Giáo trình Luật và chính sách môi trường

pdf 119 trang vanle 2840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật và chính sách môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_va_chinh_sach_moi_truong.pdf

Nội dung text: Giáo trình Luật và chính sách môi trường

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN KHOA MÔI TRƯỜNG ===o0o=== ThS. Phạm Thanh Tuấn GIÁO TRÌNH LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG TÀI LIỆU GIẢNG DẠY DÀNH CHO SINH VIÊN KHOA MÔI TRƯỜNG LƯU HÀNH NỘI BỘ Hà Nội, tháng 9 năm 2015 0
  2. MỤC LỤC MỤC LỤC 1 CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 4 1.1. Những vấn đề cơ bản về nhà nước 4 1.1.1. Nguồn gốc của nhà nước 4 1.1.2. Bản chất của nhà nước 4 1.1.3. Các kiểu nhà nước 4 1.1.4. Nhà nước CHXHCN Việt Nam 5 1.2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật 20 1.2.1. Nguồn gốc của pháp luật 20 1.2.2. Bản chất của pháp luật 20 1.2.3. Các thuộc tính của pháp luật 21 1.3. Vi phạm pháp luật 22 1.3.1. Khái niệm và dấu hiệu vi phạm pháp luật 22 1.3.2. Các loại vi phạm pháp luật 23 1.4. Trách nhiệm pháp lý 24 1.4.1. Khái niệm 24 1.4.2. Các loại trách nhiệm pháp lý 25 1.5. Quan hệ pháp luật 25 1.5.1. Khái niệm 25 1.5.2. Cấu trúc của quan hệ pháp luật 26 1.5.3. Sự kiện pháp lý 27 1.6. Văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành 27 1.6.1. Quy phạm pháp luật 27 1.6.2. Văn bản quy phạm pháp luật 29 Quan hệ trực thuộc 35 CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 36 2.1. Bảo vệ môi trường và vai trò của pháp luật 36 2.1.1. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và các cấp độ bảo vệ môi trường 36 2.1.2. Các biện pháp bảo vệ môi trường 37 2.1.3. Pháp luật trong bảo vệ môi trường 39 2.2. Khái niệm luật môi trường Việt Nam 40 2.2.1. Khái niệm luật môi trường 40 2.2.2. Các nguyên tắc chủ yếu của luật môi trường 42 2.3. Khái quát sự phát triển của luật môi trường Việt Nam 45 2.3.1. Giai đoạn trước năm 1986 45 2.3.2. Giai đoạn từ năm 1986 cho đến năm 1993 47 2.3.3. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2005 48 2.3.4. Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2014 53 CHƯƠNG 3. HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT 73 VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 73 3.1. Các quan điểm và nguyên tắc thể hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 73 3.2. Nội dung mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 74 1
  3. 3.2.1. Chương I, Những quy định chung 74 3.2.2. Chương II. Quy hoạch môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường 75 3.2.3. Chương III. Bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên 77 3.2.4. Chương IV. Ứng phó với biến đổi khí hậu 77 3.2.5. Chương V. Bảo vệ môi trường biển và hải đảo 77 3.2.6. Chương VI. Bảo vệ môi trường nước, đất và không khí 77 3.2.7. Chương VII. Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ 78 3.2.8. Chương VIII. Bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư 79 3.2.9. Chương IX. Quản lý chất thải 79 3.2.10. Chương X. Xử lý ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường 79 3.2.11. Chương XI. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường 80 3.2.12. Chương XII. Quan trắc môi trường 80 3.2.13. Chương XIII. Thông tin môi trường, chỉ thị môi trường, thống kê môi trường và báo cáo môi trường 80 3.2.14. Chương XIV. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường 80 3.2.15. Chương XIV. Trách nhiệm của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường 81 3.2.16. Chương XVI. Nguồn lực về bảo vệ môi trường 81 3.2.17. Chương XVII. Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường 81 3.2.18. Chương XVIII. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về môi trường 82 3.2.19. Chương XIX. Bồi thường thiệt hại về môi trường 82 3.2.20. Chương XX. Điều khoản thi hành 82 CHƯƠNG 4. CHẾ TÀI TRONG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 93 4.1. Nghị định 179/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 93 4.1.1. Các vấn đề chung 93 4.1.2. Đối tượng bị xử phạt 94 4.1.3. Nguyên tắc xử phạt 94 4.1.4. Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng 94 4.1.5. Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả 95 4.2. Các tội phạm về môi trường quy định trong chương XVII Bộ Luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung ngày 16/9/2009 97 4.2.1. Tội gây ô nhiễm môi trường 97 4.2.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại 98 4.2.3. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường 99 4.2.4. Tội gây ô nhiễm nguồn nước 99 4.2.5. Tội gây ô nhiễm đất 99 4.2.6. Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam 100 4.2.7. Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người 101 4.2.8. Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật 101 4.2.9. Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản 102 2
