay cũng như các công trình ngăn mặn trong tương lai, Lễ ký kết thỏa thuận về phương thức soạn thảo cho dù có được hoàn chỉnh đến đâu, sẽ không Chương trình Sử dụng Nước sông Mekong (68) có khả năng ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn vào ÐBSCL; trừ trường hợp bít kín tất cả Khi đề cập đến chiến lược chung trong việc sử các cửa sông rạch ăn thông ra biển. Một thí dụng và bảo vệ nguồn nước ở các nước hạ lưu dụ điển hình là hệ thống cống đập Ba Lai ở vực sông Mekong, có lẽ PVKSQHTLNB muốn Bến Tre. Các giới chức có trách nhiệm cho nói đến Chương trình Sử dụng Nước (Water rằng, vì âu thuyền dự trù xây trên sông Giao Utilization Programme) của Ủy hội sông Hòa chưa được thực hiện, nên nước mặn mới Mekong. Nếu đúng như thế thì không biết đến theo sông nầy rồi xâm nhập ngược vào cái rốn bao giờ chiến lược chung nầy mới được áp của dự án ngọt hóa Bắc Bến Tre (56). Nhưng dụng, vì việc soạn thảo Chương trình Sử dụng nếu tất cả các công trình của dự án ngọt hóa Nước chỉ mới bắt đầu sau khi các quốc gia nầy được xây dựng, nước mặn vẫn có thể xâm thành viên ký kết một thỏa thuận về phương nhập từ sông Hàm Luông hoặc từ đầu nguồn thức soạn thảo (Agreement on the procedures sông Ba Lai, vì nước mặn đã xâm nhập khỏi governing the maintenance of flows in the hợp lưu của sông Tiền và sông Ba Lai. “Dự án Mekong mainstream) tại Thành phố Hồ Chí ngọt hóa đảo Gò Công (Tiền Giang) được đánh Minh vào ngày 22 tháng 6 năm 2006 (68). Và giá là chương trình có hiệu quả nhất Thế khi chiến lược chung được áp dụng, Việt Nam nhưng, tình trạng thiếu nước sinh hoạt, tái có lẽ sẽ được bảo đảm một lưu lượng tối thiểu nhiễm phèn mặn đang diễn ra trên vùng ngọt nào đó khi sông Mekong chảy vào ÐBSCL, hóa Gò Công” (66). tương tự như lưu lượng tối thiểu của sông Colorado chảy vào Mexico được ghi trong hiệp Ðể đối phó với tình trạng xâm nhập của nước ước mà nước nầy ký kết với Hoa Kỳ năm 1944. mặn ở ÐBSCL càng ngày càng gia tăng, Thế nhưng, vùng đồng bằng sông Colorado PVKSQHTLNB cho biết, ngoài chiến lược chung nằm trong lãnh thổ Mexico càng ngày càng suy trong việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước ở thoái, lý do là vì Mexico đã dùng hầu hết lượng các nước hạ lưu vực sông Mekong, ÐBSCL cần nước nầy để phát triển nông nghiệp. Do đó, thực hiện 5 giải pháp cơ bản là (a) hoàn chỉnh Việt Nam cần cứu xét một cách cẩn trọng bài hệ thống đê bao ngăn mặn ven biển và dọc học sông Colorado của Mexico. theo sông, (b) xây dựng thêm cống ngăn mặn đối với vùng sản xuất nông nghiệp, (c) tăng Ngoại trừ giải pháp bố trí lại thời vụ để giảm khả năng cung cấp nước ngọt cho vùng mặn, nhu cầu nước tưới trong mùa khô, 5 giải pháp 11
  13. căn cơ của PVKSQHTLNB không có khả năng tháng 10 năm 2005 (72). Các cơ quan chức ngăn chận có hiệu quả sự xâm nhập của nước năng ở Việt Nam thì cho rằng tình trạng ô mặn ở ÐBSCL; bởi vì những giải pháp cơ bản nhiễm nguồn nước trong sông Tiền và sông nầy không cứu xét đến yếu tố thủy học căn Hậu là vì (a) vào thời điểm lũ đang rút, nước bản của sự xâm nhập của nước mặn, đó là lưu có phẩm chất kém từ nội đồng đổ ra sông và lượng và thời lượng của nước sông. Nói cách (b) ngư dân ở thượng nguồn thải cá chết ra khác, không có một giải pháp nào được đề sông khiến cho nguồn nước bị nhiễm mầm nghị để duy trì một lưu lượng thích hợp trong bệnh. Nhưng thật ra, nguyên nhân của tình sông Tiền và Hậu để có thể đẩy lùi nước mặn trạng ô nhiễm nguồn nước chính là việc xây ra khỏi cửa sông; hay ít ra, cũng đủ để ngăn dựng và điều hành hệ thống thủy lợi hiện nay không cho nước mặn xâm nhập sâu vào đất ở ÐBSCL. liền. Tệ hại hơn, việc hoàn chỉnh hệ thống đê ngăn mặn ven biển và ven sông, việc xây thêm cống ngăn mặn cho các vùng sản xuất nông nghiệp, và việc hoàn tất các kinh thoát lũ sẽ tạo điều kiện cho việc lấy thêm nước ngọt; do đó, lưu lượng trong sông Tiền và Hậu sẽ càng ít đi và sẽ làm cho nước mặn xâm nhập sâu hơn. Gây ô nhiễm nguồn nước trong sông rạch và nội đồng Người dân vớt cá chết trong sông Tiền (95) Sở dĩ có tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở ÐBSCL, nhất là trong nội đồng, là vì nước bị ứ đọng trong thời gian quá lâu và nhận quá nhiều chất thải. Vào đầu mùa lũ, nước lũ trong sông, qua hệ thống kinh thủy lợi, chảy vào các vùng trũng ở nội đồng rất sớm. Vì bị hệ thống đường giao thông hoặc đê đập cống ngăn mặn ở hạ nguồn ngăn chận, số nước lũ Cá bè trong sông Tiền chết hàng loạt (95) nầy không thể thoát nhanh ra biển; do đó, nó ứ đọng trong các vùng trũng một thời gian dài Vào đầu tháng 1 năm 2006, báo chí trong và chỉ chảy trở lại các sông rạch khi mực nước nước loan tin cá bè trong sông Tiền và sông trong sông rạch xuống thấp hơn mực nước Hậu bị chết hàng loạt (69-71). Theo TS Lý Thị trong nội đồng; và dĩ nhiên, nó mang theo tất Thanh Loan, Giám đốc Trung tâm Quan trắc, cả chất thải và hóa chất mà nó tiếp nhận trong cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thời gian ứ đọng. Ðó là chưa kể đến lượng thủy sản khu vực Nam Bộ thuộc Viện Nghiên nước thải bên trong các vùng có đê bao chung cứu nuôi trồng thủy sản II, cá chết một phần quanh. “Buổi sáng chạy xe một vòng suốt là do điều kiện môi trường bị ô nhiễm; vì kết tuyến đê bao, cảnh tượng ô nhiễm khiến tôi quả khảo sát tại các khu vực có cá bè chết kinh hoàng. Khắp nơi tràn ngập nước thải sinh hàng loạt ở các tỉnh An Giang, Ðồng Tháp, và hoạt, nước thải chăn nuôi bốc mùi nồng nặc. Tiền Giang cho thấy mức độ ô nhiễm cao hơn Những dòng nước thải đen ngòm, hôi hám lờ mọi năm và cao hơn kết quả khảo sát vào đờ chảy vào một con rạch đặc sệt, đầy bọt bèo 12
  14. từ từ hướng về trạm bơm nằm ở một góc khu bao mà sau khi thu hoạch xong lúa hè-thu vào đê bao. Từ đó dòng nước độc hại được dàn tháng 8, đê bị phá vỡ để nước lũ tràn vào máy bơm trút thẳng vào kênh Sa Rài, chảy vào đồng. Thế nhưng, ô nhiễm bên trong đê bao ruột Ðồng Tháp Mười. Ông Út Dũng, người tháng 8 cũng không khác mấy với đê bao triệt vận hành máy bơm, kể rằng hễ trời mưa là để, ngoại trừ toàn bộ hệ thống đê phải được máy bơm phải chạy, trễ chừng một giờ là cả 3 san bằng. Hơn thế nữa, nếu theo khuyến cáo ấp, 32 con đường và hơn 2.000 căn nhà ở thị của 13 nhà khoa học Việt Nam tham gia việc trấn sẽ chìm trong biển nước hôi thối. Ông nghiên cứu, hệ thống đê bao tháng 8 có lẽ Dũng cho biết: ‘Tui sợ nhất là máy bơm bị kẹt không có tính khả thi và không có hiệu quả rác, phải nhảy xuống nước gỡ. Mỗi lần như kinh tế vì chi phí xây dựng và điều hành sẽ rất vậy là tui muốn phát bệnh, da thịt ngứa ngái, cao, vì phải xây rồi phá hàng năm mà chỉ bảo lở lói.’ Tôi tự hỏi, khi bơm dòng nước hôi thối, vệ được một vụ lúa mà thôi. độc hại kia vào kênh Sa Rài suốt 10 năm qua, không hiểu ông có bận tâm chút nào không?” Trong mùa khô, khi hệ thống đê đập ngăn (63). mặn ở hạ nguồn được đóng để ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn vào vùng canh tác, Theo kết quả nghiên cứu của Trường Ðại học thì tình trạng ô nhiễm tương tự như tình trạng An Giang có đề tài “Nghiên cứu tác động đê ô nhiễm bên trong đê bao lại xảy ra và có thể bao đến đời sống kinh tế - xã hội và môi kéo dài nhiều tháng. Sự khác biệt là mức độ trường tại một số khu vực có đê bao ở tỉnh An và ảnh hưởng tai hại của nó vì (a) nồng độ các Giang,” một trong những tai hại nổi bật nhất chất ô nhiễm cao hơn vì nước càng ngày càng của hệ thống đê bao là vấn đề ô nhiễm bên cạn kiệt, (b) nhiệt độ cao khiến cho chất thải trong đê bao. Theo tài liệu của Sở Khoa học hữu cơ phân hủy nhanh hơn và gây hôi thối, và công nghệ môi trường tỉnh An Giang, “ (c) gây bệnh cấp tính cho người sử dụng, nhất ngay từ năm 2001 ở huyện Chợ Mới đã xuất là bệnh ngoài da và tiêu hóa, vì người dân hiện tình trạng ô nhiễm trong đê bao. Chỉ trong vùng không có nguồn nước nào khác riêng chỉ tiêu amoniac đã ô nhiễm cao gấp 10 ngoài nguồn nước ô nhiễm nầy (73-74). Ở lần tiêu chuẩn môi trường. Một số vi sinh, nhiều nơi, tình trạng ô nhiễm có thể nghiêm đạm, phốtpho tổng cũng ngày càng cao. Tình trọng hơn nếu nguồn nước trong hệ thống kinh trạng nầy có thể gây nên hiện tượng phú thủy lợi nhận nước phèn khi chảy qua vùng đất dưỡng, bùng nổ sự phát triển tảo, làm nước bị phèn ở thượng nguồn (48). thối, giảm chất lượng nước sinh hoạt và tác động tiêu cực đời sống thủy sinh, chưa kể sự Người dân ÐBSCL gọi nước có độ acid cao, tức suy thoái chất lượng đất ” (7). có pH thấp, là nước phèn vì nó có vị chua. Acid trong nước phèn là sulphuric acid, được Nghiên cứu của Trường Ðại học An Giang tạo thành khi đất phèn (pyrite (FeS2)) tiếp xúc không đề cập đến những giải pháp để khắc với không khí. Ðây là một hiện tượng tự nhiên phục tình trạng ô nhiễm bên trong đê bao, ở ÐBSCL thường thấy trong những năm hạn nhưng theo ông Dương Văn Nhã, người phụ hán vì đồng bằng nầy có đến 1,6 triệu ha đất trách việc nghiên cứu, thì tất cả 13 nhà khoa phèn, nhất là ở ÐTM và TGLX. Việc xây dựng học trưởng đầu ngành trong lãnh vực thổ hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL, nhất là hệ thống nhưỡng, thủy sản, chăn nuôi, trồng trọt, và kinh và đê bao ở ÐTM và TGLX, đã thúc đẩy kinh tế mà ông tham vấn đều cho rằng hệ hiện tượng xì phèn vì nó hạ thấp mực nước và thống đê bao triệt để có hại nhiều hơn lợi và giúp cho đất phèn tiếp xúc với không khí qua hoàn toàn không ủng hộ. Nhưng họ lại ủng hộ lòng kinh, bờ kinh, bờ và mặt đê, và liếp trồng đê bao tháng 8 ở những vùng sâu trong nội hoa màu (47). Theo dữ kiện của Trung tâm đồng, nơi không thể phát triển được rau màu chất lượng nước và môi trường thuộc hay vườn cây ăn trái (3). Ðây là hệ thống đê PVKSQHTLNB, trong khoảng 1985 đến 1997, 13
  15. pH tại nhiều trạm quan trắc ở vùng ÐTM và Hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL đã góp TGLX có thể xuống dưới 3,0, nhất là vào mùa phần không nhỏ trong việc xâm lấn vào những khô ở hạ nguồn. Nhưng theo tài liệu của Viện vùng sinh thái tự nhiên còn lại và có thể làm khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh cho chúng suy thoái trong tương lai. Sau năm được ấn hành năm 1999, pH có thể xuống đến 1975, chủ trương của Việt Nam là biến tất cả 2,5 trong những năm có lụt nhỏ, và đặc biệt đất đai có thể trồng trọt còn lại ở ÐBSCL thành trong vụ hè-thu 1995, pH của nước trong đồng ruộng lúa trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt ruộng chỉ còn 1,0 (20). chỉ tiêu 20 triệu tấn lúa/năm trong kế hoạch ngủ niên 1975-1980. Chủ trương nầy đã phá Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, nước gia dụng hủy một số lớn vùng sinh thái tự nhiên như phải có pH trong khoảng 6,5 đến 8,5; so với rừng tràm, đồng cỏ ngập nước, vùng trũng, và giấm ăn có pH khoảng 3,0 và nước chanh rừng ngập mặn ở ÐTM, TGLX, và rừng U Minh nguyên chất có pH khoảng 2,4. Nước có pH ở bán đảo Cà Mau. Chỉ trong vòng 20 năm, thấp không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe ruộng lúa ở ÐBSCL đã tăng gần 4 lần, với diện con người, nhưng không thể sử dụng nếu pH tích lên đến 1,1 triệu ha trong năm 1995 (47). quá thấp. Trái lại, nhiều loại cây cối và sinh Một số ít vùng sinh thái tự nhiên còn lại, mặc vật sống trong nước rất nhạy cảm với pH của dù được bảo vệ, đang chịu ảnh hưởng nặng nề nước. Hầu hết rau cải bị ảnh hưởng nếu nước bởi các biện pháp trị thủy, bởi tình trạng ô có pH thấp hơn 6,0. Lúa chỉ thích hợp với nhiễm gia tăng, bởi các hoạt động khai thác nước có pH từ 6,5 đến 7,5. Nghêu sò bắt đầu bất hợp pháp, và bởi nguy cơ cháy rừng, nhất chết khi pH của nước xuống 6,0. Trứng cá là trong mùa khô. Các vùng nầy đang suy không thể nở khi pH của nước đạt 5,0, và sinh thoái nghiêm trọng và có nguy cơ bị xóa sổ vật không thể sống nếu pH của nước thấp hơn trong tương lai. 4,5. Ngoài những ảnh hưởng vừa kể trên, hệ thống kinh thủy lợi ở ÐBSCL còn là những lòng lạch thuận lợi giúp cho tình trạng ô nhiễm lan tràn ra khắp nơi, tương tự như việc lan truyền nước lũ ở thượng nguồn và nước mặn ở hạ nguồn. Thí dụ như nước thải của Nhà máy Ðường Trà Vinh đã gây ô nhiễm cho kinh T9, N10, Mù U và sông Trà Cú (75). Nước thải của Nhà máy Ðường Vị Thanh xả trực tiếp xuống kinh Rạch Gốc gây ô nhiễm cho kinh xáng Xà No (76). Sếu mất đất sống (82) Nguồn nước ô nhiễm trong rạch Ô Môn đã theo hệ thống kinh thủy lợi tràn vào nội đồng Các vườn quốc gia Tràm Chim - Tam Nông ở và gây ô nhiễm một vùng rộng lớn trong tỉnh Ðồng Tháp và Hòn Chông - Kiên Lương ở Kiên Cần Thơ và Hậu Giang (77). Gần đây hơn, Giang là một thí dụ điển hình. Sau khi chiến tuyến kinh Thần Nông của dự án kiểm soát lũ tranh chấm dứt, đây là những vùng sinh thái Bắc Vàm Nao trở thành tuyến kinh tải nước ô tự nhiên mà hằng năm loại sếu đầu đỏ hiếm nhiễm từ đầu nguồn ở huyện Tân Châu về tới quý trên thế giới về tạm trú trong một thời cuối nguồn ở huyện Phú Tân (78). gian. Nhưng số lượng sếu về hai vườn quốc gia nầy càng ngày càng giảm. Ở Kiên Giang, Làm suy thoái trước đây có hàng ngàn con, bây giờ chỉ còn hệ sinh thái tự nhiên còn lại vài trăm. Từ năm 2000, diện tích năn và đất ngập nước bị thay đổi. Những điểm sếu ăn cũng không còn nguyên như trước, có chỗ đào 14
