Ngân hàng thương mại và quản trị ngân hàng thương mại - Chuyên đề 2: Ngân hàng và quản trị các định chế tài chính
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ngân hàng thương mại và quản trị ngân hàng thương mại - Chuyên đề 2: Ngân hàng và quản trị các định chế tài chính", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- ngan_hang_thuong_mai_va_quan_tri_ngan_hang_thuong_mai_chuyen.pdf
Nội dung text: Ngân hàng thương mại và quản trị ngân hàng thương mại - Chuyên đề 2: Ngân hàng và quản trị các định chế tài chính
- CHUYÊN ĐỀ 2: NGÂN HÀNG & QUẢN TRỊ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH 1. NHTW – MỘT VIỄN CẢNH TOÀN CẦU 1.1. Hệ thống dự trữ Liên bang 1.1.1. Nguồn gốc ra đời của Hệ thống dự trữ LB: Do người Mỹ không có lòng tin vào giới Ngân hàng và họ chống quyền lực tập trung, vì vậy họ chống đối và chính điều này đã dẫn tới sự sụp đổ của 2 hệ thống Ngân hàng. Một vấn đề đưa ra ở đây là không có người cho vay cuối cùng. Đến lúc này, họ cần có 1 NHTW, nhưng họ không muốn thành lập 1 NHTW duy nhất như ở Anh và Chính phủ không được can thiệp quá sâu vào công việc của NHTW. Lúc nay, Quốc hội của Mỹ đã họp và đưa ra 1 đạo luật đó là Đạo luật về Quỹ dự trữ Liên Bang năm 1913- văn bản tạo ra Hệ thống dự trữ Liên Bang với 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. 1.1.2. Cấu trúc của Hệ thống dự trữ liên bang: 1.1.2.1. Ngân hàng dự trữ LB : o Chiếm khoảng ¼ tổng tài sản, là NH liên bang quan trọng nhất. Hệ thống Dự trữ Liên bang chia nước Mỹ thành 12 khu vực, mỗi khu vữ có 1 NH dự trữ Liên bang lớn. Với 3 NH dự trữ liên bang lớn nhất là: NH New York, NH San Francisco, NH Chicago 3 NH này nắm trên 50% tổng tài sản của hệ thống dự trữ liên bang o NH dự trữ liên bang: là 1 tổ chức bán công (một phần là tư nhân, một phần là Chính phủ), thuộc sở hữu của các NH thương mại tư nhân trong khu vực là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang. Các NH thành viên này đã mua mua cổ phiếu của NH Dự trữ Liên bang trong khu vực( đây là yêu cầu để được chấp nhận là thành viên) vả mức cổ tức là 6%/ năm. o NH dự trữ liên bang gồm có: 06 Giám đốc: Do NH thành viên bầu. Giám đốc chia thành 3 loại: Nhóm A: do NH thành viên bầu ra, là các nhà NH chuyên nghiệp Nhóm B: do NH thành viên bầu ra, là các vị lãnh đạo hàng đầu đại diện cho ngành công nghiệp, công nhân, ông nghiệp hoặc người tiêu dùng. Nhóm C: được hội đồng thống đốc bổ nhiệm, đại diện cho lợi ích công cộng (tức là toàn quốc). Họ không được phép là công chức, công nhân hoặc cổ đông của các NH. Đảm bảo các giám đốc của mỗi NH dự trữ liên bang đại diện cho tất cả các thể chế tồn tại trong xã hội Mỹ. 03 người: Do hội đồng thống đốc bổ nhiệm 09 giám đốc này bỏ phiếu bầu ra thống đốc ngân hàng khu vực mình và phải được hội đồng thống đốc phê chuẩn 1
- o 12 NH dự trữ liên bang Tham gia vào chính sách tiền tệ theo nhiều cách: 1. “Thiết lập” lãi suất chiết khấu 2. Họ quyết định ngân hàng nào có thể nhận được các khoản cho vay chiết khấu từ ngân hàng dự trữ liên bang 3. Bầu một trong các nhà ngân hàng thương mại trong khu vực làm thành viên của Hội đồng cố vấn liên bang 4. Năm trong số 12 thống đốc ngân hàng khu vức được quyền bỏ phiếu trong Ủy ban thị trường tự do liên bang. Trong đó có thống đốc của ngân hàng khu vực Niu Oóc và 4 thống đốc của các ngân hàng khu vực khác theo nguyên tắc luân phiên hàng năm Thực hiện 8 chức năng: 1. Thanh toán séc 2. Phát hành tiền mới. Rút các đồng tiền cũ nát ra khỏi lưu thông 3. Quản lý và thực hiện các khoản cho vay chiết khấu đối với những ngân hàng trong khu vực của mình 4. Xem xét và đánh giá các vụ sáp nhập dự kiến và đơn mở rộng hoạt động của các ngân hàng 5. Đóng vai trò là người liên lạc giữa cộng đồng doanh nghiệp và hệ thống dự trữ liên bang 6. Giám sát các công ty nắm giữ ngân hàng và các ngân hàng thành viên thành lập theo quy chế bang 7. Thu thập số liệu về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp ở địa phương 8. Sử dụng đội ngũ các nhà kinh tế chuyên nghiệp để nghiên cứu những đề tài liên quan đến chính sách tiền tệ 1.1.2.2. Hội đồng thống đốc: o Cơ cấu tổ chức: Gồm 7 người do tổng thống bổ nhiệm và hạ viện phê chuẩn Làm việc 14 năm không tái nhiệm, Là những người từ các khu vực khác nhau o Chủ tịch hội đồng thống đốc: Được chọn trong số 7 thống đốc Làm việc trong thời hạn 4 năm để tránh ưu ái địa phương Khi chủ tịch mới được chọn thì cũng chính là lúc chủ tịch cũ ra khỏi hội đồng thống đốc o Thực thi chính sách tiền tệ 7 thống đốc là thành viên của FOMC và có quyền bỏ phiếu cho thực thi nghiệp vụ thị trường mở Hội đồng đặt ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc và kiểm soát lãi suất chiết khấu Chủ tịch hội đồng tư vấn cho tổng thống về chính sách kinh tế, điều trần trước Quốc hội và là người phát ngôn của hệ thống dự trữ liên bang trước công chúng, đại diện cho nước Mỹ trong các cuộc thương lượng cấp chính phủ về các vấn đề kinh tế Hội đồng có một đội ngũ các nhà kinh tế chuyên nghiệp có nhiệm vụ tiến hành các phân tích kinh tế mà hội đồng sử dụng để đưa ra các quyết định của mình 1.1.2.3. Ủy ban thị trường tự do Liên bang (FOMC): FOMC gồm: o 7 thành viên của hội đồng thống đốc (chủ tịch hội đồng là chủ tịch FOMC) 3
- Họp 8 lần/năm: đưa ra quyết định liên quan đến thực thi nghiệp vụ thị trường mở nhằm tác động cơ sở tiền tệ o Thống đốc ngân hàng dự trữ liên bang Niu Oóc . o Thống đốc của 4 ngân hàng dự trữ liên bang khác. FOMC nhất thiết phải là tâm điểm cho quá trình hoạch định chính sách trong hệ thống dự trữ liên bang 1.1.2.4. Ngân hàng thành viên ; o Tất cả các NH quốc gia đều là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang o Các NHTM theo quy chế bang không bắt buộc phải là thành viên,nhưng có thể tham gia theo nguyên tắc tự nguyện Trước 1980 NH thành viên: gửi dự trữ tại NH dự trữ liên bang và không được hưởng lãi NH không là thành viên: Chấp hành tỷ lệ dự trữ do bang quy định và nắm giữ dự trữ dưới dạng chứng khoán sinh lãi Nhiều NH thành viên rời bỏ hệ thống. Năm 1987: Tất cả các NH: phải gửi dự trữ bắt buộc có thể tiếp cận dịch vụ của NH dự trữ liên bang như chiết khấu, thanh toán séc Bình đẳng như nhau o Fed độc lập như thế nào? Fed độc lập Có quyền quyết định sử dụng công cụ chính sách tiền tệ và quyết định mục tiêu của chính sách tiền tệ 4
- Chịu ít sức ép về chính trị. Do các thành viên của Hội đồng thống đốc không những được bổ nhiệm cho nhiệm kì 14 năm và vì thế không thể bị sa thải; mà không được tái bổ nhiệm các vị thống đốc không có động cơ phải làm hài lòng chính phủ và Quốc hội. Nguồn thu độc lập và lớn, và có quyền kiểm soát nói chung. Tổng cục kế toán và cơ quan kiểm toán của Chính phủ Liên bang không thể kiểm toán chính sách tiền tệ hoặc các chức năng thị trường chuyển hối đoái của Fed Fed chịu tác động Quốc hội: làm ra luật về quỹ dự trữ liên bang . Thay đổi sự độc lập của Fed bất cứ lúc nào . Để Fed có trách nhiệm hơn với hoạt động của mình Tổng thống: . Tác động vào Quốc hội . Bổ nhiệm thành viên Hội đồng thống đốc và chủ tịch mới của Hội đồng thống đốc o Có nên để cho Fed độc lập? Ủng hộ Fed độc lập: Fed có điều kiện để quan tâm đến mục tiêu dài hạn như bảo vệ đồng $ mạnh và giá cả ổn định Đặt Fed dưới sự kiểm soát của Quốc hội hay tổng thống có thể làm chu kỳ kinh doanh trở nên tồi tệ hơn do khi một cuộc bầu cử đến gần, chính sách tiền tệ mở rộng được sử dụng để cắt giảm thất nghiệp và lãi suất; sau cuộc bầu cử , tác động tiêu cực của chính sách này – lạm phát và lãi suất cao- xuất hiện và đòi hỏi phải thực hiện chính sách tiền tệ thu hẹp. Đặt Fed dưới sự kiểm soát của Quốc hội hay tổng thống có thể sử dụng Fed để tài trợ cho thâm hụt ngân sách thông qua việc mua trái phiếu Kho bạc Việc kiểm soát chính sách tiền tệ quá quan trọng nên không thể trao cho những người không đủ khả năng chuyên môn Sự độc lập của Fed có thể tạo điều kiện cho nó theo đuổi các chính sách không hợp lòng dân nhưng vẫn phù hợp với lợi ích công chúng Chống lại sự độc lập: Fed độc lập sẽ do 1 nhóm người kiểm soát không chịu trách nhiệm với ai và không bị thay thế khi hoạt động không tốt Quốc hội cũng biểu quyết cho những vấn đề dài hạn Loại trừ sự chồng chéo hoặc trung hòa của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa Không phải lúc nào Fed cũng sử dụng có hiệu quả quyền tự do của mình Fed có thể theo đuổi quyền lợi của một số người chứ không phải của công chúng Ai thích chính sách của Fed ủng hộ Fed độc lập. Ai không thích chính sách của Fed chống lại sự độc lập của Fed 1.2. Lí giải hành vi của NHTW Có hai quan điểm lý giải về hành vi của NHTW: - Quan điểm thứ nhất là hành vi của NHTW phục vụ lợi ích công cộng - Quan điểm thứ hai là hành vi của NHTW nhằm tối đa hóa phúc lợi riêng của nó, vì vậy nó luôn tìm cách để làm tăng sức mạnh và địa vị của nó. Quan điểm này dự báo rằng Quỹ Dự Trữ Liên Bang Mỹ sẽ đấu tranh không khoan nhượng để duy trì quyền tự trị của mình. Dự báo này cũng đã được kiểm 5
- chứng khi Fed liên tục chống lại các nỗ lực của Quốc hội nhằm kiểm soát ngân sách của nó, và Fed đã rất thành công trong hoạt động vận động hành lang đối với giới ngân hàng và doanh nghiệp mỗi khi sự độc lập của nó bị đe dọa. Môt dự báo khác là Fed sẽ tìm cách né tránh các cuộc xung đột với các tập đoàn hùng mạnh, có thể đe dọa thu hẹp quyền lực và quyền tự trị của nó, bằng chứng là nó đôi khi chậm trễ trong việc tăng lãi suất để tránh xung đột với Quốc hội và Tổng thống và không làm minh bạch tất cả các hoạt động của nó. Ngoài ra, Fed còn thường xuyên theo đuổi các chiến dịch gia tăng quyền kiểm soát đối với các ngân hàng và kết quả là nó đã có được thẩm quyền pháp lý trong việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho tất cả các ngân hàng chứ không phải chỉ các ngân hàng thượng mại thành viên. 1.3. Cấu trúc & sự độc lập của NHTW Châu Âu - Khi NHTW Châu Âu (ECB) ra đời năm 1999 thì Quỹ Dự Trữ Liên Bang Mỹ không còn là NHTW độc lập nhất thế giới. Tổng dân số của các nước thành viên Liên minh tiền tệ Châu Âu thì hơn Hoa Kỳ và GDP thì xấp xỉ Hoa Kỳ. Hiệp ước Maastricht đã tạo ra ECB và ESCB. Ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia được gọi là NCB (NHTW quốc gia) có vai trò giống như ngân hàng Lander. Các quyết định được quyết định một cách tập trung bởi ECB và được thực hiện thông qua các NCB một cách phi tập trung - Các tổ chức thuộc Liên minh Châu Âu: ESCB gồm ECB và NHTW của 27 nước thành viên EU. Mặt khác Eurosystem gồm ECB và NCB của 17 nước sử dụng đồng Euro. ECB thuộc sở hữu của 17 nước này và được thành lập ở trung tâm của ESCB và Eurosystem. ECB có tư cách pháp nhân theo luật quốc tế còn ESCB thì không. ESCB và Eurosystem sẽ cùng tồn tại và đến khi nào cả 27 nước thành viên đều sử dụng đồng Euro thì hai tổ chức này sẽ hợp nhất - Quá trình ra quyết định tại EMU diễn ra ở ba cấp: Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Hội đồng. Trong đó, Hội đồng quản trị ra quyết định, Ban điều hành chịu trách nhiệm về thực hiện hằng ngày các quyết định của Hội đồng quản trị và Hội đồng đóng vai trò là một cơ quan tư vấn - HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, BAN ĐIỀU HÀNH, HỘI ĐÔNG: + Hội đồng quản trị: là cơ quan quyết định tối cao của ECB bao gồm 6 thành viên lãnh đạo và 17 thống đốc của 17 ngân hàng trung ương quốc gia. Trách nhiệm của hội đồng quản trị là xây dựng chính sách tiền tệ đối với khu vực đồng Euro nhằm đáp ứng những mục tiêu chung của khu vực này. Ngoài ra nó ủy quyền cho NCB thay đổi lãi suất, giám sát các ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra nó còn có trách nhiệm hương dẫn để NCB thực hiện các quyết định đó. Hội đồng quản trị họp 2 tuần 1 lần. Trong phiên họp đầu tiên của tháng, các thành viên Hội đồng quản trị đáng giá các điều kiện kinh tế, tiền tệ và điều kiện phát triển trong EMU để đưa ra các quyết định liên quan đến các chính sách. Trong cuộc họp thứ hai của tháng,, Hội đồng quản trị sẽ thảo luận về các vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm của ECB và quá trình thực hiện chi tiết tại mỗi NCB. Hội đồng quản trị hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận chứ không lấy phiếu bởi vì họ lo sợ việc lấy phiếu sẽ có thể dẫn tới việc người đứng đầu các NCB sẽ thiên vị cho các chính sách mà có lợi cho quốc gia của họ. ECB sẽ thiết lập các chính sách lãi suất ngay sau khi cuộc họp kết thúc. ECB tổ chức một cuộc họp báo để công bố và các chủ tịch, phó chủ tịch của ECB trả lời các câu hỏi của nhà báo, điều này đòi hỏi chủ tịch, phó chủ tịch ECB phải có sự phản ứng nhanh nhạy. + Ban điều hành: gồm chủ tịch, phó chủ tịch, và bốn thành viên khác, những người này được bổ nhiệm theo thõa thuận của những người đứng đầu của các quốc gia trong khu vực đồng Euro. Nhiệm vụ của Ban điều hành là thực hiện các chính sách tiền tệ thông qua việc hướng dẫn chi tiết cho các NCB phù hợp với hướng dẫn của Hội đồng quản trị. Ngoài ra Ban điều hành còn chịu trách nhiệm quản lý kinh doanh hàng ngày của ECB. + Hội đồng: gồm chủ tịch, hoặc phó chủ tịch ECB, đại diện của 17 quốc gia trong khu vực đồng Euro và 11 quốc gia không thuộc khu vực đồng Euro. Chủ tịch hội đồng liên minh Châu Âu và thành 6