  4. 4.2.10. Tội hủy hoại rừng 103 4.2.11. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ 103 4.2.12. Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên 104 4.2.13. Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại 105 CHƯƠNG 5. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM 106 5.1. Chính sách môi trường là gì 106 5.2. Chính sách của Việt Nam về tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững 107 5.3. Tiếp cận hệ thống trong phân tích chính sách về tài nguyên và môi trường 110 5.3.1. Quy trình xây dựng chính sách về tài nguyên và môi trường 110 5.3.2. Hệ thống chính sách về sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi trường 111 5.3.3. Hệ thống quản lý, thực thi chính sách về tài nguyên và môi trường 111 5.3.4. Tác động của chính sách đến tài nguyên và môi trường 112 5.3.5. Các vấn đề cơ bản cần phân tích về thể chế chính sách tài nguyên và môi trường 113 5.4. Thử nghiệm phân tích về chính sách trong sử dụng tài nguyên theo cách tiếp cận hệ thống 114 5.4.1. Sơ bộ phân tích về chính sách trong sử dụng tài nguyên rừng ở Tây Nguyên 114 5.4.2. Sơ bộ phân tích chính sách trong sử dụng tài nguyên khoáng sản than đá cuả Việt Nam 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO 117 3
  5. CHƯƠNG 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 1.1. Những vấn đề cơ bản về nhà nước 1.1.1. Nguồn gốc của nhà nước Kế thừa những thành tự nghiên cứu khoa học của xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin lần đầu tiên giải thích rằng nhà nước không phải là hiện tượng vĩnh cửu, bất biến. Nhà nước là một phạm trù lịch sử có tính quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho tồn tại của nó mất đi. 1.1.2. Bản chất của nhà nước 1.1.2.1. Tính giai cấp của nhà nước. Nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước, các nhà kinh đ iển của chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: nhà nước là sản phẩm và là biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, nhà nước trước hết là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để trấn áp các giai cấp đối địch. Nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội có những giai cấp đối kháng nhau, do đó nhà nước thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ, nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị giai cấp được thể hiện trên ba phương diện: thống trị về chính trị, thống trị về kinh tế và thống trị về tư tưởng. 1.1.2.2. Vai trò xã hội của nhà nước Tính giai cấp của nhà nước thể hiện trong tất cả các kiểu nhà nước trong lịch sử. Tuy nhiên, nhà nước không chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà còn giải quyết những vấn đề trong đời sống xã hội, đảm bảo trật tự chung, sự ổn định và các giá trị chung của xã hội, kể cả các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, khi mà những lợi ích đó không mâu thuẫn căn bản với lợi ích của giai cấp thống trị. Dù trong xã hội nào, nhà nước cũng vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, vừa đồng thời chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội, nhưng xét cho cùng, việc chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội cũng nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. 1.1.3. Các kiểu nhà nước Theo chủ nghĩa Mác- Lênin, cơ sở lý luận của sự phân chia các kiểu nhà nước trong lịch sử là học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Hình thái kinh tế- xã hội là một kiểu tổ chức xã hội phù hợp với một phương thức sản xuất nhất 4
  6. định, trong đó tương ứng với mỗi phương thức với mỗi kiểu quan hệ sản xuất là tổng thể các mối quan hệ chính trị, tư tưởng và một kiểu thiết chế chính trị- pháp lý nhất định. Có năm hình thái kinh tế- xã hội, đó là cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, trong đó bốn hình thái sau là các hình thái kinh tế xã hội có giai cấp và tương ứng với bốn kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là một quy luật phát triển tất yếu, khách quan, phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế- xã hội trong tiến trình phát triển của lịch sử. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, là nhà nước kiểu mới có bản chất khác hẳn với các kiểu nhà nước trước đó. Những tiền đề về kinh tế, chính trị và xã hội xuất hiện trong lòng xã hội tư sản là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ thống trị của đa số nhân dân lao động đối với thiểu số bóc lột, vừa là bộ máy hành chính- cưỡng chế, vừa là tổ chức quản lý kinh tế- xã hội, nhằm xây dựng xã hội bình đẳng, tự do và dân chủ. Theo học thuyết Mác- Lênin về nhà nước và pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, cơ sở cho sự tồn tại của nhà nước không còn nữa, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng sẽ tự tiêu vong. 1.1.4. Nhà nước CHXHCN Việt Nam 1.1.4.1. Đặc trưng cơ bản của nhà nước CHXHCN Việt Nam Tính nhân dân và quyền lực nhân dân là thuộc tính cơ bản, xuyên suốt, thể hiện bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Bản chất đó được thể hiện cụ thể thông qua các đặc trưng cơ bản sau: - Nhà nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là thuộc tính cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và của nhà nước CHXHCN Việt Nam nói riêng. - Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Tính dân tộc thể hiện sâu sắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thống nhất với tính giai cấp công nhân của nhà nước. Trong tất cả các giai đoạn phát triển của mình, nhà nước đều coi “đại đoàn kết dân tộc” là một nguyên tắc cơ bản để thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền lực nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời là cơ sở để 5