  16. kinh, xẻ rạch, có chỗ giữ nước chống cháy, có Mỗi khi được hỏi, nông dân ÐBSCL cho biết, nơi bị người dân xâm lấn và khai thác (79-80). nhiều loại tôm cá cua trước đây thường thấy Ở Ðồng Tháp còn bi đát hơn, chỉ còn vài chục; trong ruộng lúa hoặc ao hồ ở ÐBSCL nay riêng năm nay, chỉ còn 17 con mà thôi (81). không còn nữa. Hiện tượng nầy có thể do Sở dĩ sếu về ít là vì hệ sinh thái của hai vườn nhiều yếu tố, nhưng hệ thống thủy lợi hiện nay quốc gia nầy đã suy thoái và không còn thích có lẽ là yếu tố quan trọng nhất. Trước hết, hệ hợp với đời sống của sếu (82). thống kinh thủy lợi làm hạ mực nước trong các vùng trũng và có thể làm cho các vùng trũng Ngoài các vùng sinh thái tự nhiên, hệ thống nầy khô cạn. Những vùng trũng nầy chính là thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL cũng có ảnh hưởng nơi cư trú và sinh sản của nhiều loại cá trong tiêu cực đến hệ sinh thái của toàn vùng ÐBSCL mùa khô. Thứ nhì, hệ thống đê ngăn lũ ngăn bao gồm thực vật, sinh vật, môi trường đất và chận cá di chuyển từ vùng trũng trở lại kinh nước. Việc xây dựng và điều hành hệ thống rạch trong mùa nước nổi, nhất là các loại cá kinh thủy lợi trong vùng đất phèn gây hiện trắng. Thứ ba, cá tôm không thể sống trong tượng xì phèn trong đất lẫn nước, khiến cây cỏ nước phèn có pH thấp. Hệ thống đê bao cũng nhạy cảm với độ chua, tức pH, phải nhường ngăn chận sự di chuyển của cá tôm trong mùa chỗ cho cây cỏ chịu chua cao như tràm, năn, nước nổi. Theo kết quả nghiên cứu của Trường hoặc lát. Kết quả là độ đa dạng sinh học bị Ðại học An Giang thì hệ thống đê bao không giảm. Trong những vùng trũng như ÐTM và những ảnh hưởng đến thành phần một số loài TGLX, hệ thống thủy lợi làm cho mực nước cá tôm, đặc biệt, làm mất hẳn một số loại như ngập cao hơn, thời gian ngập kéo dài hơn, tôm càng xanh, cá rô biển, và cá bống tượng, lượng phù sa mang theo lớn hơn là những mà còn làm giảm kích thước của tôm cá đánh nguyên nhân khiến cho hàng nghìn ha tràm bắt được so với thời điểm chưa có đê bao (3). chết hàng loạt. Ở rừng U Minh, hệ thống kinh thủy lợi làm nước khô cạn trong mùa khô gây Một ảnh hưởng tai hại khác của hệ thống thủy nạn cháy rừng, khiến hàng ngàn ha rừng tràm lợi hiện nay ở ÐBSCL là đất đai bên trong đê bị thiêu hủy trong năm 2002. Hệ thống đê bao không còn màu mỡ như trước, mà báo chí đập ngăn mặn có thể xóa sổ cây dừa nước trong nước gọi là “hệ lụy đê bao” (8-11,13). trong những vùng ngọt hóa, vì loại cây nầy cần Theo người dân ở ÐBSCL, đất bạc màu là vì môi trường nước ngọt và nước mặn luân phiên không được bón phù sa do nước lũ mang về. nhau (47). Lục bình cũng là một vấn nạn Nhận xét nầy rất đúng, nhưng có một yếu tố trong kinh rạch không có đủ nước luân lưu, thí khác quan trọng hơn, đó là hiện tượng xì dụ như rạch Bảo Ðịnh ở thị xã Tân An (83) và phèn. Vì đất bên trong đê bao tiếp xúc với đoạn sông Vàm Cỏ Đông từ xã Long Thành không khí lâu hơn nên phèn xì nhiều hơn; do Nam, huyện Hòa Thành đến xã Cẩm Giang, đó, độ pH trong đất càng ngày càng thấp hơn. huyện Gò Dầu (84). Ðộ pH thấp chẳng những làm giảm hoặc ngừng sự tăng trưởng của cây lúa mà còn có ảnh hưởng đến sự hấp thu chất đạm, và đây chính là nguyên nhân khiến cho năng suất lúa trong vùng có đê bao càng ngày càng giảm, mặc dù vẫn bón phân như trước. Theo một nghiên cứu của Khoa Nông nghiệp thuộc Trường Ðại học An Giang, khi đê bao hoàn tất thì; sau 2 năm, năng suất lúa giảm 7,2 tạ/ha trong vụ đông-xuân và 3,2 tạ/ha trong vụ hè- thu; sau 4 năm, năng suất lúa giảm 10,9 tạ/ha trong vụ đông-xuân và 2,4 tạ/ha trong vụ hè- Lục bình trong sông Vàm Cỏ Ðông (84) thu; và sau 6 năm, năng suất lúa giảm 10,9 15
  17. tạ/ha trong vụ đông-xuân và 3,9 tạ/ha trong trường. Theo một nghiên cứu của Trung tâm vụ hè-thu (7). nghiên cứu phát triển ÐBSCL, sự gia tăng chất ô nhiễm phóng thích vào môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái vì nó có thể hủy diệt sinh vật, làm giảm sản phẩm sinh học, làm giảm sức đề kháng bệnh tật, và làm giảm độ đa dạng sinh học. Hơn nữa, hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL cũng là một yếu tố giúp các chất ô nhiễm tồn đọng lâu dài trong môi trường và do đó, gia tăng mức độ ô nhiễm của sinh vật. Ðiều nầy có thể dẫn đến việc tích lũy các chất độc hại (toxins) trong môi trường mà hậu quả là ÐBSCL dần dà sẽ bị nhiễm độc (poisoning) (47). CÁC GIẢI PHÁP THỰC TIỄN Năng suất lúa trong đê bao giảm (10) VÀ CÓ HIỆU QUẢ Một trong những ảnh hưởng tai hại nhất đối Những người có trách nhiệm trong việc quy với môi trường nước là ngăn chận sự luân lưu hoạch và điều hành hệ thống thủy lợi hiện nay của nó, nhất là ở vùng hạ nguồn và ven biển, ở ÐBSCL đã đưa ra nhiều giải pháp để khắc cả bên trong lẫn bên ngoài hệ thống đê đập phục hậu quả của nó. Nhưng dường như ngăn mặn, khiến cho nguồn nước bị ô nhiễm. không có một giải pháp nào có thể khắc phục Thí dụ điển hình là sông Ba Lai ở Bến Tre. được những ảnh hưởng tai hại mà hệ thống Trước khi có cống đập Ba Lai, nước sông có thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL đã gây ra, ngoại trừ thể thông thương dễ dàng ra biển, nên dòng việc thay đổi cấu trúc và phương thức điều nước trong xanh và tràn đầy tôm cá. Từ khi hành của nó. Nói một cách khác, toàn bộ hệ có cống đập Ba Lai, nước không thể luân lưu thống nầy cần phải được xây dựng lại cho phù như trước nên bị ô nhiễm, tôm cá ngày càng ít hợp với cơ chế thủy học tự nhiên, điều kiện địa đi, có nơi không còn (5). hình, đặc tính thổ nhưỡng, và hệ sinh thái đặc thù của ÐBSCL. Tuy nhiên, có một giải pháp Việc điều hành hệ thống đê đập ngăn mặn có thể áp dụng ngay lập tức, đó là ngưng tất cũng có thể làm cho môi trường nước bị xáo cả các công trình hoặc dự án đang hoặc chuẩn trộn và gây ảnh hưởng tai hại. Thí dụ như việc bị thực hiện ở ÐBSCL cho đến khi nào ảnh mở cống đập Ba Lai khiến nước mặn trong hưởng của các công trình hoặc dự án nầy được sông Ba Lai ở hạ nguồn cống bị nước ngọt làm nghiên cứu một cách cẩn thận và đầy đủ. Giải loãng và gây ô nhiễm, khiến không thể làm pháp nầy tuy không thể khắc phục được muối, đánh cá, hoặc nuôi tôm (4). Hiện tượng những ảnh hưởng đã và đang xảy ra, nhưng ít nghêu chết hàng loạt ở bãi nghêu thuộc xã ra, cũng có thể làm cho những ảnh hưởng nầy Bảo Thuận và An Thủy, huyện Ba Tri có lẽ đỡ nghiêm trọng hơn. cũng do việc mở cửa đập Ba Lai để bảo vệ cho đàn tôm bên trong, vì nước ngọt bị ô nhiễm Trước khi xây dựng lại hệ thống thủy lợi thì tràn ra làm thay đổi môi trường nước gần các cần phải duyệt xét lại kế hoạch phát triển tổng bãi nghêu (57). thể vùng ÐBSCL, mà quan trọng nhất là kế hoạch phát triển nông ngư nghiệp. Kế hoạch Sự gia tăng diện tích trồng lúa và dân số trong phát triển nông ngư nghiệp nầy phải là một kế vùng ÐBSCL, do việc xây dựng hệ thống thủy hoạch phát triển đa dạng, trong đó, việc bảo lợi và chánh sách kinh tế mới, làm gia tăng số vệ môi trường và hệ sinh thái tự nhiên của lượng chất ô nhiễm phóng thích vào môi 16