- viên của Ủy ban Châu Âu có thể tham dự cá cuộc họp của Hội đồng nhưng không có quyền biểu quyết. Hội đồng là cơ quan chuyển tiếp và sẽ giải thể khi tất cả các nước thành viên đều sử dụng đồng Euro. Hội đồng thực hiện việc tư vấn cho ngân hàng trung ương, thu thập thông tin thống kê và tiêu chuẩn hóa các hoạt động kế toán của NCB - Các ngân hàng trung ương quốc gia hoạt động trong Eurosystem như thế nào? Các NCB đóng một vai trò thiết yếu trong ESCB. Làm thế nào để ngân hàng trung ương quốc gia hoạt động phù hợp với hướng dẫn ECB? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu một trong những thành viên quan trọng nhất của ECB, đó là Deutsche Bundesbank. Lý do cho việc lựa chọn ngân hàng Bundesbank, bởi vì nó là ngân hàng trung ương quốc gia lớn nhất trong ECB và cũng hơn một nửa của khoản vay ngắn hạn liên ngân hàng do ngân hàng khu vực đồng EUR từ ngân hàng trung ương là do các ngân hàng Bundesbank. Nó cũng góp gần 20% vốn của ECB. Hơn nữa, ECB được mô hình hóa sau khi Deutshe Bundesbank một cách để đảm bảo hoàn toàn độc lập. - Deutsche Bundesbank: Năm 1948, các lực lượng Đồng Minh tạo ra Ngân hàng Deutscher Lander (BDL ) để hoạt động như các ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Liên bang Đức (West Germay ) . Một hệ thống ngân hàng trung ương hai tầng được thành lập gồm các BDL và Lander (hoặc nhà nước ). Ngân hàng trung ương có Chủ tịch được bổ nhiệm bởi các chính phủ Lander . Một hội đồng cao hơn bao gồm các thống đốc của ngân hàng trung ương Lander , một tổng thống liên bang bổ nhiệm và chủ tịch của BDL . Trong hệ thống ngân hàng trung ương phân cấp mạnh mẽ này, BDL được xem có nhiệm vụ chính trong việc tiến hành chính sách tiền tệ , phối hợp các chính sách và nhiệm vụ của các ngân hàng trung ương Lander và quản lý hệ thống ngoại hối của đất nước. Trong khi đó, các ngân hàng trung ương Lander là rất tự trị , với mỗi tiểu bang phát hành ghi chú tiền tệ , cùng với BDL . Năm 1957 ngân hàng Bundesbank, thay thế BDL như ngân hàng trung ương mới của Tây Đức và một cấu trúc mới đã được thông qua . Bundesbank , cũng có biệt danh là " Buba " đã trở thành nhà phát hành duy nhất của Deutsche Mark ghi chú tiền tệ và đã được yêu cầu hợp tác với các tổ chức hoạch định chính sách khác để đảm bảo mục tiêu và chính sách hài hòa. Hội đồng Ngân hàng Trung ương bao gồm mười đại diện chính quyền trung ương và mười một Lander Chủ tịch ngân hàng trung ương , được lựa chọn bởi chính phủ Lander . Cấu trúc này phục vụ các mục tiêu kép của chính sách phối hợp , đồng thời đảm bảo rằng các ngân hàng trung ương vẫn duy trì một số Lander tự chủ . Sau khi thống nhất giữa Đông và Tây Đức , ngân hàng Bundesbank, được tổ chức lại vào năm 1990 để cho phép sự kết hợp của Đông Đức vào hệ thống. Thành phần của hội đồng đã bị thay đổi , do đó, nó bao gồm tám người do hính phủ bổ nhiệm và chín Lander Chủ tịch ngân hàng trung ương , trong khi các bang trọng yếu giữ lại ngân hàng trung ương của họ. Cấu trúc mới này của ngân hàng Bundesbank tạo sự cân bằng giữa cấp chính phủ liên bang trong hoạch định chính sách , trong khi vẫn giữ vai trò chính của Chủ tịch ngân hàng trung ương nhà nước. Điều này đảm bảo sự độc lập của ngân hàng Bundesbank tiếp tục . Đến năm 2008 ngân hàng Bundesbank, có chín văn phòng khu vực và 47 chi nhánh trên toàn nước Đức . Năm 2008 công bố lợi nhuận 6,3 tỷ đồng, trong đó tích lũy cho các ngân hàng Lander , kể từ khi họ là chủ sở hữu hợp pháp của ngân hàng Bundesbank . Từ năm 2009, Ban điều hành của ngân hàng Bundesbank sẽ bao gồm sáu thay vì tám thành viên . Ba thành viên sẽ được đề cử bởi chính phủ liên bang và ba của Bundesrat (hoặc Hội đồng Liên bang Đức ) và tất cả các thành viên được bổ nhiệm bởi Tổng thống Đức . - ECB khác với Bundesbank như thế nào? Vào năm 2001, Đức sử dụng đồng euro như đồng tiền của mình để thay thế cho Deutsche Mark. Bundesbank không còn tồn tại như là một cơ quan độc lập , nhưng là một phần của ngân hàng Trung ương châu Âu . Mục tiêu của nó là hài hòa với ECB , với mục 7
- tiêu chính của sự ổn định giá cả. Hội đồng quản trị của ECB có mục tiêu chính là tỷ lệ hàng năm của lạm phát trong khu vực đồng euro vào khoảng 2%. Bundesbank có năm nhiệm vụ cốt lõi mà nó cùng thực hiện với ECB. . Các chức năng cốt lõi của ngân hàng Bundesbank là thực hiện chính sách tiền tệ Eurosystem như quy định trong Hiệp ước EC . Đảm bảo giá cả ổn định và điều này được thực hiện thông qua biểu quyết tại cuộc họp hàng tháng của Hội đồng quản trị của ECB nơi quyết định chính sách tiền tệ được thực hiện . Chủ tịch ngân hàng Bundesbank là thành viên bỏ phiếu trong Hội đồng quản trị của ECB và tư vấn các chuyên gia trước khi biểu quyết mỗi tháng. Bundesbank không có quyền phát hành tiền tệ và đồng tiền ghi chú theo ý riêng của mình , ngoại trừ được sự cho phép của ECB. . Nó cũng thực hiện các chức năng chính như nhà thanh toán bù trừ cho các ngân hàng thành viên, các nhân viên ngân hàng của ngân hàng. Tất cả các ngân hàng trung ương trong khu vực đồng euro bây giờ là thành viên của hệ thống thanh toán tiên tiến , được gọi là mục tiêu 2 cho phép các ngân hàng thực hiện thanh toán trong thời gian thực và cũng cho phép họ sử dụng truy cập thanh toán. ECB không có nhiệm vụ giám sát các ngân hàng , nhưng nhiệm vụ này được giao cho từng ngân hàng quốc gia như ngân hàng Bundesbank, đó là trách nhiệm giám sát các hệ thống khả năng thanh toán , thanh khoản và quản lý rủi ro của 2.300 tổ chức tín dụng tại Đức. Bundesbank cũng đảm bảo rằng tổ chức ngân hàng yêu cầu đủ vốn phù hợp với các yêu cầu của Basel Accord II . Bundesbank là ngân hàng của nhà nước và đại lý tài chính của Chính phủ Liên bang . Hơn nữa, ngân hàng Bundesbank, cố vấn cho chính phủ về các vấn đề chính sách tiền tệ . . Nó cũng quản lý dự trữ ngoại tệ của Đức; ECB không nói dự trữ ngoại hối từng ngân hàng trung ương quốc gia nên giữ là bao nhiêu. Nhưng mỗi NCB là cần góp phần vào việc dự trữ ngoại hối của ECB tương đương với đóng góp của mình vào vốn của ECB. . Cuối cùng, ngân hàng Bundesbank, cũng có thể hợp tác với các tổ chức quốc tế khác để duy trì một hệ thống tài chính ổn định. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay , nó đã hợp tác với FED trong một chương trình được gọi là Cơ sở đấu giá hạn để cải thiện thanh khoản đô la trong khu vực Euro và để giúp ổn định thị trường tiền tệ . - ECB độc lập như thế nào? Mặc dù dự trữ liên bang là một ngân hàng trung ương độc lập cao, Hiệp ước Maastricht, thành lập Eurosystem, thành lập ngân hàng trung ương ECB độc lập nhất trên thế giới . Như Hội đồng Thống đốc , các thành viên của Ban chấp hành Hiệp hội có thời hạn dài (tám năm ) , trong khi người đứng đầu Ngân hàng Trung ương Quốc gia được yêu cầu phải có các điều kiện dài ít nhất là năm năm. Như Fed, Eurosystem xác định ngân sách riêng của mình, và các chính phủ của các nước thành viên không được phép can thiệp hoạt động của ECB. Những yếu tố này của Hiệp ước Maastricht làm cho ECB độc lập cao. Một yếu tố khác làm cho ECB độc lập hơn là nó không được phép cấp các khoản vay cho các tổ chức khu vực công quốc gia, để bảo vệ nó từ bất kỳ ảnh hưởng bởi cơ quan công quyền. Hơn nữa, để đảm bảo sự độc lập của NCB, ECB cấm họ hướng dẫn các tổ chức Cộng đồng châu Âu, bất kỳ chính phủ của một nước thành viên EU hay bất kỳ cơ quan quốc tế khác. Điều này đảm bảo phù hợp của NCB với các quyết định chính sách tiền tệ được thực hiện bởi Hội đồng quản trị . 1.4. NHTW trên thế giới - NHTW Canada: bộ máy tổ chức gồm: Các giám đốc nhiệm kỳ 3 năm, Thống đốc nhiệm kỳ 7 năm, Hội đồng điều hành gồm 1 thống đốc và 4 phó thống đốc, là cơ quan thực hiện chính sách. Đặc điểm: Trên giấy tờ: không độc lập về công cụ, trên thực tế: hầu như toàn quyền kiểm soát chính sách tiền. Mục tiêu chính sách tiền tệ do ngân hàng và chính phủ phối hợp đưa ra. => It độc lập hơn Fed - NHTW Anh: 1946: quyền kiểm soát thuộc về chính phủ, 1997: Tăng, giảm lãi suất do Bộ trưởng Bộ TC quyết định, 5/1997: Chính phủ quyết định lãi suất trong một số trường hợp đặc biệt. Đặc điểm: 8
- quyết định lãi suất được trao cho Ủy ban chính sách tiền tệ, mục tiêu lạm phát do Bộ trưởng Bộ Tài chính đặt ra - NHTW Nhật: trước 1998 Ngân hàng trung ương không độc lập chính phủ. Sau 1998, NHTW độc lập hơn về mục tiêu và công cụ,chính phủ không được quyền bỏ phiếu trong Hội đồng chính sách nữa, Bộ Tài chính mất quyền giám sát nhiều hoạt động của NH. - Ngân hàng Trung ương các nền kinh tế CHUYỂN TIẾP: Trong những năm 1990 ,chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông và Trung Âu và Liên Xô cũ. Các quốc gia này đã chuyển từ kế hoạch tập trung và quyền sở hữu công cộng để tự do hóa và sở hữu tư nhân , vì vậy nó kéo theo những thay đổi đáng kể và sự hình thành của thị trường không tồn tại trước đó. Trước năm 1990 , hầu hết các quốc gia chuyển đổi sở hữu một ngân hàng quốc doanh đảm nhận vai trò kép của một ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương , trong khi một vài nước khác đã sở hữu một ngân hàng trung ương riêng biệt mà giám sát hoạt động của các ngân hàng quốc doanh khác . Đến những năm 1990 , nền kinh tế của các quốc gia đang trong tình trạng hỗn độn , nơi mà ngành ngân hàng đã có một danh mục nợ xấu rất lớn, nợ của các doanh nghiệp tư công kém hiệu quả . Hơn nữa, với sự ra đời đột ngột của thị trường để các nền kinh tế của họ phải chịu đựng áp lực lạm phát do giá tự do hóa , cùng với thâm hụt ngân sách đáng kể trong cán cân thanh toán của họ và phá giá đồng loạt của các đồng tiền trong nước của họ. Do đó, nó là bắt buộc tạo ra ngân hàng trung ương mới , bằng cách phá vỡ các mono- ngân hàng thành một ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại , hoặc cấp một số mức độ độc lập với những cái đã có. Điều này đòi hỏi nhiều cải cách ngân hàng trung ương để tổ chức cải cách . Độc lập ngân hàng trung ương ở các nước Đông Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập ( mười lăm quốc gia mà giành được độc lập sau sự sụp đổ của Liên Xô ) đã được cấp , mặc dù không được đầy đủ chức năng . Với sự gia tăng mức độ thực thi pháp luật trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế , dần dần độc lập ngân hàng trung ương đã được cấp và thực hiện , dẫn đến giải pháp thành công hơn cho các vấn đề lạm phát và giám sát ngân hàng. Trong số các ngân hàng trung ương độc lập nhất trong các quốc gia chuyển tiếp là Cộng hòa Séc, ngân hàng trung ương Bulgaria và Hungary , đã được chứng minh thành công trong việc kiểm soát lạm phát. - Ngân hàng Trung ương nước đang phát triển và nền kinh tế mới nổi : Nước đang phát triển là những nền kinh tế có GDP thấp đến trung bình . Một nền kinh tế đang nổi lên là một nước đang phát triển hoặc chuyển đổi nền kinh tế đang bắt tay vào một chương trình cải cách kinh tế mới để đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn , hiệu quả hơn trong các thị trường vốn và cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái . Quốc gia đó có khuynh hướng thu hút đầu tư nước ngoài đáng kể cả thông qua thị trường tài chính cũng như trong lĩnh vực dịch vụ và các ngành công nghiệp sản xuất khác như các nền kinh tế mới nổi từ Ấn Độ và Trung Quốc với các nước ở châu Mỹ Latinh , châu Phi , Trung Đông và châu Á. Nhiều nước trong số các quốc gia này là nước mới có khái niệm về ngân hàng trung ương . Mức độ độc lập của ngân hàng trung ương của họ cao liên quan đến trình độ phát triển của ngành tài chính và các tổ chức chính trị. Tuy nhiên, một trong những rào cản chính mà làm cho sự độc lập của ngân hàng trung ương trong một số các quốc gia như không có là mức thấp của vốn và không có khả năng của họ để tạo ra các nguồn thu . Trường hợp của Ngân hàng Trung ương của Costa Rica là một ví dụ điển hình của một ngân hàng trung ương độc lập tương đối, mặc dù thiếu các nguồn lực cần thiết để cung cấp cho nó với thực tế ngân hàng trung ương hiệu quả , mặc dù chính sách tiền tệ . Một ví dụ khác của một nền kinh tế mới nổi phải đối mặt với vấn đề tương tự không đủ vốn là Ngân hàng của Indonesia , trong đó có đủ vốn vào thời điểm chuyển giao thế kỷ và do đó không thể mở rộng hỗ trợ tín dụng cho các ngân hàng ốm yếu trong cuộc khủng hoảng năm 1997 châu Á. Vì lý do này , khi ngân hàng trung ương bị các 9
