Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người - Phần 2
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người - Phần 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giaotrinhlyluanvaphapluatvequyenconnguoi_phan_2.pdf
Nội dung text: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người - Phần 2
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người ước quốc tế) được Liên hợp quốc thông qua sau hai công ước cơ bản về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 là để pháp điển hóa các quyền đặc thù của các nhóm người dễ bị tổn thương. Tuy nhiên, về mặt lịch sử, vấn đề quyền của một số nhóm người dễ ChươngVI bị tổn thương đã được đề cập trong luật quốc tế từ lâu, thậm chí trước khi các quyền con người mang tính phổ biến chung được pháp điển hóa LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CỦA MỘT SỐ trong hai công ước năm 1966. Cụ thể, luật nhân đạo quốc tế - được NHÓM NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG đánh dấu bằng sự ra đời của Công ước Giơnevơ về cải thiện tình trạng của những binh sĩ bị ốm, bị thương trên chiến trường năm 1864 (Công ước Giơnevơ I) và phát triển cho đến ngày nay – có thể coi là đã xác lập 6.1. KHÁI QUÁT và bảo vệ những quyền cơ bản của những binh sĩ bị thương, bị ốm, bị đắm tàu, bị bắt (tù binh), thường dân và những đối tượng nạn nhân Khái niệm các nhóm người dễ bị tổn thương (vulnerable groups) chiến tranh khác trong thời gian diễn ra các cuộc xung đột vũ trang. Cả được sử dụng rất phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế và trong hai tổ chức quốc tế cùng được thành lập vào năm 1919 là Tổ chức Lao các hoạt động nghiên cứu, thực tiễn về quyền con người trên thế giới. động quốc tế (ILO) và Hội quốc liên đều đã thông qua nhiều văn kiện, Mặc dù không có định nghĩa chính thức chung nào được đưa ra về các bao gồm các điều ước quốc tế, có ý nghĩa xác lập và bảo vệ các quyền nhóm người dễ bị tổn thương, tuy nhiên, từ các nguồn tài liệu và thực của một số nhóm như người thiểu số, người bản địa, người lao động tiễn về quyền con người, có thể xác định khái niệm này chỉ những Xét trong phạm vi Liên hợp quốc, mặc dù những văn kiện cụ thể nhóm, cộng đồng người có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp về quyền của một số nhóm người lớn dễ bị tổn thương như phụ nữ, hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị tổn thương về quyền con trẻ em, người lao động di trú, người khuyết tật, người sống chung với người, và bởi vậy, cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, HIV/AIDS được xây dựng và thông qua sau thập kỷ 1960, nhưng cộng đồng người khác. trước đó, vấn đề quyền của một số nhóm, trong đó bao gồm phụ nữ, Một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương trong luật nhân trẻ em, đã được ghi nhận trong những văn kiện quan trọng nhất của quyền quốc tế bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống Liên hợp quốc về quyền con người. Cụ thể, Lời nói đầu của Hiến chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không chương Liên hợp quốc, bên cạnh việc khẳng định sự bình đẳng giữa quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số (về dân tộc, chủng tộc, các nước lớn và nhỏ, còn nhắc đến sự bình đẳng giữa nam và nữ. tôn giáo ), người bản địa, nạn nhân chiến tranh, những người bị tước tự Tuyên ngôn thế giới về quyền con người mặc dù xác định một hệ do, người cao tuổi Theo dòng thời gian, danh sách này có thể còn được thống các quyền và tự do chung cho tất cả mọi người nhưng cũng bổ sung, bao gồm những nhóm người gặp những nguy cơ cao về quyền không quên đề cập đến quyền bình đẳng giữa nam và nữ (Lời nói con người ở trong nhiều hoàn cảnh, bối cảnh (xét cả trên phạm vi quốc đầu, Điều 16), quyền được bảo vệ của bà mẹ và trẻ em (Điều 25(2)). tế, khu vực, quốc gia, ở trong gia đình, nơi làm việc hoặc ngoài xã hội). Đặc biệt, trước khi hai công ước cơ bản về quyền con người được thông qua năm 1966, một vài văn kiện (bao gồm cả các công ước) có Quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương cấu thành một bộ liên quan đến quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương đã phận quan trọng của luật nhân quyền quốc tế. Phần nhiều trong số được Liên hợp quốc thông qua, chẳng hạn như: Nghị định thư năm hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người (bao gồm cả các điều 1953 sửa đổi Công ước về nô lệ năm 1926, Công ước bổ sung về xóa 229 230
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người bỏ chế độ nô lệ, việc buôn bán nô lệ và các thể chế, thực tế khác dưỡng, được học tiểu học miễn phí ), cho phụ nữ (ví dụ như các quyền tương tự như chế độ nô lệ năm 1956, Công ước về trấn áp việc buôn về sức khỏe sinh sản ), cho người khuyết tật (ví dụ như quyền được hỗ bán người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949, Công ước về vị trợ về việc đi lại ), người sống chung với HIV (ví dụ như quyền không thế của người tị nạn năm 1951, Công ước về vị thế của người không bị cưỡng bức xét nghiệm và được giữ bí mật về kết quả xét nghiệm quốc tịch năm 1954, Công ước về xóa bỏ lao động cưỡng bức năm HIV ), người tị nạn, người tìm kiếm nơi lánh nạn (ví dụ như quyền 1957, Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952, Công không bị đẩy trả lại nước gốc nếu việc đó khiến họ có thể bị tàn sát, ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957, Công ước về kết ngược đãi ), người thiểu số (ví dụ như quyền được giữ gìn bản sắc văn hôn tự nguyện, tuổi kết hôn tối thiểu và việc đăng ký kết hôn năm hóa của cộng đồng họ ), người bản địa (ví dụ như quyền được bảo tồn 1962, Tuyên bố về quyền trẻ em năm 1959, Tuyên bố về xóa bỏ các và hưởng lợi trên đất đai của tổ tiên họ ) hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc năm 1963 Như đã đề cập ở trên, vấn đề quyền của các nhóm người dễ bị tổn Như vậy, ở góc độ nhất định, có thể nói rằng luật nhân quyền quốc thương cấu thành một bộ phận quan trọng trong luật nhân quyền quốc tế bắt đầu từ những quy phạm về quyền của các nhóm người dễ bị tổn tế. Hệ thống văn bản quốc tế về vấn đề này hiện có hàng trăm văn kiện thương, mặc dù trước năm 1945, những quy định về vấn đề này mới chỉ không chỉ do Liên hợp quốc mà còn do nhiều tổ chức liên chính phủ ở mức khái quát. quốc tế thành viên của Liên hợp quốc, đặc biệt là UNESCO, ILO Lý do chính dẫn đến việc xây dựng thêm những văn kiện và cơ chế thông qua. Mặc dù vậy, chương này chỉ giới thiệu và phân tích khái quát quốc tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền của các nhóm người dễ bị tổn những quy phạm quốc tế chủ yếu về quyền của một số nhóm người dễ thương bổ sung cho hai công ước năm 1966 đó là: bị tổn thương nhất, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với HIV/AIDS và người thiểu số. Thứ nhất, giống như tất cả các mọi người, thành viên của các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội cũng được hưởng các quyền áp 6.2. QUYỀN CỦA PHỤ NỮ THEO LUẬT QUỐC TẾ dụng chung cho toàn nhân loại mà được ghi nhận trong UHDR, ICCPR và ICESCR, tuy nhiên, do vị thế yếu hơn của họ, các nhóm này rất dễ bị Phụ nữ là nhóm đông nhất trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương vi phạm các quyền hoặc gặp khó khăn trong việc hưởng thụ các quyền. (do hơn một nửa nhân loại là phụ nữ) nên vấn đề quyền của phụ nữ thu Thực tế đó làm nảy sinh nhu cầu xây dựng những văn kiện pháp lý quốc hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế. Trên thực tế, cuộc đấu tế với những quy định cụ thể và chi tiết hơn để bảo vệ và thúc đẩy tranh cho các quyền của phụ nữ diễn ra trên thế giới từ rất sớm. Nhiều tài quyền của các nhóm này. liệu cho thấy, ngay từ thời kỳ cách mạng tư sản Pháp (thế kỷ XVIII), ở châu Thứ hai, hệ thống các quy phạm và cơ chế quốc tế về quyền con Âu đã xuất hiện các phong trào đấu tranh của phụ nữ chống lại sự bóc lột người nói chung về cơ bản là không đủ, thậm chí, đôi khi không phù kinh tế và sự phân biệt đối xử với họ trên phương diện chính trị, xã hội. Về hợp nếu áp dụng một cách máy móc với các nhóm người dễ bị tổn sau, các phong trào đó được gọi chung là phong trào đòi bình quyền cho thương. Đơn cử, quyền về việc làm là một trong các quyền cơ bản của phụ nữ (feminism). Xét chung, phong trào đòi bình quyền cho phụ nữ và tất cả mọi người, tuy nhiên, nếu không có những quy định cụ thể về việc các phong trào đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc là những cuộc vận áp dụng quyền này với những người chưa thành niên thì có thể sẽ dẫn động mang tính toàn cầu nhằm xoá bỏ ba hình thức bất bình đẳng chủ yếu đến bảo trợ cho việc lạm dụng, bóc lột sức lao động của trẻ em. Hoặc trong xã hội loài người mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã xác trong hệ thống các quyền và tự do cơ bản của con người không có nhiều định, đó là bất bình đẳng về chủng tộc, giai cấp và giới. quyền rất cần thiết cho trẻ em (ví dụ như quyền được chăm sóc, giáo 231 232
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người Cũng như vấn đề quyền con người nói chung, các cuộc đấu tranh vì điều ước quốc tế về quyền con người có số lượng quốc gia thành viên cao quyền của phụ nữ cũng được bắt đầu từ cấp độ quốc gia rồi dần phát nhất (chỉ đứng sau Công ước về quyền trẻ em). triển trở thành những phong trào quốc tế, có ảnh hưởng và tác động đến Tuy nhiên, CEDAW cũng là một trong số các điều ước quốc tế về pháp luật quốc tế. Trên phương diện pháp lý quốc tế, vấn đề bảo vệ phụ quyền con người có số lượng quốc gia bảo lưu (một số điều khoản) cao nữ đã trở thành nội dung của nhiều công ước do ILO ban hành từ đầu thế nhất.1 Đây chính là một trong những trở ngại chính trong việc hiện thực kỷ XX. Mặc dù vậy, quyền bình đẳng của phụ nữ mới chỉ được chính thức hóa các quyền bình đẳng của phụ nữ trên thực tế, cho dù CEDAW hiện đề cập trong luật quốc tế kể từ khi Liên hợp quốc ra đời. đã được hầu hết quốc gia trên thế giới phê chuẩn hoặc gia nhập. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 lần đầu tiên khẳng định sự Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ II tổ chức ở Viên (Áo) ‘bình đẳng về các quyền giữa phụ nữ và đàn ông ” (Lời nói đầu). Ba năm 1993 đã tái khẳng định trong văn kiện chính thức cuối cùng (Tuyên năm sau đó (1948), UDHR xác lập nguyên tắc nền tảng là tất cả mọi bố Viên và Chương trình hành động) rằng: “Quyền con người của phụ người đều được hưởng các quyền và tự do một cách bình đẳng, không nữ và trẻ em gái là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách có bất cứ sự phân biệt nào về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, rời của các quyền con người phổ biến” (đoạn 18 phần I). Với sự khẳng ngôn ngữ, quan điểm chính trị và các yếu tố khác (các Điều 1 và 2). Tiếp định này, cuộc đấu tranh vì các quyền bình đẳng của phụ nữ được lật theo UDHR, một loạt điều ước quốc tế đã được Liên hợp quốc thông sang một trang mới, theo đó, tất cả những mối quan tâm của phụ nữ sẽ qua nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái, bao gồm Công ước về trấn áp được lồng ghép vào các chương trình, hoạt động về quyền con người. việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949; Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952; Công ước về quốc tịch của Ngoài các hội nghị quốc tế chung về quyền con người, từ 1975 đến phụ nữ khi kết hôn năm 1957; Công ước về đăng ký kết hôn, tuổi tối 1999, bốn Hội nghị thế giới về phụ nữ đã được tổ chức (ở Mêhicô năm thiểu khi kết hôn và việc kết hôn tự nguyện năm 1962 Nguyên tắc 1975, ở Côpenhagen (Đan Mạch) năm 1980, ở Nairôbi (Kênia) năm bình đẳng nam nữ cũng được khẳng định trong cả hai điều ước quốc tế 1985, và ở Bắc Kinh (Trung Quốc) năm 1995) đã thảo luận và đưa ra quan trọng nhất về quyền con người năm 1966 là ICCPR và ICESCR nhiều giải pháp thúc đẩy và bảo vệ có hiệu quả các quyền, cơ hội và vị (Lời nói đầu và các Điều 2(2), Điều 3 của hai công ước này) thế bình đẳng của phụ nữ. Để thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế với vấn đề quyền của phụ nữ, Liên hợp quốc đã lấy giai đoạn 1975- Các văn kiện kể trên bước đầu đã xác lập một khuôn khổ pháp lý quốc 1985 là “Thập kỷ của Liên hợp quốc về Phụ nữ. ” tế nhằm bảo đảm vị thế bình đẳng của phụ nữ với đàn ông trong cương vị chủ thể của các quyền con người, nhưng chưa đưa ra được những giải pháp 6.2.1. CEDAW – văn kiện quốc tế quan trọng nhất về để bảo đảm cho họ hưởng thụ đầy đủ các quyền đó trên thực tế. Vì vậy, quyền con người của phụ nữ năm 1967, Liên hợp quốc thông qua Tuyên bố về xoá bỏ mọi hình thức CEDAW là một trong 9 công ước quốc tế quan trọng nhất hiện nay phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. Văn kiện này là tiền đề cho sự ra đời của về quyền con người của Liên hợp quốc (core international human Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ rights instruments). Mặc dù vậy, CEDAW không xác lập các quyền con (CEDAW) vào ngày 18-12-1979. Công ước này có hiệu lực từ ngày 3-9-1981, người mới cho phụ nữ, mà thay vào đó, Công ước này đề ra những 1 tính đến tháng 8-2011, đã có 187 quốc gia thành viên 52, là một trong hai cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người mà họ đã được thừa nhận 1 Nguồn 8&chapter=4&lang=en 1 Xem chi tiết tại 233 234