  7. tạo ra sức mạnh của một nhà nước thống nhất. - Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở liên minh xã hội rộng lớn. Đó là liên minh rộng rãi giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước thực hiện đường lối ngoại giao hoà bình, hợp tác và hữu nghị, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. 1.1.4.2. Chức năng của nhà nước CHXHCN Việt Nam a. Các chức năng đối nội Các chức năng đối nội của nhà nước CHXHCN Việt Nam tập trung vào việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước, bao gồm: - Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản kháng của giai cấp thống trị đã bị lật đổ và những âm mưu phản cách mạng khác. - Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân và các tổ chức. b. Các chức năng đối ngoại Chức năng đối ngoại của nhà nước CHXHCN Việt Nam thể hiện mối quan hệ của nhà nước với những nhà nước khác trên thế giới và việc bảo vệ tổ quốc. Các chức năng đối ngoại của nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm: - Chức năng bảo vệ tổ quốc, giữ vững ổn định và xây dựng, phát triển đất nước. - Chức năng mở rộng và tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. 1.1.4.3. Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam Tổ chức và hoạt động của các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước tùy thuộc vào tính chất các nhiệm vụ được giao, nhưng đều theo nguyên tắc chung thống nhất như sau: - Nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. - Nguyên tắc nhân dân tham gia tổ chức nhà nước, quản lý nhà nước, thực 6
  8. hiện quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nòng cốt là công nhân, nông dân và trí thức. - Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là một nguyên tắc tổ chức được xác định tại Hiến pháp 2013, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. - Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân công chức năng. Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. - Nguyên tắc quản lý xã hội bằng hiến pháp pháp luật. Chức năng của bộ máy nhà nước thể hiện trên ba lĩnh vực hoạt động: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Trong lĩnh vực Lập pháp, bộ máy nhà nước, thông qua hoạt động khác nhau của các cơ quan, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản thành pháp luật của Nhà nước, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và các thông lệ quốc tế, tạo lập cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động của xã hội và của Nhà nước. Trong lĩnh vực Hành pháp, bộ máy nhà nước, bằng hoạt động cụ thể, đưa pháp luật vào đời sống xã hội, bảo đảm để pháp luật nhà nước trở thành khuôn mẫu hoạt động của nhà nước, xã hội, bảo đảm thực hiện thống nhất pháp luật ở mọi cấp, mọi ngành trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia. Trong lĩnh vực Tư pháp, bộ máy nhà nước, bằng hoạt động cụ thể của từng cơ quan, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm nhằm duy trì trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội. 1.1.4.4. Cơ quan nhà nước CHXHCN Việt Nam Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước, gồm một tập thể người hay một người thay mặt nhà nước đảm nhiệm một công việc (nhiệm vụ) hoặc tham gia thực hiện một chức năng của Nhà nước bằng các hình thức và phương pháp hoạt động nhất định. Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước ta có các loại cơ quan nhà nước sau: - Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương); - Các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan 7
  9. ngang Bộ, cơ quan có chức năng quản lý nhà nước thuộc Chính phủ; Ủy 4 ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân; - Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự, các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án đặc biệt và các Tòa án khác do Luật định); - Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự, Viện kiểm sát nhân dân địa phương). - Chủ tịch nước là một chức vụ nhà nước, một cơ quan đặc biệt thể hiện sự thống nhất quyền lực, có những hoạt động thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nên không xếp vào bất kỳ một loại cơ quan nào. Đặc điểm của cơ quan nhà nước: - Các cơ quan nhà nước được thành lập theo trình tự nhất định được quy định trong pháp luật; - Cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định; - Hoạt động của cơ quan nhà nước mang tính quyền lực và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, hoạt động đó được tuân theo thủ tục do pháp luật quy định; - Những người đảm nhiệm chức trách trong các cơ quan nhà nước phải là công dân Việt Nam. 1.1.4.5. Tổ chức bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam a) Quốc hội Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước người dân ủy thác thông qua lá phiếu. Thông qua hoạt động của mình, Quốc hội thực hiện quyền lực của nhân dân thành ý chí của nhà nước, thể hiện trong Hiến pháp, luật, các nghị quyết, mang tính chất bắt buộc thực hiện chung đối với mọi thành viên trong xã hội. Quốc hội có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn cơ bản sau đây: - Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; - Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội 8