  18. ÐBSCL cần phải được đặc biệt lưu ý và cứu hoặc “Thằng trời hãy đứng một bên, để ông xét. Nói một cách cụ thể, chánh sách biến tất thủy lợi thay trời làm mưa” dùng để quảng bá cả đất đai có thể trồng trọt được thành ruộng “phong trào làm thủy lợi” rầm rộ ở khắp miền lúa từ năm 1975 cần phải thay thế bằng chánh Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có lẽ đã sách phát triển đa dạng và uyển chuyển dựa giải thích một cách cụ thể quan niệm của miền theo điều kiện tự nhiên của ÐBSCL. ÐBSCL Bắc và những người có trách nhiệm trong việc cần phải được phân vùng để chọn lựa những quy hoạch hệ thống thủy lợi hiện nay ở vùng sản xuất tối ưu cho việc trồng lúa, trồng ÐBSCL: ưu tiên cho mục tiêu chính trị, tự cao hoa màu, trồng cây ăn trái và cây công nghiệp, tự đại, và thách thức thiên nhiên. chăn nuôi gia súc, nuôi thủy sản nước ngọt lẫn nước mặn, duy trì hệ sinh thái nội đồng và ven Về nguyên tắc, những người có trách nhiệm biển, và thiết lập những vùng đệm nhằm mục trong việc quy hoạch hệ thống thủy lợi hiện đích bảo vệ môi trường và vùng sinh thái. nay ở ÐBSCL đã áp dụng nguyên tắc “đào Những vùng sản xuất phải được chọn lựa như đấp” để trị thủy được áp dụng ở Ðồng bằng thế nào để tối ưu phúc lợi (benefit sông Hồng (ÐBSH) từ ngàn xưa. Nguyên tắc optimization) trong khi giảm đến mức thấp nầy gần như đã “lỗi thời,”, và quan trọng hơn, nhất những ảnh hưởng đối với các vấn đề nó không thích hợp với ÐBSCL vì vùng đồng đang gặp phải hiện nay; đó là, tình trạng lũ bằng nầy có những điều kiện đặc thù khác hẳn lụt, sạt lở bồi lắng, xâm nhập của nước mặn, ô với ÐBSH. Cũng cần nói thêm ở đây là danh nhiễm môi trường, và suy thoái hệ sinh thái. từ “thủy lợi” phổ biến hiện nay ở Việt Nam Chỉ khi nào kế hoạch phát triển nông ngư đồng nghĩa với danh từ “thủy nông,” tức dẫn nghiệp được hoàn tất, hệ thống thủy lợi mới thủy nhập điền (irrigation) ở miền Nam trước được quy hoạch vì nó là một trong những hạ năm 1975, còn danh từ “thủy lợi” (water tầng cơ sở quan trọng làm nền tảng cho kế resources) bao gồm tất cả ngành chuyên môn hoạch phát triển nông ngư nghiệp nói riêng và có liên quan đến nước như thủy nông, thủy kế hoạch phát triển tổng thể vùng ÐBSCL nói điện, cấp thoát thủy, thủy vận, chung. Hệ thống thủy lợi mới ở ÐBSCL phải được quy Vì kế hoạch phát triển nông ngư nghiệp đã hoạch cho phù hợp với kế hoạch phát triển mới thay đổi, cho nên, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL với mục tiêu hàng đầu là mang lại phúc lợi tối cũng phải được quy hoạch lại cho phù hợp với đa cho người dân trong vùng; bao gồm phúc kế hoạch phát triển mới. Nói cách khác, lợi kinh tế, xã hội, và môi trường sống. Phúc ÐBSCL cần phải có một hệ thống thủy lợi hoàn lợi nầy phải là phúc lợi nhuận (net benefits) toàn mới, được quy hoạch dựa theo quan niệm sau khi đã tính toán tất cả chi phí, kể cả chi và nguyên tắc hoàn toàn khác với quan niệm phí dùng để bảo vệ môi trường, giảm thiểu hay và nguyên tắc được áp dụng cho hệ thống tẩy xóa ô nhiễm do hậu quả không thể tránh thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL. Những công trình được trong việc phát triển. và dự án nào của hệ thống thủy lợi hiện nay không phù hợp với kế hoạch phát triển mới, Những người có trách nhiệm trong việc quy không có hiệu năng, hoặc gây ảnh hưởng tai hoạch, từ trung ương đến địa phương, cần có hại phải được tháo gỡ hoặc hủy bỏ. một thái độ khiêm nhường và một nhận thức khách quan, khoa học, và phi chánh trị để có Quan niệm được dùng để quy hoạch hệ thống thể hình thành một đội ngũ chuyên viên có đủ thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL có lẽ đã được áp khả năng và kinh nghiệm trong công việc quy dụng ở khắp miền Bắc sau năm 1954 và toàn hoạch. Nếu phải nhờ đến chuyên viên quốc miền Nam sau năm 1975. Những khẩu hiệu tế, nên lắng nghe ý kiến và đề nghị của họ, rất phổ biến, như “Nghiêng đồng đổ nước” thay vì “bảo họ làm theo ý mình;” và nhất là hoặc “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” 17
  19. cần phải có chuyên viên có đủ trình độ để theo chứa nước như vậy hoàn toàn khả thi, vì lưu dõi và giám sát công việc của họ. lượng trong mùa lũ của lưu vực sông Sesan tại đập Yali thay đổi từ 4.400 đến 7.000 m3/sec, Quan trọng hơn hết, những người có trách tức khoảng từ 10 đến 18 % lưu lượng lũ trung nhiệm trong việc quy hoạch hệ thống thủy lợi bình của sông Mekong tại Kratie, Kampuchia mới ở ÐBSCL cần phải nhận thức rằng “sức (khoảng 40.000 m3/sec). Ðây là một con số người có hạn” và rằng “con người rất nhỏ bé đáng kể, và trên thực tế, nó đã tác động lên so với thiên nhiên.” Do đó, hệ thống thủy lợi tình hình lũ lụt ở ÐBSCL qua việc xả lũ vào mới ở ÐBSCL cần phải được quy hoạch dựa tháng 8 năm 2005. theo thiên nhiên chứ không thể thách thức thiên nhiên theo kiểu “với sức người, sỏi đá Về sự xâm nhập của nước mặn, thay vì xây đê cũng thành cơm.” Thật ra, đây không phải là biển và đê đập ngăn mặn ven sông để “ngăn một quan niệm mới mẻ mà là một kinh nghiệm chận” nước mặn như hiện nay, hệ thống thủy quý giá lâu đời của người xưa qua câu nói: lợi ở ÐBSCL trong tương lai sẽ “hạn chế” “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong,” (control) sự xâm nhập của nước mặn bằng có nghĩa là “hợp với thiên nhiên thì sống, trái những biện pháp như duy trì lưu lượng và thời với thiên nhiên thì chết.” lượng của nước ngọt trong sông Tiền và sông Hậu trong mùa khô và phát triển vùng ngập Nguyên tắc thích hợp nhất cho ÐBSCL là giảm mặn ven biển và ven sông để phân tán thủy thiểu sự can thiệp của con người càng nhiều triều. Cách tốt nhất và đơn giản nhất để duy càng tốt với mục tiêu “điều thủy” chứ không trì lưu lượng trong sông Tiền và sông Hậu là phải là “trị thủy.” Số lượng công trình thủy lợi giảm thiểu số nước đưa vào hệ thống kinh ở ÐBSCL cần được giảm thiểu đến mức thấp thủy lợi trong mùa khô. Ngoài ra, lưu lượng tự nhất, nhất là những công trình “đào đấp,” nhiên trong sông có thể được gia tăng nếu nhà nhưng cần phải có những hồ chứa nước ở máy thủy điện Yali hiện nay và các nhà máy những vùng trũng sâu hay ở ngoài đồng bằng thủy điện tương lai trong lưu vực sông Sesan ở để điều tiết lưu lượng trong sông Tiền và Hậu Việt Nam được điều hành một cách thích hợp trong mùa nắng lẫn mùa mưa. Nguyên tắc cho mục đích nầy. Dĩ nhiên, Việt Nam cần điều thủy trong tương lai chánh yếu nên dựa phải thỏa thuận với Kampuchia để lưu lượng từ trên những biện pháp “phi công trình” và phù các nhà máy thủy điện nầy có thể chảy vào hợp với cơ chế thủy học tự nhiên. Nếu cần ÐBSCL của Việt Nam. phải xây dựng công trình thủy lợi, ảnh hưởng của nó đối với tình trạng thủy học, môi trường, THAY LỜI KẾT và hệ sinh thái và cần phải được nghiên cứu cẩn thận và đầy đủ trước khi thực hiện. Ðiển Không một ai có thể phủ nhận những lợi ích hình và quan trọng nhất ở ÐBSCL là lũ lụt và mà hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL đã sự xâm nhập của nước mặn. mang lại trong thời gian qua, nhất là trong thập niên 1990, giúp Việt Nam trở thành quốc Về lũ lụt, thay vì đào kinh thoát lũ và xây đê gia xuất cảng lúa gạo đứng hàng thứ hai trên ngăn lũ như hiện nay, hệ thống thủy lợi trong thế giới sau Thái Lan. Nhưng cũng không một tương lai sẽ được quy hoạch và điều hành như ai có thể làm ngơ hay chối bỏ những ảnh thế nào để nước lũ có thể chảy tràn đều khắp hưởng tai hại càng ngày càng nghiêm trọng, trong vùng lụt, nói cách khác, duy trì “mùa mà trong tương lai gần đây, chúng có thể xóa nước nổi” hàng năm cho ÐBSCL. Muốn thực tan những lợi ích để thay thế bằng những trở hiện việc điều hòa lưu lượng, cần phải có hồ ngại khó vượt qua, nếu không muốn nói là chứa nước ở ngoài vùng đồng bằng chẳng hạn gánh nặng (burden), trong việc phát triển khả như ở vùng cao nguyên miền Trung. Về mặt chấp (sustainable development) vùng đồng thủy học, việc xây dựng và điều hành một hồ bằng trù phú nhất của đất nước. 18