- điều kiện tài chính bấp bênh mà có thể làm ảnh hưởng tới hành vi của chính sách tiền tệ , nó sẽ trở thành bắt buộc để tái cơ cấu vốn các ngân hàng trung ương . Để đảm bảo tính độc lập và chủ quyền của ngân hàng trung ương của họ, nhiều chính phủ của các quốc gia phát triển và các nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu tăng kỳ thủ đô của ngân hàng trung ương của họ. Mặt khác, ngân hàng trung ương của các quốc gia Hội đồng hợp tác vùng Vịnh có đủ vốn nhưng được hưởng độc lập hạn chế. Điều này đã thúc đẩy họ cố gắng để tạo thành một ngân hàng trung ương đa quốc gia để đảm bảo độc lập từ điều khiển chính phủ quốc gia . Trong số các ngân hàng trung ương độc lập nhất mà tự do thực hiện chính sách tiền tệ ở châu Phi là Ngân hàng Dự trữ của châu Phi và Ngân hàng Trung ương Ai Cập, trong đó có mức độ đáng kể độc lập từ áp lực chính trị . Tuy nhiên , điều này không có nghĩa là các ngân hàng trung ương là không biết gì về các mục tiêu kinh tế vĩ mô nói chung của đất nước. Ngược lại, trong nhiều trường hợp ngân hàng trung ương hành động phối hợp với các đại lý tài chính của chính phủ , đặc biệt là tại thời điểm khủng hoảng. - Ngân hàng nhân dân Trung Quốc: Nhân dân Trung Quốc ( PBC) , được thành lập vào tháng Mười Hai năm 1948, là một ví dụ của một ngân hàng trung ương tương đối mới trong một nền kinh tế mới nổi. Nó đóng vai trò như duy nhất, thực hiện cả hai ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng trung ương . Đây là mô hình của ngân hàng ở hầu hết các chế độ xã hội chủ nghĩa , kể từ khi ngân hàng tư nhân bị cấm hoạt động trong các hệ thống kinh tế . Chỉ trong năm 1980, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã phân chia các hoạt động ngân hàng thương mại thành bốn ngân hàng nhà nước , năm 1985 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc được thành lập một cách hợp pháp, bắt đầu chức năng của nó như là một ngân hàng trung ương chính thức với trụ sở chính tại Bắc Kinh và chín văn phòng khác trong khu vực . Kể từ ngày đó, cải cách dần dần đã được tiến hành với cấp lãnh đạo PBC trong lĩnh vực ngân hàng và cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ . Tuy nhiên, PBC phải báo cáo quyết định của mình , ngay cả trước khi thực hiện, Hội đồng Nhà nước liên quan đến chính sách tiền tệ , khối lượng cung tiền, lãi suất và tỷ giá hối đoái . Như vậy, mức độ cao của sự tham gia của Hội đồng Nhà nước trong hoạt động của mình làm cho sự độc lập của PBC hạn chế so với hầu hết các ngân hàng trung ương ở các nước công nghiệp. Một vấn đề nghiêm trọng vốn có trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc là danh mục đầu tư lớn của các khoản nợ xấu, mà lên tới 700 tỷ trong năm 2007. Điều này đã buộc các PBC bảo lãnh cho một số ngân hàng quốc doanh . Bây giờ chúng ta chuyển sự chú ý sang việc Trung Quốc đã bị xử lý như thế nào đối với lĩnh vực ngân hàng ở Hồng Kông. Năm 1997, Vương quốc Anh nhượng lại Hồng Kông trở về Trung Quốc . Tuy nhiên , nói về kinh tế, Hồng Kông vẫn tự trị và độc lập của Trung Quốc, tự chịu trách nhiệm bảo đảm quốc phòng quân sự của mình và tiến hành các quan hệ đối ngoại trên danh nghĩa . Do đó, Hồng Kông vẫn là một khu vực tự do thương mại và duy trì đồng tiền riêng của mình , đồng đô la Hồng Kông. Trong bối cảnh này, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa không chịu trách nhiệm cho lĩnh vực ngân hàng ở Hồng Kông, đó là trách nhiệm của Cơ quan tiền tệ Hồng Kông. Các HKMA là tổ chức ngân hàng trung ương của Hồng Kông và được thành lập vào tháng 4 năm 1993 . Nó có bốn chức năng chính : điều chỉnh và giám sát ngân hàng và các tổ chức lưu ký , duy trì sự ổn định của đồng tiền với tỷ lệ 7,80 HK $ 1 để quản lý dự trữ chính thức của Hồng Kông , và giám sát một cơ sở hạ tầng tài chính mạnh mẽ và đa dạng. Tuy nhiên , Cơ quan tiền tệ Hồng Kông vấn đề chỉ là tiền giấy 10 đô la và cho phép ba ngân hàng thương mại , các Limited Hồng Kông và Thượng Hải Banking Corporation , và Ngân hàng Trung Quốc ( Hong Kong) Limited , phát hành tất cả các ghi chú ngân hàng khác ở Hồng Kông. So với Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, HKMA là độc lập hơn và có khả năng duy trì một hệ thống ngân hàng lành mạnh . 10
- - Ngân hàng trung ương đa quốc gia ở các nước đang phát triển: ECB không phải là ngân hàng trung ương đa quốc gia theo nghĩa này, một số quốc gia đang phát triển đã thành lập ngân hàng trung ương đa quốc gia nhằm tăng cường hợp tác kinh tế với các quốc gia láng giềng khác . Một lý do khác là thiếu vốn và chuyên môn cần thiết để thiết lập một cơ quan điều tiết và giám sát phức tạp. Ngân hàng trung ương Caribbean đông ( eccb ) bao gồm tám quốc gia thành viên , trong đó có sáu quốc gia độc lập , trong khi hai quốc gia có lãnh thổ của vương quốc thống nhất . Các eccb được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1983 và hiện nay bao gồm Antigua và Barbuda, thịnh vượng chung của dominica , grenada , montserrat , st Kitts và Nevis , Saint Lucia và Saint Vincent , Grenadines và Anguilla . Tất cả các quốc gia nhỏ, các nền kinh tế dễ bị tổn thương cần phải đoàn kết để đạt được phát triển kinh tế . Tương tự như các ngân hàng Trung ương châu Âu , một chủ tịch được bầu hàng năm trên cơ sở luân phiên và Hội đồng tiền tệ có trách nhiệm thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo sự ổn định của đơn vị tiền tệ chung Đồng dollar EC . Tuy nhiên , không giống như ECB các quốc gia không sở hữu ngân hàng trung ương của riêng mình. Xu hướng tương tự được theo sau ở châu Phi, nơi mà hầu hết các quốc gia châu Phi có ngân hàng trung ương của họ, ngoại trừ hai khu vực có ngân hàng trung ương đa quốc gia. Banque Centrale des Etats de I'Afrique de I'Ouest , hoặc Ngân hàng Trung ương Tây Phi , nhấn chìm tám quốc gia Tây Phi sử dụng đồng franc Tây Phi CFA là đồng tiền chung của họ. Tương tự như vậy , sáu quốc gia Trung Phi là thành viên của Banque des Etats de I'Afrique Centrale , hoặc Ngân hàng Trung ương Trung Phi , và sử dụng đồng franc Trung Phi CFA như hợp pháp của họ. - Cải cách ngân hàng trung ương ở Nam Mỹ: Tại nhiều quốc gia Mỹ Latinh ngân hàng trung ương đã tìm thấy chính mình trong khủng hoảng tài chính, dẫn đến cuộc khủng hoảng ngân hàng thường xuyên. Trong những năm 1980 , các nước Mỹ Latinh có tỷ lệ lạm phát cao, ba hoặc bốn chữ số . Vì lý do này, chính phủ bắt tay vào cải cách ngân hàng trung ương ; Chile là nhà tiên phong , nơi mà vào năm 1989 ngân hàng trung ương đã được độc lập hơn, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình . Để đảo ngược lạm phát, ngân hàng trung ương ở Brazil , Chile, Colombia, Mexico , và Peu đã thông qua một tỷ lệ lạm phát danh nghĩa bằng cách giới thiệu lạm phát mục tiêu . Hơn nữa, từ những năm 1990 hầu hết các quốc gia Nam Mỹ đã bắt đầu các cuộc hẹn riêng ngân hàng trung ương từ lịch bầu cử và cấp ngân hàng trung ương có quyền tiến hành chính sách tiền tệ mà không có sự can thiệp của chính phủ. Đổi lại, ngân hàng trung ương đã được thực hiện có trách nhiệm để đạt được mục tiêu lạm phát cụ thể hơn là tập trung vào tăng trưởng kinh tế . - Liên minh tiền tệ ở các nước đang phát triển: Cuối cùng, một số nước đang phát triển rất nghèo và nhỏ đơn phương áp dụng các đồng tiền của các nước lớn hơn. Ví dụ, Panama , El Salvadorm , Ecuador, và một số quốc gia Caribbean nhỏ hiện đang sử dụng đồng đô la Mỹ , vì họ không có một đồng nội tệ. Ví dụ, Ecuador loại bỏ đồng tiền quốc gia của nó, là sucre , vào năm 2000 và thông qua đồng đô la Mỹ như là đồng tiền chính thức của nó . Điều này là do thực tế là tỷ giá hối đoái của sucre giảm từ 25 sucres mỗi đồng đô la Mỹ trong 1.980-25.000 năm 2000. Trong trường hợp này , ngân hàng trung ương quốc gia không thể thực hiện chính sách tiền tệ và mất khả năng ảnh hưởng đến giá trị của đồng tiền , điều này làm hạn chế vai trò của ngân hàng trung ương trong việc giám sát các ngân hàng trong nước. Tương tự như vậy , các quốc gia châu Phi Swaziland và Lesotho sử dụng đồng rand của Nam Phi như đồng tiền hợp pháp của họ. 1.5. Nhận xét 1.5.1. Ngân hàng NN Việt Nam 1.5.1.1. Tổ chức & cơ cấu hoạt động Tổ chức: o NHNN được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất: 11
- o Bộ máy điều hành o Các đơn vị hoạt động nghiệp vụ Cơ cấu hoạt động: o 20 đơn vị giúp Thống đốc NHNN thực hiện chức năng quản lý NN và chức năng NHTW o 7 đơn là đơn vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước của NHNN. 1.5.1.2. Lịch sử hình thành ngân hàng nhà nước Việt Nam 1951 – 1954: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên: Phát hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính, Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước, Phát triển tín dụng ngân hàng. 1955-1975: cả nước kháng chiến chống Mỹ, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: Củng cố thị trường tiền tệ, Phát triển công tác tín dụng 1875 -1985: Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. 1986 đến nay: Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về ngân hàng ( Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp, trong đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng trung ương; các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật. 1.5.1.3. Thống đốc NHNN Việt Nam o Là người đứng đầu của NHNN VN được QH bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng chính phủ o Chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, QH về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và NH. o Quyết định thành lập, chấm dứt hoạt động của một số cơ quan o Tổ chức và chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia o Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định o Đại diện pháp nhân của Ngân hàng Nhà nước. 1.5.2. NHTW độc lập với chính phủ o Ưu điểm: NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ Tăng hiệu quả các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách và ổn định hệ thống tài chính. Được trao quyền lựa chọn mục tiêu mà không chịu sự can thiệp, chỉ đạo từ Chính phủ hay cơ quan liên quan khác Quyết định trong việc thực thi các chính sách tiền tệ tăng tính chủ động và giảm độ trễ của CSTT Có thể từ chối trong mục tiêu thâm hụt ngân sách Tự chủ về tổ chức và cơ chế tài chính, nhân sự Trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch o Nhược điểm: 12
- Khó có sự kết hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ - do NHTW thực hiện và chính sách tài khoá - do chính phủ chi phối để quản lý vĩ mô một cách hiệu quả. 1.5.3. NHTW trực thuộc chính phủ: o Ưu điểm: Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển. o Nhược điểm: NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. o Lợi ích từ việc sử dụng mô hình NHTW trực thuộc chính phủ của Việt Nam: Tạo được sự đồng bộ trong mục tiêu phát triển kinh tế với chính phủ Tương lai để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHNN với tư cách là một NHTW trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết do đó việc sử dụng mô hình này chính là nền tảng cho những thay đổi mang tính độc lập hơn của NHTW sau này. Giúp chính phủ thuận lợi trong việc hoàn thành các mục tiêu đã đề ra, giảm thâm hụt ngân sách cho chính phủ. Tạo niềm tin vào hệ thống ngân hàng o Hạn chế từ việc sử dụng mô hình: Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình là NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT còn hạn chế, NHNN có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Về lí thuyết khi áp dụng mô hình NHTW trực thuộc chính phủ thì tỷ lệ lạm pháp khó duy trì ở tỷ lệ thấp hơn là mô hình độc lập với chính phủ vì chính phủ có thể lợi dụng NHTW để bù đắp thâm hụt ngân sách. Chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành thực hiện CSTT quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự chậm trễ trong chính sách phản ứng trước các diễn biến khó lường trên thị trường tài chính tiền tệ ảnh hưởng đến sự ổn định của đồng tiền Vì là cơ quan của Chính phủ nên có khi NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của CSTT, chẳng hạn như tái cấp vốn để khoanh, xoá nợ các khoản vay của NHTM Nhà nước như vậy NHNN Việt Nam chỉ được coi là cơ quan quản lý hành chính nhà nươc, giống như các bộ khác chứ không phải là thiết chế đặc biệt dù tổ chức, hoạt động 13