  10. thành lập; - Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; các chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; - Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; - Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; - Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; - Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; - Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; - Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; - Ngoài ra Quốc hội còn có các quyền hạn như: Quyết định đại xá; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, Cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. - Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Là cơ quan thường trực của Quốc hội, gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc Hội, các ủy viên, được lập ra tại kỳ họp thứ nhất mỗi khóa Quốc hội. Thành viên Ủy ban Thường vụ quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau đây: + Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội; ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; + Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp 9
  11. lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; + Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; + Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội; + Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước; + Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân; + Ngoài ra Ủy ban thường vụ Quốc hội còn có những nhiệm vụ quyền hạn: Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh; quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. - Chủ tịch Quốc hội Chủ tịch Quốc hội có vị trí đặc biệt trong tổ chức của Quốc hội, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội lãnh đạo công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; chỉ đạo chuẩn bị triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Hội nghị liên tịch giữa Chủ tịch hội đồng dân tộc và các Chủ nhiệm ủy ban Quốc hội để giải quyết những vấn đề liên quan và bàn chương trình hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. 10
  12. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; chỉ đạo thực hiện công tác đối ngoại của Quốc hội; chỉ đạo thực hiện ngân sách của Quốc hội; đảm bảo thi hành quy chế đại biểu Quốc hội và giữ mối quan hệ với đại biểu Quốc hội. - Hội đồng dân tộc: Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc. - Ủy ban của Quốc hội Các Ủy ban của Quốc hội được thành lập theo các lĩnh vực hoạt động của Quốc hội nhằm giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các Ủy ban của Quốc hội là hình thức thu hút các đại biểu vào việc thực hiện công tác chung của Quốc hội. Nhiệm vụ của các Ủy ban Quốc hội là nghiên cứu thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, pháp lệnh và các dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban. Cơ cấu của Ủy ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và các ủy viên, trong đó có một số thành viên hoạt động theo chế độ chuyên trách. - Đại biểu Quốc hội Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật. 11
  13. Nhiệm vụ, quyền hạn của Đại biểu Quốc hội: Có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước. Có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. Đại biểu Quốc hội làm theo chế độ chuyên trách hoặc không chuyên trách. Đối với các đại biểu không chuyên trách được dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Đại biểu Quốc hội có quyền bất khả xâm phạm về thân thể và một số quyền ưu tiên khác. b) Chủ tịch nước Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau đây: - Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; Quyền hạn của Chủ tịch nước còn thể hiện trên lĩnh vực ngoại giao; quyết định vấn đề thôi, nhập quốc tịch; vấn đề đặc xá. Khi thực hiện quyền hạn, Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định. c) Chính phủ - Vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. 12
  14. Chính phủ thống nhất quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; lãnh đạo thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đế n địa phương; đảm bảo thi hành Hiến pháp và Pháp luật; quản lý việc xây dựng kinh tế quốc dân, thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia; quản lý về y tế, giáo dục; quản lý ngân sách nhà nước; thi hành các biện pháp cần thiết bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân; quản lý công tác đối ngoại; thực hiện chính sách xã hội của nhà nước. Khi thực hiện chức năng quản lý, điều hành các quá trình xã hội, hoạt động của Chính phủ chỉ tuân theo hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước. Những quy định trên đảm bảo cho Chính phủ phát huy được vai trò là cơ quan đứng đầu thực hiện quyền hành pháp. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, Chính phủ có toàn quyền giải quyết công việc với tính sáng tạo, chủ động, linh hoạt trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định Chính phủ có quyền tham gia vào hoạt động lập pháp bằng quyền trình dự án luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ quốc hội; trình Quốc hội các dự án kế hoạch, ngân sách nhà nước và các dự án khác. - Thành phần Chính phủ Chính phủ có các Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu từ số đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước. Các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Trong hoạt động của Chính phủ, chế độ trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá nhân được quy định rõ. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước; đồng thời thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách. Hiệu quả hoạt động của Chính phủ được đảm bảo bằng hiệu quả hoạt động của tập thể Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên Chính phủ. 13