  20. các công trình giao thông trong vùng ” (3). Theo phân tích của ông Nguyễn Chấp Kinh, Phó chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi Ðồng Tháp, thì “Việc xả lũ mang lại phù sa bồi bổ đất, rửa trôi phèn, tiêu diệt mầm bệnh, cỏ dại, rửa sạch độc chất hóa học tồn lưu trong đất và tạo điều kiện cho nguồn lợi thủy sản tự nhiên sinh sôi, phát triển. Trong khi đê bao khép kín chỉ bòn rút độ phì nhiêu của đất đai, dư lượng hóa chất không được rửa sạch.” Còn theo nhận xét của ông Nguyễn Thiện Pháp, Chi cục Giải phóng đập Thầy Ký ở Cà Mau (85) trưởng Chi cục Thủy lợi Tiền Giang, thì “Cù lao Chợ Mới của An Giang sau 5 năm bỏ hàng Ở nhiều nơi, người dân tự tay “giải phóng” các chục tỉ xây đê bao khép kín, ‘cấm vận’ mùa “công trình thủy hại” vì chúng gây ảnh hưởng nước nổi để làm lúa quanh năm, trồng màu, trực tiếp đến cuộc sống của họ. “Chúng tôi lập vườn nay đất đai đã nhiễm độc trầm biết phá đập [Thầy Ký (Ký Thuật), ấp Gành trọng, gần như vô phương cứu chữa. Còn tại Hào, xã Tạ An Khương Ðông, huyện Ðầm Dơi, Tiền Giang, do đê bao mà năm nào tỉnh nầy Cà Mau] là sai. Nhưng không thể chịu đói mà cũng phải bỏ ra từ 300 triệu đến 500 trăm chờ đợi chính quyền hứa suông. Ðang nuôi triệu đồng để mua hóa chất xử lý ô nhiễm môi tôm có ăn, đời sống khá giả. Chính quyền đổ trường nước” (11). tiền tỉ đắp đập ngăn nguồn nước, ô nhiễm môi trường, tôm chết. Chúng tôi phá đập vì cuộc sống chớ không phải là kẻ phá hoại” (85). Ở xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung, Sóc Trăng, người dân đã ngăn cản dự án “khóa miệng kênh” để làm đường của chánh quyền xã vì “Nếu như xã chịu bắt cầu phá đập, mở rộng lòng kênh thì ghe từ Vàm Hồ chạy tắt vào đây rất gần và không bị mắc cạn. Nài nỉ thế nào xã cũng không đồng ý nên hiện nay trong khu vực tổ 5 giống như đang bị cô lập vì dòng kênh đã bị khóa lại” (86). Những ảnh hưởng tai hại cũng đã được nhiều cơ quan chức năng địa phương ghi nhận và phân tích. Thạc sĩ Lê Phát Quới, Trưởng phòng quản lý khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Long An, cho rằng “ do có quá nhiều khu vực ngăn chận không cho lũ tràn vào nên một lượng nước lớn từ sông Tiền đổ vào Ðồng Tháp Mười sẽ đi theo hệ thống kênh tiến nhanh vào vùng trung tâm như Tân Hưng, Vĩnh Hưng và Tháp Mười, làm cho các khu vực nầy ngập sớm hơn Và điều đáng lo ngại hơn là thế cân bằng nước bị phá vỡ làm cho mức “Cấp nước bền vững vùng ngọt hóa (?)” (96) nước ngập ngày càng cao và thoát chậm, đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với 19
  21. Nhiều nhà khoa học và chuyên viên ở các viện phải đối mặt với nguy cơ vỡ đê khi lũ lớn. và trường đại học, nhất là các trường đại học ở Ðiều cần bàn hơn hiện nay là điều kiện tự ÐBSCL, cũng rất quan tâm đến những tai hại nhiên vốn rất tốt của đồng bằng sông Cửu của hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL và đã Long đã và đang bị bàn tay qui hoạch không lên tiếng báo động. GS-TS Võ Tòng Xuân, hợp lý của con người làm cho méo mó. Con Hiệu trưởng trường Ðại học An Giang, cho sông vốn hiền lành đang dần trở nên hung dữ rằng: “Quan điểm phát triển bền vững là vì bị đê bao ngăn chận ” (13). Gần đây, không nên phát triển đại trà lúa vụ ba ở trong buổi hội thảo về dự án thủy lợi Ô Môn – ÐBSCL. Hãy cho đất nghỉ, đưa lũ tràn vào để Xà No do Bộ NNPTNT tổ chức ở Cần Thơ, hầu lấy phù sa, diệt trừ sâu bệnh. Nông dân còn hết các nhà khoa học đều cho rằng “ việc có nguồn lợi tự nhiên để khai thác, đa dạng thực hiện dự án Ô Môn – Xà No là áp đặt và loại hình kinh tế, tăng thu nhập” (8). Theo không phù hợp với ÐBSCL ” và đề nghị ngừng ông Dương Văn Nhã thuộc trường Ðại học An dự án nầy vì “ nhiều dự án trước đó như: Giang, qua việc nghiên cứu tác động đê bao ngọt hóa Ba Lai, Nam Măng Thít, bán đảo Cà đến đời sống kinh tế - xã hội và môi trường tại Mau đang khiến người dân lao đao, khổ sở” một số khu vực có đê bao ở tỉnh An Giang, “ (87). những người được tham vấn đều cho rằng hiện việc bao đê chưa ảnh hưởng lớn, nhưng Những ảnh hưởng tai hại vừa nêu dường như lưu tốc dòng chảy trên sông mạnh hơn và là chưa “đủ sức” để thuyết phục những người có một trong những nguyên nhân quan trọng gây trách nhiệm trong việc quy hoạch hệ thống sạt lở vùng ven sông. Các nhà khoa học đặc thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL. TS Nguyễn Ân biệt nhấn mạnh nếu bao đê hết khu vực Niên, Viện trưởng Viện quy hoạch sử dụng ÐBSCL thì khu vực này sẽ trở thành một ‘Hà nước và tài nguyên thiên nhiên, một trong Lan 2’, nằm dưới mực nước biển” (3). những “kiến trúc sư” của hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL, cho rằng “ Bờ bao, đê bao Còn TS Nguyễn Hữu Chiếm, Trưởng Khoa chống lũ là con đường phát triển ÐBSCL, nếu Quản lý môi trường và Tài nguyên thiên nhiên không thì dân cư trong vùng tiếp tục lặn hụp của trường Ðại học Cần Thơ, thì “ đê bao triệt trong lũ ” Ông cũng khẳng định rằng “ các để trong nhiều năm qua đã làm thay đổi môi công trình dự án kiểm soát lũ Ô Môn – Xà No, trường tự nhiên của các hệ sinh thái đặc trưng ngọt hóa Gò Công sẽ mang lại hiệu quả tuyệt của vùng Ðồng Tháp Mười và tứ giác Long vời” (88). TS Nguyễn Ân Niên cũng chính là Xuyên. Trong và ngoài đê bao không có sự người chủ trương nâng cao trình của đập Trà trao đổi nước nên cặn bã, độc chất trong quá Sư từ cao độ +3,80 m lên cao độ +4,20-4,50 trình sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của m, nâng cao trình cho QL 91, gia cố bờ bao, và con người bị lắng đọng, tồn lưu trong đất, gây tôn nền nhà theo mức đỉnh lũ mới sau trận lụt nhiễm độc đất. Mặc khác, đê bao làm khô kiệt lịch sử năm 2000 ở ÐBSCL (17). GS-TS Tô nước, tạo điều kiện cho lớp phèn tiềm tàng có Văn Trường, Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy cơ hội hoạt động mạnh, làm đất mất dần độ lợi miền Nam (hậu thân của PVKSQHTLNB), màu mỡ” (10). Ông Nguyễn Viết Thịnh, nguyên là một thành viên của ÐQHCL, cho biết trường Ðại học Tiền Giang, cho biết, 140 năm “Chính phủ đã phê duyệt, trong giai đoạn trước, nhà cải cách kiệt xuất Nguyễn Trường 2006-2010 tổng số vốn đầu tư cho các công Tộ đã chọn những đặc tính thủy học tự nhiên trình thủy lợi khu vực ÐBSCL là 6.940 tỉ đồng của sông Cửu Long để làm cơ sở đề xuất giải [khoảng 430 triệu Mỹ Kim] để thực hiện các pháp trị thủy sông Hồng, nhưng rất tiếc, công trình bờ bao, hoàn thiện cơ sở hạ tầng những đề nghị của Ông đã không được thực trong cụm, tuyến dân cư, phát triển sản xuất, hiện; do đó, “ ngày nay, vấn đề trị thủy sông tạo việc làm. Giai đoạn 2010 và định hướng Hồng vẫn chủ yếu là đê bao quai vạc, không đến năm 2020 sẽ tiếp tục đầu tư thêm khoảng khác nhiều so với hàng ngàn năm trước, vẫn 14.706 tỉ đồng [khoảng 920 triệu Mỹ Kim] để 20