- của NHNN ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của 1 quốc gia. 2.2 Những nguyên tắc quản trị chung của NH Giám đốc NH có 4 mối quan tâm lớn: - Đảm bảo rằng NH có đủ tiền mặt chờ để trả cho người gửi tiền khi có dòng tiền gửi chảy ra (quản trị thanh khoản). - Phải theo đuổi mức rủi ro thấp đến mức chấp nhận được bằng cách mua các TS có tỷ lệ vỡ nợ thấp và bằng cách đa dạng hóa TS nắm giữ (quản trị TS có). - Thu hút được vốn với chi phí thấp (quản trị TS nợ). - Quyết định lượng vốn mà NH cần duy trì, sau đó thu hút được số vốn cần thiết (quản trị vốn chủ sở hữu). Tìm hiểu chi tiết về những nguyên tắc quản trị chung của NH. 2.2.1 Quản trị thanh khoản và vai trò của dự trữ - VD1: Đối với NH có khoản dự trữ vượt mức Ban đầu, dự trữ của NH là 20 triệu, TS tiền gửi là 100 triệu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Lúc này tiền dữ trữ bắt buộc của NH là 10 triệu (100tr ×10%), do đang nắm giữ 20 triệu dự trữ nên NH có dự trữ vượt mức là 10 triệu. Nếu tiền gửi bị rút 10 triệu thì sẽ có sự thay đổi trên TS có và TS nợ. Nhìn vào bảng cân đối TS, ta thấy tiền gửi sẽ còn 90 triệu (100 triệu – 10 triệu) và dự trữ ban đầu 20 triệu sẽ còn 10 triệu. Theo quy định, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% nên tiền dữ trữ bắt buộc của NH là 9 triệu (90tr ×10%), hiện giờ dữ trữ vượt mức là 1 triệu (10tr – 9 tr). Quan sát ta thấy chứng khoán, các khoản cho vay và vốn sở hữu của NH không có sự thay đổi khi xảy ra vụ rút 10 triệu tiền gửi. Trong ngắn hạn, nếu một NH có khoản tiền dự trữ vượt mức dồi dào, một dòng tiền rút ra không đòi hỏi phải có những thay đổi ở các phần khác trong bảng quyết toán tài sản của NH. - VD2: Đối với NH không có khoản dự trữ vượt mức Ban đầu, dự trữ của NH là 10 triệu, TS tiền gửi là 100 triệu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Lúc này tiền dữ trữ bắt buộc của NH là 10 triệu (100tr ×10%), do đang nắm giữ 10 triệu dự trữ nên NH không có dự trữ vượt mức. Nếu tiền gửi bị rút 10 triệu thì sẽ có sự thay đổi trên TS có và TS nợ. Nhìn vào bảng cân đối TS, ta thấy tiền gửi sẽ còn 90 triệu (100 triệu – 10 triệu) và dự trữ ban đầu sẽ bằng 0. Theo quy định, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% nên tiền dữ trữ bắt buộc của NH là 9 triệu (90tr ×10%), nhưng NH đã không còn tiền để dự trữ. Vậy làm cách nào để NH có tiền dự trữ ? Để có tiền dự trữ, NH có 4 cách sau: + Cách 1: Vay của NH khác trong thị trường liên NH + Cách 2: Bán chứng khoán cho Fed + Cách 3: Vay với lãi suất chiết khấu từ Fed + Cách 4: Mang các khoản cho vay ký gửi tại Fed Nhưng để thực hiện 4 cách này, NH phải mất 1 khoản chi phí. Các khoản tiền dữ trữ quá mức là sự đảm bảo nhằm đối phó với chi phí khi có giao dịch rút tiền. Chi phí cho việc rút tiền càng lớn thì NH càng muốn giữ nhiều tiền dự trữ vượt mức hơn. 2.2.2 Quản trị tài sản có - Mục tiêu của quản trị TS có: + Giảm rủi ro + Tìm kiếm lợi nhuận cao từ việc cho vay và kinh doanh chứng khoán + Tạo ra dự trữ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền. - Có 4 cách để thực hiện mục tiêu: + Tìm người đi vay với lãi suất cao và rủi ro thấp bằng cách NH có thể quảng cáo hoặc tiếp cận khách hàng để chào mời những món vay mà NH đề ra. 14
- + Mua chứng khoán với lợi nhuận cao và rủi ro thấp + Đa dạng hóa nguồn đầu tư + Quản lý khả năng thanh khoản của tài sản 2.2.3 Quản trị tài sản nợ - Trước những năm 1960, nhìn chung các NH coi việc quản trị TS nợ là bình thường với 2 lý do sau: + Trên 60% các nguồn tiền vốn NH thu được qua các món tiền gửi có thể phát séc (không mang lại tiền lãi) + Thị trường cho vay ngắn hạn giữa các NH phát triển không tốt nên các NH hiếm khi vay từ các NH khác để đáp nhu cầu tiền dự trữ của mình. Trước năm 1960: Các NH coi tài sản nợ là cố định và cố gắng tối ưu tài sản có. - Kể từ năm 1960 trở đi: Các NH lớn (Monney center bank) bắt đầu nghiên cứu kỹ những phương pháp trong đó những tài sản nợ trên bảng quyết toán tài sản của họ có thể đem lại những khoản tiền dự trữ và tính thanh khoản. Sự ra đời của công cụ tài chính mới: CDs (chứng chỉ tiền gửi) có thể bán lại được (Chứng chỉ tiền gửi là 1 chứng từ có giá, do NH phát hành để huy động vốn từ cá nhân hoặc công ty.Chứng chỉ tiền gửi cũng như tiết kiệm, nhưng so với tiết kiệm thì chứng chỉ tiền gửi có lãi suất cao hơn và 1 điều quan trọng là nó có thể chuyển nhượng được). - Tính chất mềm dẻo trong việc quản lý tài sản nợ Sự thay đổi trong phương pháp quản lý NH: + Không còn lệ thuộc vào tiền gửi có thể phát séc như là nguồn vốn hàng đầu của NH. + Đề ra mục tiêu cho sự tăng trưởng của TS có. + Cố gắng có được nguồn vốn (bằng cách phát hành TS nợ). - Việc đặt trọng tâm vào công tác quản trị TS nợ lý giải 1 số thay đổi quan trọng trong cơ cấu bảng cân đối TS của NH: + (CDs) có thể bán lại được và khoản vay từ NH khác tăng 2% năm 1960 lên 34% (giữa năm 2011). + Tiền gửi có thể phát séc giảm từ 61% năm 1960 xuống còn 10% giữa năm 2011. 2.2.4 Quản trị vốn chủ sở hữu - 3 lý do mà NH quản trị VCSH: + Ngăn chặn phá sản ngân hàng + Đảm bảo lợi ích cho cổ đông + Duy trì vốn theo quy định của NHNN. - Để quản trị VCSH, người ta đánh giá qua chỉ tiêu ROE. Có 3 cách làm tăng ROE (làm ngược lại để giảm ROE): + Trả cổ tức cao cho các cổ đông + Mua trở lại một số cổ phiếu của NH + Vẫn giữ vốn chủ sở hữu nhưng tăng tài sản có. - Khi có một sự thiếu hụt trong Vốn cổ phần có khả năng làm cho NH có thể giảm tài sản và một số hợp đồng vay. 3. Quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất 3.1 Quản trị rủi ro tín dụng - Rủi ro này NH thường xuyên gặp phải. Biểu hiện của rủi ro tín dụng là các khoản cho vay của NH giảm giá trị hay không thu hồi được. - Rủi ro NH gặp phải: + Rủi ro sự lựa chọn nghịch ( Adverse Selection): lựa chọn những người đi vay mà những người này có rủi ro cao. 15
- + Rủi ro đạo đức (Moral Hazard):những người đi vay đầu tư vào nhưng dự án có rủi ro cao mà người cho vay không mong muốn. - Các hoạt động quản trị rủi ro tín dụng như sau: 3.1.1 Kiểm tra và giám sát - Kiểm tra + Loại bỏ khách hàng vay có triển vọng tốt ra khỏi khách hàng vay có triển vọng xấu để đánh giá rủi ro khách hàng. + Các bước để 1 NH quyết định cho vay khi khách hàng có yêu cầu: Tìm hiểu thông tin khách hàng Đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng Sau cùng mới quyết định cho vay. + Chuyên môn hóa trong hoạt động cho vay: NH chỉ cho vay những khách hàng trong một khu vực hay ngành nghề nhất định nhằm dự báo về khả năng thanh toán,hạn chế rủi ro. - Giám sát: Theo dõi tình trạng sử dụng vốn của khách hàng, tình trạng kinh doanh và giới hạn lại những dự án rủi ro nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. 3.1.2 Quan hệ lâu dài với khách hàng - Nhờ mối quan hệ lâu dài với khách hàng mà NH sẽ: + Giảm được RRTD tốt & xấu + Tiết kiệm chi phí tìm hiểu thông tin + KH có thể vay nhanh với lãi suất thấp + Giúp NH đối phó với bất ngờ rủi ro đạo đức 3.1.3 Hợp đồng vay - Hợp đồng vay là những thỏa thuận giữa NH với khách hàng về: + Số tiền vay + Thời hạn vay + Lãi suất + Những thỏa thuận khác 3.1.4 Thế chấp và ký quỹ vay - Thế chấp: Tài sản thế chấp là tài sản được dùng để đền bù cho NH khi người đi vay vỡ nợ (NH có thể dùng tài sản thế chấp để bù lại những tổn thất do món vay đó gây ra). - Ký quỹ: Khách hàng sẽ ký quỹ một phần của khoản vay tại NH. Hình thức này sẽ: + Tăng khả năng thanh toán món tiền vay + Giúp NH giám sát được người vay tiền. 3.1.5 Hạn mức tín dụng - Hai phương thức hạn chế tín dụng: + Từ chối cho vay với số lượng bất kỳ dù lãi suất cao để hạn chế RRTD xấu + Chỉ cho khách hàng vay trong hạn mức tín dụng cho phép để hạn chế RR đạo đức. 3.2 Quản trị rủi ro lãi suất - Trong bảng cân đối TS trên, TS có nhạy cảm với lãi suất là 20 triệu, TS nợ nhạy cảm với lãi suất là 50 triệu. Khi lãi suất tăng 5% thì: + TS có tăng 1 triệu (20tr×5%) + TS nợ tăng 2.5 triệu (50tr×5%) Tức là khi lãi suất tăng 5% thì chi phí đi vay của NH là 2.5 triệu, trong khi lợi nhuận thu được từ TS cho vay chỉ có 1 triệu. Lúc này lợi nhuận của NH giảm tương ứng là 1.5 triệu (2.5tr – 1tr). 16
- Nếu 1 NH có khoản tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất biến động lớn hơn tài sản có thì một sự gia tăng của lãi suất sẽ làm giảm lợi nhuận của NH và ngược lại. 3.2.1 Phân tích chênh lệch - GAP = TS có nhạy cảm với lãi suất – TS nợ nhạy cảm với lãi suất - VD = 20 tr – 50 tr = –30 tr Khi lãi suất tăng 5% thì lợi nhuận giảm –1.5 triệu [5%× (–30tr)]. 3.2.2 Phân tích thời gian đáo hạn bình quân gia quyền - Phần trăm thay đổi trong giá trị thị trường của chứng khoán ≈ −Phần trăm thay đổi trong lãi suất × Thời gian đáo hạn của chứng khoán. - VD: Thời gian đáo hạn trung bình của TS có là 3 năm, giá trị là 100 triệu. Thời gian đáo hạn trung bình của TS nợ là 2 năm, giá trị là 90 triệu. Khi lãi suất tăng 5% thì: + Giá trị thị trường của TS có giảm 15% (−5%×3 năm), tương ứng giảm 15 triệu (−15%×100tr). + Giá trị thị trường của TS nợ giảm 10% (−5%×2 năm), tương ứng giảm 9 triệu (−10%×90tr). Giá trị ròng = −15tr – (-9tr) = -6tr. Vậy khi lãi suất tăng 5% thì giá trị ròng giảm 6% trên tổng giá trị TS. NH có thể giảm rủi ro bằng những cách sau: - Nếu lãi suất mong đợi giảm trong tình trạng NH có tài sản nợ lớn hơn tài sản vốn với lãi suất biến động thì NH sẽ không có hành động gì. - Nếu lãi suất mong đợi tăng thì NH sẽ rút ngắn thời gian tồn tại của tài sản có và hoặc tăng thời gian tồn tại của tài sản nợ. - Thưc hiện công cụ tài chính phái sinh: hợp đồng kỳ hạn, tương lai, quyền chọn, hoán đổi. 3.3 Quản trị RRTD và RRLS tại VN 3.3.1 Quản trị RRTD - Thực trạng: Các ngân hàng tại Việt Nam đều thiết lập một quy trình cho vay đối với các khoản vay của ngân hàng như thu thập thông tin, thẩm định, xét duyệt, giải ngân, và các uy trình theo dõi đánh giá phân loại nợ. Tuy nhiên, tình quản trị rủi ro tại Việt Nam Ngân hàng vẫn ở mức trung bình. - VD: Tình trạng nợ xấu khoảng 10%. Nhiều vụ lừa đảo ngân hàng gây chấn động lớn như vụ Huyền Như đã lừa đảo 4000 tỷ đồng, vụ Bầu Kiên- phó Chủ tịch HĐQT NH ACB. - Nguyên nhân: + Thói quen của các cán bộ làm công tác quản trị rủi ro coi quản trị rủi ro là công việc thường nhật, mang tính chất thủ tục nhiều hơn. + Nhiều NH vẫn có quan điểm sai lầm: coi QTRR chỉ là “sân sau” không đóng góp vào kết quả kinh doanh nên không đầu tư tương xứng. + Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ chủ yếu dựa vào các nhân tố định tínhchưa có một chuẩn mực rõ ràng để làm cơsở cấp tín dụng. 3.3.2 Quản trị RRLS - Thành tựu: + Đo lường rủi ro lãi suất bằng việc điều chỉnh khe hở nhạy cảm với lãi suất phù hợp với từng thời kỳ. + NHTM chủ động điều chỉnh lãi suất kịp thời theo biến động của thị trường trong việc thực hiện lãi suất cho vay. + Cân đối khối lượng giữa nguồn vốn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. + Thường xuyên theo dõi diễn biến lãi suất trên địa bàn, và tính chênh lệch lãi suất bình quân cho vay và huy động vốn từng thời kỳ. 17
- - Hạn chế: + Chưa có quy trình hướng dẫn cụ thể về quản trị rủi ro lãi suất. + Quản trị rủi ro lãi suất không được hoạch định một cách riêng lẻ, mà thực hiện xen kẻ trong quản trị huy động vốn và cho vay. + Hệ thống thông tin chưa hỗ trợ tốt. + Công tác quản lý rủi do lãi suất tại Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường cách đây hơn 10 năm nhưng chỉ mang tính thí điểm, nhỏ bé, đơn lẻ, 4. Các hoạt động ngoại bảng của NH - Hoạt động ngoại bảng của NH là hoạt động không dùng đến vốn, TS của NH; các chỉ tiêu của hoạt động ngoại bảng cũng không được quyết toán trên bảng cân đối TS của NH. Hoạt động ngoại bảng liên quan đến việc mua bán các công cụ tài chính và tạo ra thu nhập từ các khoản lệ phí và bán những món cho vay - Ba hoạt động ngoại bảng của NH như sau: 4.1 Bán các khoản cho vay (Bán nợ) - NH bán những khoản cho vay của mình cho những tổ chức khác với mức giá có thể cao hơn một chút so với khoản nợ gốc. Người mua có thể kiếm được một khoản lợi nhuận với chênh lệch lãi suất, thường là khoản 0.15%. 4.2 Tạo các khoản thu nhập về phí - NH cung cấp những dịch vụ chuyên biệt cho khách hàng: + Kinh doanh ngoại hối nhân danh 1 khách hàng + Phục vụ một chứng khoán hỗ trợ vay thế chấp bằng cách thu tiền gốc và tiền lãi rồi đem thanh toán hết + Đảm bảo các chứng khoán vay nợ (hối phiếu ) + Cung cấp mức tín dụng hỗ trợ.( cho vay thấu chi, thư tín dụng dự phòng .) 4.3 Hoạt động thương mại và các kỹ thuật quản trị rủi ro - Hoạt động thương mại thường mang về những khoản lợi nhuận cao cho NH tuy nhiên có nhiều rủi ro. - Những phương pháp để hạn chế rủi ro: + Tách biệt giữa người phụ trách hoạt động giao dịch và người giữ sổ sách + Giới hạn lượng tiền giao dịch và những rủi ro về tài chính + Sử dụng cộng cụ đo lường rủi ro (value-at-risk, stress testing). 4.4 Các hoạt động ngoại bảng tại VN - Tiềm năng phát triển: + NHNN quản lý chặt chẽ LS huy động vốn, điều này ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn và áp lực khả năng thanh khoản cho NHTM. + Hoạt động tín dụng tăng chậm. + Đa dạng hóa DV, SP từ nội bảng đến ngoại bảng để theo kịp chuẩn mực hoạt động của NH quốc tế. + TT phái sinh tín dụng sớm hình thành tại VN → phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỷ giá. Hoạt động ngoại bảng là mảnh đất tiềm năng, cần phát triển. - Các hoạt động ngoại bảng ở VN: + Nghiệp vụ bảo lãnh. + Các nghiệp vụ thanh toán quốc tế. + Các nghiệp vụ phái sinh: Swaps, Options, Futrues. + Cho thuê tài sản. + 18