  15. Trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, tập thể Chính phủ ban hành nghị quyết, nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định, chỉ thị. - Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: + Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; + Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; + Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; + Lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; Ngoài ra Thủ tướng Chính phủ còn có thẩm quyền đàm phán, ký điều ước quốc tế; trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. d) Chính quyền địa phương Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương theo luật định; 14
  16. chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và đị a phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. - Hội đồng nhân dân Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên; đồng thời quyết định các vấn đề của địa phương do luật định. Trong quá trình hoạt động, Hội đồng nhân dân chịu sự giám sát, hướng dẫn của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thông qua Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự kiểm tra hướng dẫn của Chính phủ; chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Đại diện cho nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước ở trung ương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh nâng cao mức sống nhân dân, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước, giám sát hoạt động Thường trực của Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, việc tuân theo Hiến pháp, luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân địa phương. Những nhiệm vụ, quyền hạn trên được cụ thể hóa ở từng lĩnh vực của đời sống xã hội trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003. Để thực hiện những nhiệm vụ trên, Hội đồ ng nhân dân ban hành Nghị quyết để định ra chủ trương, biện pháp lớn và giám sát thực hiện Nghị quyết. Nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân được thực hiện thông qua các hình thức hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban và đại biểu Hội đồng nhân dân. Hình thức hoạt động chủ yếu là các kỳ họp của Hội đồng nhân dân. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân là hoạt động duy nhất để ra các Nghị quyết có ý nghĩa pháp lý. Thông qua các kỳ họp, ý chí của nhân dân địa phương trở thành quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân họp thường lệ một năm hai kỳ. Trong trường hợp cần thiết có thể họp bất thường. Các kỳ họp tiến hành công khai, theo trình tự, thủ 15
  17. tục nghiêm ngặt dưới sự điều hành của Thường trực Hội đồng nhân dân (ở cấp xã do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân chủ trì). Kết quả kỳ họp thể hiện bằng Nghị quyết do Chủ tịch Hội đồ ng nhân dân cùng cấp ký hoặc chứng thực. Về cơ cấu tổ chức, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có Thường trực Hội đồng nhân dân; cấp xã không thành lập Thường trực. Chức năng Thường trực của Hội đồng nhân dân cấp xã do Chủ tịch và Phó chủ tịch giúp việc thực hiện. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thành lập 03 ban: Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hóa xã hội. Ở nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống có thể thành lập Ban dân tộc. Cấp huyện được lập hai ban: Ban Kinh tế - xã hội và Ban Pháp chế. Các thành viên Thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp. Trưởng ban cấp tỉnh có thể hoạt động chuyên trách, còn Trưởng ban cấp Huyện không hoạt động chuyên trách. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân được quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003. - Uỷ ban nhân dân: Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội tại địa phương. Thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp tại cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang; bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân; quản lý hộ khẩu, hộ tịch, quản lý công tác tổ chức biên chế, lao động tiền lương; tổ chức thu chi ngân sách của địa phương theo quy định của pháp luật. 16
  18. Thành phần của Ủy ban nhân dân có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, trong đó Chủ tịch nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp do Hội đồng nhân dân bầu. Các chức danh khác trong Ủy ban nhân dân không nhất thiết phải bầu từ đại biểu Hội đồng nhân dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định cùng với tập thể Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan nhà nước cấp trên. Ủy ban nhân dân thảo luận tập thể, quyết định theo đa số những vấn đề lớn của địa phương, được quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân được ban hành quyết định và chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ủy ban nhân dân có các cơ quan chuyên môn để giúp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và đảm bảo sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ Trung ương tới cơ sở. đ) Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân - Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. + Hoạt động xét xử của các Tòa án có đặc điểm là: Nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước đưa ra phán xét, quyết định cuối cùng nhằm kết thúc vụ án; là thể hiện trực tiếp thái độ, quan điểm của Nhà nước đối với một vụ án cụ thể. Thái độ, quan điểm đó chính là sự thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước. Nhà nước chịu trách nhiệm về nội dung và hậu quả của các quyết định giải quyết các vụ việc do các Tòa án đưa ra. Xét xử nhằm ổn định trật tự pháp luật, giữ vững kỷ cương xã hội, tự do an toàn của con người, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Xét xử mang nội dung giáo dục pháp luật với bản thân đương sự cũng như với xã hội, tạo ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân, từ đó có được những hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật trong mối quan hệ xã hội, tạo tinh thần tích cực đấu tranh của công dân chống các hành vi vi phạm pháp luật. 17