  22. tiếp tục hoàn thành các dự án của giai đoạn trước, trong đó đáng chú ý là 6 dự án kiểm Một số giải pháp thực tiễn và hiệu quả có thể khắc phục hoặc hạn soát lũ khu vực Vàm chế ảnh hưởng tai hại của hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL: Nao, Chợ Mới, Bắc Lấp Vò, Cái Sắn - Thốt Nốt, * Ngưng các công trình hoặc dự án đang hoặc sẽ xây dựng để Thốt Nốt – Ô Môn cùng nghiên cứu lại ảnh hưởng của chúng. một số công trình phục * Ðiều chỉnh Kế hoạch Tổng thể Phát triển ÐBSCL (KHTT) theo vụ sản xuất ven biển.” hướng đa dạng và chú trọng đến việc bảo vệ môi trường và Ông Trường cũng khẳng hệ sinh thái. định là “ khi hoàn * Nghiên cứu và điều chỉnh toàn bộ hệ thống thủy lợi hiện nay chỉnh thì những công cho phù hợp với KHTT, cơ chế thủy học tự nhiên, điều kiện trình này sẽ mang lại địa hình, đặc tính thổ nhưỡng, và hệ sinh thái đặc thù của hiệu quả to lớn, làm ÐBSCL. Công trình hiện hữu nào không có hiệu năng hoặc thay đổi diện mạo cả tai hại phải được tháo gỡ. vùng” (88). TS Tô Văn * Thay thế quan niệm quy hoạch “ưu tiên cho chính trị, tự cao Trường cũng chính là tự đại, thách thức thiên nhiên” bằng quan niệm “phi chính trị, người đề nghị “ xây khoa học , khách quan, khiêm nhường, và hợp với thiên nhiên.” cống điều tiết tại cửa * Thay thế nguyên tắc “trị thủy” với công trình đào đấp bằng sông Mekong [?!] để dự nguyên tắc “điều thủy” chú trọng đến các biện pháp phi công trữ nước ngọt trên sông trình. vào mùa khô, hạn chế * Duy trì “mùa nước nổi” và bảo tồn rừng ngập mặn ở các cửa tình trạng nước mặn sông và bán đảo Cà Mau, đặc biệt là rừng U Minh. xâm nhập sâu vào nội đồng, đồng thời xây tận xã Lương Phi của huyện Tri Tôn – An dựng bờ bao, đê bao ở những vùng ngập thấp Giang, điều trước nay chưa từng xảy ra” (63). để xây dựng hạ tầng kỹ thuật” (89). Và vào cuối tháng 8 năm 2006, lần đầu tiên trong lịch sử hạ lưu vực sông Mekong, mực Những hiệu quả “tuyệt vời” và “to lớn” của hệ nước tại hai trạm Tân Châu và Châu Ðốc ở thống thủy lợi ở ÐBSCL mà TS Nguyễn Ân Niên ÐBSCL đã vượt mức báo động do Ủy hội sông và TS Tô Văn Trường mô tả có vẻ còn quá xa Mekong ấn định, trong khi mực nước ở tất cả vời; vì theo TS Trường, thì mãi đến năm 2020 các trạm quan trắc thượng nguồn chưa vượt các công trình mới hoàn chỉnh xong (88). Còn quá mức báo động của chúng. tín hiệu của những hậu quả “tai hại” của nó thì dường như đã trở thành “điệp khúc” càng ngày Như thế, người dân ở ÐBSCL, nếu không càng nhiều, càng rõ nét, và càng dồn dập. làm gì khác hơn, sẽ “tiếp tục lặn hụp” Lần đầu tiên trong lịch sử ÐBSCL, sếu đầu đỏ (“cụm từ” của TS Nguyễn Ân Niên) trong phải “nhốn nháo” bay đến tận Trà Ôn, Vĩnh nước lũ vào mùa nước nổi, sẽ “tiếp tục Long (90) vì nơi cư trú trước đây của chúng ở lặn hụp” trong nước mặn vào mùa khô, Kiên Giang và Ðồng Tháp đã bị giành mất! và sẽ “tiếp tục lặn hụp” trong ao tù ô (82). Lần đầu tiên trong lịch sử ÐBSCL, vào nhiễm của đê bao quanh năm suốt tháng. “đầu mùa lũ năm ngoái, các nhà khoa học đã Nguyện cầu ơn trên và tiền nhân gia hộ phát hiện thấy cá linh, một loài thủy sản quý cho họ được “sống còn” (survived) để họ đã theo nước ngọt về tận Kiên Giang ” (91). được nhìn thấy những hiệu quả “tuyệt vời Lần đầu tiên trong lịch sử ÐBSCL, “mấy năm và to lớn” của hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL gần đây, vào mùa khô hạn nước mặn theo các vào năm 2020 (?!). tuyến kênh thoát lũ ra biển Tây tràn vào đến 21
  23. “Từ hàng trăm năm nay, đồng bằng sông Cửu Long vẫn thường có lũ mỗi năm, tùy theo nhiều ít. Bằng chừng ấy thời gian, ông cha ta cũng đã có biết bao kinh nghiệm ứng phó với lũ. Nếu ngăn đê bao mà có lợi thì họ đã làm rồi chứ đâu phải đến bây giờ để cho chúng ta phải làm Có lẽ các cấp lãnh đạo nên suy nghĩ cho thấu đáo, mấy mươi năm nay cứ để lũ lụt ám ảnh hoài. Trước giải phóng [tháng 4 năm 1975] không ai nói về lũ lụt ở miền Tây, tôi chỉ nghe nói mùa nước nổi ở miền Tây, mà lại có vẻ thi vị và nhiều lợi ích hơn ” Hoàng Dương Tuổi Trẻ, ngày 18 tháng 10 năm 2005 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Lê Bình – Như Trường. “Hệ thống thủy lợi ÐBSCL. Bài 1: Bất cập trong ‘sống chung với lũ’.” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 8 tháng 11 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 2) Lê Bình – Như Trường. “Hệ thống thủy lợi ÐBSCL. Bài 2: Bài toán chưa có lời giải!” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 9 tháng 11 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 3) Quốc Thanh. “Bao đê ngăn lũ: Ðồng bằng sông Cửu Long sẽ nằm dưới mực nước biển?” Báo Tuổi Trẻ, ngày 11 tháng 10 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 4) Dương Thế Hùng – Lư Thế Nhã. “Tiếng kêu từ dự án.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 21 tháng 2 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 5) Hoàng Dương. “Nghiên cứu kỹ để đưa ra giải pháp phù hợp.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 18 tháng 10 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 6) Lê Như Giang. “Phát triển vùng Ðồng bằng sông Cửu Long: Cần một tầm nhìn chiến lược.” Báo Lao Ðộng, ngày 24 tháng 11 năm 2004. Hà Nội, Việt Nam. 7) Quốc Việt. “Lũ ở đồng bằng sông Cửu Long – Khi nông dân đòi lũ.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 15 tháng 10 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 8) TTCN. “Lũ ở Ðồng bằng sông Cửu Long – Ðề phòng tác hại lâu dài của đê bao.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 15 tháng 10 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 9) Hùng Anh. “Ði qua vùng nước nổi - Nỗi niềm đê bao.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 8 tháng 8 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 10) Hùng Anh. “Ði qua vùng nước nổi - Ðất ‘hết xí quách’, sâu bệnh hoành hành.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 10 tháng 8 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 11) Hùng Anh. “Hệ lụy đê bao.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 23 tháng 10 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 12) Nguyễn Minh Quang. “Vài nhận xét về ‘Công tác thủy lợi và trận lụt 1978 ở đồng bằng sông Cửu Long’.” Tạp chí Ði Tới, số 24 Bộ mới, tháng 8 năm 1999. Montreal, Canada. 13) Nguyễn Viết Thịnh (ÐH Tiền Giang). “Cần xem lại những đê bao ở ÐBSCL.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 22 tháng 10 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 22