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người trong những điều ước quốc tế trước đó. Cụ thể, Công ước chỉ ra những chỉ trong pháp luật (bình đẳng hình thức) và cả trên thực tế, tức là các lĩnh vực mà có sự phân biệt đối xử nặng nề với phụ nữ như hôn nhân chính sách, pháp luật phải có tác dụng làm giảm thiểu những thiệt thòi của gia đình, quan hệ dân sự, lao động việc làm, đời sống chính trị, giáo dục phụ nữ trên thực tế (các đoạn 6 và 7). đào tạo , đồng thời, xác định những cách thức, biện pháp để xóa bỏ những sự phân biệt đối xử đó. 6.2.2. Những quy định quan trọng trong CEDAW Theo cách tiếp cận của CEDAW, bình đẳng giới (hay bình đẳng nam 6.2.2.1. Định nghĩa sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ nữ) không có nghĩa là đối xử với phụ nữ giống như đối xử với nam giới Theo Điều 1 của CEDAW, “phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” trong mọi trường hợp (mô hình bình đẳng hình thức), bởi điều này trên được hiểu là: “ bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào được đề thực tế chỉ làm tăng thêm sự phụ thuộc của phụ nữ với nam giới, do phụ ra dựa trên cơ sở giới tính, mà có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm nữ là nhóm yếu thế hơn nam giới. CEDAW cũng không áp dụng mô hình bình đẳng giới mang tính chất bảo hộ phụ nữ, mà theo đó, sự bảo vệ phụ tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ, bất kể tình trạng hôn nhân của nữ được dựa trên sự chấp nhận địa vị phụ thuộc của phụ nữ với đàn ông. họ như thế nào, được công nhận, thụ hưởng hay thực hiện các quyền Thay vào đó, CEDAW sử dụng mô hình bình đẳng thực chất (hay còn gọi là con người và tự do cơ bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, cách tiếp cận mang tính điều chỉnh). Theo mô hình này, bình đẳng giới văn hóa, dân sự hay bất kể lĩnh vực nào khác, trên cơ sở bình đẳng không mang ý nghĩa đơn giản là cào bằng sự tham gia, đóng góp của nam giữa nam giới và phụ nữ”. Như vậy, phân biệt đối xử chống lại phụ nữ giới và phụ nữ trong mọi hoạt động, mà có nghĩa là phụ nữ và nam giới là một khái niệm rất rộng. Xét về động cơ, nó bao gồm tất cả những được công nhận vị thế như nhau trong xã hội và cùng có các điều kiện và hành động có và không có chủ đích. Xét về biểu hiện của hành vi, nó cơ hội như nhau để phát huy khả năng, tham gia đóng góp và hưởng thụ bao gồm không chỉ sự phân biệt mà còn sự loại trừ hay hạn chế phụ nữ. thành quả phát triển của quốc gia trên mọi lĩnh vực1. Xét về hậu quả, nó làm tổn hại hoặc vô hiệu hoá không chỉ sự thực hiện mà còn cả sự công nhận và sự thụ hưởng các quyền và tự do của phụ nữ. Liên quan đến khái niệm bình đẳng nam nữ, Ủy ban về các quyền Xét về phạm vi tác động, nó có thể diễn ra trên mọi lĩnh vực, cả trong kinh tế, xã hội, văn hóa (cơ quan giám sát thực hiện ICESCR), trong Bình đời sống gia đình và ngoài xã hội, trong khu vực công cộng hoặc tư luận chung số 16 thông qua tại phiên họp lần thứ 30 năm 2005 của Ủy ban (về quyền bình đẳng của nam và nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền nhân. Xét về chủ thể của hành vi, nó có thể do mọi đối tượng gây ra, kể 2 cả bởi bản thân phụ nữ. kinh tế, xã hội, văn hóa nêu ở Điều 3 ICESCR) 53 đã nhấn mạnh rằng, bình đẳng nam nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền con người là một Liên quan đến khái niệm kể trên, cần chú ý các khía cạnh sau: nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế về lĩnh Thứ nhất, tự thân sự đối xử khác nhau không phải là sự phân biệt vực này. Bản chất của quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong luật đối xử theo nghĩa tiêu cực, mà chỉ khi sự đối xử khác biệt đó gây tổn hại nhân quyền quốc tế là nhằm để bảo đảm không có sự phân biệt đối xử vì lý hay vô hiệu hoá các quyền con người của phụ nữ thì mới mang nghĩa do giới tính trong việc hưởng thụ tất cả các quyền con người (các đoạn 1 và tiêu cực (khía cạnh này được đề cập thêm ở phần liên quan đến Điều 4 3). Cũng theo Ủy ban, khái niệm bình đẳng nam nữ cần được hiểu là bình dưới đây). đẳng thực chất. Nó đòi hỏi sự bình đẳng của phụ nữ được thực hiện không Thứ hai, khía cạnh “hạn chế” nêu trong định nghĩa có nghĩa là sự 1 Xem Gender Briefing Kit, UNDP Vietnam, 2004, tr.11. giới hạn hoặc giảm bớt một cách tuỳ tiện, bằng pháp luật hoặc trên thực 2 Nguồn của các khuyến nghị chung của Ủy ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được trích tế, các quyền và tự do của phụ nữ mà đã được luật pháp quốc tế thừa dẫn trong chương này: comments.htm. 235 236
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người nhận (ví dụ, phụ nữ một số nước Hồi giáo chỉ được đi ra ngoài phố khi đối xử với phụ nữ xảy ra trong quá trình thực thi pháp luật, chính sách, có cha, chồng, hoặc con trai đi cùng, trong khi nam giới thì không cần mặc dù về mặt hình thức các quy định pháp luật, chính sách đó không có ai đi kèm); trong khi đó, khía cạnh ‘loại trừ’ có nghĩa là sự phủ nhận thể hiện sự phân biệt đối xử, ví dụ như việc phụ nữ rơi vào hoàn cảnh hoàn toàn các quyền và tự do của phụ nữ (ví dụ, pháp luật một số nước bất lợi về cơ hội so với đàn ông khi thực hiện một quy định pháp luật không cho phép phụ nữ có quyền bầu cử và ứng cử). hoặc chính sách nhất định (đoạn 13). Thứ ba, khía cạnh “tổn hại” hàm ý những hậu quả dẫn đến sự hạn 6.2.2.2. Nghĩa vụ quốc gia chế trong việc thực hiện, công nhận và thụ hưởng các quyền; trong khi Theo Điều 2 và 3 CEDAW, để loại trừ mọi sự phân biệt đối xử sự “vô hiệu hoá” có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn các quyền và tự do của chống lại phụ nữ, các quốc gia có những nghĩa vụ cơ bản sau: phụ nữ. - Quy định nguyên tắc bình đẳng nam nữ trong Hiến pháp, pháp luật Thứ tư, khía cạnh “thực hiện” hàm ý năng lực lựa chọn và hành quốc gia và bảo đảm thực hiện các nguyên tắc này trên thực tế; động của bản thân phụ nữ, cũng như sự vận hành và tính hiệu quả của - Ngăn chặn các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ các cơ chế bảo vệ các quyền của phụ nữ; trong khi đó, khía cạnh “công bằng mọi biện pháp, kể cả bằng chế tài hình sự; nhận” nói đến mức độ nhận thức và tôn trọng các quyền của phụ nữ trong xã hội, còn khía cạnh “thụ hưởng” đề cập mức độ bảo đảm các - Thiết lập các cơ chế pháp lý để giúp phụ nữ bảo vệ các quyền quyền và tự do cơ bản của phụ nữ trên thực tế1. bình đẳng của họ; Thứ năm, tính chủ đích của hành vi dẫn tới sự phân biệt đối xử với - Bảo đảm rằng hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp phụ nữ một cách trực tiếp, thể hiện ở những hành động được dự liệu với không có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ; những mục tiêu hướng tới rõ ràng (ví dụ, luật pháp một số nước chỉ thừa - Thực thi tất cả các biện pháp thích hợp để xóa bỏ những hành nhận quyền thừa kế tài sản của cha mẹ của con trai). Trong khi tính động phân biệt đối xử với phụ nữ của bất kỳ chủ thể phi nhà không chủ đích của hành vi dẫn tới sự phân biệt đối xử với phụ nữ một nước nào, bất kể đó là cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp. cách gián tiếp, thể hiện ở những hành động xuất phát từ nhận thức sai lầm về bình đẳng giới, khiến phụ nữ không thể tiếp cận với cơ hội một - Điều chỉnh, xoá bỏ những quy định pháp luật, các phong tục, cách bình đẳng với đàn ông (ví dụ, quy định điều kiện để một người được tập quán có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. vay vốn ngân hàng là phải đứng tên chủ gia đình, trong khi trên thực tế ở Như vậy, nghĩa vụ quốc gia trong việc loại trừ mọi sự phân biệt đối nhiều xã hội, chỉ có người chồng mới được giữ vị trí này). xử chống lại phụ nữ bao gồm những biện pháp toàn diện, cả về pháp lý, Cũng liên quan đến khái niệm phân biệt đối xử với phụ nữ, trong chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội, tác động đến cả đời sống công cộng Bình luận chung số 16 (đã nêu trên) của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã lẫn gia đình. Nhà nước có nghĩa vụ xóa bỏ những hành động phân biệt hội, văn hóa phân biệt giữa sự phân biệt đối xử trực tiếp và sự phân biệt đối xử với phụ nữ do bất kỳ chủ thể nhà nước hay phi nhà nước nào đối xử gián tiếp với phụ nữ, theo đó, sự phân biệt đối xử trực tiếp thể thực hiện, chẳng hạn như các cơ quan nhà nước, những người sử dụng hiện ở sự đối xử khác biệt trực tiếp và công khai với phụ nữ vì lý do lao động hay các thành viên trong gia đình. Những biện pháp này không giới tính mà không dựa trên những cơ sở hợp lý khách quan (đoạn 12), chỉ nhằm mục đích ngăn cấm, trừng phạt các hành vi phân biệt đối xử còn sự phân biệt đối xử gián tiếp thể hiện ở hệ quả mang tính phân biệt với phụ nữ, mà còn nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ có thể tham gia chống lại các hình thức phân biệt đối xử với họ. 1 Xem CEDAW - Thiết lập lại quyền cho phụ nữ, sđd, tr.31. 237 238
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người Liên quan đến nghĩa vụ quốc gia trong việc xóa bỏ sự phân biệt đối quốc gia thành viên đã đạt được những thành tựu trong việc hoàn thiện xử với phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người, Ủy ban quyền hệ thống pháp luật về bình đẳng nam nữ. con người (UNHRC - cơ quan giám sát thực hiện ICCPR), trong Bình Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 CEDAW, có một điều luận chung số 4 thông qua tại phiên họp lần thứ 13 năm 1981 của Ủy kiện với việc áp dụng các biện pháp đặc biệt tạm thời, đó là những ban (về quyền bình đẳng của nam và nữ trong việc hưởng thụ tất cả các biện pháp đó phải được chấm dứt ngay khi mục tiêu bình đẳng nam 1 quyền dân sự, chính trị nêu ở Điều 3 ICPCR) 54 đã nêu rõ, trong vấn đề nữ đã đạt được. Điều này đơn giản là để tránh sự phân biệt đối xử này, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên cũng bao gồm ba khía cạnh: ngược lại với nam giới. Phù hợp với quy định này, Ủy ban CEDAW, Nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện các quyền trong Khuyến nghị chung số 25 đã nêu rõ rằng, việc áp dụng các biện con người của phụ nữ. Trong Bình luận chung số 16 (đã nêu trên) Ủy pháp đặc biệt tạm thời không bị coi là phân biệt đối xử như quy định ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng khẳng định tương tự trong Công ước, tuy nhiên, cũng không được dẫn đến việc duy trì (đoạn 17), đồng thời, nêu ra những hướng dẫn chi tiết với các quốc gia những tiêu chuẩn hay đối xử khác nhau một cách bất hợp lý giữa phụ thành viên trong việc thực hiện các nghĩa vụ đó. nữ và nam giới (đoạn 14). Mặc dù theo Khoản 1 Điều 4, các biện pháp đặc biệt tạm thời phải 6.2.2.3. Các biện pháp đặc biệt tạm thời chấm dứt ngay khi mục tiêu bình đẳng nam nữ đã đạt được, nhưng có Điều 4 CEDAW cho phép các quốc gia thành viên có thể áp dụng một ngoại lệ đó là theo Khoản 2 Điều 4, các biện pháp ưu tiên nhằm bảo những ưu đãi với phụ nữ (hay còn được gọi là các biện pháp đặc biệt vệ thiên chức làm mẹ của phụ nữ thì có thể áp dụng liên tục mà không tạm thời (temporary special measures) để thúc đẩy nhanh sự bình đẳng bị coi là phân biệt đối xử với nam giới. Trong Khuyến nghị chung số 25, trên thực tế giữa nam và nữ mà không bị coi là phân biệt đối xử với nam Ủy ban CEDAW đã giải thích sự khác nhau giữa quy định của Khoản 1 giới. Những biện pháp đặc biệt tạm thời có thể bao gồm việc dành một và Khoản 2 Điều 4, theo đó, quy định ở Khoản 1 xuất phát từ thực tế bất số lượng ghế hay vị trí nhất định cho phụ nữ trong những cơ quan, tổ bình đẳng với phụ nữ trong xã hội và nhằm mục đích thúc đẩy việc xóa chức hoạt động trong những lĩnh vực mà thường do nam giới đảm bỏ thực tế xã hội đó, vì vậy, nên các biện pháp áp dụng có tính chất tạm nhiệm, hay dành ưu tiên cho phụ nữ khi tuyển dụng trong những thời. Trong khi quy định tại Khoản 2 xuất phát từ sự khác biệt mang trường hợp có hai ứng cử viên nam và nữ với trình độ chuyên môn tính đặc trưng, cố định về sinh học giữa hai giới, do đó, việc áp dụng các 2 ngang nhau. Về vấn đề này, trong Khuyến nghị chung số 5 thông qua biện pháp ưu tiên với phụ nữ liên quan đến chức năng làm mẹ cần tại kỳ họp lần thứ 7 năm 1988 và Khuyến nghị chung số 25 thông qua mang tính chất lâu dài (các đoạn 15 và 16). tại kỳ họp lần thứ 13 năm 2004, Uỷ ban giám sát thực hiện CEDAW (Ủy Xét chung, cơ sở lý luận của Điều 4, như đã phần nào đề cập ở ban CEDAW) đã khuyến nghị các quốc gia thành viên cần tăng cường phần trên, là bình đẳng và không phân biệt đối xử không có nghĩa là áp dụng các biện pháp đặc biệt tạm thời để thúc đẩy sự bình đẳng của phải đối xử như nhau với mọi người trong mọi trường hợp. Nói cách phụ nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục và việc làm. Theo khác, sự đối xử phân biệt không phải lúc nào cũng mang tính tiêu cực Ủy ban, những biện pháp đặc biệt tạm thời cần được áp dụng kể cả khi và cần phải loại bỏ, mà trong một số hoàn cảnh, nó mang tính tích cực (positive discrimination) và cần phải vận dụng, để bảo đảm sự bình 1 Nguồn của các khuyến nghị chung của HRC được trích dẫn trong chương này: đẳng thực chất, chứ không phải bình đẳng một cách hình thức. Thông thường, sự phân biệt đối xử tích cực (cụ thể như các biện pháp đặc 2 Nguồn của các khuyến nghị chung của Ủy ban CEDAW được trích dẫn trong chương này: biệt tạm thời), được áp dụng khi các đối tượng tác động khác nhau về 239 240