  19. + Cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án gồm: Tòa án nhân nhân tối cao; Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án quân sự Trung ương; Tòa án quân sự quân khu; Tòa án quân sự khu vực và các Tòa án khác, được thành lập theo quy định của Pháp luật. + Các nguyên tắc xét xử của Tòa án nhân dân Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật: Nguyên tắc này là nền tảng của hoạt động xét xử của Tòa án và giá trị xã hội chung trong xã hội có dân chủ và tự do. Thực hiện nguyên tắc này là sự đảm bảo độ chính xác cao của hoạt động xét xử của Tòa án. Để thực hiện nguyên tắc đòi hỏi thành viên của Hội đồng xét xử phải có trách nhiệm, có tính công tâm, dám chịu trách nhiệm về quyết định của mình và trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững. Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt do luật định. Trong trường hợp xử lý kín, kết quả phiên tòa cũng được công bố công khai. Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và quyền bảo vệ quyền và lợiích hợp pháp của đương sự. Công dân thuộc các dân tộc ít người được quyền dùng tiếng nói và chữ viết dân tộc mình trước phiên tòa. Các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Trong trường hợp cần thiết để đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, Nhà nước thực hiện sự cưỡng chế tương ứng. - Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. + Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng công tác sau đây: Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều tra một số loại tội phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; 18
  20. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của tòa án nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý, giáo dục người chấp hành án phạt tù. Ủy ban thường vụ Quốc hội Quốc hội Chủ tịch nước Chính phủ Tòa án nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân Kiểm toán nhà Tòa án nhân dân các cấp tối cao nước Viện kiểm sát nhân dân các cấp Thủ tướng Chính phủ Bộ, cơ quan ngang bộ Hội đồng nhân dân các cấp Ủy ban nhân dân các cấp Quan hệ trực thuộc Quan hệ phối hợp Hình 1. Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước 19
  21. + Về tổ chức, hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân gồm có: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Các Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Các Viện Kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các Viện Kiểm sát quân sự. + Cơ cấu tổ chức của mỗi Viện Kiểm sát được quy định trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02 tháng 4 năm 2002. 1.2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật 1.2.1. Nguồn gốc của pháp luật Theo học thuyết của Mác- Lênin về nhà nước và pháp luật, pháp luật cũng giống như nhà nước, cùng xuất hiện, cùng tồn tại, phát triển và cùng tiêu vong trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định. Nguồn gốc của pháp luật thể hiện ở những nội dung sau: Trong xã hội công xã nguyên thuỷ không có pháp luật, nhưng đã tồn tại những quy tắc xử sự chung thống nhất. Những quy tắc đó là các quy phạm xã hội, thể hiện ý chí chung của tất cả các thành viên trong xã hội, gồm các quy phạm tập quán và các tín điều tôn giáo Những quy phạm xã hội này đã phán ánh đúng trình độ phát triển kinh tế- xã hội của chế độ công xã nguyên thuỷ, để điều chỉnh các quan hệ xã hội lúc đó. Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là những nguyên nhân ra đời của pháp luật. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân chia thành giai cấp đối kháng nhau thì những tập quán đó không còn phù hợp nữa, vì tập quán thể hiện ý chí chung của mọi người trong thị tộc. Trong điều kiện lịch sử mới, khi những xung đột giai cấp diễn ra gay gắt và không thể điều hoà được, thì cần thiết phải có một loại quy phạm mới thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, đó là quy phạm pháp luật. Nhà nước thừa nhận hay đặt ra các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, trong lịch sử khoa học pháp lý, cũng có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc của pháp luật như thuyết thần học, thuyết pháp luật tự nhiên, thuyết pháp luật linh cảm 1.2.2. Bản chất của pháp luật 1.2.2.1. Tính giai cấp của pháp luật Pháp luật là sự phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thể hiện ý chí của mình một cách tập trung, thống nhất và thể chế hoá thành pháp luật. Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều loại quy phạm khác nhau, thể hiện ý chí và nguyện vọng của các giai cấp, các lực lượng xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất 20