- - Quản trị rủi ro hoạt động ngoại bảng: + Xây dựng mô hình bộ phận chuyên trách về rủi ro. + Nâng cao hiệu quả trong công tác quản trị rủi ro. + Dự báo rủi ro hoạt động NH. + Đo lường rủi ro: xếp hạng TD, Duaration, Factor Sensitivity, Value at Risk ). + Kiểm soát và giám sát rủi ro hoạt động ngoại bảng. 5. NGÂN HÀNG VÀ CẤU TRÚC CẠNH TRANH 5.1. Quá trình phát triển lịch sử 1930-1933: 9.000 vụ sụp đổ ngân hàng -> Đạo luật Glass Steagall ra đời 5.2. Sự đổi mới tài chính và sự phát triển của ngành ngân hàng * Đổi mới tài chính làm thay đổi cả hệ thống tài chính. * Đổi mới tài chính do các định chế tài chính tạo ra với mục đích tạo lợi nhuận cho họ. * Sự thay đổi môi trường tài chính đã khuyến khích các định chế tài chính tìm kiếm đổi mới tài chính * Bắt đầu năm 1960, có 3 sự thay đổi lớn trong môi trường tài chính, cùng với nó là các hành động liên quan của các định chế tài chính: - Thay đổi điều kiện cầu: biến động của lãi suất Biến động lãi suất ngày càng lớn và càng khó dự đoán (1950-1980) (tình hình cụ thể trang 253), dẫn đến rủi ro lãi suất cao. Để góp phần giảm rủi ro lãi suất, 2 công cụ tài chính mới ra đời: + Cho vay cầm cố với lãi suất linh hoạt: các khoản cho vay cầm cố lãi suất thay đổi khi lãi suất thị trường (tín phiếu kho bạc) thay đổi. Cho vay với hình thức này, khi lãi suất lên các định chế tài chính được hưởng lợi, nhưng hộ gia đình không ưa thích hình thức này nên tồn tại 2 hình thức song song (hình thức cố định) + Các công cụ tài chính phái sinh: một dạng trong các công cụ này là hợp đồng kỳ hạn (trong đó người bán nhất trí cung cấp một hàng hóa tiêu chuẩn nào đó cho người mua tại một thời điểm cụ thể trong tương lai) - Thay đổi điều kiện cung: công nghệ thông tin Công nghệ thông tin tiến bộ. Dẫn đến giảm chi phí xử lý giao dịch tài chính (tạo lợi nhuận cho định chế tài chính khi tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới) và dễ dàng thu thập thông tin (giúp dễ dàng phát hành chứng khoán hơn). Do đó nảy sinh nhiều sản phẩm dịch vụ mới (trang 326 sách tiếng Anh, trang 254 sách tiếng Việt): + Tín dụng ngân hàng và thẻ ghi nợ + Ngân hàng điện tử + Trái phiếu đắm đò (junk bond) (trái phiếu chưa đạt tiêu chuẩn đầu tư) + Thị trường thương phiếu. Thương phiếu là chứng chỉ nợ ngắn hạn được các ngân hàng và công ty lớn phát hành. + Chứng khoán hóa. Là khái niệm dùng để chỉ quá trình chuyển đổi những tài sản tài chính mà thông thường có tính thanh khoản thấp thành các chứng khoán mua bán được trên thị trường vốn. - Lẫn tránh các quy định hiện hành Chính phủ Mỹ đã có những biện pháp điều hành nặng nề đối với ngành tài chính cản trở nặng với việc kiếm lợi nhuận của các định chế tài chính, nên họ đã lẫn tránh chúng để tìm kiếm lợi nhuận. 2 nhóm biện pháp điều hành hạn chế nghiêm trọng khả năng kiếm lợi nhuận là: + Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (tỷ lệ tiền gửi nhất định dưới dạng dự trữ, bao gồm tiền mặt trong két và tiền gửi Hệ thống Dự trữ Liên bang). Vì tiền dự trữ không được trả lãi nên quy định tỷ lệ dự trữ cũng tương tự như quy định nộp một khoản thuế. 19
- + Các hạn chế đối với lãi suất trả cho tiền gửi (áp dụng đến năm 1980): có 2 hạn chế, một là không cho trả lãi cho tài khoản séc, 2 là quy định lãi suất trần với tài khoản tiền gửi. Làm khó thu hút vốn. Hai biện pháp điều hành này đã dẫn đến 2 sự đổi mới tài chính (trang 260 sách tiếng Việt): + Quỹ hỗ tương trên thị trường tiền tệ. Quỹ hỗ tương trên thị trường tiền tệ được hình thành, phát hành cổ phiếu bán với giá cố định, sau đó dùng tiền bán cổ phiếu đầu tư chứng khoán ngắn hạn để đem lãi suất cho người mua cổ phiếu. Tương tự khách hàng cũng có thể viết séc, và nhận lãi suất cao vì không phải tuân thủ tỷ lệ dự trữ bắt buộc và hạn chế lãi suất. + Tài khoản quét sạch. Bất kỳ số dư nào cao hơn một mức nhất định trong tài khoản viết séc của các công ty đều bị quét sạch ra khỏi tài khoản vào cuối ngày kinh doanh và được đầu tư vào những chứng khoán qua đêm đem lại lãi suất cho công ty. Do bị quét sạch nên chúng không phải chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc đồng thời có thể trả lãi cao. Đổi mới này được hỗ trợ bởi công nghệ tiến bộ. - Đổi mới tài chính dẫn đến suy giảm của nghiệp vụ ngân hàng truyền thống. Đổi mới tài chính làm ngân hàng truyền thống bị suy giảm (ngân hàng bị đẩy đến chỗ phải đi tìm lĩnh vực kinh doanh mới): giảm sút về ưu thế về chi phí trong thu hút vốn và giảm sút của ưu thế về thu nhập trong sử dụng vốn. Ngân hàng đã phản ứng bằng 2 cách: duy trì hoạt động cho vay của mình bằng cách thâm nhập vào những lĩnh vực cho vay mới, rủi ro hơn; và theo đuổi các hoạt động ngoại bảng. Tương tự ở Mỹ, một số nước khác, ngân hàng cũng gặp khó khăn như Nhật, Ôxtralia. 5.3. Cơ cấu ngành ngân hàng thương mại Mỹ Ở nước Mỹ có đến 6.500 ngân hàng thương mại, nguyên nhân là do các biện pháp điều hành trong quá khứ: Những hạn chế về lập chi nhánh. Theo đó tất cả các bang đều quy định chi tiết về loại hình và số lượng ngân hàng mà một chi nhánh có thể thành lập. Mục đích chống lại sự cạnh tranh trong ngân hàng thương mại và cho phép nhiều ngân hàng nhỏ tiếp tục tồn tại bởi vì các ngân hàng lớn không được mở chi nhánh gần đó. Phản ứng đối với những hạn chế về lập chi nhánh. Bị hạn chế cạnh tranh, 2 đổi mới tài chính đã ra đời: + Công ty nắm giữ ngân hàng (công ty mẹ) là khái niệm dùng để chỉ các công ty sở hữu một hay nhiều công ty khác. Các công ty này nắm cổ phần của ngân hàng để nắm giữ ngân hàng, ngoài ra nó còn tham gia vào hoạt động khác gắn với ngân hàng (cung cấp tư vấn, đầu tư; dịch vụ xử lý và truyền dẫn số liệu, cho thuê tài chính ) Đổi mới này rất thành công. + Máy rút tiền tự động (ATM). Sử dụng ATM để mở rộng thị trường nhưng không đứng tên sở hữu mà sử dụng hình thức thuê để các cơ quan điều hành không cho ATM là một chi nhánh. Mặt khác, nguyên nhân tạo ra ATM cũng có sự phát triển của công nghệ. Thuận lợi: Máy tính rẽ -> chi phí thấp. CÔNG NGHỆ + NGUYỆN VỌNG NÉ TRÁNH CÁC QUY ĐỊNH -> ĐỔI MỚI TÀI CHÍNH. 5.4. Sự hợp nhất và sự phân tách 5.4.1. Sự hợp nhất - Số lượng ngân hàng giảm mạnh có 2 hình thức: thứ nhất là sụp đổ và thứ 2 là hợp nhất. Hợp nhất bao gồm sáp nhập và mua lại (thôn tính). Tuy nhiên, lý do giảm đáng kể số lượng ngân hàng được trả lời chính là do sự hợp nhất ngân hàng. Các ngân hàng đã sáp nhập lại để tạo ra một thể chế lớn hơn hoặc đã mua các ngân hàng khác. - Bằng chứng thực tế: + Thời kỳ ổn định: từ năm 1934 tới giữa những năm 1980, + Thời kỳ khó khăn trong những năm 1980 và đầu những năm 1992: số lượng ngân hàng thương mại bắt đầu giảm mạnh. 1985 – 1992: số lượng ngân hàng đã giảm tới 3000 – nhiều hơn gấp đôi số vụ sụp đổ. 20
- + Thời kỳ 1992 – 2002, khi ngành ngân hàng trở lại lành mạnh: số lượng ngân hàng lại giảm tới trên 4100, trong đó có gần 5% bị sụp đổ và hầu hết các ngân hàng này là ngân hàng nhỏ. - Nguyên nhân dẫn đến hợp nhất hàng loạt: + Nới lỏng quy định hạn chế thành lập chi nhánh: + Lợi ích của việc hợp nhất đem lại: lúc này họ có thể đa dạng hóa Ít xảy ra vỡ nợ: họ có thể cho vay ở nhiều bang, chứ ko phải một bang như trước. Điều này đem lại cho họ lợi thế là nếu nền kinh tế ở một bang yếu kém, thì nền kinh tế ở các bang khác mà họ đang hoạt động có thể mạnh, bởi vậy khả năng các khoản cho vay ở những bang khác nhau đồng thời vỡ nợ ít xảy ra hơn. Tăng quy mô: việc cho phép các ngân hàng sở hữu ngân hàng ở các bang khác còn có nghĩa là cho phép họ tận dụng những lợi thế kinh tế quy mô nhờ việc tăng quy mô bằng cách mua lại hoặc sáp nhập với các ngân hàng ở bang khác. + Hỗ trợ của web và công nghệ máy tính: Sự ra đời của các trang Web và công nghệ máy tính ngày càng hoàn thiện là yếu tố thúc đẩy sự hợp nhất ngân hàng. Công nghệ thông tin cũng làm tăng hiệu quả của quy mô lớn, tức khả năng sử dụng một nguồn lực để cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau. - Sự hợp nhất dẫn tới 2 hậu quả: + Thứ nhất, các dạng trung gian tài chính khác nhau ngày càng thâm nhập vào lãnh địa của nhau, làm cho chúng ngày càng giống nhau hơn. + Thứ 2, sự hợp nhất dẫn tới sự phát triển của cái mà Quỹ dự trữ liên bang gọi là định chế ngân hàng lớn và phức tạp. Lợi ích quan trọng của sự hợp nhất ngân hàng và ngân hàng toàn quốc: o Việc dỡ bỏ các hạn chế địa lý đối với ngân hàng sẽ làm tăng sự cạnh tranh và đẩy các ngân hàng ko có hiệu quả ra khỏi thị trường, qua đó làm tăng hiệu quả của ngành ngân hàng. o Việc chuyển sang các tổ chức ngân hàng lớn hơn cũng có nghĩa là hiệu quả tăng lên, bởi vì các tổ chức lớn có thể tận dụng lợi thế kinh tế quy mô và hiệu quả quy mô lớn. o Sự đa dạng hóa ngày càng tăng của danh mục đầu tư cho vay của ngân hàng có thể làm giảm xác suất xuất hiện khủng hoảng ngân hàng trong tương lai. Nỗi lo: o Sự giảm sút quy mô cho vay đôi với doanh nghiệp nhỏ. o Sự vội vả của ngân hàng trong việc mở rộng phạm vi hoạt động vào những khu vực địa lý mới có thể làm tăng nguy cơ gây ra sụp đổ ngân hàng. Tuy nhiên cái lợi vượt quá cái hại. 5.4.2. Sự phân tách Sự phân tách ở đây là phân tách giữa ngành ngân hàng và các ngành dịch vụ tài chính khác do Đạo luật Glass – Steagall năm 1933 tạo ra. - Đạo luật Glass – Steagall cho phép các ngân hàng thương mại bán chứng khoán chính phủ mới phát hành, nhưng họ cấm: 21
- o Ngân hàng bảo lãnh chứng khoán công ty. o Ngân hàng tham gia hoạt động môi giới. o Ngân hàng tham gia vào hoạt động bảo hiểm và kinh doanh bất động sản. o Ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm tham gia vào các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. - Nhưng sự theo đuổi lợi nhuận và đổi mới tài chính đã khuyến khích các ngân hàng và định chế tài chính tìm cách né tránh: o Công ty môi giới tham gia hoạt động ngân hàng o Công ty nắm giữ ngân hàng bảo lãnh chứng khoán o Ngân hàng tham gia vào bất động sản - Tuy nhiên, sự lách luật này vẫn không tạo cho ngành ngân hàng Mỹ cạnh tranh tốt với ngành ngân hàng ở nước ngoài. Năm 1999 Đạo luật về Hiện đại hóa dịch vụ tài chính Gramm – Leach – Bliley ra đời. Nó cho phép các công ty chứng khoán và bảo hiểm mua ngân hàng và cho phép các ngân hàng bảo lãnh chứng khoán, bảo hiểm và tham gia vào hoạt động kinh doanh bất động sản. - Sự phân tách giữa ngân hàng và các ngành dịch vụ tài chính trên khắp thế giới: trên thế giới có 3 mô hình cơ bản cho ngành ngân hàng và các ngành chứng khoán Mô hình thứ 1: ngân hàng tổng hợp tồn tại ở Đức, Thụy Sĩ và Hà Lan. Nó không hề phân tách giữa ngân hàng và ngành chứng khoán Mô hình thứ 2: hệ thống tiền tệ và ngân hàng tổng hợp kiểu Anh tồn tại ở Anh và các nước gần gũi với nó như Canađa, Oxtraylia và hiện nay là Mỹ Mô hình thứ 3: có một số thuộc tính biểu thị sự phân tách giữa ngân hàng và các ngành dịch vụ tài chính khác. Mô hình này được vận dụng ở Nhật. 5.5. Cạnh tranh nước ngoài Cạnh tranh nước ngoài phát triển mạnh, do 3 nguyên nhân: Sự gia tăng nhanh chóng thương mại quốc tế và công ty đa quốc gia. Kiếm được nhiều lợi nhuận từ thị trường nước ngoài. Thu hút lượng lớn tiền đô la. - Ngân hàng Mỹ ở nước ngoài + Thị trường xâm nhập: o Mỹ la tinh o Vùng viễn đông o Caribe o Luân Đôn + Hình thức hoạt động ban đầu: o Hoạt động với tư cách là trung tâm kế toán, không cung cấp dịch vụ ngân hàng bình thường o Ngân hàng Mỹ sở hữu cổ phần khống chế ở các công ty nước ngoài. - Ngân hàng nước ngoài ở Mỹ. Hình thức hoạt động ban đầu: - Khuyến khích ngân hàng nước ngoài thực hiện nhiều nghiệp vụ ở Mỹ: 1981 Quỹ dự trữ liên bang thành lập Cơ sở ngân hàng quốc tế IBF Được nhận tiền gửi nước ngoài Không quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc Không có hạn chế về lãi suất thanh toán 22