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người mức độ năng lực hành vi về quyền con người, nhằm mục đích đặt các 6.2.2.5. Ngăn chặn mọi hình thức buôn bán và bóc lột tình dục đối tượng tác động vào một điểm xuất phát ngang bằng, bởi lẽ, trong phụ nữ trường hợp có sự khác nhau về năng lực hành vi, việc đối xử như nhau Điều 6 CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành các biện với tất cả mọi người trên thực tế là sự phân biệt đối xử với những đối pháp để ngăn chặn mọi hình thức buôn bán phụ nữ và bóc lột phụ nữ tượng yếu thế hơn. mại dâm. Khuyến nghị chung số 19 do Uỷ ban CEDAW thông qua tại kỳ 6.2.2.4. Sửa đổi những tập tục và khuôn mẫu giới có tác động họp lần thứ 11 năm 1992 nêu rằng, các biện pháp như vậy cần bao gồm tiêu cực đến phụ nữ những hành động nhằm loại trừ nguyên nhân của nạn buôn bán, bóc lột tình dục phụ nữ như tình trạng kém phát triển, đói nghèo, mù chữ, lạm Điều 5 CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành các biện dụng ma tuý, không có việc làm, chiến tranh, xung đột vũ trang và pháp để sửa đổi các tập tục, khuôn mẫu về văn hoá, xã hội có tính chất chiếm đóng lãnh thổ (các đoạn 14, 15, 16). Thêm vào đó, cần quan tâm hoặc có thể làm trầm trọng thêm sự phân biệt đối xử với phụ nữ, chẳng đến những hoàn cảnh mà phụ nữ đặc biệt có nguy cơ bị buôn bán và hạn như, các phong tục, tập quán mang tính định kiến, dập khuôn về vị bóc lột tình dục như nạn du lịch tình dục, lao động di trú (trong và thế thấp kém của phụ nữ trong gia đình hoặc ngoài xã hội, chẳng hạn ngoài nước, hôn nhân với người nước ngoài qua môi giới (đoạn 14) và như cho rằng phụ nữ cần phải phục vụ hay tuân phục đàn ông, phụ nữ cần có các biện pháp cụ thể để bảo vệ phụ nữ trong những hoàn cảnh cần phải được chồng ‘giáo dục’, phụ nữ chỉ thích hợp với các công việc này, trong đó bao gồm việc tạo cơ hội phục hồi, tái hoà nhập, đào tạo nội trợ và chăm sóc con cái Điều này cũng đề cập sự cần thiết phải có nghề nghiệp, giới thiệu việc làm cho những phụ nữ là nạn nhân của hoạt động giáo dục về gia đình với nội dung thừa nhận vị trí, vai trò của nạn buôn bán, bóc lột tình dục. chức năng làm mẹ của phụ nữ và trách nhiệm chung của vợ và chồng trong việc nuôi dạy con cái và đảm nhiệm các công việc nội trợ. Đây là Cần lưu ý là, việc đề cập việc ngăn chặn tình trạng bóc lột phụ nữ một yêu cầu rất quan trọng, bởi lẽ nó cho phép giải phóng phụ nữ khỏi mại dâm và bảo vệ phụ nữ mại dâm không có nghĩa CEDAW thừa nhận vai trò tái sản xuất (nội trợ, nuôi dạy con) có tính truyền thống, từ đó hay khuyến khích hoạt động mại dâm. giúp họ có cơ hội tham gia vào các hoạt động xã hội, cũng như tạo tiền 6.2.2.6.Quyền tham chính của phụ nữ đề cho việc sửa đổi phương thức phân công lao động có tính phân biệt đối xử với phụ nữ. Điều 7 CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ Điều 5 được xây dựng xuất phát từ thực tế là sự phân biệt đối xử trong việc tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội (còn gọi là với phụ nữ không chỉ bắt nguồn từ những chính sách, pháp luật phân quyền tham chính), theo đó, các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho biệt đối xử về giới tính mà còn từ những định kiến văn hoá có tính chất phụ nữ các quyền: (i) Bầu cử, ứng cử vào các cơ quan dân cử và giữ chức tiêu cực về phụ nữ (những “định kiến giới”). Thực tế đó cho thấy việc vụ ở các cơ quan công quyền; (ii) Tham gia xây dựng, thực hiện chính thừa nhận về mặt pháp lý quyền bình đẳng nam nữ và kể cả tiến hành sách, pháp luật và giữ chức vụ trong các cơ quan nhà nước ở mọi cấp; các biện pháp đặc biệt tạm thời vẫn chưa đủ để loại trừ sự phân biệt đối (iii) Tham gia các tổ chức xã hội. xử chống lại phụ nữ mà cần phải xoá bỏ các khuôn mẫu xã hội mang tính chất bất bình đẳng về giới. Liên quan đến vấn đề này, trong Khuyến nghị chung số 23 được Uỷ ban CEDAW thông qua tại Khuyến nghị chung số 3 thông qua tại kỳ họp thứ 6 năm 1987, Uỷ ban phiên họp lần thứ 16 năm 1997 nêu ra những biện pháp mà các quốc gia CEDAW đã thúc giục các quốc gia thành viên thực thi các chương trình thành viên cần thực hiện để hỗ trợ và khuyến khích phụ nữ thực hiện giáo dục và thông tin đại chúng để giúp xóa bỏ những thành kiến và quyền tham chính, theo đó: phong tục, tập quán cản trở việc thực hiện bình đẳng nam nữ. 241 242
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người Những biện pháp để bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ cần quyền tham chính của phụ nữ đã được mở rộng tới cả ba cấp độ: địa nhằm: (a) Bảo đảm tỷ lệ cân bằng giữa phụ nữ và nam giới trong việc nắm phương, quốc gia và quốc tế. giữ các vị trí được bầu cử công khai; (b) Làm cho phụ nữ hiểu tầm quan Trong các Khuyến nghị chung số 8 (thông qua tại phiên họp lần trọng và cách thức thực hiện quyền bỏ phiếu của họ; (c) Khắc phục những thứ 7 năm 1988) và số 23 (thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm rào cản như thất học, ngôn ngữ, nghèo nàn và những trở ngại cho việc thực 1997), Uỷ ban CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên sử dụng các biện hiện quyền tham chính của phụ nữ; (d) Giúp phụ nữ vượt qua những rào pháp đặc biệt tạm thời để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các cản đó để thực hiện quyền bầu cử và đắc cử của họ (đoạn 45). quan hệ quốc tế. Những biện pháp để bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách, 6.2.2.8.Quyền bình đẳng về quốc tịch của phụ nữ pháp luật và giữ các chức vụ trong chính quyền của phụ nữ cần nhằm bảo đảm: (a) Quyền bình đẳng đại diện của phụ nữ trong quá trình xây Quốc tịch có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là cơ sở để một cá nhân dựng chính sách của Chính phủ; (b) Phụ nữ có quyền bình đẳng trên được hưởng quyền công dân của một quốc gia. Tuy nhiên, tình trạng thực tế trong việc nắm giữ chức vụ; (c) Các quá trình tuyển dụng nhằm bất bình đẳng về quốc tịch với phụ nữ vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi trên vào phụ nữ phải công khai và có tính hấp dẫn (đoạn 46). thế giới, dưới các hình thức như phụ nữ lấy chồng người nước ngoài Những biện pháp để bảo đảm quyền tham gia các tổ chức xã hội của phải thay đổi quốc tịch theo chồng, hoặc trong trường hợp vợ chồng có phụ nữ cần nhằm: (a) Bảo đảm ban hành pháp chế có hiệu quả ngăn cấm hai quốc tịch, con sinh ra phải lấy quốc tịch theo cha Do vậy, Điều 9 phân biệt đối xử với phụ nữ; (b) Khuyến khích các tổ chức phi chính phủ, CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho phụ nữ được các hội liên hiệp chính trị và cộng đồng chấp thuận các chiến lược, khuyến bình đẳng với nam giới trong việc nhập, thay đổi, giữ nguyên quốc khích phụ nữ đại diện và tham gia vào công việc của họ (đoạn 47). tịch, mà không phụ thuộc vào quốc tịch chồng hoặc của cha, đặc biệt Ngoài ra, trong Khuyến nghị chung kể trên, Ủy ban CEDAW cũng trong trường hợp phụ nữ kết hôn với người nước ngoài. Thêm vào đó, khuyến nghị các quốc gia thành viên thực thi các giải pháp đặc biệt tạm điều này cũng yêu cầu bảo đảm cho phụ nữ quyền bình đẳng với chồng thời để nâng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào hoạt động chính trị, xã hội, cụ trong việc xác định quốc tịch cho con. thể như đào tạo, vận động và trợ giúp tài chính cho các ứng cử viên nữ, đề ra các chỉ tiêu về tỷ lệ phụ nữ trong các cấp chính quyền (đoạn 15). 6.2.2.9.Quyền bình đẳng của phụ nữ trong giáo dục Ủy ban cũng giải thích rằng khái niệm đời sống chính trị, xã hội nêu ở Phụ nữ thường là nạn nhân của tình trạng phân biệt đối xử trong Điều 7 CEDAW có nội dung rất rộng, bao gồm tất cả các bình diện của giáo dục, thể hiện ở việc nhiều phụ nữ và trẻ em gái không được học tập nền hành chính công (các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp), ở tất hoặc không được theo học những ngành, nghề nhất định hay không cả các cấp độ quốc tế, khu vực, quốc gia và địa phương. Thêm vào đó, được tạo cơ hội học cao lên Tại nhiều xã hội, các bậc cha mẹ thường khái niệm này còn bao gồm việc tham gia các hoạt động của xã hội dân cho rằng con gái không cần có học vấn cao và thường ưu tiên các cơ hội sự như các đảng phái chính trị, các hiệp hội chuyên môn, công đoàn, các tổ chức, nhóm dựa trên cộng đồng (đoạn 5). học tập cho con trai. Trong khi đó, thực tế khắp nơi trên thế giới đã cho thấy, giáo dục là tiền đề để bảo đảm sự bình đẳng với phụ nữ trên các 6.2.2.7. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc tham gia các lĩnh vực khác như lao động, việc làm, hoạt động chính trị và vị thế trong quan hệ quốc tế gia đình; đồng thời, tạo cơ sở xoá bỏ những tập tục truyền thống lạc Điều 8 yêu cầu các quốc gia thành viên bảo đảm cho phụ nữ có cơ hậu, có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. hội bình đẳng với đàn ông trong việc tham gia các cơ quan đại diện Chính vì vậy, Điều 10 yêu cầu các quốc gia thành viên phải áp dụng ngoại giao của đất nước và các tổ chức, hội nghị quốc tế. Qua điều này, tất cả các biện pháp thích hợp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại 243 244
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục, có thể là trong những khía cạnh như: Khoản 2 Điều 11 nêu những biện pháp cụ thể mà các quốc gia giáo dục, hướng nghiệp, học nghề, tiếp cận với các hoạt động nghiên thành viên phải thực hiện để ngăn chặn sự phân biệt đối xử chống lại cứu và đạt được bằng cấp ở các cơ sở giáo dục thuộc những tất cả các phụ nữ trong quan hệ việc làm vì lý do hôn nhân hay sinh đẻ, trong đó loại hình và cấp độ giáo dục; chương trình giảng dạy và thi cử, giáo viên, bao gồm: a) Cấm kỷ luật, sa thải phụ nữ với lý do có thai, nghỉ đẻ hay cơ sở vật chất và trang bị của trường học; học bổng và trợ cấp học tập; kết hôn; b) Áp dụng chế độ nghỉ đẻ vẫn hưởng lương, thâm niên và các cơ hội tham gia các hoạt động giáo dục thể chất và các hoạt động thể phúc lợi xã hội như khi đang làm việc; c) Khuyến khích cung cấp những thao; tiếp cận với những thông tin giáo dục riêng biệt về bảo đảm sức dịch vụ xã hội cần thiết hỗ trợ cho các bậc cha mẹ để họ có thể chăm sóc khỏe và hạnh phúc gia đình, kể cả những thông tin và tư vấn về kế con cái; d) Bảo vệ đặc biệt đối với phụ nữ trong thời kỳ mang thai trước hoạch hóa gia đình. những công việc độc hại; e) Định kỳ xem xét lại, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về bảo vệ phụ nữ. Ngoài ra, Điều 10 cũng yêu cầu các quốc gia thành viên nỗ lực hành động để xóa bỏ những quan niệm rập khuôn cản trở thực hiện quyền Liên quan đến Điều 11 CEDAW, Uỷ ban CEDAW, trong Khuyến nghị giáo dục của phụ nữ (trong đó có việc khuyến khích hình thức giáo dục chung số 12 thông qua tại phiên họp lần thứ 8 năm 1989 đã đề cập việc bảo chung cho cả học sinh nam nữ, sửa lại các sách giáo khoa, chương trình vệ phụ nữ không bị xâm hại, quấy rối tình dục ở nơi làm việc, coi đó là một học tập, và điều chỉnh các phương pháp giảng dạy); tạo cơ hội cho phụ khía cạnh về bình đẳng của phụ nữ về việc làm. Sau đó, trong Khuyến nghị nữ tham gia các chương trình giáo dục thường xuyên; giảm tỷ lệ nữ sinh chung số 13 cũng được thông qua tại phiên họp lần thứ 8, Ủy ban đặc biệt bỏ học và tổ chức các chương trình dành cho những phụ nữ và trẻ em lưu ý các quốc gia thành viên về việc bảo đảm quyền được trả công bình gái đã phải bỏ học. đẳng của phụ nữ thông qua các biện pháp như: phê chuẩn hoặc gia nhập ngay Công ước số 100 về trả công bình đẳng của ILO (đoạn 1); nghiên cứu, 6.2.2.10. Quyền bình đẳng của phụ nữ về việc làm xây dựng, xem xét và thông qua những cơ chế đánh giá nghề nghiệp dựa Bình đẳng về việc làm là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trên các tiêu chí phi giới tính (đoạn 2); hỗ trợ đến mức cao nhất có thể việc trọng nhất với cuộc sống và vị thế của phụ nữ, bởi lẽ nó là tiền đề để thành lập một cơ chế nhằm bảo đảm trả công bình đẳng cho nam và nữ giúp phụ nữ tự chủ về phương diện kinh tế, qua đó thoát khỏi địa vị phụ trong những công việc như nhau (đoạn 3). thuộc vào đàn ông. Tuy nhiên, Điều 11 CEDAW có một điểm hạn chế là chỉ áp dụng Điều 11 CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên phải áp dụng các cho phụ nữ trong các công việc chính thức, không áp dụng cho các công biện pháp thích hợp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ việc trên lĩnh vực nông nghiệp, làm việc tại gia Như vậy, vẫn còn một trong tất cả các khía cạnh của lĩnh vực việc làm, cụ thể là trong các vấn số lớn phụ nữ lao động không được bảo vệ bởi quy định này. Tuy nhiên, đề như quyền được làm việc; quyền có các cơ hội việc làm (bao gồm việc hạn chế đó phần nào đã được khắc phục thông qua một số Khuyến nghị áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi tuyển dụng); quyền tự do lựa chung của Ủy ban công ước. Cụ thể, trong Khuyến nghị chung số 17 chọn ngành, nghề và việc làm; các quyền liên quan đến việc thăng tiến, được thông qua tại phiên họp lần thứ 10 năm 1991, Ủy ban CEDAW an ninh việc làm, phúc lợi, đào tạo nghề, đào tạo, huấn luyện nâng cao; khẳng định sự đóng góp của phụ nữ với nền kinh tế của các quốc gia và quyền bình đẳng trong trả thù lao và trong đối xử, đánh giá trong công các gia đình khi làm những công việc không tính thành tiền công, đồng việc; quyền được hưởng an sinh xã hội; quyền được bảo vệ sức khỏe và thời, khuyến nghị các quốc gia thành viên nghiên cứu, điều tra để đánh an toàn lao động, kể cả bảo vệ chức năng sinh đẻ (Khoản 1). giá giá trị của những công việc không tính thành tiền công mà phụ nữ đang thực hiện và cộng giá trị những công việc đó vào tổng thu nhập 245 246