  22. chung cho toàn xã hội. Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào, nhưng mỗi kiểu pháp luật lại có đặc điểm riêng và cách biểu hiện không giống nhau khi thể hiện bản chất của giai cấp thống trị. Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ phong kiến. Pháp luật tư sản quy định về mặt pháp lý những quyền tự do, dân chủ. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng một xã hội mới. 1.2.2.2. Tính xã hội của pháp luật Vì pháp luật do nhà nước ban hành, mà nhà nước là tổ chức duy nhất đại diện chính thức cho xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định, nên nó còn mang tính xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ, ý chí của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội được thể hiện ở mức độ nhất định trong pháp luật tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đường lối và các trào lưu chính trị trong mỗi quốc gia, ở mỗi thời kỳ nhất định. Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội. Tính giai cấp và tính xã hội của pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, nhưng luôn thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp và là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện bằng lực lượng vật chất do nhà nước thiết lập ra. 1.2.3. Các thuộc tính của pháp luật 1.2.3.1. Tính quy phạm phổ biến Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, đó là những khuôn mẫu, mực thước được xác định cụ thể. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi chủ thể có thể xử sự trong phạm vi quy định. Vượt quá giới hạn đó là vi phạm pháp luật. Như vậy đòi hỏi phải có những quy phạm cụ thể để căn cứ vào đó xem xét hành vi nào là trái luật, là vi phạm pháp luật; hành vi nào là đúng luật, là hợp pháp. 1.2.3.2. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức Khác với những quy phạm xã hội như tập quán, đạo đức, tôn giáo không phải bao giờ cũng được xác định thành văn, nội dung của các quy tắc, 21
  23. khuôn mẫu trong pháp luật (quy phạm pháp luật) được quy định rõ ràng, chính xác và chặt chẽ trong các điều khoản của pháp luật. Mọi chủ thể đều tuân theo một khuôn mẫu chung, thống nhất. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức còn thể hiện trong các hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Hình thức văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay được thực hiện theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 03/6/2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ngày 03/12/2004. 1.2.3.3. Tính bắt buộc chung Pháp luật được áp dụng bắt buộc đối với mọi người, mọi chủ thể, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi cá nhân, tổ chức. Tất cả mọi người, mọi chủ thể không phân biệt giàu nghèo, địa vị xã hội đều phải tuân thủ pháp luật như nhau. Thông thường, nhà nước bảo đảm thực hiện pháp luật bằng hai cách. - Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ bằng các biện pháp giáo dục, hướng dẫn, khuyến khích, tổ chức, cung cấp cơ sở vật chất hoặc các hình thức khác để các chủ thể tự mình thực hiện pháp luật. - Nhà nước bảo đảm những biện pháp chế tài đã được quy định trong các quy phạm pháp luật bằng cách thực hiện sự cưỡng chế, nếu không được các chủ thể tự nguyện thực hiện. 1.3. Vi phạm pháp luật 1.3.1. Khái niệm và dấu hiệu vi phạm pháp luật 1.3.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật Hành vi của con người và các chủ thể khác, trong khuôn khổ pháp luật quy định thường được phân thành hai loại: hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp. Hành vi hợp pháp là hành vi phù hợp với pháp luật, đúng với các quy định của pháp luật, không trái pháp luật. Hành vi bất hợp pháp là hành vi không phù hợp với pháp luật, không đúng với các quy định của pháp luật, trái pháp luật. Như vậy, hành vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Trong quan hệ pháp luật, vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý. 22
  24. 1.3.1.2. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật Hành vi vi phạm pháp luật phải có đủ những dấu hiệu cơ bản sau: - Vi phạm pháp luật phải là hành vi xác định của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Hành vi (hành vi có thể ở dạng hành động hoặc không hành động) đượ c hiểu là những biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể, là sự tỏ bày ý muốn, là những suy nghĩ, tư tưởng đã được vật chất hóa, đã biểu hiện thành các hành vi cụ thể. - Vi phạm pháp luật là hành vi trái với những quy định của pháp luật, xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành vi trái pháp luật là những hành vi được thực hiện không đúng với những quy định của pháp luật. Như vậy, chỉ khi có quy định của pháp luật mà không được các chủ thể có năng lực hành vi nhất định thực hiện đúng, thì mới có vi phạm pháp luật xảy ra. - Tính có lỗi của vi phạm pháp luật. Lỗi là sự thể hiện thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình và đối với hậu quả do hành vi trái pháp luật đó gây ra. - Chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải có năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực chịu trách nhiệm pháp lý là khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình và chịu trách nhiệm về hành vi đó. Như vậy, những hành vi do người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình hay do người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật, thì mặc dù hành vi đó trái pháp luật, cũng không thể coi là vi phạm pháp luật. 1.3.2. Các loại vi phạm pháp luật Vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng và phức tạp, theo quan điểm của khoa học pháp lý hiện nay, vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn loại cơ bản như sau: 1.3.2.1. Vi phạm hình sự (tội phạm) Vi phạm hình sự (tội phạm) là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự do người (chỉ là những cá nhân, không phải là tổ chức, pháp nhân hay các chủ thể khác) có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. 1.3.2.2. Vi phạm hành chính Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật hành chính do cá nhân, tổ 23