- Không cho người trong nước vay Thảo luận của lớp: 1. Trong quản trị thanh khoản và vai trò của dự trữ, có 4 cách tài trợ cho tiền dự trữ. Nêu ưu, nhược điểm của từng cách. Theo bạn, cách nào là cách tốt nhất trong 4 cách. Ưu điểm của cả 4 cách là: đều đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài chính khác của NH để hạn chế rủi ro và khả năng thanh khoản. Nhược điểm của cả 4 cách là: để tài trợ cho khoản tiền dự trữ này thì NH không tạo ra được lợi nhuận và phải chịu mất khoản phí. Tùy theo tình hình kinh tế, thị trường khác nhau, hoàn cảnh khác nhau mà từng NH sẽ có lựa chọn khác nhau nên không thể nói phương án nào là phương án tốt nhất. Cách Ưu điểm Nhược điểm 1: Vay ngân hàng khác Có được khoản dự trữ bắt buộc Bị nợ 2. Bán chứng khoán Có được khoản dự trữ bắt buộc, Tốn chi phí môi giới, chi phí giao không bị nợ dịch chứng khoán 3.Vay từ FED Có được khoản dự trữ bắt buộc Bị nợ 4. Mang khoản vay ký gửi tại Có được khoản dự trữ bắt buộc, Đây là phương án tốn kém nhất của FED không bị nợ NH - Việc bán chứng khoán là thuận lợi ở trên thị trường Mỹ vì ở đây thị trưởng mở phát triển mạnh, tính thanh khoản của thị trường tài chính rất là cao, nhưng ở VN thì không như vậy. Sách Miskin viết ở bối cảnh thị trường Mỹ, ông ấy đề nghị nên tăng dự trữ thứ cấp- dự trữ dưới dạng các chứng khoán có tính thanh khoản caovừa giúp quản lý thanh khoản tốt hơn, đồng thời vừa thu được lợi nhuận cao hơn so với các dự trữ khác. 2. Kể tên 5 NHTM nhà nước. 5 NHTM nhà nước: NHTM cổ phần ngoại thương VN, NHTM cổ phần công thương VN, NHTM cổ phần đầu tư và phát triển VN, NH nông nghiệp và phát triển nông thôn, NHTM cổ phần phát triển nhà ĐBSCL. - NH phát triển VN là NH chính sách, không phải là NHTM. NH nhà nước ở VN chỉ có 1 đó là NHTW của VN. NHTM nhà nước tức là có quy định nhà nước sở hữu bao nhiêu % thì được gọi như thế. 3. Hiện nay, các NH bán nợ xấu cho công ty VAMC (công ty quản lý TS của các tổ chức tín dụng ở VN). Sau khi VAMC mua các khoản nợ xấu của các NHTM thì họ sẽ xử lý các khoản nợ này như thế nào? Giả sử, nếu VAMC xử lý không được thì ai là người chịu thiệt cuối cùng từ các khoản nợ xấu này? Cách thức VAMC xử lý các khoản nợ xấu đã đưa vào mục tiêu của VAMC là: phân loại và cơ cấu lại các khoản nợ để giúp cho các doanh nghiệp có khó khăn; sau khi mua bán các khoản nợ xấu đó sẽ bán lại cho các tổ chức nước ngoài. Mục tiêu thứ 1: hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn thì sẽ có 1 số doanh nghiệp khi đã bị nợ xấu thì tình hình của doanh nghiệp đã rất yếu kém rồi, cho dù có kéo dài thời gian trả nợ thì chưa chắc nó đã trả được nợ. Mục tiêu thứ 2: bán lại cho các tổ chức nước ngoài thì pháp lý của VN về việc cho các tổ chức nước ngoài mua các khoản nợ xấu vẫn chưa đầy đủ, đây là một rào cản. Dẫn đến 1 khả năng là sau này khi VAMC xử lý các khoản nợ xấu thì nó rất khó khăn, dễ xảy ra rủi ro. Khi VAMC mua các khoản nợ xấu của các NHTM thì sẽ đưa NHTM các trái phiếu cuả VAMC, NHTM sẽ cầm trái phiếu này đi vay của NH nhà nước. Do đó, nếu sau này VAMC xử lý không được các khoản nợ xấu này thì NHTM sẽ không có tiền để trả cho NH nhà nước, người chịu thiệt cuối cùng là NH nhà nước, vô hình chung NHTM đã đẩy được các khoản nợ xấu này ra khỏi NH của mình. 4. NH nhà nước VN có thực sự độc lập với Chính phủ chưa ? 23
- Chưa, vì có nhiều chính sách vẫn phải thông qua chính phủ. Để nói đến độc lập thì phụ thuộc vào mục tiêu và công cụ mà NHNN sử dụng. Mỗi công cụ hay mục tiêu chính sách đều phải thông qua chính phủ, đôi khi là phải trình lên Quốc hội duyệt. Suy cho cùng thì NHNN cũng là 1 cơ quan của chính phủ. 5. Ai ủng hộ Fed độc lập ?Ai không ủng hộ Fed độc lập ? - Những người ủng hộ Fed độc lập: là những người hiểu rõ về các chu kỳ kinh tế, hiểu rõ về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa. Họ biết Fed gồm những người có chuyên môn cao, ít bị ảnh hưởng về chính trị nên Fed sẽ đưa ra những quyết định công tâm, có lợi cho nền kinh tế, không chỉ trong ngắn hạn mà còn trong dài hạn nữa - Những người không ủng hộ Fed độc lập: là những chính khách, những người ứng cử vào quốc hội. Điển hình như ở Mỹ có chu kỳ gọi là chu kỳ chính trị thì khi mà họ ứng cử vào vị trí đó thì họ thường muốn là giảm lãi suất, giảm lạm phát trong ngắn hạn để họ tạo ra uy tín, lấy được nhiều phiếu bầu. Nhưng mà họ không biết rằng trong ngắn hạn thì đạt được như thế nhưng trong dài hạn thì lạm phát, thất nghiệp càng tăng lên. Chính vì vậy những người này muốn mục tiêu trong ngắn hạn được thỏa mãn, vì vậy họ muốn Fed thuộc quyền sở hữu của họ để họ có thể điều khiển được những quyết định của Fed. Bên cạnh đó còn có những người dân không ủng hộ Fed độc lập, đó là những người cho rằng để đạt được sự toàn diện trong vấn đề điều hành, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Vì chính sách tiền tệ là do các chính khách quản lý, còn chính sách tài khóa là do chính phủ quản lý nên theo họ nghĩ để không bị chồng chéo trong điều hành cũng như đồng nhất trong tất cả các hoạt động thì Fed và chính phủ nên hợp nhất làm một. * Ngày cả công chúng đôi khi cũng không ủng hộ vì lợi ích riêng của họ. Ví dụ: khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn của Mỹ, là nguyên nhân làm bùng nổ khủng hoảng tài chính năm 2008, lan rộng đến bây giờ và vẫn chưa khắc phục được. Thời kỳ đó, bắt đầu từ năm 2001, vì mục tiêu kinh tế nên Fed đã giảm lãi suất, nhân cơ hội đó Fed muốn người dân Mỹ sở hữu nhà ở. Nhưng sau đó, do tình hình thế giới bắt buộc Fed phải tăng lãi suất nên người mua nhà vay tiền từ các NH gặp khó khăn, lợi ích của họ bị xâm hại và họ muốn Fed phải thay đổi chính sách. Như vậy, nếu lợi ích nhóm này đủ lớn và họ thuyết phục được các nhà chính sách, họ muốn các nhà chính sách này (tức chính phủ) tác động đến Fed để Fed có chính sách ngược lại, làm sao phù hợp với lợi ích của họ. Chu kỳ chính trị: tôi là chính khách, tôi muốn đánh bóng tên tuổi, muốn lấy lòng cử tri thì tôi sẽ làm sao đó để tình hình kinh tế ổn hơn, dễ chịu hơn đối với cử tri. Ví dụ thất nghiệp đang tăng thì phải làm sao cho giảm xuống, tạo điều kiện, công ăn việc làm cho người dân. Có thể tạo sức ép đối với Fed để Fed thực hiện mục tiêu ngắn hạn của tôi để tôi tranh cử. Trong trường hợp này, các nhà chính khách rất muốn Fed làm theo ý muốn của mình. Nói tóm lại, các nhóm lợi ích, các chủ thể thường hành xử vì lợi ích của họ. Do vậy, Fed phải được kiểm soát bởi nhiều chiều. Nếu không trong trường hợp mà lợi ích của nhóm điều hành Fed bị ảnh hưởng, có thể họ sẽ hành động vì lợi ích của họ thì như vậy sẽ không tốt. Tóm lại, ai thích Fed độc lập ? Câu trả lời là: đó là những người mà Fed độc lập thì tốt cho họ. Ngược lại, ai không thích Fed đôc lập? là những người mà nếu Fed bớt độc lập đi thì sẽ có lợi cho họ. Ví dụ bản thân tôi là nhà chính khách, có khi tôi thích Fed bớt độc lập đi, có khi tôi lại thích Fed độc lập. Tùy theo lợi ích lúc đó của tôi thế nào. 6. Những hạn chế khi áp dụng NH điện tử ở VN hiện nay. Do tập quán tiêu dùng, kiến thức, nhận thức của người Việt về thanh toán điện tử còn yếu. Do những địa điểm chấp nhận thanh toán điện tử còn ít. Lo ngại về sự an toàn trong giao dịch. Vấn đề tội phạm công nghệ ngày càng nhiều. Do cơ sở vật chất ở VN thì chưa phát triển đồng bộ. Thực trạng ATM hiện nay ở VN. Tại sao nó chưa mang lại hiệu quả như lý thuyết? Chi phí lắp đặt máy ATM ở VN cao, do: công nghệ còn thấp, hiệu quả kinh doanh chưa cao. Chi phí xử lý giao dịch: khi lắp đặt ATM đã giúp tiết kiệm rất nhiều chi phí giao dịch, rút ngắn thời gian giao dịch. Thực trạng: máy ATM được lắp đặt ở nhiều nơi, phục vụ rất tốt cho người dân. 24
- ATM chưa mang lại hiệu quả vì: người dân chưa hiểu biết nhiều, thói quen sử dụng tiền mặt; công nghệ kém phát triển. Máy ATM của VN phải nhập khấu từ nước ngoài về nên nó không đồng bộ, dẫn đến tình trạng nhiều khi máy hư nhưng không có thiết bị thay thế. 7. Khi NH xử lý TS đảm bảo thì khi TS bị trượt giá, NH có bị thiệt hại hay không? - NH trước khi cho vay, họ phải thẩm định TS đảm bảo và sẽ đưa ra lãi suất tương ứng. TS đảm bảo chỉ được tính 70% giá trị nên dù TS trượt giá, NH cũng không bị thiệt hại. - NH xử lý TS đảm bảo có 2 giai đoạn: + GĐ1: NH chuyển quyền sở hữu TS đó từ khách hàng sang cho NH. + GĐ2: NH phát mãi TS thế chấp. Nếu TS xuống giá mà rơi vào giai đoạn 1 thì NH sẽ bắt khách hàng bù thêm số tiền cho mà TS bị xuống giá, rơi vào giai đoạn 2 thì lúc này NH đã sở hữu TS rồi thì NH sẽ bị thiệt hại. 8. Vấn đề sụp đổ của ngân hàng: Trong hoạt động tín dụng và hoạt động NH có tâm lý dây chuyền. Một doanh nghiệp xây dựng sụp đổ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế nhưng nó không ghê gớm, nhưng 1 NHTM sụp đổ có thể kéo theo cả hệ thống bị lung lay. Bởi vì tâm lý người dân, họ cảm thấy tiền của mình đang bị rủi ro, họ cảm thấy NH này có vấn đề và sẽ đến NH rút tiền về. Nếu người dần ào ạt đi rút tiền thì hiệu ứng domino sẽ xảy ra. Ví dụ năm 1989, một loạt hợp tác xã tín dụng ở VN bị sụp đổ. Từ đó đặt ra 1 vấn đề là NH nào sụp đổ sẽ gây ra 1 chấn động đối với hệ thống NH; NH càng lớn, vai trò, vị trí càng quan trọng trong nền kinh tế thì sự sụp đổ của nó sẽ gây ra 1 cơn động đất, trong khi NH nhỏ có thể chỉ gây ra 1 cơn dư chấn thôi. Từ đó tạo ra chuyện là những NH lớn thưởng ỷ lại sự cứu giúp của NHTW, tức là nếu mình có chuyện thì cả hệ thống sẽ toi nên có thể lơ là trong quản trị rủi ro để theo đuổi những mục tiêu mang lại lợi nhuận cao. Bản thân công chúng cũng nghĩ là những NH này quá lớn để có thể sụp đổ. Do vậy, NHTW sẽ là người cho vay cuối cùng đối với NH này. Chính vì lý giải đó mà chứa đầy những nguy cơ. Chính vì vậy, trong ngành quản trị NHTW, họ luôn phải phân tích giữa lợi ích và chi phí. Khi 1 NH đứng trước bờ vực phá sản, họ phải phân tích. Thứ nhất, để nó chết thì chuyện gì sẽ xảy ra đối với hệ thống tài chính NH, đối với nền kinh tế. Nhưng cứu nó thì cũng sẽ có chuyện gì xảy ra đối với nền kinh tế. Họ sẽ cân đo, đong đếm; phân tích định tính, sau đó mới đến định lượng. Theo các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó để quyết định nên cứu hay không cứu, ngay cả khi quyết định cứu đi chăng nữa cũng không phải tung tiền ra cứu ngay mà họ thường kêu gọi các NHTM khác bảo là nó có chuyện, nếu để nó chết thì mình cũng mệt mỏi, cho nên tốt nhất là mỗi anh góp lại một ít chung tay mà xử lý, kiểu thường như vậy. Tại vì nếu cứ hễ có vấn đề là NHTW lại phát hành tiền thì sẽ gây áp lực đối với lạm phát. Không thể phát hành chứng từ có giá để trung hòa áp lực lạm phát vì thị trường mở ở VN chưa phát triển mạnh, chưa sâu rộng, nó khác với tình hình của Mỹ. Cái lõi của vấn đề NHTW- 1 viễn cảnh toàn cầu là: tại sao Miskin lại mô tả sự hình thành, phát triển, cách thức tổ chức cũng như lý giải tại sao Fed lại độc lập đến thế? Ông ấy nói đến Fed nhiều như vậy là vì Fed là 1 mô hình tổ chức đặc trưng, cực kỳ đặc biệt. Nhờ mô hình tổ chức như vậy cho nên hành vi của Fed giảm thiểu được những hành vi quan liêu, không hành động vì lợi ích của nhóm lợi ích nào cả, mà ngay cả 7 thành viên trong Hội đồng thống đốc phải đến từ những bang khác nhau để không thiên vị cho 1 bang nào. Fed độc lập ở 2 khía cạnh: tổ chức và nguồn thu nhập nên nó không phụ thuộc vào chuyện quốc hội phân bổ ngân sách cho nó, nó có thể đưa ra những quyết định độc lập (phụ thuộc vào kinh tế là phụ thuộc vào chính trị). Hai lý do làm cho Fed trở nên độc lập: Về cơ cấu tổ chức (nửa công, nửa tư). Nó sở hữu 1 phần nhà nước, 1 phần tư nhân (các NHTM là thành viên của nó, và để trở thành thành viên thì phải mua cổ phiếu của Fed). Để đảm bảo rằng không phải vì lợi ích từ các cổ tức đó mà có những hành vi lệch lạc, quan liêu thì quốc hội Mỹ đã quy định là cổ tức không được vượt quá 6%. 25