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người quốc dân, cũng như, để làm cơ sở xây dựng các chính sách quốc gia về tầm quan trọng của quyền được chăm sóc sức khỏe với phụ nữ, đồng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Trong Khuyến nghị chung số 16 cũng thời, khuyến nghị các quốc gia thành viên thực thi một chiến lược toàn được thông qua tại phiên họp lần thứ 10 năm 1991, Uỷ ban cho rằng, diện cấp quốc gia để chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ suốt đời, trong đó các nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho phụ bao gồm các biện pháp nhằm phòng, chống và điều trị những loại bệnh nữ làm việc ở các doanh nghiệp tư nhân do thành viên gia đình làm chủ. tật và điều kiện tác động đến sức khỏe của phụ nữ, bảo đảm cho mọi phụ nữ được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, kể cả dịch vụ sức Ngoài ra, trong Khuyến nghị chung số 19 được thông qua tại phiên họp khỏe sinh sản, với chi phí vừa phải, đồng thời, phân bổ ngân sách, nhân lần thứ 11 năm 1992, Uỷ ban yêu cầu các quốc gia thành viên giám sát lực thích đáng cho hoạt động chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và quản lý điều kiện làm việc của những phụ nữ làm nghề giúp việc gia đình nhằm để bảo đảm các nguồn lực đó được sử dụng có hiệu quả (các đoạn bảo vệ họ khỏi mọi sự ngược đãi. 29,30). Ngoài Khuyến nghị chung số 24, một số Khuyến nghị chung Như đã đề cập ở trên, bên cạnh Điều 11 CEDAW, để bảo đảm khác của Ủy ban CEDAW cũng đề cập nhiều khía cạnh cụ thể về quyền quyền bình đẳng của phụ nữ về việc làm, rất cần thiết tham chiếu với được chăm sóc sức khỏe của phụ nữ. Cụ thể, các Khuyến nghị chung số các công ước có liên quan của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó 14 (thông qua tại phiên họp lần thứ 9 năm 1990) và 19 (thông qua tại tiêu biểu là Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam phiên họp lần thứ 11 năm 1992) yêu cầu các quốc gia thành viên thực thi và lao động nữ cho các công việc có giá trị như nhau. những biện pháp thích hợp để xoá bỏ những tập tục nguy hại cho sức khoẻ phụ nữ như tục cắt bỏ âm vật nữ, tục bắt phụ nữ có thai và nuôi 6.2.2.11. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong vấn đề chăm sóc sức khoẻ con phải ăn kiêng, tục đa thê, tục trọng nam khinh nữ dẫn tới sự lựa Chăm sóc sức khỏe là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng có chọn giới tính cho thai nhi hoặc ép buộc phụ nữ phải mang thai để có con trai. Khuyến nghị chung số 15 được Ủy ban thông qua tại phiên họp ý nghĩa đặc biệt với phụ nữ. Điều này là bởi khác với đàn ông, phụ nữ lần thứ 9 năm 1990 khuyến nghị các quốc gia tăng cường những biện phải gánh vác chức năng sinh nở và nuôi con – chức năng mà hàm chứa pháp bảo vệ phụ nữ trước đại dịch HIV và chống phân biệt đối xử với rất nhiều rủi ro về sức khỏe. Tuy nhiên, điều bất hợp lý là trên thực tế, phụ nữ trong các hoạt động phòng chống HIV/AIDS. Khuyến nghị phụ nữ thường phải chịu thiệt thòi trong việc hưởng thụ quyền này do chung số 24 được Ủy ban thông qua tại phiên họp lần thứ 20 năm 1999 dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở các quốc gia thường là dịch vụ trả tiền, trong yêu cầu các quốc gia thành viên bảo đảm quyền của phụ nữ được thông khi xét chung, phụ nữ có thu nhập thấp hơn nhiều so với nam giới. tin, giáo dục về những dịch vụ sức khoẻ tình dục và chú trọng đến nhu Điều 12 CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cầu đặc biệt về sức khoẻ của các phụ nữ trong những hoàn cảnh khó cả các biện pháp thích hợp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ khăn như trong xung đột vũ trang, bị buôn bán, bóc lột tình dục, cũng nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nhằm bảo đảm phụ nữ được bình như nhu cầu chăm sóc sức khỏe của phụ nữ cao tuổi và phụ nữ khuyết đẳng với nam giới trong việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tật. kể cả dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Điều này cũng yêu cầu các quốc gia thành viên Công ước phải bảo đảm cho phụ nữ các dịch vụ chăm sóc sức 6.2.2.12. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong đời sống kinh tế, xã hội khỏe đặc biệt có liên quan đến chức năng làm mẹ, cụ thể là những dịch Thực tế ở khắp nơi trên thế giới cho thấy, trên lĩnh vực kinh tế, phụ vụ về thai nghén, sinh đẻ và nuôi con, và phải bảo đảm là những dịch vụ nữ thường bị phân biệt đối xử trong việc hưởng trợ cấp gia đình, quản này được cung cấp cho phụ nữ một cách miễn phí nếu cần thiết. lý, sử dụng tài sản, thế chấp và vay vốn ngân hàng Cùng với việc làm, đây là những tiền đề quyết định khả năng về tài chính của phụ nữ - một Liên quan đến Điều 12, Uỷ ban CEDAW đã thông qua Khuyến nghị trong những yếu tố thiết yếu tạo nên vị thế bình đẳng nam nữ. Về chung số 24 tại phiên họp lần thứ 20 năm 1999, trong đó nhấn mạnh 247 248
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người phương diện xã hội, do gánh nặng đa vai trò về giới, phụ nữ thường có sống của con người nói chung và của phụ nữ nói riêng, đó là hôn nhân, rất ít thời gian vui chơi, giải trí và hưởng thụ đời sống văn hoá, trong gia đình. Điều này xuất phát từ thực tế là trong hầu hết các xã hội, phụ khi điều này được xem là một trong những biểu hiện thực chất của sự nữ thường phải chịu đựng sự đối xử bất bình đẳng ngay trong gia đình, bình đẳng nam nữ. thể hiện ở các hình thức như hôn nhân cưỡng bức (hay sắp đặt), quyền Chính vì vậy, Điều 13 CEDAW yêu cầu các quốc gia bảo đảm cho quyết định về con cái, quản lý tài sản, quyền được nghỉ ngơi Sự phân phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong ba khía cạnh: (i) Hưởng các biệt đối xử chống lại phụ nữ trên lĩnh vực này thường bắt nguồn từ các phúc lợi gia đình; (ii) Tín dụng, ngân hàng (ví dụ như: vay tiền của ngân tập tục truyền thống - khía cạnh có sức ỳ lớn nhất. Bù lại, sự thay đổi hàng, thế chấp tài sản và tham gia các loại hình tín dụng ) và (iii) Tham trên lĩnh vực này được coi là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết gia các hoạt động giải trí và văn hoá. định để phụ nữ đạt được sự bình đẳng một cách đầy đủ với đàn ông. Các khía cạnh chủ yếu được đề cập trong Điều 16 bao gồm: (i) Bình 6.2.2.13. Bình đẳng trong các quan hệ dân sự đẳng về kết hôn, thể hiện ở việc phụ nữ được tự do quyết định việc kết Điều 15 CEDAW không chỉ khẳng định vị thế bình đẳng của phụ nữ hôn và lựa chọn người phối ngẫu. Vấn đề này liên quan đến trách nhiệm với nam giới trước pháp luật mà cả trong những quan hệ dân sự cụ thể - của các nhà nước trong việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu, việc lĩnh vực mà theo truyền thống văn hoá của nhiều xã hội, phụ nữ thường đăng ký kết hôn, chế độ hôn nhân tự nguyện, cấm chế độ đa thê cũng phải chịu sự phân biệt đối xử nặng nề so với đàn ông. Theo Điều này, các như việc tảo hôn cho trẻ em; (ii) Bình đẳng trong hôn nhân và khi hôn quốc gia thành viên phải bảo đảm cho phụ nữ có vị thế bình đẳng với nam nhân kết thúc, thể hiện ở việc phụ nữ được bình đẳng với chồng cả giới trong mọi quan hệ dân sự, cụ thể là trong các vấn đề như giao kết các trong thời gian hôn nhân và khi đã ly hôn. Điều này liên quan đến một hợp đồng, quản lý tài sản, tự do đi lại, lựa chọn nơi cư trú và trong các hoạt loạt vấn đề từ quản lý tài sản chung trong gia đình; quyền và trách động tố tụng Điều này cũng quy định tất cả các hợp đồng và giấy tờ dân nhiệm với con cái; việc xác định số con, khoảng cách giữa các lần sinh; sự mà có nội dung hạn chế tư cách pháp lý của phụ nữ phải bị coi là vô giá việc cho, nhận con nuôi; những tự do cá nhân như việc lựa chọn họ tên, trị và không có hiệu lực thi hành. quyết định lựa chọn nghề nghiệp, việc làm của bản thân mà không bị phụ thuộc bởi người chồng. Trong Khuyến nghị chung số 21 thông qua tại phiên họp lần thứ 11 năm 1992, Uỷ ban CEDAW nêu rằng, việc giới hạn các quyền của phụ Liên quan đến Điều 16, trong Khuyến nghị chung số 21, Uỷ ban nữ trong việc ký kết hợp đồng, tự do lựa chọn chỗ ở hay tiếp cận với tòa CEDAW nêu rằng, khái niệm gia đình có thể hiểu khác nhau giữa các án và dịch vụ pháp luật,v.v. đều làm hạn chế nghiêm trọng khả năng tự quốc gia, tuy nhiên, dù được hiểu như thế nào thì trong mô hình gia chủ trong cuộc sống của phụ nữ và đều bị coi là phân biệt đối xử chống đình đó, việc đối xử với phụ nữ cũng phải tuân thủ các quy định của lại phụ nữ (các đoạn 7,8,9). Ủy ban cũng cho rằng, những phụ nữ nhập Điều 16 (đoạn 13). Ủy ban cũng cho rằng, chế độ hôn nhân đa thê là trái cư sống và làm việc tạm thời ở nước ngoài với chồng hay bạn tình cũng với quyền bình đẳng nam nữ và có thể gây ra những nguy cơ nghiêm phải được bình đẳng về tư cách pháp lý với người chồng hay bạn tình đó trọng cho phụ nữ và con cái họ, vì vậy, Ủy ban khuyến nghị các quốc gia (đoạn 10). thành viên cấm chế độ đa thê (đoạn 14). Ủy ban cũng khuyến nghị các quốc gia cấm các hành động cưỡng ép hoặc sắp đặt hôn nhân để bảo 6.2.2.14. Quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân, gia đình đảm quyền được lựa chọn người phối ngẫu (đoạn 15). Thêm vào đó, Uỷ Điều 16 CEDAW đề cập việc xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại ban cho rằng các quy định pháp luật và tập tục ưu đãi cho nam giới phụ nữ trên lĩnh vực riêng tư mà có ý nghĩa rất quan trọng đến cuộc trong việc hưởng thừa kế tài sản là sự phân biệt đối xử chống lại phụ 249 250
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người nữ; đồng thời, yêu cầu các quốc gia thành viên phải thừa nhận và bảo phức tạp của vấn đề cũng như từ quan niệm trong văn hóa truyền thống đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong vấn đề này. coi đó là những vấn đề nội bộ của các gia đình. Tuy nhiên, cần thấy rằng bạo lực trên cơ sở giới không chỉ là vấn đề riêng của các gia đình, mà còn Liên quan đến Điều 16, trong Khuyến nghị chung số 19, Uỷ ban là vấn đề chung của toàn xã hội, bởi lẽ như Ủy ban CEDAW đã nêu trong CEDAW nêu rằng, hành động triệt sản nữ và bắt buộc phá thai cấu Khuyến nghị chung số 19, bạo lực trên cơ sở giới cản trở sự hưởng thụ thành sự vi phạm quyền của phụ nữ trong việc quyết định số con và một số quyền con người của nạn nhân. khoảng cách giữa các lần sinh. Uỷ ban cũng yêu cầu các quốc gia thành viên tăng cường các biện pháp, kể cả dân sự và hình sự, để chống lại 6.2.2.15. Quyền bình đẳng của phụ nữ nông thôn nạn bạo hành phụ nữ trong gia đình, bao gồm việc thiết lập các trung tâm phục hồi và các nhà tạm lánh cho những phụ nữ là nạn nhân của tệ Phụ nữ nông thôn là một trong những bộ phận dễ bị tổn thương nạn này. nhất trong tổng thể nhóm người dễ bị tổn thương là phụ nữ. Bộ phận phụ nữ này có những nhu cầu đặc biệt cần được đáp ứng, xuất phát từ Điểm hạn chế của Điều 16 (và của toàn bộ Công ước) là đã không đề những yếu tố: Thứ nhất, họ không phải là những lao động làm công ăn cập một cách đúng mức tới vấn đề bạo lực trên cơ sở giới tính, một trong lương nên nguồn sống không được bảo đảm ổn định và độc lập như các bốn hình thức cơ bản về bất bình đẳng giới. Tuy nhiên, hạn chế này đã nhóm phụ nữ khác; Thứ hai, do tính chất công việc và môi trường sống phần nào được khắc phục với việc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ở nông thôn, họ thường chịu gánh nặng đa vai trò về giới và phải chịu Tuyên ngôn về xoá bỏ mọi hình thức bạo lực chống lại phụ nữ vào năm đựng nhiều tập tục truyền thống mang tính phân biệt đối xử về giới hơn 1993. Thêm vào đó, trong Khuyến nghị chung số 12 được thông qua tại so với phụ nữ ở thành thị; Thứ ba, phần