  24. 14) NEDECO in association with Rhein-Ruhr Ingenieor-Gesellschaft. September 1991. Mekong Delta Master Plan (VIE/87/03), Working Paper No. 3 – Irrigation, Drainage and Flood Control. 15) Nguyễn Minh Quang. “Nhận xét về trận lũ lụt 2000 ở đồng bằng sông Cửu Long.” Ðặc san 2002 – Quan Ðiểm về việc Phát triển Việt Nam. Tháng 1 năm 2003. Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Brea, California. 16) Phân viện Khảo sát Quy hoạch Thủy lợi Nam bộ. 1999. Ðề tài: Nghiên cứu Khoa học cấp Nhà nước, Xây dựng Cơ sở Dữ liệu Thống nhất cho Mô hình toán Tính lũ lụt Ðồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo Tổng kết đề tài. Thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam. 17) Quang Trưởng. “Qua đợt lũ lịch sử năm 2000, các công trình thoát lũ phát huy tác dụng ra sao?” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 1 tháng 10 năm 2000. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 18) Báo Nhân Dân. “Cả nước chia sẻ khó khăn cùng đồng bào vùng lũ.” Báo Nhân Dân, ngày 4 tháng 10 năm 2000. Hà Nội, Việt Nam. 19) Sub-Institute of Water Resources Planning and Vietnam National Mekong Committee. November 2003. Report – Analysis of Sub-Area 10-V, Basin Development Plan. Ho Chi Minh City, Vietnam. 20) Nguyễn Quới và Phan Văn Ðốp. 1999. Ðồng Tháp Mười Nghiên cứu Phát triển. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, Việt Nam. 21) Quang M. Nguyen. November 2000. “Mekong Delta Floods in the Past and Present.” www.mekonginfo.org. 22) Nguyen, Thi Dieu. 1999. The Mekong River and the Struggle for Indochina – Water, War, and Peace. Praecer. Westport, Connecticut. 23) N. Công Thành. “Lũ ÐBSCL: 49 người chết, di dời 3.513 hộ dân.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 11 tháng 10 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 24) Jane Perlet. “China growth threatens the Mekong.” The New York Times, March 21, 2005. New York, New York. 25) Reuters. June 30, 2004. “China's dams put Mekong on knife's edge, says researcher.” 26) Pianporn Deetes. “Lancang Development in China: Downstream Perspectives from Thailand.” Southeast Asia Rivers Network. 27) Asia Times Online. 2002. “River of Controversy.” 28) Minh Sơn. “Tất cả nước của sông Mekong đã đi đâu? VietNamNet, ngày 24 tháng 3 năm 2004. 29) Trùng Quang. “Các nhà hoạt động môi trường Ðông Nam Á – Trung Quốc phải chịu trách nhiệm với sông Mekong.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 24 tháng 3 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 30) Minh Sơn. “SOS, dòng Mekong tiếp tục lâm nguy!? VietNamNet, ngày 28 tháng 6 năm 2004. 31) Quang M. Nguyen, P.E. June 28, 2003. “Hydrologic Impacts of China’s Upper Mekong Dams on the Lower Mekong River.” 32) Sesan Protection Network. September 1, 2005. “Heavy water release from Vietnam’s Yali Falls dam floods communities in northeastern Cambodia.” 33) Minh Trường. “Ðồng bằng sông Cửu Long – Lũ đang lên nhanh” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 8 tháng 8 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 34) NetNam – Theo Gia đình & Xã hội. “Ðồng bằng Cửu Long - Sạt lở không theo quy luật nào.” NetNam, ngày 15 tháng 9 năm 2005. 23
  25. 35) Lê Như Giang - Lục Tùng. “Sạt lở diễn biến phức tạp ở Đồng bằng sông Cửu Long: Hàng nghìn hộ dân sống trên ‘miệng thuỷ thần’.” Báo Lao Ðộng, ngày 9 tháng 8 năm 2005. Hà Nội, Việt Nam. 36) A. Vũ. “Đồng Tháp: Hơn 2.000 hộ dân phải di dời khỏi các khu vực sạt lở ven sông Tiền, sông Hậu.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 27 tháng 10 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 37) Hồng Lĩnh. “An Giang: sạt lở nhấn chìm 16 căn nhà.” Báo Tiền Phong, ngày 2 tháng 12 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 38) S. Ðông. “Vĩnh Long: Mỗi năm sạt lở từ 22-25 ha đất.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 8 tháng 7 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 39) C.H.P. “Cần Thơ: Sạt lở làm sụp 30 m đường nhựa.” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 19 tháng 5 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 40) Nhật Tân. “Bạc Liêu đối mặt với nguy cơ lở đất.” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 16 tháng 8 năm 2004. Thành phố Hồ ChíMinh, Việt Nam. 41) Hồ Văn – Như Ý. “Thủy thần ‘liếm’ nhà dân.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 24 tháng 3 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 42) Lư Thế Nhã. “Bờ sông kêu cứu.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 28 tháng 8 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, ViệtNam. 43) Hồng Lĩnh – Sáu Nghệ. “ÐBSCL: Thủy thần đang khoét đôi bờ.” Báo Tiền Phong, ngày 28 tháng 7 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 44) H.T. Dũng - Ð. Vịnh - T. Thái. “Sống bên miệng thủy thần.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 18 tháng 8 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 45) Huỳnh Lợi - Nguyễn Phương. “Ðồng bằng sông Cửu Long - Chạy lở!” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 30 tháng 8 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 46) Nguyễn Hồng Giang. “Không thể bỏ qua yếu tố ‘nhân tai’.” Báo Lao Ðộng, ngày 9 tháng 8 năm 2005. Hà Nội, Việt Nam. 47) Takehiko ‘Riko’ Hashimoto. June 2001. Environmental Issues and Recent Infrastructure Development in the Mekong Delta: review, analysis and recommendations with particular reference to large-scale water control projects and the development of coastal areas. Working Paper Series – Working Paper No. 4. Autralian Mekong Resource Centre, University of Sydney. Sydney, Australia. 48) Ðức Vịnh - Nguyễn Văn. “Ðồng bằng sông Cửu Long: đồng khô, lúa cháy!” Báo Tuổi Trẻ, ngày 22 tháng 3 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 49) Bích Liên. “Thêm một con rồng ở đất chín rồng.” Báo Lao Ðộng, ngày 11 tháng 7 năm 2005. Hà Nội, Việt Nam. 50) Linsley, Ray K. Jr., M.A. Kohler, and J.L.H. Paulhus. 1975. Hydrology for Engineers. Second Edition. McGraw-Hill, New York. 51) Linsley, Ray and Josepth B. Franzini. 1979. Water-Resources Engineering. Third Edition. McGraw-Hill, New York. 52) Nguyễn Thị Kỳ. “Hiệu quả của Cống đập Ba Lai.” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 3 tháng 3 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 53) Cửu Long. “Con tôm sú phá vỡ quy hoạch?” VietNamNet, ngày 11 tháng 3 năm 2004. 54) VN Express. “Dân vùng hạ Ba Lai lao đao vì thừa nước ngọt.” VN Express, ngày 22 tháng 4 năm 2003. 55) Phan Lữ Hoàng Hà. “Bến Tre trước việc mặn xâm nhập kéo dài - Tự cứu!” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 10 tháng 5 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 24