- Ngay cả bản thân của các thống đốc NH khu vực thì cách thức chọn lựa và cân đối giữa nhóm A, B, C rất là đối trọng về quyền lực để không có nhóm lợi ích nào có thể chi phối Fed cả. Từ đây thấy rằng, viễn cảnh toàn cầu đang tạo ra cho NHTW sự độc lập riêng so với chính phủ, càng ngày càng độc lập hơn. Từ đó liên hệ đến VN, VN bàn đến chuyện đó nhiều nhưng nếu chỉ có văn bản bảo là cho NHTW độc lập như vậy thôi, trong cách tổ chức hoạt động chưa thật sự độc lập. Cái mà chúng ta học tập khi chúng ta bảo là tạo cho NHTW VN sự độc lập so với chính phủ để nó hoạt động, điều hành chính sách tiền tệ thanh khiết hơn nhưng chúng ta quên mất rằng là mảng tổ chức của mình vận dụng vào rất tốt chứ không phải theo kiểu lợi ích nhóm. Cứu các công ty bất động sản thì đằng sau là ai, đứng đằng sau NH là ai, vấn đề sở hữu chéo Cho nên để nó độc lập nhưng mà không có hành vi quan liêu, đòi hỏi cách thức tổ chức phải rất là ổn để tạo ra đối trọng, không ai chi phối được nó, nó phải hoạt động vì lợi ích chung của XH. + Khi NHTW độc lập như vậy thì vấn đề quản lý vĩ mô không chỉ về lĩnh vực tiền tệ mà lĩnh vực tín dụng NH sẽ tốt hơn. Đặt ra vấn đề là nếu NHTW tổ chức như vậy thì nó có thực sự độc lập? Tuy nhiên, nếu độc lập mà tách rời các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Nên bản thân luật pháp Mỹ quy định là quốc hội có những quy định buộc NHTW phải có những giải trình trong việc thực thi chính sách tiền tệ như vậy thì sự phối hợp của nó với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác thế nào để tạo ra hợp lực, đạt mục tiêu chung. Bản thân quốc hội có thể đưa ra điều luật để thay đổi sự độc lập của NHTW, tạo ra sự đối trọng vì nếu nó độc lập quá thì cũng toi vì quốc hội là đại diện lợi ích của toàn dân. + Từ vấn đề NHTW- 1 viễn cảnh toàn cầu lại bắt sang vấn đề quản trị NH. Các hoạt động: quản trị thanh khoản, quản trị TS, quản trị nợ, quản trị sự thích hợp của vốn (duy trì VCSH) là những vấn đề trọng tâm trong quản trị NHTM. Sau khi tìm hiểu thì thấy là quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất đối với NH rất là quan trọng bởi vì hoạt động chính của NH là đi vay để cho vay. Trong bối cảnh hội nhập, nếu 1 NHTM chỉ bám vào hoạt động truyền thống là đi vay để cho vay có nghĩa là nó không tận dụng được những cơ hội của bối cảnh hội nhập, chính vì vậy mà có 1 chỉ tiêu để đo lường thêm rủi ro của NH đó cao hay thấp đó là tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập của NH. Nếu thấp có nghĩa là chưa tận dụng được cơ hội của bối cảnh hội nhập. Tiềm năng phát triển các nghiệp vụ ngoại bảng là vấn đề hội nhập chứ không phải là vì hoạt động tín dụng tăng chậm (đây không phải là tiềm năng mà là khó khăn). Một số bài viết có liên quan về thực tế ở Việt Nam: 1. Nói thêm về sự độc lập của NHTW ở Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam): Thực tế, NHTƯ các nước trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất định trong hoạt động ở 3 lĩnh vực: Điều hành CSTT, giám sát các tổ chức tín dụng và quản trị điều hành nội bộ, tuy nhiên, mức độ độc lập là không giống nhau. Theo một nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF, 12/2004), về cơ bản, mức độ độc lập của các NHTƯ trên thế giới được phân thành 4 cấp độ, bao gồm: - Thứ nhất, độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động: Với mô hình này, NHTƯ có trách nhiệm quyết định CSTT, chế độ tỷ giá (nếu không theo chế độ thả nổi tỷ giá) và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động chủ yếu trong số các mục tiêu đã được pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập tự chủ cao nhất mà một NHTƯ có thể đạt được mà ví dụ điển hình là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - FED. Tuy nhiên, đây cũng chính là cấp độ độc lập tự chủ khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi NHTƯ phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt thì mới có thể biến mục tiêu thành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi CSTT thắt chặt. Bên cạnh đó, cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi NHTƯ có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế - tài chính. - Thứ hai, độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động: Ở cấp độ này này, NHTƯ cũng được trao trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ giá. Tuy nhiên, khác với cấp độ độc lập về mục tiêu, trong cấp độ độc 26
- lập về xây dựng chỉ tiêu hoạt động, luật quy định cụ thể một mục tiêu hoạt động chủ yếu của NHTƯ. Ví dụ, trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHTƯ Châu Âu (ECB) quy định, mục tiêu hoạt động hàng đầu của ngân hàng này là “duy trì sự ổn định giá cả” và ECB được quyết định chỉ tiêu hoạt động. Với cấp độ độc lập tự chủ này, việc thay đổi mục tiêu duy nhất đòi hỏi phải sửa đổi Luật NHTƯ. - Thứ ba, độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành: Với mô hình này, chính phủ hoặc quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận và thỏa thuận với NHTƯ. Khi quyết định được thông qua, NHTƯ có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất. Tiêu biểu cho cấp độ độc lập tự chủ này là Ngân hàng Dự trữ (NHDT) New Zealand và Ngân hàng Canada. Nói cách khác, NHTƯ được trao đủ thẩm quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt được các chỉ tiêu đã được thoả thuận giữa chính phủ/quốc hội với NHTƯ. - Thứ tư, độc lập tự chủ hạn chế: Là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất, theo đó chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTƯ, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã từ lâu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. 2. Về tính độc lập của NHNN Việt Nam 2.1. Những điểm mới trong Luật NHNN sửa đổi năm 2010 Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII vừa thông qua Luật NHNN Việt Nam (sửa đổi) và Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). So với Luật NHNN Việt Nam năm 1997 và Luật NHNN được sửa đổi, bổ sung năm 2003, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 có những điểm mới, tiến bộ sau đây: Về địa vị pháp lý, NHNN Việt Nam vẫn giữ nguyên như thể hiện trong Luật NHNN Việt Nam 1997 để phù hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, cách thiết kế trong Luật NHNN 2010 đã thể hiện rõ hơn vị trí của NHNN là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, đồng thời xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ của NHNN với tư cách là NHTƯ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các chức năng về quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, qua đó, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một NHTƯ: Thực thi CSTT và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây là nội dung quan trọng đã được thực tiễn chứng minh qua cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước vừa qua. Theo đó, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ và cơ chế vận hành được thiết kế, xây dựng theo hướng đảm bảo thực hiện được đồng thời cả hai chức năng nói trên. Bên cạnh đó, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 có nhiều nội dung thay đổi so với Luật NHNN Việt Nam 2003 và 1997, đó là: (i) Cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi CSTT quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó thẩm quyền và tính tự chủ của NHNN trong việc chủ động, linh hoạt sử dụng các công cụ CSTT đã được xác định rõ ràng. (ii) Xác định rõ được thẩm quyền của NHNN trong việc giám sát an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng thông qua hai hoạt động giám sát và thanh tra, cùng với việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng thuộc NHNN để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ thống tổ chức tín dụng. (iii) Quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động của NHTƯ nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường. Ngoài ra, Luật NHNN năm 2010 còn có những nội dung quan trọng khác đã được điều chỉnh, sửa đổi so với Luật hiện hành trên nhiều lĩnh vực hoạt động của NHNN, như: lãi suất, kế toán, quan hệ với Kho bạc Nhà nước, dự trữ ngoại hối, kiểm toán nội bộ, quản lý nhà nước đối với Bảo hiểm tiền gửi [11] 27
- Bên cạnh đó, Luật NHNN Việt Nam 2010 đã đưa ra được nội hàm của CSTT quốc gia để làm cơ sở phân định thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia của Quốc hội, Chính phủ, cụ thể: “CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát; quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”. Theo đó, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông qua chỉ số giá tiêu dùng; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia. 2.2. Về sự độc lập tự chủ của NHNN Việt Nam Vào thời điểm đầu 2008, khi mà tình hình lạm phát đang ở mức rất cao, thì dường như lúc này tính tự chủ của NHNN Việt Nam được nâng cao. NHNN đã đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng như tăng lãi suất cơ bản giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể nâng lãi suất, đảm bảo khả năng thanh toán Nhờ đó, lạm phát đã được kiềm chế phần nào. Tuy nhiên, không vì thế mà điều này có thể thay đổi được tính độc lập vốn thấp của NHNN Việt Nam. Từ khi thành lập cho đến nay, NHNN Việt Nam luôn là một cơ quan thuộc Chính phủ, là một đơn vị ngang Bộ. Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ, có hàm tương đương với Bộ trưởng, được Chính phủ bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội. Chính vì vậy, hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh rất lớn của Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT quốc gia để Chính phủ trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện và có trách nhiệm điều hành trong phạm vi đã được Quốc hội và Chính phủ duyệt. Tương tự, NHNN Việt Nam không được độc lập thiết lập mục tiêu hay xây dựng chỉ tiêu hoạt động. Xét trong bốn cấp độ độc lập của IMF (2004) thì NHNN Việt Nam nằm ở cấp độ độc lập thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế”. Đây là cấp độ độc lập thấp nhất của NHTƯ đối với Chính phủ. Điều đó phần nào làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành thực hiện CSTT quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự chậm trễ trong phản ứng chính sách trước các diễn biến khó lường trên thị trường tài chính - tiền tệ ảnh hưởng đến sự ổn định của đồng tiền. Gần như mọi hoạt động của NHNN đều phải được sự cho phép của Chính phủ (phát hành tiền, thực hiện CSTT quốc gia, cho vay ngân sách trung ương, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong trường hợp đặc biệt). Ở đây, NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan quản lý hành chính nhà nước, giống như các Bộ khác, chứ không phải là một thiết chế đặc biệt dù tổ chức, hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của một quốc gia. Bên cạnh đó, do là cơ quan của Chính phủ nên có trường hợp NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của CSTT, chẳng hạn như tái cấp vốn cho các NHTM để khoanh, xoá nợ các khoản vay của các tập đoàn nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền.[12] Tuy có nhiều điểm đổi mới, song Luật NHNN Việt Nam năm 2010 không có nhiều điểm đột phá về tính độc lập của NHNN trong việc hoạch định và thực thi CSTT quốc gia. Mặc dù định hướng chiến lược của NHNN vẫn là NHTƯ độc lập trong điều hành chính sách và độc lập trong việc lựa chọn mục tiêu tiền tệ. Tuy nhiên, NHNN hiện tại vẫn chưa thực sự đạt được mức độ độc lập theo cả hai tiêu chuẩn này. Về mặt chính sách, Chính phủ hàng năm quy định khá cụ thể, chi tiết cho NHNN, từ tổng phương tiện thanh toán đến tăng trưởng tín dụng và xu hướng tỷ giá. Còn về lựa chọn mục tiêu tiền tệ thì theo quy định của Hiến pháp Quốc hội hàng năm sẽ giao chỉ tiêu cho NHNN. Do chưa đạt được tính dẫn dắt thị trường nên doanh nghiệp và người dân thường nhìn vào quan điểm của Chính phủ và của Quốc hội về lạm phát và tăng trưởng để điều chỉnh hành vi của mình hơn là nhìn vào NHNN.[13] Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng, tính độc lập của NHNN Việt Nam đang dần được cải thiện. Như trên đã đề cập, Khoản 4, Điều 3 Luật NHNN Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 29/06/2010 của Quốc hội quy 28