lớn công việc phụ nữ nông phiên họp lần thứ 8 năm 1989, khuyến nghị các quốc gia thành viên thực thôn thường làm là những công việc “vô hình”, không tính thành tiền thi và báo cáo về các biện pháp mà quốc gia đã tiến hành để bảo vệ phụ nữ nên sự đóng góp của họ ít được ghi nhận. khỏi những hình thức bạo lực ở trong gia đình, ngoài xã hội và ở nơi làm việc. Còn trong Khuyến nghị chung số 19, Ủy ban xác định bạo lực trên cơ Xuất phát từ thực tế kể trên, Điều 14 CEDAW xác nhận tầm quan sở giới tính cấu thành một trong các hình thức phân biệt đối xử chống lại trọng và những đóng góp của phụ nữ nông thôn với kinh tế của quốc gia phụ nữ, và khái niệm “bạo lực trên cơ sở giới tính” được hiểu là những và sự phồn vinh của gia đình; đồng thời yêu cầu các quốc gia thành viên hành vi “ nhằm gây áp lực hoặc điều khiển một người phụ nữ một cách phải quan tâm đặc biệt đến việc bảo đảm cho phụ nữ nông thôn các không chính đáng, bao gồm những hành động hành hạ về thể chất, tinh quyền bình đẳng trong các vấn đề: (i) Tham gia xây dựng và thực hiện thần, gây tổn thương hay đau đớn về tình dục, đe doạ gây ra những hành các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội ở các cấp; (ii) Chăm sóc sức khoẻ, động như vậy hay sự cưỡng chế và tước đoạt những quyền tự do khác của kể cả thông tin, tư vấn, dịch vụ kế hoạch hoá gia đình; (iii) Hưởng lợi phụ nữ ” (đoạn 6). Ủy ban cũng cho rằng, bạo lực trên cơ sở giới tính xâm trực tiếp từ các chương trình bảo hiểm xã hội; (iv) Tham gia các loại phạm hoặc tước đoạt của phụ nữ rất nhiều quyền và tự do cơ bản của con hình đào tạo chính quy và không chính quy, kể cả đào tạo kỹ thuật, người, trong đó có quyền sống; quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng nghiệp vụ; (v) Tham gia các hoạt động của cộng đồng; (vi) Tiếp cận các phạt tàn bạo, vô nhân đạo; quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền bình hình thức tín dụng về nông nghiệp, các điều kiện thuận lợi về thị đẳng trước pháp luật; quyền bình đẳng trong gia đình; quyền được hưởng trường, kỹ thuật; (vii) Được đối xử bình đẳng trong quá trình phân chia tình trạng tốt nhất về sức khỏe (đoạn 7). ruộng đất hoặc khi quy hoạch nông thôn; (viii) Được hưởng các điều kiện sống phù hợp, đặc biệt về nhà ở, điều kiện vệ sinh, điện, nước, giao Ở hầu hết quốc gia trên thế giới, việc thực hiện pháp luật về phòng, thông, thông tin. chống bạo lực trên cơ sở giới gặp nhiều trở ngại xuất phát từ tính chất 251 252
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người Liên quan đến Điều 14, trong Khuyến nghị chung số 16 thông qua Phải đến đầu thế kỷ thứ XX, thuật ngữ pháp lý “quyền trẻ em” mới tại phiên họp lần thứ 10 năm 1990, Ủy ban CEDAW đặc biệt khuyến được đề cập sau một loạt biến cố quốc tế lớn mà đặc biệt là cuộc Chiến nghị các quốc gia thành viên thu thập số liệu thống kê và báo cáo với Ủy tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Cuộc chiến tranh này đã khiến ban về thực trạng pháp lý và xã hội của những phụ nữ làm việc trong rất nhiều trẻ em ở châu Âu bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như các doanh nghiệp gia đình (phần lớn ở vùng nông thôn) mà thường mồ côi không nơi nương tựa, đói khát, bệnh tật và thương tích Tình không được trả công, được hưởng bảo hiểm hoặc phúc lợi xã hội cũng cảnh đó đã thúc đẩy việc thành lập hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên như thực hiện các biện pháp để cải thiện tình hình đó. Trong Khuyến trên thế giới ở Anh và Thuỵ Điển vào năm 1919. Vào năm 1923, bà nghị chung số 17, Ủy ban cũng yêu cầu các quốc gia thành viên điều tra Eglantyne Jebb - người sáng lập Quỹ cứu trợ trẻ em của nước Anh năm và báo cáo về những công việc gia đình không tính thành tiền công mà 1919 - đã soạn thảo một bản Tuyên bố gồm 7 điểm, trong đó kêu gọi phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở vùng nông thôn, đang phải làm. Trong thừa nhận và bảo vệ các quyền của trẻ em. Vào năm sau (1924), bản Khuyến nghị số 11, Ủy ban đặc biệt lưu ý các quốc gia thành viên về tình Tuyên ngôn này được Hội quốc liên thông qua (gọi là Tuyên ngôn trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ nông thôn, xuất phát từ thực tế là Giơnevơ về quyền trẻ em). Sự kiện này có thể coi là mốc đánh dấu thời những phong tục tập quán lạc hậu thường tồn tại phổ biến và có ảnh điểm thuật ngữ “quyền trẻ em” lần đầu tiên được nêu chính thức trong hưởng nặng nề hơn ở vùng nông thôn pháp luật quốc tế, đồng thời, cũng là mốc đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức và hành động bảo vệ trẻ em trên thế giới. 6.3. QUYỀN CỦA TRẺ EM THEO LUẬT QUỐC TẾ Sự ra đời của khái niệm quyền trẻ em đã mở rộng cơ sở của các hoạt Từ lâu trẻ em đã được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn động bảo vệ trẻ em từ các khía cạnh đạo đức, xã hội sang khía cạnh pháp thương nhất và được các nhà nước, các cộng đồng quan tâm bảo vệ. lý, bác bỏ hoàn toàn quan niệm trước đây coi trẻ em như là những đối Đơn cử, từ thế kỷ XIV, ở châu Âu đã xuất hiện những dự án công cộng tượng hoàn toàn phụ thuộc, thậm chí, là một dạng “tài sản” của các bậc dành cho trẻ em (bệnh viện Spedale Degli Innocenti ở Florent, Italia). cha mẹ. Điều này là bởi một khi trẻ em được coi là một chủ thể của Hoặc cũng trong thời kỳ này ở châu Á, Bộ luật Hồng Đức của Việt Nam quyền, các hành động liên quan đến trẻ em sẽ không còn đơn thuần đặt đã quy định trách nhiệm của dân chúng và các quan lại địa phương phải trên nền tảng của tình thương, lòng nhân đạo hay sự che chở nữa, mà còn giúp đỡ trẻ em tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ, chăm là nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan, kể cả các bậc cha mẹ. sóc trẻ lạc, đồng thời, quy định về trừng trị tội gian dâm với trẻ em gái; Sau khi được thành lập, Liên hợp quốc đã đưa vấn đề quyền trẻ em tội buôn bán phụ nữ, trẻ em; giảm án và hoãn thi hành án với phụ nữ có 1 phát triển lên một bước ngoặt mới. Với mệnh đề mở đầu phổ biến trong thai, đang nuôi con nhỏ 55 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước về Mặc dù vậy, trong thời kỳ trước đây, ở tất cả các xã hội, việc bảo vệ các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá năm 1966 trẻ em về cơ bản xuất phát từ các góc độ tình thương, lòng nhân đạo là mọi người có quyền hoặc bất cứ người nào đều có quyền trẻ em được hoặc/và sự che chở chứ không phải dưới góc độ nghĩa vụ bảo vệ quyền. thừa nhận là chủ thể bình đẳng với người lớn trong việc hưởng tất cả các Do vậy, việc bảo vệ trẻ em ở thời kỳ trước về cơ bản chưa mang tính phổ quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế. biến, thống nhất, quy chuẩn và ràng buộc về nghĩa vụ với mọi đối tượng trong xã hội. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, cách tiếp cận “cào bằng” vị thế chủ thể của quyền giữa người lớn và trẻ em cũng không hoàn toàn phù hợp, do đặc trưng của trẻ em là còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần. 1 Xem Quốc Triều Hình Luật, các điều 295, 313,404, 453, 604, 605, 680. Bởi vậy, ngay trong UDHR, ICCPR và ICESCR, trẻ em đã được ghi nhận 253 254
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người những quyền đặc thù, đặc biệt là quyền được chăm sóc, giáo dưỡng và Cách tiếp cận kể trên của CRC bảo đảm thái độ và hành động có được bảo vệ đặc biệt. Dựa trên cách tiếp cận đó, năm 1959, Đại hội đồng trách nhiệm của mọi chủ thể trong các vấn đề có liên quan đến trẻ em. Liên hợp quốc đã thông qua một văn kiện riêng về quyền trẻ em (Tuyên Nó khác với những cách tiếp cận dựa trên tình thương, lòng nhân đạo, bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em). Tuyên bố này là tiền đề để Liên sự che chở hay cào bằng vị thế của trẻ em và người lớn mà đã phổ biến hợp quốc xây dựng và thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC) vào trong các xã hội trước đó. ngày 20-11-1989. Về nội dung, so với các văn kiện trước đó về quyền trẻ em, CRC có Tính đến thời điểm hiện nay, CRC vẫn là văn kiện quốc tế cơ bản những điểm nổi bật đó là: và toàn diện nhất về quyền trẻ em. Mặc dù vậy, đây không phải là văn - Công ước đưa ra một định nghĩa chung về trẻ em mà có thể áp kiện quốc tế duy nhất về vấn đề này. Để thấy được toàn bộ khuôn khổ dụng cho mọi xã hội trên thế giới mà không có sự phân biệt về pháp lý quốc tế về quyền và bảo vệ quyền trẻ em, cần nghiên cứu nhiều bất cứ yếu tố nào về chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá, văn kiện khác, trong đó tiêu biểu là hai Nghị định thư không bắt buộc phong tục tập quán bổ sung Công ước về sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang - Công ước xác lập một tập hợp các quyền trẻ em mà có nhiều và về buôn bán trẻ em, bóc lột và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em (cùng quyền trước đó chưa từng được pháp điển hoá trong luật quốc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 2000), các công ước tế, nhằm bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một cách và khuyến nghị có liên quan của ILO (mà tiêu biểu là Công ước số 138 có hiệu quả và được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, về tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182 về xóa bỏ những hình thức tình cảm, đạo đức và xã hội; lao động trẻ em tồi tệ nhất), các tuyên bố, hướng dẫn, quy tắc chuẩn tối - Công ước đề cập việc bảo vệ những nhóm trẻ em có hoàn cảnh thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên và một số đặc biệt khó khăn (chứ không chỉ đến trẻ em nói chung) như trẻ văn kiện khác em tàn tật, trẻ em bị mất môi trường gia đình, trẻ em mại dâm, 6.3.1. CRC - văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em trong xung đột vũ trang quyền trẻ em - Công ước đề cập việc giải quyết những thách thức cấp bách mà trẻ em đang gặp phải như lạm dụng tình dục trẻ em, bóc lột lao CRC là điều ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc có động, buôn bán trẻ em, trẻ em bị buộc cầm súng, tác động của số lượng quốc gia thành viên cao nhất từ trước đến nay. Hiện tại, gần ma tuý với trẻ em ; như tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã phê chuẩn hoặc gia nhập công ước này, chỉ còn Hoa Kỳ và Xômali. Tư tưởng xuyên - Công ước xác lập một cơ chế pháp lý để theo dõi, giám sát sự suốt và cũng là thể hiện cách tiếp cận của Công ước là: tiến bộ của các quốc gia trong việc bảo đảm các quyền trẻ em. - Trẻ em là những chủ thể của các quyền và của quá trình phát Theo các chuyên gia về quyền trẻ em, có bốn nguyên tắc cơ bản triển chứ không phải là đối tượng được hưởng sự quan tâm, làm nền tảng cho CRC, đó là: thương hại hay lòng từ thiện thuần tuý. - Trẻ em cũng là những con người: Nguyên tắc này xác định vị thế bình đẳng của trẻ em với người lớn về phương diện chủ thể - Trẻ em là những con người nhưng là một nhóm xã hội dễ bị tổn của quyền. Nó khẳng định trẻ em cũng có những giá trị như thương, có những nhu cầu đặc biệt, và có quyền được hưởng sự người lớn và do đó, phải được công nhận và bảo vệ các quyền chăm sóc, bảo vệ một cách đặc biệt. ngay từ giai đoạn thơ ấu; 255 256