  26. 56) Mai Minh. “ÐBSCL: Vùng trữ nước ngọt lớn nhất đã bị nhiễm mặn.” Báo Thanh Niên, ngày 11 tháng 4 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 57) Huỳnh Phước Lợi. “Ðồng bằng sông Cửu Long - Bất lực nhìn nghêu chết!” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 14 tháng 5 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 58) Lâm Ðiền. “Chống sạt lở thế nào?” Báo Lao Ðộng, ngày 9 tháng 8 năm 2005. Hà Nội, Việt Nam. 59) D.T.H. “Ðồng Tháp: Sụt bờ kè, sập nhà dân.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 15 tháng 2 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 60) Hoàng Khương. “Sạt lở công trình kè bảo vệ cảng Năm Căn: Khởi tố vụ án.” BáoTuổi Trẻ, ngày 20 tháng 7 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 61) Quang M. Nguyen. June 1999. “An Overview of Saltwater Intrusion in the Mekong River.” 62) Vi Van Vi and Pham Thi Dieu. December 1984. “Salinity Instrusion Studies in the Mekong Delta Over (1935-1982) Period by Statistical Method.” Workshop Concluding Phase 1, Studies of Salinity Instrusion in the Mekong Delta. Ho Chi Minh City, Viet Nam. 63) Hùng Anh. “Ði qua vùng nước nổi - Nỗi niềm đê bao chống lũ.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 8 tháng 8 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 64) Ðông Anh. “Các tỉnh Ðồng bằng sông Cửu Long: báo động mặn xâm nhập tràn lan “ Báo Lao Ðộng, ngày 20 tháng 5 năm 2005. Hà Nội, Việt nam. 65) Q. Anh – Th. Xuân. “ÐBSCL: xâm nhập mặn cao nhất trong 20 năm qua.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 29 tháng 4 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 66) Anh Vũ. “Nghịch lý ở vùng ngọt hóa Gò Công.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 29 tháng 5 năm 2002. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 67) Cao Phong. “Ðồng bằng sông Cửu Long: 5 giải pháp để chống hạn, kiểm soát nước mặn.” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 4 tháng 5 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 68) Mekong River Commission. June 22, 2006. “MRC countries agree on procedures for Mekong flows.” Press Release MRC No. 07/06. Ho Chi Minh City, Viet Nam. 69) Huỳnh Lợi – Cao Phong. “Ðồng bằng sông Cửu Long – Cá chết hàng loạt vì sao?” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 4 tháng 1 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 70) Phan Anh. “Ngành thủy sản lo ô nhiễm vì cá chết.” VN Express, ngày 6 tháng 1 năm 2006. 71) Hồng Lĩnh. “Nghiên cứu vụ cá bè chết hàng loạt ở ÐBSCL.” Báo Tiền Phong, ngày 6 tháng 1 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 72) Trần Ðức – Vân Trường. “Vụ cá bè chết hàng loạt: Môi trường ô nhiễm cao hơn mọi năm!” Báo Tuổi Trẻ, ngày 10 tháng 1 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 73) Theo Tuổi Trẻ. “Vùng đất ngọt đang bị ‘sa mạc’ hóa.” VN Express, ngày 21 tháng 1 năm 2005. 74) H.T. Dũng – L.T. Nhã – Ng. Vân. “Khi nước mặn tràn vào ” Báo Tuổi Trẻ, ngày 11 tháng 3 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 75) NLÐ. “Nhà máy Ðường Trà Vinh gây ô nhiễm.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 18 tháng 11 năm 2003. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 76) Phương Nguyên. “Vị Thanh, Hậu Giang: Khổ vì chất thải của nhà máy đường.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 20 tháng 12 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 77) Theo TT. “Cần Thơ, Hậu Giang: Cá nuôi, cá đồng nổi trắng sông.” Báo Lao Ðộng, ngày 15 tháng 6 năm 2004. Hà Nội, Việt Nam. 25
  27. 78) Ðức Vịnh. “70.000 hộ dân khổ vì nước.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 29 tháng 6 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 79) Tuổi Trẻ. “Sếu đầu đỏ có nguy cơ tuyệt chủng.” Báo Nhân Dân, ngày 19 tháng 4 năm 2005. Hà Nội, Việt Nam. 80) H. Ph. L. “Sếu đầu đỏ có nguy cơ biến mất” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 27 tháng 7 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 81) H.P.L. “Sếu về Vườn quốc gia Tràm Chim quá ít.” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 12 tháng 2 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 82) Huỳnh Phước Lợi. “Giành đất với sếu đầu đỏ.” Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 28 tháng 6 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 83) Hoàng Hùng – Quang Hảo. “Kiếm sống mùa khô hạn và 3 chuyện nhỏ về cây lục bình.” Báo Người Lao Ðộng, ngày 1 tháng 4 năm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 84) Mai Quang Hiền. “Lục bình ‘chiếm’ dòng Vàm Cỏ Ðông.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 14 tháng 4 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 85) Nguyễn Tiến Hưng. “Cà Mau: Người dân phá đập cứu tôm.” Báo Tiền Phong, ngày 15 tháng 6 năm 2005. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 86) Ngọc Diện. “’Khóa miệng kênh’: dân than.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 3 tháng 5 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 87) Phương Nguyên. “Kiến nghị dừng thực hiện dự án thủy lợi Ô Môn – Xà No.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 9 tháng 6 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 88) Tấn Ðức. “Thoát lũ cho ÐBSCL: ‘Lợi: ai cũng thấy; hại: chỉ vài người thấy’.” Báo Thanh Niên, ngày 20 tháng 8 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 89) Huy Thịnh. “Không nên làm hồ điều tiết cho vùng ngập lũ ÐBSCL.” Báo Tiền Phong, ngày 20 tháng 6 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 90) Hồng Hạnh – Công Khả. “Vĩnh Long: Xuất hiện sếu đầu đỏ.” Báo Thanh Niên, ngày 20 tháng 8 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 91) Thiều Mai Trí. “Kiểm soát và sử dụng nước lũ ở vùng tứ giác Long Xuyên.” Báo Quân đội Nhân dân, ngày 29 tháng 10 năm 2005. 92) Lê Vũ. “Những mô hình tốt ‘sống chung với lũ’.” Báo Lao Ðộng, ngày 10 tháng 9 năm 2005. Hà Nội, Việt Nam. 93) Nhóm phóng viên và CTV ÐBSCL. “Diễn biến khốc liệt của hạn hán ở ÐBSCL: Nước mặn ‘xâm lăng’ đất liền.” Báo Lao Ðộng, ngày 10 tháng 9 năm 2005. Hà Nội, Việt Nam. 94) Ngọc Vinh. “Kiên Giang: Thuê xà lan chở nước ngọt về thị xã Rạch Giá.” Báo Thanh Niên, ngày 26 tháng 4 nnăm 2004. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 95) Trần Ðức – Vân Trường. “Cá bè chết hàng loạt.” Báo Tuổi Trẻ, ngày 3 tháng 1 năm 2006. Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. 96) Thái Thiện. “ÐBSCL: Hạn hán, xâm mặn gây thiệt hại hàng trăm tỉ đồng.” VietNamNet, ngày 17 tháng 5 năm 2005. VanDeThuyLoiDBSCL082606F.doc 26