- định “Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia theo quy định của Chính phủ”. Điều 10 trong Luật NHNN Việt Nam năm 2010 cũng nêu rõ: “Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện CSTT quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ”. Đây là điểm mới nhất trong Luật NHNN 2010 xét trên khía cạnh độc lập tự chủ của NHNN. Ở một mức độ nào đó, có thể nói, NHNN Việt Nam đang tiến dần từ cấp độ độc lập tự chủ thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế” lên cấp độ độc lập tự chủ thứ ba “độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành”. Với sự đổi mới này, NHNN sẽ có được sự linh hoạt và độc lập nhất định trong khâu thực hiện các mục tiêu đề ra của CSTT. Nhờ đó, thị trường tiền tệ và giá trị đồng tiền được kỳ vọng ổn định hơn, vai trò của một NHTƯ cũng được thể hiện rõ nét hơn và uy tín của NHNN cũng được nâng cao hơn. 3. Một số gợi ý chính sách cho Việt Nam Hiện nay, NHNN là một cơ quan hành chính nhà nước với tất cả các ràng buộc, quy định của hành chính. Với cơ cấu như vậy, khó có thể độc lập và có chính sách kiên quyết và đủ sức nặng. Do đó, tăng cường tính độc lập cho NHNN là mục tiêu cần hướng tới nhằm đạt được hiệu quả trong thực thi CSTT và ổn định thị trường tài chính tiền tệ nói chung. Vấn đề đặt ra là NHNN cần độc lập như thế nào, mức độ ra sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn về thể chế chính trị - kinh tế - xã hội của Việt Nam. 3.1. Quan điểm Thứ nhất, cần phải nhấn mạnh rằng, sự độc lập này không thể đến từ một quyết định thuần tuý, từ văn bản giấy tờ mà phải đến từ việc thiết kế hệ thống, thể chế, nội dung của NHNN, cấu trúc lại bộ máy của NHNN. Thứ hai, sự độc lập này chỉ có tính chất tương đối. Nói “tương đối” là bởi có những cái cho NHNN độc lập họ cũng không dám độc lập vì nó phải nằm trong một hệ thống, nhất là trong hệ thống quản lý kinh tế của chúng ta những chỉ tiêu kinh tế đan xen nhau, những chỉ tiêu kinh tế của NHNN còn phụ thuộc vào cả nền kinh tế. Cho nên điều quan trọng là tạo điều kiện cho NHNN độc lập để họ điều hành tốt, thực hiện đúng chức năng của họ, còn cái gì đòi hỏi có sự phối hợp thì cũng không nên quá đòi hỏi sự độc lập ở đây. Thứ ba, vấn đề của NHNN Việt Nam không nằm ở chỗ lựa chọn mô hình NHTƯ nào mà lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp với NHNN trong bối cảnh hiện nay. Với cấp độ độc lập thứ nhất, “độc lập chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động”, ngoài các lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống pháp luật, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế - tài chính là rất khó khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, mức độ độc lập này không phù hợp với NHNN Việt Nam ít nhất là trong thời gian trung hạn. Với cấp độ độc lập thứ hai, “độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động”, tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ ra không phù hợp với NHNN Việt Nam trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong tương lai, cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho phép (các biến số kinh tế - tài chính đã trở nên ổn định hơn; năng lực thống kê, dự báo được cải thiện). Theo ý kiến của các chuyên gia, tại thời điểm hiện nay, cấp độ “Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp với NHNN Việt Nam hơn cả, đặc biệt trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và sử dụng các cụng cụ gián tiếp. Hơn nữa, mức độ độc lập tự chủ này cho phép dung hoà giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định.[14] 3.2. Các biện pháp a. Trong ngắn hạn 29
- Trong thời gian trước mắt, nhằm tăng tính độc lập của NHNN trong khuôn khổ các quy định của Luật NHNN 2010, cần tập trung vào các vấn đề sau: Một là, xác định rõ mục tiêu hoạt động cho NHNN. Điều 4, Luật NHNN 2010 có nêu rõ: “Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói, các mục tiêu hoạt động của NHNN được quy định trong Luật có phần “ôm đồm”. Bởi lẽ, mục tiêu tối cao của NHTƯ là bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền, những mục tiêu còn lại là hệ quả của việc đạt được các mục tiêu nêu trên. Chính bởi vậy, chỉ nên xác định mục tiêu của NHNN đó là “bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền trong nền kinh tế”.[15] Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì mục tiêu có rõ ràng thì NHTƯ mới có thể kiểm soát được rủi ro trong lĩnh vực quản lý của mình. Hơn nữa, như trên đã đề cập, việc theo đuổi quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của một NHTƯ. Hai là, NHNN phải thực sự được độc lập trong quyết định thực thi chính sách và việc lựa chọn công cụ điều hành. Thống đốc phải được trao quyền quyết định trong việc thực thi các CSTT và tự chịu trách nhiệm về các quyết định đó mà không cần phải thông qua Chính phủ. Đồng thời, NHNN phải được trao đầy đủ thẩm quyền trong việc lựa chọn các công cụ điều hành CSTT một cách linh hoạt và phù hợp nhất cũng như kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT, nhất là về vấn đề chống lạm phát, để có thể đạt được các mục tiêu CSTT mà Chính phủ hay Quốc hội đã đề ra. Điều này không những góp phần làm tăng tính chủ động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của CSTT - một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các chức năng của NHTƯ. Ba là, NHNN cần độc lập hơn trong quan hệ với ngân sách. Để đảm bảo hiệu quả của CSTT, những nhiệm vụ khác như tạm ứng chi ngân sách hay tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ cũng nên được quy định lại để Thống đốc có quyền từ chối theo đúng mục tiêu thâm hụt ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường. Hơn nữa, cần có qui định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ” của NHNN theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các NHTM vay.[16] Bốn là, trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính và độc lập tương đối về mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm). Để thực thi tốt CSTT, NHNN cần phải thu hút được một đội ngũ đông đảo những chuyên gia đầu ngành về tài chính, ngân hàng. Muốn vậy, NHNN phải cạnh tranh được với các NHTM về môi trường làm việc và chế độ lương thưởng. Do đó, Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định sử dụng những khoản thặng dư trong hoạt động ngân quỹ, chuyển tiền điện tử hay quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, để có thể có cơ chế tiền lương phù hợp hơn. Hơn nữa, các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi NHNN được quyền tự chủ trong thu chi đặc biệt là trong việc quản lý biên chế các chi nhánh, cục, vụ, viện trực thuộc. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thu hút đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ để đảm bảo thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất. Ngoài ra, để nâng cao vai trò và chất lượng của sự phản biện trong việc thi hành chính sách, Thống đốc cần được trao quyền chủ động trong việc thành lập Ban tư vấn CSTT, trong đó quy tụ những chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTƯ của các nước phát triển am hiểu về điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam. Năm là, về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chủ của NHNN đối với các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị của Quốc hội phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về các quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao. 30
- Sáu là, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHNN với Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt động của NHNN hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ, cụ thể: + NHNN tham gia vào việc soạn thảo các chương trình, chính sách kinh tế của Chính phủ và đề đạt ý kiến của mình về các quyết định của Chính phủ; tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến nhiệm vụ và thẩm quyền của NHNN. + NHNN và các Bộ, ngành thuộc Chính phủ duy trì cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin để theo dõi, nắm bắt kịp thời các diễn biến vĩ mô của nền kinh tế. Bảy là, tách bạch chức năng điều hành và quản trị. Điều hành NHNN được thực hiện bởi Ban điều hành, còn quản trị nên được thực hiện bởi Hội đồng quản trị (hoặc Hội đồng quản lý) NHNN. Hội đồng quản trị là cơ quan hoạch định chính sách trong lĩnh vực tiền tệ, làm việc theo nguyên tắc tập thể, còn Ban điều hành có trách nhiệm đưa các chính sách đó vào cuộc sống. Nếu NHNN được thiết kế theo mô hình quản trị này sẽ tạo ra được phương thức quản trị ngân hàng mang tính tổng thể, định hướng chiến lược lâu dài, tránh được hiện tượng thụ động, mang nặng tính hành chính và mệnh lệnh trong điều hành. Bên cạnh đó, hoạt động của Ban điều hành cũng phải bảo đảm tính minh bạch thông qua các hoạt động kiểm toán, kiểm soát nội bộ của NHNN. b. Trong dài hạn Trong tương lai dài hơn, có thể hướng tới: Một là, thực hiện “Chính sách lạm phát mục tiêu”. Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTƯ hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung và dài hạn về lạm phát và NHTƯ cam kết đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này, NHNN phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra các công cụ của CSTT. Ngoài ra, người dân cũng phải được thông báo về khuôn khổ CSTT và việc thực hiện CSTT. Hai là, tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN. Theo đó, nhiệm kỳ của ban lãnh đạo NHTƯ có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như vậy, quá trình ra quyết định của NHNN sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ không bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ. 4. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Việt Nam: Hiện nay ở Việt Nam có: 6 Ngân hàng thương mại nhà nước 1 Ngân hàng chính sách 35 Các ngân hàng thương mại cổ phần 50 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 4 Các ngân hàng liên doanh 5 Ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. 50 Văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài 18 Công ty tài chính 12 Công ty cho thuê tài chính 968 Tổ chức tín dụng hợp tác 31
- 1. Hợp nhất 3 ngân hàng SCB, Ficombank và NH Việt Nam Tín Nghĩa: Ngày 01/01/2012, Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn (Ngân hàng hợp nhất) chính thức đi vào hoạt động sau khi hợp nhất từ 3 ngân hàng: Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Đệ nhất (Ficombank) và Ngân hàng Việt Nam Tín nghĩa. Trước khi hợp nhất, ba ngân hàng nói trên lâm vào tình trạng mất khả năng thanh khoản trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu do họ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản), gặp khi thị trường biến động, nhất là khi nguồn vốn huy động ngắn hạn không còn dồi dào như trước nên rủi ro thanh khoản xảy ra. Trước tình hình này, hội đồng quản trị của ba ngân hàng đã tự nguyện sáp nhập với nhau thành một ngân hàng dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), và cần tới sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước thông qua khoản vay tái cấp vốn. Tổng số vốn hỗ trợ liên ngân hàng của BIDV cho ba nhà băng (tính đến tháng 12/2012) là trên 2.400 tỷ đồng (trên tổng số tài sản được ba nhà băng đem ra đảm bảo là 30.000 tỷ đồng). Ngân hàng hợp nhất có vốn điều lệ 10.000 tỷ đồng, tổng tài sản là 150.000 tỉ đồng, và có hơn 200 chi nhánh, phòng giao dịch. Theo thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện BIDV ký với 3 ngân hàng được hợp nhất, các bên tiến hành hợp tác trong các lĩnh vực: quản trị, điều hành, kiểm soát, nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, tín dụng, tài trợ thương mại, thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế, BIDV sẽ cấp cho FicomBank, TinNghiaBank và SCB hạn mức chung về nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, ngân hàng hợp nhất sẽ kế thừa hạn mức đó nhằm hỗ trợ chi trả cho người gửi tiền. Lộ trình hợp nhất được thiết kế trong đề án hợp nhất của ba ngân hàng và kéo dài trong ba năm, trong đó, năm đầu tiên tập trung xử lý nợ. Trong khoảng thời gian này, số tiền hỗ trợ từ BIDV cho ba ngân hàng hợp nhất đều là tiền vay mượn dưới dạng thế chấp bằng tài sản đảm bảm. Theo Ngân hàng Nhà nước, sau 1 năm tái cơ cấu, SCB đã được những tiến triển tích cực, cải thiện đáng kể tình trạng thanh khoản, năng lực tài chính thông qua các giải pháp tăng vốn điều lệ, gọi vốn của nhà đầu tư nước ngoài, củng cố giá trị tài sản đảm bảo, đẩy mạnh xử lý nợ và huy động vốn từ nền kinh tế của SCB tăng 35,9% trong năm 2012 và tăng 7% trong 2 tháng đầu năm 2013. Nhờ vậy, SCB đã bảo đảm an toàn tài sản của Nhà nước, chi trả bình thường các đối với các khoản tiền gửi của dân chúng và thanh toán được hầu hết các khoản nợ vay tái cấp vốn của NHNN. Hiện tại, dưới sự giám sát chặt chẽ của NHNN, SCB đang đẩy mạnh triển khai các giải pháp cơ cấu lại tổng thể, bao gồm cả cơ cấu lại các khoản tiền vay/tiền gửi của các TCTD và tổ chức tài chính nhận ủy thác của TCTD theo kế hoạch tái cơ cấu giai đoạn 2013-2014 và Phương án cơ cấu lại nợ thị trường 2 (thị trường liên NH) đã được NHNN phê duyệt. 2. Sáp nhập Habubank vào SHB: Ngày 28/8/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) chính thức sáp nhập vào ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB). Với Habubank, các khoản cho vay và đầu tư trái phiếu gắn với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) được xác định là gánh nặng lớn nhất dẫn đến những khó khăn phải tính đến sáp nhập. Tỷ lệ nợ xấu của Habubank trước khi sáp nhập là 23,66% (tương đương 3.729 tỷ đồng). Ngân hàng SHB 32