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người - Không phân biệt đối xử: Nguyên tắc này hàm ý rằng tất cả trẻ bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý em trên thế giới đều được hưởng các quyền quy định trong CRC, từ trước cũng như sau khi ra đời”. Quy định này hàm nghĩa rằng, việc bất kể dân tộc, chủng tộc, giới tính, tôn giáo, dòng dõi gia đình, bảo vệ, chăm sóc trẻ em cần phải được thực hiện ngay từ những giai tài sản đoạn “trứng nước” chứ không đợi đến lúc trẻ chào đời. - Lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em: Nguyên tắc này đòi hỏi trong 6.3.2.2. Không phân biệt đối xử mọi hoạt động có liên quan đến trẻ em, Nhà nước, các bậc cha mẹ và các chủ thể khác phải lấy lợi ích của trẻ em là mục tiêu hàng Vấn đề này được nêu ở Điều 2 và là một trong bốn nguyên tắc của đầu; Công ước (đã đề cập ở trên). Điểm đặc biệt so với quy định về vấn đề - Tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em: Nguyên tắc này nhằm này trong các điều ước quốc tế khác là ở đây, sự phân biệt đối xử trẻ em bảo đảm rằng trẻ em thực sự là chủ thể của quyền. Nó đòi hỏi được gắn với sự phân biệt đối xử với cha mẹ, người giám hộ hay các các chủ thể khác phải tôn trọng các quyền tự do ý kiến, tự do thành viên trong gia đình của trẻ. Cụ thể, Điều 2 yêu cầu các quốc gia diễn đạt, tự do tôn giáo, tín ngưỡng và tự do lập hội của trẻ em. xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân 6.3.2. Những nội dung chủ yếu của CRC tộc, sắc tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật, thành phần xuất thân hay địa vị khác của trẻ em, cha mẹ, người giám hộ hợp pháp, hoặc những 6.3.2.1. Định nghĩa trẻ em thành viên khác trong gia đình của trẻ em. Theo Điều 1, trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp Liên quan đến quy định trong Điều 2, Ủy ban về quyền trẻ em – cơ luật quốc gia quy định khác. Như vậy, đây là một quy định mở, trong quan giám sát việc thực hiện CRC – trong Bình luận chung số 4 thông đó mức trần tuổi 18 được coi là mức tiêu chuẩn nhưng không phải cố qua tại phiên họp lần thứ 33 năm 20031 cho rằng, ngoài những yếu tố định, bắt buộc với mọi quốc gia. Nói cách khác, điều này cho phép các như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, dân tộc, quốc tịch, quốc gia có thể quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi, và chính kiến và quan điểm khác, nguồn gốc xã hội, tài sản, tình trạng vì vậy, độ tuổi được coi là trẻ em có thể khác nhau giữa các nước thành khuyết tật và dòng dõi thì xu hướng giới tính (sexual orientation) và viên. tình trạng sức khỏe (health status) (bao gồm việc bị nhiễm HIV và bị thiểu năng tâm thần) cũng có thể là nền tảng của sự phân biệt đối xử Về nguyên tắc, nếu mức trần độ tuổi được coi là trẻ em càng cao và với trẻ em. Theo Bình luận chung số 6 thông qua năm 2005, những yếu mang tính cố định, thì số lượng trẻ em được bảo vệ bởi CRC sẽ càng lớn. tố khác có thể tạo ra sự phân biệt đối xử với trẻ em bao gồm tình trạng Hay nói cách khác, cách quy định mang tính “mềm dẻo” như Điều 1 CRC vô thừa nhận, mồ côi cha mẹ, vị thế là người nhập cư, tị nạn hay tìm có thể làm số lượng trẻ em được bảo vệ theo công ước bị giảm đi ở một số kiếm quy chế tị nạn của trẻ (đoạn 18). quốc gia. Tuy nhiên, chính cách quy định mềm dẻo như vậy lại có tác dụng tích cực là tối đa hóa số lượng quốc gia chấp nhận công ước. Từ thực tế đó, Bình luận chung số 5 thông qua tại phiên họp lần thứ 34 năm tính đến sự khác nhau về nhận thức ở các quốc gia về độ tuổi được coi là 2003 xác định rằng, nghĩa vụ nêu trong Điều này đòi hỏi các quốc gia trẻ em và đặt mục tiêu số lượng thành viên CRC lên hàng đầu nên Liên thành viên phải chủ động nghiên cứu và thực hiện các biện pháp để hợp quốc đã đưa ra quy định về độ tuổi trẻ em như Điều 1 của CRC. giảm thiểu hoặc xóa bỏ những bối cảnh tạo ra sự phân biệt đối xử với Cũng theo định nghĩa kể trên, CRC không quy định từ khi nào được coi là trẻ em, nhưng theo Lời nói đầu thì: “ trẻ em cần phải được 1 Nguồn của các Bình luận chung của Ủy ban quyền trẻ em được trích dẫn trong chương này: 257 258
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người các nhóm trẻ em, bao gồm việc thực thi các biện pháp lập pháp, hành chủ thể còn non nớt cả về thể chất và tinh thần nên khác với người lớn, pháp, giáo dục và phân bổ các nguồn lực. Mặc dù vậy, Ủy ban cũng lưu việc bảo vệ sự sống còn của trẻ không chỉ đòi hỏi các biện pháp thông ý rằng, việc áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử không có nghĩa thường cần thiết để bảo vệ tính mạng, mà còn bao gồm các biện pháp là thực hiện việc đối xử giống nhau với mọi trẻ em. phòng ngừa về sức khỏe như tiêm chủng, dinh dưỡng, chăm sóc Thứ hai, sự phát triển của trẻ em cần được hiểu một cách toàn 6.3.2.3. Lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em diện, theo đó không chỉ bao gồm phương diện thể chất, mà còn về các Đây là một trong bốn nguyên tắc của Công ước (đã đề cập ở trên), phương diện trí tuệ, tình cảm, đạo đức, xã hội. được nêu ở Điều 3 và được nhắc lại trong nhiều điều khoản khác của Về vấn đề trên, trong các Bình luận chung số 4 và số 7, Ủy ban CRC, bao gồm các Điều 9, 18, 20 và 21. Theo nguyên tắc này, lợi ích của quyền trẻ em nêu rằng sự sống còn và phát triển của trẻ em liên quan đến trẻ em phải được ưu tiên xem xét trong mọi hoạt động có liên quan đến một loạt các quyền khác như quyền được có lương thực, thực phẩm thích trẻ em của mọi chủ thể, chứ không chỉ giới hạn trong các tiến trình lập đáng; quyền đạt được sức khỏe ở mức cao nhất có thể; quyền được bảo vệ pháp, hành pháp hay tư pháp của các cơ quan Nhà nước. Về khía cạnh trước những sự xâm hại về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm này, Điều 3 xác định trách nhiệm của nhà nước trong việc nuôi dưỡng, mà được nêu không chỉ trong CRC mà còn trong hai nghị định thư tùy chăm sóc trẻ em trong trường hợp cha mẹ hoặc những chủ thể có liên quan khác không thể thực hiện hoặc hoàn thành trách nhiệm ấy. chọn bổ sung công ước mà đề cập các vấn đề về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em, sử dụng trẻ em để sản xuất văn hóa phẩm khiêu dâm và bảo Liên quan đến quy định trong Điều 3, trong Bình luận chung số 5 Ủy vệ trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang. ban về quyền trẻ em cho rằng, để thực hiện điều này đòi hỏi các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của các quốc gia thành viên đều phải có 6.3.2.5. Tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em những biện pháp chủ động để bảo đảm trong mọi hoạt động của cơ quan Nội dung của Điều 12 đồng thời cũng là một trong bốn nguyên tắc mình lợi ích của trẻ em đều được đặt lên hàng đầu. Thêm vào đó, Ủy ban cơ bản của CRC. Điều này thừa nhận trẻ em có quyền bày tỏ ý kiến, cũng khuyến nghị các quốc gia thành viên đánh giá một cách có hệ thống quan điểm riêng của mình về các vấn đề liên quan đến trẻ, trong mọi ảnh hưởng của các quyết định và hoạt động của các cơ quan này đối với các hoàn cảnh, kể cả trong hoạt động tố tụng, đồng thời yêu cầu các quốc quyền và lợi ích của trẻ em, kể cả những quyết định và hoạt động có liên gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có khả năng và cơ hội hình quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến trẻ em. Trong Bình luận chung số 7, Ủy thành và nói lên những ý kiến, quan điểm của mình cũng như phải tôn ban nêu rằng, nguyên tắc này đòi hỏi trong mọi quyết định liên quan đến trọng những quan điểm, ý kiến của trẻ một cách thích đáng với độ tuổi trẻ em còn cần phải tính đến quan điểm của các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và mức độ trưởng thành của trẻ. và những người khác có trách nhiệm với trẻ em (đoạn 13). Cần hiểu rằng, việc bày tỏ ý kiến, quan điểm của trẻ có thể được 6.3.2.4. Sự sống còn và phát triển của trẻ em thực hiện ở mọi môi trường (trong gia đình, cộng đồng và ngoài xã hội ) một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện, dưới Điều 6 thừa nhận quyền sống như là một quyền cố hữu của trẻ em nhiều hình thức thích hợp, chẳng hạn như: phát biểu tại các cuộc họp, và quy định trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm sự sống còn và phát triển của trẻ ở mức cao nhất. viết thư, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng Cũng cần hiểu rằng, quy định kể trên không có nghĩa là cha mẹ, Nhà nước và các Liên quan đến quy định trong Điều 6, có hai khía cạnh cần chú ý đó là: chủ thể khác phải nghe theo các ý kiến, quan điểm của trẻ trong mọi Thứ nhất, “sống còn” (survival) là một trong những thuật ngữ đặc trường hợp, mà chỉ đặt ra nghĩa vụ cho các chủ thể phải lắng nghe, tôn thù được sử dụng trong Công ước về quyền trẻ em. Do trẻ em là những 259 260
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người trọng, nghiêm túc xem xét và thực hiện các ý kiến, quan điểm đó nếu các quyền trẻ em không thể bị coi là một quá trình từ thiện hay những thấy chúng hợp lý và có thể áp dụng. ưu đãi dành cho trẻ em mà phải coi đó là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và là một cam kết chính trị (các đoạn 11, 12). Liên quan đến nội dung Điều 12, Ủy ban Quyền trẻ em, trong Bình luận chung số 7 thông qua tại phiên họp lần thứ 34 năm 2005 nhấn mạnh 6.3.2.7. Vai trò và trách nhiệm của cha mẹ rằng, kể cả những trẻ ở độ tuổi còn nhỏ cũng có quyền được bày tỏ và tôn trọng ý kiến, quan điểm một cách thích đáng. Ủy ban lưu ý về những môi Điều 18 xác định một nguyên tắc là cha mẹ, và trong những trường trường mà trong đó quyền này của trẻ cần được chú trọng bảo đảm, bao hợp nhất định là người giám hộ pháp lý, có trách nhiệm chính trong gồm gia đình, các cơ sở giáo dục, chăm sóc y tế dành cho trẻ em, hoạt động việc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em. Điều này cũng quy định rõ, trong tố tụng, hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật, nghiên cứu, tư vấn có gia đình, việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái là trách nhiệm chung của liên quan đến trẻ. Ủy ban cũng khuyến nghị các quốc gia thành viên thực các bậc cha mẹ và trong việc này, lợi ích của trẻ em phải là mối quan hiện các biện pháp thích hợp để thúc đẩy các bậc cha mẹ và những chủ thể tâm hàng đầu của họ. có trách nhiệm khác tạo cơ hội cho trẻ em được bày tỏ ý kiến, quan điểm Quy định ở Điều 18 bắt nguồn từ quan điểm định hướng được nêu và tôn trọng các ý kiến, quan điểm của trẻ (đoạn 14). ở Lời nói đầu của CRC, theo đó, công ước xác định gia đình là “đơn vị xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự trưởng thành và cuộc sống 6.3.2.6. Nghĩa vụ quốc gia hạnh phúc của mọi thành viên, đặc biệt là trẻ em”. Điều 4 yêu cầu các quốc gia thành viên phải từng bước bảo đảm các Nguyên tắc kể trên không loại bỏ trách nhiệm của các nhà nước; quyền của trẻ em trong Công ước, trong đó nhấn mạnh rằng, Nhà nước ngược lại, Điều 18 đồng thời ấn định nghĩa vụ của các nhà nước là phải phải sử dụng một cách tối đa các nguồn lực sẵn có để bảo đảm các dành cho các bậc cha mẹ và người giám hộ pháp lý sự giúp đỡ thích quyền kinh tế, xã hội, văn hoá của trẻ em. Điều này cũng gợi ý rằng khi đáng để họ có thể hoàn thành tốt việc nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em. cần thiết, các quốc gia có thể yêu cầu sự trợ giúp quốc tế để bảo đảm các Theo tinh thần của Điều này, việc giúp đỡ các bậc cha mẹ để họ có khả quyền của trẻ em. năng chăm sóc, giáo dục trẻ em là biện pháp ưu tiên, việc giao trẻ em Liên quan đến quy định trong Điều 4, trong Bình luận chung số 5, cho cộng đồng hay Nhà nước chăm sóc chỉ được coi là biện pháp cuối Ủy ban về quyền trẻ em cho rằng, Điều này đòi hỏi các quốc gia thành cùng bởi trẻ em rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương khi bị tách khỏi bố viên phải huy động sự tham gia của tất cả các thành phần trong xã hội, mẹ, gia đình. bao gồm cả trẻ em, cũng như phải xây dựng những cơ chế đặc biệt và Liên quan đến vấn đề trên, trong Bình luận chung số 7, Ủy ban thành lập các cơ quan điều phối, giám sát (độc lập hay trực thuộc chính quyền trẻ em xác định, việc tôn trọng vai trò của cha mẹ bao gồm nghĩa phủ) để thu thập dữ liệu, nâng cao nhận thức của xã hội và tổ chức thực vụ không cách ly trẻ em khỏi cha mẹ, trừ khi việc cách ly như thế đem hiện các chính sách, chương trình, dịch vụ thích hợp nhằm bảo đảm lại lợi ích tốt nhất cho trẻ, bởi trẻ em đặc biệt dễ bị tổn thương khi bị hiện thực hóa các quyền của trẻ em (các đoạn 2 và 10). Thêm vào đó, Ủy tách ly khỏi cha mẹ. Ủy ban khuyến nghị các quốc gia thành viên cần ban cũng khuyến nghị các quốc gia thành viên thành lập những bộ phận phải nỗ lực hết sức để giảm thiểu số trẻ em bị bỏ rơi và trẻ em mồ côi. hoặc bổ nhiệm các cá nhân chuyên trách về trẻ em trong Chính phủ, Điều này đòi hỏi phải có những hình thức tổ chức chăm sóc thay thế dài Nghị viện và các cơ quan nhà nước khác, thực hiện các nghiên cứu phân hạn theo mô hình cộng đồng hay nhà nước cho những trẻ em rơi vào tích, báo cáo về tình hình trẻ em, dành ngân sách cho bảo vệ, chăm sóc những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, ví dụ như trẻ em bị cha mẹ bỏ mặc, và giáo dục trẻ em (đoạn 10). Ủy ban nhấn mạnh rằng, việc thực hiện ngược đãi hay xỉ nhục; trẻ phải sống trong bối cảnh cha mẹ xung đột 261 262
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người thường xuyên; cha mẹ không có khả năng nuôi con vì những lý do sức nhiệm thường xuyên điều chỉnh sự chỉ bảo và hướng dẫn đó của họ để khỏe hay tâm thần (đoạn 18). Ủy ban cũng nêu ra một số gợi ý về phù hợp với mức độ trưởng thành của trẻ (đoạn 17). những cách thức mà các quốc gia có thể hỗ trợ gia đình trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em, chẳng hạn như việc điều chỉnh các chính sách 6.3.2.8. Cách ly với cha mẹ về thuế thu nhập, lợi tức, nơi ở và thời gian làm việc, dịch vụ y tế, giáo Mặc dù Công ước coi việc sống với cha mẹ là một quyền cơ bản của dục, trợ cấp xã hội cho các bậc cha mẹ, cũng như việc tư vấn, hỗ trợ về trẻ em nhưng vẫn dự kiến khả năng cho phép chủ động cách ly trẻ em kỹ năng chăm sóc, giáo dục trẻ em cho họ (đoạn 20). khỏi cha mẹ trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Theo Điều 9 CRC, nguyên tắc cần tuân thủ trong vấn đề này là việc cách ly trẻ em khỏi cha mẹ chỉ Cũng đề cập đến vai trò và trách nhiệm của các bậc cha mẹ nhưng có thể thực hiện nếu như điều đó mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ. Điều ở khía cạnh tinh thần, Điều 5 CRC yêu cầu các quốc gia thành viên phải này cũng nêu ra một số hoàn cảnh trong đó có thể cách ly trẻ em khỏi tôn trọng trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ các bậc cha mẹ, hoặc trong cha mẹ, ví dụ như khi trẻ em bị cha mẹ lạm dụng, sao nhãng hoặc khi trường hợp thích hợp, của các thành viên khác trong gia đình hay của cha mẹ sống cách ly nhau và cần có một quyết định về nơi cư trú của trẻ những người giám hộ pháp lý trong việc chỉ bảo và hướng dẫn thích (Khoản 1). Sự cách ly giữa trẻ em và cha mẹ chỉ có thể do một cơ quan hợp cho trẻ em thực hiện những quyền được thừa nhận trong CRC, theo nhà nước có thẩm quyền quyết định với sự giám sát của tòa án hoặc của cách thức phù hợp với mức độ phát triển về năng lực của trẻ. các cơ quan tư pháp khác, và trong các trường hợp như vậy, trẻ em có Từ nội dung Điều 5 và xét trong mối quan hệ với các quyền khác quyền được bày tỏ quan điểm, được duy trì quan hệ và tiếp xúc trực tiếp của trẻ em được ghi nhận trong CRC, có thể thấy: Thứ nhất, sự chỉ bảo với cha, mẹ thường xuyên, trừ trường hợp điều đó không có lợi cho trẻ. và hướng dẫn của cha mẹ, người thân trong gia đình hay người giám hộ Ngoài ra, Khoản 4 Điều 9 CRC còn đề cập những hoàn cảnh mà trẻ pháp lý không bao gồm các biện pháp bạo lực về thể chất, tinh thần (với em bị cách ly khỏi cha mẹ một cách bị động, cụ thể là do kết quả của ý nghĩa là một hình thức kỷ luật để buộc trẻ phải tuân theo), và Thứ hai, việc cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ của trẻ em, hay chính bản thân trẻ em, không được áp đặt ý kiến của người lớn (dưới danh nghĩa sự chỉ bảo và bị giam giữ, bỏ tù, trục xuất, lưu đày đi xa hay bị chết. Trong những hướng dẫn) với trẻ em khi các em đã ở mức độ trưởng thành nhất định về nhận thức. hoàn cảnh này, CRC yêu cầu các quốc gia thành viên có liên quan phải cung cấp cho cha mẹ, cho đứa trẻ, hoặc nếu thích hợp, cho một thành Liên quan đến khía cạnh trên, trong Bình luận chung số 4 thông viên khác của gia đình đứa trẻ những thông tin thiết yếu về địa chỉ của qua tại phiên họp lần thứ 33 năm 2003, Ủy ban quyền trẻ em nêu rằng, một hay nhiều thành viên vắng mặt của gia đình, trừ khi việc cung cấp để thực hiện quy định tại Điều 5, các bậc cha mẹ và những người có thông tin như thế có thể gây tổn hại đến cuộc sống của đứa trẻ. Thêm trách nhiệm khác có nghĩa vụ tạo lập một môi trường an toàn và cảm vào đó, các quốc gia thành viên còn phải bảo đảm rằng, việc đề ra yêu thông để trẻ em phát triển, trong đó cần phải quan tâm đến quan điểm cầu như vậy sẽ không tự nó gây nên những hậu quả có hại cho người của trẻ. Trẻ em cần phải được các thành viên khác trong gia đình thừa (hoặc những người) có liên quan. nhận như là các chủ thể của quyền và cần được chỉ bảo, hướng dẫn để trở thành các công dân tốt. Trong Bình luận chung số 7, Ủy ban cho 6.3.2.9. Đoàn tụ gia đình rằng, quyền của cha mẹ trong việc chỉ bảo và hướng dẫn con cái luôn gắn liền với yêu cầu là họ phải hành động vì những lợi ích tốt nhất của Theo Điều 10, trẻ em có cha mẹ mà mỗi người cư trú ở các quốc trẻ (đoạn 16). Ủy ban cũng cho rằng Điều 5 yêu cầu các bậc cha mẹ và gia khác nhau phải có quyền được duy trì quan hệ và tiếp xúc trực tiếp, những người khác có trách nhiệm chỉ bảo và hướng dẫn trẻ em có trách đều đặn với cả cha và mẹ, trừ những hoàn cảnh đặc biệt không cho phép như vậy. Để thực hiện quyền này, trẻ em và cha mẹ của các em có 263 264
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người quyền rời khỏi bất kỳ nước nào cũng như có quyền trở về nước mình với Quyền có họ tên và quốc tịch có ý nghĩa rất quan trọng trong việc mục đích đoàn tụ gia đình hoặc để duy trì quan hệ giữa cha mẹ và con bảo đảm cho trẻ em được hưởng sự bảo vệ và hỗ trợ của Nhà nước cũng cái. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm quyền này bằng cách xem xét như tham gia vào đời sống xã hội, kể cả trong thời thơ ấu cũng như đến thủ tục xuất, nhập cảnh cho trẻ em và cha mẹ một cách tích cực, nhân khi trưởng thành. Thực tế ở khắp nơi trên thế giới cho thấy, việc bị tước đạo và nhanh chóng. Thêm vào đó, các quốc gia thành viên cũng phải quyền có họ tên và quốc tịch đồng thời tước bỏ của trẻ em cơ hội hưởng bảo đảm rằng, việc đưa một yêu cầu về đoàn tụ gia đình như thế sẽ thụ những quyền cơ bản nhất như quyền được học tập, quyền được không gây ra những hậu quả có hại cho những người đứng đơn yêu cầu chăm sóc y tế và cho các thành viên gia đình họ. Điều 7 CRC quy định trách nhiệm của các quốc gia thành viên Mặc dù vậy, Điều 10 cũng lưu ý rằng, quyền xuất, nhập cảnh vì trong việc bảo đảm quyền có họ tên và quốc tịch của trẻ em, thông qua mục đích đoàn tụ gia đình của cha mẹ và trẻ em có thể phải chịu những những hành động cụ thể như đăng ký họ tên, quốc tịch cho trẻ em ngay giới hạn nhất định. Những giới hạn này chỉ có hiệu lực khi được pháp sau khi sinh, bảo đảm quyền của trẻ em được biết cha mẹ mình là ai và luật quy định và chỉ để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo được cha mẹ chăm sóc sau khi ra đời. Điều này cũng gợi ý rằng, để bảo đảm quyền này của trẻ em, ngoài việc ban hành các quy định pháp luật đức và sức khoẻ của công chúng hoặc các quyền và tự do của người khác quốc gia, các nước thành viên cần thiết phải ký kết và tuân thủ các điều phù hợp với những quy định có liên quan trong CRC. ước quốc tế khác có liên quan, cụ thể như: về vấn đề hôn nhân có yếu tố 6.3.2.10. Cấm đưa trẻ em ra nước ngoài một cách bất hợp pháp nước ngoài, nhập cư, cho nhận con nuôi và không mang trở về Liên quan đến Điều 7 CRC, trong Bình luận chung số 6 được thông Theo Điều 11, các quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp qua tại phiên họp lần thứ 35 năm 2005, Ủy ban quyền trẻ em đã đưa ra để ngăn chặn việc cha, mẹ hay một bên thứ ba theo yêu cầu của cha, mẹ những hướng dẫn rất cụ thể và chi tiết về trách nhiệm của các quốc gia mang trẻ em ra nước ngoài hay giữ trẻ em ở nước ngoài một cách bất thành viên trong việc đối xử với những trẻ em vô thừa nhận và trẻ em hợp pháp. không cha mẹ hiện diện trên lãnh thổ nước mình. Theo Ủy ban, CRC áp đặt nghĩa vụ với các quốc gia thành viên phải bảo vệ mọi trẻ em hiện Cần hiểu rằng, bối cảnh của Điều này chủ yếu liên quan đến mối diện trên lãnh thổ nước mình, bất kể quốc tịch của các em (đoạn 12). quan hệ gia đình, cụ thể là trong những tình huống các cặp vợ chồng Nói cách khác, các quốc gia thành viên không chỉ giới hạn sự bảo vệ với (một hoặc cả hai người đang ở nước ngoài) ly thân, ly hôn mà tranh những trẻ em là công dân nước mình, mà còn có trách nhiệm bảo vệ giành quyền nuôi con. Nó cơ bản khác với việc buôn bán trẻ em ra nước những trẻ em tị nạn, trẻ em nhập cư, di cư – bất kể những trẻ em đó có ngoài vào mục đích bóc lột tình dục, sức lao động, bán làm con nuôi quốc tịch nước nào hay không quốc tịch và bất kể các em đến nước đó hoặc khai thác các bộ phận cơ thể để cấy ghép. bằng cách nào. Ủy ban cũng xác định tất cả các cơ quan lập pháp, hành Cũng theo quy định ở Điều 11, biện pháp quan trọng mà các quốc pháp, tư pháp của quốc gia đều có nghĩa vụ với những trẻ em vô thừa gia thành viên cần tiến hành để thực hiện Điều này là ký kết, tham gia nhận và trẻ em không cha mẹ, và nghĩa vụ của các quốc gia trong vấn đề các điều ước song phương hoặc đa phương nhằm kiểm soát chặt chẽ này bao gồm cả ba dạng: tôn trọng, bảo vệ và hỗ trợ. Ở khía cạnh cụ việc xuất, nhập cảnh. thể, các quốc gia có trách nhiệm thực thi các biện pháp thích hợp, ở thời điểm sớm nhất có thể ở ngay tại biên giới để xác định danh tính và 6.3.2.11. Họ tên và quốc tịch nguồn gốc của những trẻ em vô thừa nhận và trẻ em không cha mẹ, cũng như để bảo vệ và giúp các em đoàn tụ gia đình (đoạn 13). Ủy ban 265 266
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người cũng khuyến nghị các quốc gia thành viên phê chuẩn hoặc gia nhập các trong trường hợp thích hợp, của những người giám hộ pháp lý, trong điều ước quốc tế có liên quan, trong đó bao gồm hai Nghị định thư tùy việc hướng dẫn về niềm tin và nhận thức của trẻ em một cách phù hợp chọn bổ sung CRC, để tạo lập một môi trường pháp lý thuận lợi cho việc với mức độ phát triển của các em. bảo vệ và giúp đỡ những trẻ em vô thừa nhận và trẻ em không cha mẹ Tự do kết giao, hội họp một cách hòa bình (Điều 15) thể hiện ở việc (đoạn 15) trẻ em có quyền được gặp gỡ với những trẻ em khác và gia nhập, thành lập các tổ chức của trẻ em. 6.3.2.12. Duy trì bản sắc Tuy nhiên, cần lưu ý là các Điều 13,14,15 cũng đồng thời khẳng định Điều 8 CRC khẳng định quyền của trẻ em được giữ gìn bản sắc, rằng những tự do cá nhân nêu ở các điều này có thể phải chịu những giới đồng thời, quy định trách nhiệm của các quốc gia thành viên phải bảo hạn nhất định. Những giới hạn này chỉ có hiệu lực khi được quy định trong vệ và giúp đỡ trẻ em khôi phục bản sắc trong trường hợp bản sắc của pháp luật và chỉ để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức và các em bị mất. sức khoẻ của công chúng hoặc các quyền và tự do của người khác. Đây Cần lưu ý là khái niệm “bản sắc” của trẻ em trong Điều 8 được hiểu cũng là nguyên tắc chung của luật nhân quyền quốc tế khi đề cập những tự thông qua các khía cạnh như quốc tịch, họ tên và quan hệ gia đình tức do cá nhân này ở phương diện áp dụng chung. là rộng hơn nhiều so với cách hiểu thông thường là những gì thuộc về Với ý nghĩa là tiền đề để thực hiện những quyền tự do nêu ở các phong tục, tập quán của một dân tộc nhất định (bản sắc dân tộc). Ở Điều 13,14,15, Điều 17 yêu cầu các quốc gia thành viên thực hiện các đây, bản sắc của trẻ em là tổng hợp của những yếu tố thuộc về bản sắc biện pháp để bảo đảm cho trẻ em được tiếp cận với thông tin, sách vở, của dân tộc và những đặc thù của gia đình (truyền thống, vị thế, hoàn tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau (báo, đài, vô tuyến, internet ), cả ở cảnh ) cũng như của cá nhân (thể hình, tính cách, họ tên, năng lực ) phạm vi quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, theo Điều này, những thông tin của trẻ em. và tài liệu cung cấp cho trẻ em phải được chọn lọc để bảo đảm chúng có 6.3.2.13. Các tự do cá nhân lợi cho việc phát triển nhân cách, khả năng về thể chất, trí tuệ của trẻ em cũng như phù hợp với các mục đích khác trong giáo dục trẻ em nêu Các Điều 13, 14, 15, 17 CRC cụ thể hoá nội dung Điều 11 của công ở Điều 29 CRC. Điều này liên quan đến nghĩa vụ (đồng thời cũng là ước khi quy định rằng trẻ em có các quyền tự do cá nhân, bao gồm tự do quyền) của các bậc cha mẹ, Nhà nước và các chủ thể khác phải tiến biểu đạt; tự do tư duy, tôn giáo, tín ngưỡng; kết giao, hội họp một cách hành các biện pháp thích hợp, kể cả ngăn cấm trẻ em tiếp xúc với một hòa bình. số loại thông tin, văn hoá phẩm, đặc biệt là các loại thông tin, văn hóa Tự do biểu đạt (Điều 13) thể hiện ở việc trẻ em có quyền bày tỏ ý phẩm có tính chất bạo lực, đồi trụy kiến về các vấn đề liên quan đến các em cũng như được tìm kiếm, tiếp nhận, phổ biến tất cả các loại thông tin, tư tưởng thuộc mọi lĩnh vực, 6.3.2.13. Bảo vệ sự riêng tư dưới bất kỳ hình thức nào, bằng bất kỳ phương tiện nào và không có bất Điều 16 CRC thừa nhận trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ kỳ giới hạn nào về lãnh thổ. chống lại sự can thiệp tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư cũng như những Tự do tư duy, tôn giáo, tín ngưỡng (Điều 14) thể hiện ở việc trẻ em sự công kích bất hợp pháp vào danh dự và thanh danh. có quyền tin vào những điều mình cho là đúng, theo hoặc không theo Khái niệm sự riêng tư theo Điều trên không chỉ bao gồm những yếu một tôn giáo, tín ngưỡng nào. Với dạng tự do này, các quốc gia thành tố về đời sống cá nhân, gia đình, nhà cửa, thư từ, nhật ký, mà còn cả về viên còn có nghĩa vụ tôn trọng quyền, nghĩa vụ của các bậc cha mẹ, và quan hệ bạn bè, giao tiếp của trẻ em Sự can thiệp tuỳ tiện và bất hợp 267 268
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người pháp vào đời tư được hiểu là các hành động nói xấu, vu cáo, xuyên tạc, nuôi dạy trẻ em lâu dài và sự phù hợp về văn hoá như xuất xứ dân tộc, thậm chí, loan truyền những thông tin về đời sống riêng tư và danh dự tôn giáo, ngôn ngữ của trẻ em. của trẻ em mà không được phép của trẻ hay của cha mẹ, người giám hộ Liên quan đến quy định trên, trong Bình luận chung số 7, Ủy ban các em. quyền trẻ em cho rằng, biện pháp chăm sóc thay thế dựa trên cơ sở gia đình (cho làm con nuôi) hoặc có hình thức giống như gia đình (nhận đỡ 6.3.2.14. Bảo vệ trẻ em khỏi sự lạm dụng, sao nhãng đầu ) cần được ưu tiên vì cho thấy kết quả tích cực hơn với trẻ em Điều 19 xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ trẻ (đoạn 36). Trên thực tế ở các quốc gia, việc đưa trẻ em vào các cơ sở em khỏi những hình thức bạo lực về thể chất, xúc phạm danh dự, nhân chăm sóc thay thế thường được xem xét như là biện pháp cuối cùng. phẩm, bị lạm dụng (tình cảm, sức lao động hay lạm dụng tình dục), bị Điều 21 đề cập cụ thể biện pháp chăm sóc thay thế phổ biến là cho bỏ mặc hoặc sao nhãng sự chăm sóc, bị ngược đãi hoặc bóc lột, kể cả khi làm con nuôi. Mục đích của Điều này là nhằm ngăn chặn những hành vi trẻ em đang sống với cha mẹ, người giám hộ pháp lý hoặc với bất kỳ trục lợi, thương mại hoá hoạt động cho nhận con nuôi. Theo Điều này, người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em (Khoản 1). Khoản 2 việc nhận trẻ em làm con nuôi phải được tiến hành theo quy định của Điều này xác định, những biện pháp bảo vệ trẻ em khỏi sự lạm dụng, pháp luật, và phải quán triệt nguyên tắc nhằm mang lại lợi ích tốt nhất sao nhãng, ngoài những thủ tục phát hiện, điều tra, chuyển cấp, xử lý, cho trẻ. Xuất phát từ nguyên tắc này, việc nhận trẻ em làm con nuôi chỉ kể cả xử lý về tư pháp, trong chừng mực thích hợp cần bao gồm những được tiến hành với sự cho phép của những cơ quan có thẩm quyền sau biện pháp phòng ngừa như xây dựng các chương trình xã hội để hỗ trợ khi đã hoàn tất các thủ tục và dựa trên các thông tin thích hợp, đáng tin trẻ em và những người chăm sóc trẻ em nhằm hạn chế nguy cơ trẻ em cậy về hoàn cảnh của bản thân, cha, mẹ, họ hàng, người giám hộ hợp bị lạm dụng, sao nhãng. pháp của đứa trẻ, cũng như sự đồng ý một cách có hiểu biết của những Liên quan đến quy định trên, trong Bình luận chung số 7, Ủy ban đối tượng đó cho thấy việc cho nhận trẻ em làm con nuôi là có thể chấp quyền trẻ em cho rằng, ngoài việc phòng ngừa, các quốc gia thành viên nhận được. Đặc biệt, theo Điều này, việc cho trẻ em làm con nuôi người cần phải có những biện pháp tích cực để hỗ trợ những trẻ em bị lạm nước ngoài chỉ được tiến hành khi không thể tìm được môi trường dụng, sao nhãng phục hồi về thể chất và tinh thần (đoạn 36). chăm sóc thay thế cho trẻ ở trong nước và phải bảo đảm trẻ phải được bảo vệ, chăm sóc với những tiêu chuẩn tương đương với các tiêu chuẩn 6.3.2.15. Bảo vệ trẻ em bị mất môi trường gia đình ở trong nước. Việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài không Vấn đề này được đề cập trong hai Điều 20, 21 và 25 của CRC. được vì mục đích tài chính và nên được thực hiện theo quy định tại các Điều 20 yêu cầu các nhà nước dành sự bảo vệ và trợ giúp đặc biệt điều ước song phương hoặc đa phương. cho những trẻ em bị mất môi trường gia đình (tạm thời hay vĩnh viễn) Bổ sung cho các Điều 21 và 22, Điều 25 yêu cầu các quốc gia thành hoặc vẫn còn cha mẹ nhưng cần được tách khỏi gia đình vì lợi ích tốt viên không được lãng quên, bỏ rơi những trẻ em đang được nuôi dưỡng, nhất của các em đó, bằng cách cung cấp cho trẻ sự chăm sóc thay thế. chăm sóc thay thế tại các gia đình và các cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Các hình thức chăm sóc thay thế có thể là gửi nuôi, nhận làm con nuôi em. Theo quy định của Điều này, Nhà nước phải định kỳ kiểm tra hoạt (trong hoặc ngoài nước), hình thức Kafala theo luật Hồi giáo hoặc đưa động của các cơ sở chăm sóc thay thế trẻ em để bảo đảm rằng các cơ sở trẻ vào các cơ sở chăm sóc trẻ em (do Nhà nước hay các tổ chức từ thiện đó tuân thủ các tiêu chuẩn đề ra trong Công ước. điều hành). Điều này cũng quy định, những yếu tố cần xem xét khi cân nhắc để lựa chọn các biện pháp chăm sóc thay thế bao gồm khả năng 6.3.2.16. Trẻ em tị nạn 269 270
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người Theo Điều 22, trẻ em tị nạn hay đang xin quy chế tỵ nạn, đặc biệt là quy chế tị nạn (các đoạn 29, 30). Đặc biệt, Ủy ban đã nêu những hướng với những em không có người lớn đi kèm, phải được bảo vệ và giúp đỡ dẫn cụ thể với các quốc gia trong việc bảo vệ nhóm trẻ em này, bao gồm nhân đạo thích đáng theo đúng pháp luật quốc gia và thông lệ quốc tế những vấn đề về thủ tục đánh giá ban đầu (các đoạn 31, 32); việc bổ (Khoản 1). Khoản 2 Điều này nêu rõ, nhằm mục đích đó, các quốc gia nhiệm người giám hộ, tư vấn hay đại diện pháp lý cho trẻ (các đoạn từ thành viên, nếu xét thấy thích hợp, cần hợp tác trong mọi cố gắng của 33 đến 38); việc chăm sóc và bố trí nơi ở (các đoạn 39, 40); việc bảo Liên hợp quốc hoặc các tổ chức liên chính phủ hay phi chính phủ khác đảm các quyền về giáo dục (các đoạn từ 41 đến 43); quyền có mức sống để bảo vệ, giúp đỡ, tìm kiếm cha mẹ hoặc những thành viên khác trong thích đáng (các đoạn 41, 45); quyền được chăm sóc y tế (các đoạn từ 46 gia đình giúp những trẻ em tị nạn hay tìm kiếm quy chế tị nạn đoàn tụ đến 49); chống buôn bán, bóc lột và lạm dụng tình dục (các đoạn từ 50 gia đình. Trong trường hợp không thể tìm được cha mẹ hay các thành đến 53); không bị tuyển mộ và được bảo vệ trong bối cảnh xung đột vũ viên khác của gia đình em, thì cần phải dành cho đứa trẻ đó sự bảo vệ trang (các đoạn từ 54 đến 60); việc tiếp cận với quy chế và các quyền của người tị nạn (các đoạn từ 64 đến 78); việc đoàn tụ gia đình, hồi giống như bất kỳ trẻ em nào mà vĩnh viễn hay tạm thời bị mất môi hương và các giải pháp bền vững khác (các đoạn từ 79 đến 94) trường gia đình vì bất kỳ lý do gì, như đã được nêu trong Công ước. 6.3.2.17. Trẻ em khuyết tật Liên quan đến Điều 22, Ủy ban quyền trẻ em đã thông qua Bình luận chung số 6 năm 2005 với những nội dung chi tiết về việc đối xử với Điều 23 khẳng định trẻ em khuyết tật về thể chất hoặc tinh thần có trẻ em vô thừa nhận và không cha mẹ ở bên ngoài quốc gia của các em. quyền được chăm sóc, giáo dục và điều trị đặc biệt, để giúp các em có Theo Ủy ban, nhóm trẻ em này thường phải đối mặt với những nguy cơ cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ, được bảo đảm phẩm giá, thúc đẩy khả năng rất cao bị bóc lột, lạm dụng tình dục và sức lao động, cũng như bị từ tự lập và hoà nhập với xã hội của các em ở mức độ cao nhất có thể được. chối hay cản trở việc tiếp cận với quy chế tị nạn (đoạn 3). Ủy ban cho Điều này yêu cầu các quốc gia thành viên phải khuyến khích và bảo đảm rằng, các quốc gia thành viên CRC có trách nhiệm với mọi trẻ em nằm dành cho trẻ em khuyết tật cũng như những người có trách nhiệm chăm trong quyền tài phán của mình, bất kể quốc tịch của các em. Nói cách sóc các em sự giúp đỡ thích hợp và miễn phí trong các vấn đề giáo dục, khác, trẻ em nhập cư, trẻ em bị buôn bán ra nước ngoài, trẻ em tị nạn đào tạo, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, tìm kiếm việc làm và hay xin quy chế tị nạn đều phải được hưởng và bảo vệ các quyền theo các cơ hội vui chơi, giải trí, tùy theo các nguồn lực sẵn có của quốc gia. công ước (đoạn 12), nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với những trẻ em Cũng theo Điều này, trên phương diện hợp tác quốc tế, các quốc gia này (đoạn 18). Ủy ban cũng cho rằng, phù hợp với những nguyên tắc thành viên phải thúc đẩy việc trao đổi thông tin và hỗ trợ lẫn nhau của CRC, các quốc gia thành viên có liên quan phải xác định các giải trong việc phòng, chữa bệnh, giáo dục, phục hồi chức năng và đào tạo pháp ngắn hạn và dài hạn với trẻ em nhập cư, trẻ em bị buôn bán ra nghề cho trẻ em khuyết tật. nước ngoài, trẻ em tị nạn hay xin quy chế tị nạn dựa trên cơ sở lợi ích tốt nhất của các em (các đoạn từ 19 đến 22), đồng thời, phải chú ý đến Ở góc độ chung, việc bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật cần được việc bảo vệ các quyền sống và phát triển (các đoạn 23, 24) và quyền tham chiếu với các văn kiện quốc tế khác về vấn đề này, đặc biệt là với được cung cấp thông tin và tự do bày tỏ ý kiến của trẻ em (đoạn 25). Công ước về quyền của người khuyết tật mới được Đại hội đồng Liên Thêm vào đó, trong đối xử với nhóm trẻ em này, các quốc gia thành hợp quốc thông qua vào tháng 3 năm 2007. viên cũng phải tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc của luật nhân đạo Ở góc độ cụ thể, liên quan đến Điều 23, Ủy ban quyền trẻ em đã và luật tị nạn quốc tế, bao gồm nguyên tắc không được trả về nước gốc thông qua Bình luận chung số 9 năm 2006 riêng về vấn đề quyền của nếu việc đó có nguy cơ đe dọa đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm của trẻ em khuyết tật. Theo Ủy ban, sự phân biệt đối xử với trẻ em khuyết người bị trả về (các đoạn từ 26 đến 28); nguyên tắc bảo mật thông tin, tật là trái với quy định trong Điều 2 CRC (nguyên tắc không phân biệt trong đó bao gồm những thông tin về đời tư của người tị nạn hay xin 271 272
- Chương VI: Luật quốc tế về quyền của một số Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người đối xử về quyền của trẻ em), và bởi vậy, một trong các biện pháp để hành để bảo đảm sức khỏe và sự phát triển của trẻ em. Theo Ủy ban, để thực hiện Điều 23 là các quốc gia thành viên phải nỗ lực hết sức để ngăn bảo đảm sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ em, các quốc gia chặn và xóa bỏ sự phân biệt đối xử với trẻ em khuyết tật (các đoạn từ 8 thành viên phải thực thi các nghĩa vụ bao gồm: (a) Tạo ra một môi trường đến 10), trong đó có việc rà soát và xóa bỏ những quy định pháp luật an toàn và cảm thông cho trẻ em kể cả trong gia đình, nhà trường, các cơ quốc gia có tính chất phân biệt đối xử với trẻ em khuyết tật (đoạn 17). sở nuôi dưỡng trẻ em và trong toàn xã hội; (b) Bảo đảm cho trẻ em được Ủy ban cho rằng, Điều 23 đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong tiếp cận những thông tin cần thiết cho sức khỏe và sự phát triển của việc thực thi quyền của trẻ em khuyết tật và thông điệp chính của nó là mình, kỹ năng sống và có cơ hội tham gia vào quá trình ra những quyết trẻ em khuyết tật phải được các xã hội đùm bọc (đoạn 11). Ủy ban cũng định ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ em; (c) Bảo đảm cung cấp các khuyến nghị các quốc gia thành viên cần xây dựng và thực thi các chiến phương tiện, hàng hóa và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bao gồm các dịch lược, kế hoạch hành động quốc gia trong đó dành những nguồn nhân, vụ hướng dẫn và các dịch vụ sức khỏe tinh thần và sức khỏe sinh sản, với vật lực cho việc hiện thực hóa các quyền của trẻ em khuyết tật (đoạn chất lượng phù hợp cho trẻ em và các bậc cha mẹ; (d) Bảo đảm rằng, mọi 18). Ngoài ra, trong Bình luận chung số 9, Ủy ban đã đưa ra những trẻ em đều có cơ hội tham gia tích cực vào việc lập kế hoạch, lên chương khuyến nghị cụ thể về nhiều khía cạnh khác về quyền của trẻ em khuyết trình cho sự phát triển và sức khỏe của chính các em; (e) Bảo vệ trẻ em tật, trong đó bao gồm vấn đề thu thập, phân tích dữ liệu thống kê (đoạn khỏi mọi hình thức lao động nguy hại thông qua việc loại bỏ tất cả các 19); ngân sách (đoạn 20); cơ chế phối hợp (đoạn 21); áp dụng công hình thức lao động trẻ em và điều chỉnh môi trường, điều kiện làm việc nghệ và hợp tác quốc tế (đoạn 22); giám sát (đoạn 24); phổ biến kiến theo các tiêu chuẩn quốc tế; (f) Bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức tai nạn, thức và đào tạo chuyên gia (đoạn 26); những điểm chú ý khi thực hiện thương tích cố ý hoặc vô ý, kể cả những thương tích do bạo lực và tai nạn các nguyên tắc và quyền quan trọng trong CRC với trẻ em khuyết tật giao thông; (g) Bảo vệ các em khỏi mọi hủ tục truyền thống có hại như (các đoạn từ 28 đến 80). tảo hôn, giết trẻ em gái vì danh dự và cắt bộ phận sinh dục nữ; (h) Bảo đảm mọi trẻ em trong các nhóm đặc biệt dễ bị xâm hại được quan tâm 6.3.2.18. Chăm sóc y tế bảo vệ thích đáng; (i) Thực thi các biện pháp phòng tránh những bất ổn Điều 24 xác nhận quyền của mọi trẻ em được chăm sóc y tế và về tinh thần và tăng cường sức khỏe tinh thần cho trẻ em. được hưởng trạng thái sức khoẻ ở mức độ cao nhất có thể được. Điều 6.3.2.19. Mức sống thích đáng và an sinh xã hội này gợi ý rằng, để bảo đảm quyền chăm sóc y tế của trẻ em, các quốc gia phải chú trọng đặc biệt tới các vấn đề như: dành sự giúp đỡ y tế và Theo Điều 27, trẻ em có quyền có mức sống thích đáng để phát triển chăm sóc sức khỏe cần thiết cho mọi trẻ em, trong đó chú trọng việc toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội. Trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu; chăm sóc sức khỏe thích hợp cho bà mẹ bảo đảm quyền này cho trẻ em, cha mẹ hoặc người giám hộ có trách trước và sau khi sinh; chống bệnh tật và suy dinh dưỡng; thông tin, giáo nhiệm đầu tiên, tuy nhiên, Nhà nước phải có những chính sách và biện dục về chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em; giảm tỷ lệ tử vong pháp thích hợp để giúp đỡ các bậc cha mẹ thực hiện nghĩa vụ này của họ, ở trẻ sơ sinh và trẻ em; phát triển công tác phòng bệnh, hướng dẫn cha và trong trường hợp cần thiết, Nhà nước phải thực hiện những chương mẹ, cũng như các hoạt động giáo dục và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình; trình hỗ trợ và giúp đỡ vật chất, đặc biệt là về dinh dưỡng, quần áo và xoá bỏ những tập tục có hại cho sức khỏe trẻ em nhà ở, cho các bậc cha mẹ. Thêm vào đó, các quốc gia thành viên phải tiến hành mọi biện pháp thích hợp để bảo đảm rằng các bậc cha mẹ hay Liên quan đến Điều 24, Ủy ban quyền trẻ em đã có Bình luận chung những người có trách nhiệm khác thực hiện nghĩa vụ của họ trong việc số 4 thông qua tại phiên họp lần thứ 33 năm 2003, trong đó nêu ra nhiều nuôi dưỡng con cái, cả khi họ ở trong nước hay ở nước ngoài. khuyến nghị cụ thể về các biện pháp mà các quốc gia thành viên cần tiến 273 274