  25. chức, pháp nhân và các chủ thể khác thực hiện một cách cố ý hay vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính. 1.3.2.3. Vi phạm dân sự Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật dân sự do cá nhân, tổ chức, pháp nhân và các chủ thể khác thực hiện có lỗi, xâm hại đến những quan hệ tài sản và những quan hệ nhân thân phi tài sản. 1.3.2.4. Vi phạm kỷ luật Vi phạm kỷ luật là hành vi của thành viên trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và các tổ chức khác, có lỗi, trái với những quy định nội bộ (như điều lệ, quy chế, quy tắc, nội quy, quy định ) của cơ quan, tổ chức đó. 1.4. Trách nhiệm pháp lý 1.4.1. Khái niệm Trong đời sống hàng ngày, thuật ngữ “trách nhiệm” được sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” được sử dụng theo hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là nghĩa vụ và nghĩa thứ hai là hậu quả pháp lý bất lợi. Theo nghĩa thứ nhất, trách nhiệm pháp lý được hiểu đó là những yêu cầu (quy định) của pháp luật đối với các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định. Theo nghĩa thứ hai, trách nhiệm pháp lý được hiểu là sự phản ứng (trừng phạt) của nhà nước đối với các chủ thể vi phạm pháp luật, vì đã không lựa chọn cách xử sự phù hợp với các yêu cầu của pháp luật mặc dù có khả năng và điều kiện để lựa chọn, nên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi, chịu sự trừng phạt của nhà nước. Trách nhiệm pháp lý chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật trong khuôn khổ pháp luật quy định. Truy cứu trách nhiệm pháp lý tức là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đã được quy định trong pháp luật. Như vậy, trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước với các chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó, chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong chế tài của các quy phạm pháp luật. 24
  26. 1.4.2. Các loại trách nhiệm pháp lý Tương ứng với bốn loại vi phạm pháp luật là bốn loại trách nhiệm pháp lý như sau: 1.4.2.1. Trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất, do Tòa án áp dụng đối với những người (cá nhân) có hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật. 1.4.2.2. Trách nhiệm hành chính Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước) áp dụng đối với các chủ thể (cá nhân, tổ chức, pháp nhân và các chủ thể khác) vi phạm pháp luật hành chính theo quy định của pháp luật. 1.4.2.3. Trách nhiệm dân sự Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án áp dụng đối với các chủ thể (cá nhân, tổ chức, pháp nhân và các chủ thể khác) vi phạm pháp luật dân sự khi có yêu cầu của các đương sự theo quy định của pháp luật. 1.4.2.4. Trách nhiệm kỷ luật Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm do thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị áp dụng đối với thành viên của các cơ quan, tổ chức đó (như cán bộ, công chức, nhân viên, sinh viên, học sinh ) khi những người này vi phạm những quy định trong điều lệ, quy chế, nội quy, quy định của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình. 1.5. Quan hệ pháp luật 1.5.1. Khái niệm Trong cuộc sống, con người luôn luôn tham gia vào những quan hệ rất đa dạng và phong phú, đó là những quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè, quan hệ lao động, quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân, quan hệ chính trị, quan hệ đạo đức Các quan hệ đó có thể phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoặc trong hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa đó là những quan hệ xã hội. Trong lịch sử, người ta đã dùng nhiều loại quy tắc xử sự khác nhau (quy phạm xã hội) để điều chỉnh các quan hệ xã hội, có thể là quy phạm đạo đức, các tín điều tôn giáo, phong tục, tập quán hoặc các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong hệ thống các quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội có hiệu quả cao nhất. Vì quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng biện 25
  27. pháp cưỡng chế nhà nước, trong khi các quy phạm xã hội khác nhìn chung được thực hiện theo sự tự nguyện, tự giác của các chủ thể tham gia chứ không có biện pháp cưỡng chế bắt buộc thực hiện bằng lực lượng vật chất của nhà nước. Không phải mọi quan hệ xã hội đều do pháp luật điều chỉnh, chỉ những quan hệ xã hội quan trọng, ảnh hưởng đến sự thống trị của giai cấp thống trị xã hội mà nhà nước thấy cần phải điều chỉnh bằng pháp luật mới quy định cách thức xử sự, quy định các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với các bên trong quan hệ. Như vậy, quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội quan trọng được các quy phạm pháp luật điều chỉnh thông qua sự kiện pháp lý. 1.5.2. Cấu trúc của quan hệ pháp luật Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi 3 yếu tố: chủ thể của quan hệ pháp luật; nội dung của quan hệ pháp luật; khách thể của quan hệ pháp luật. 1.5.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia vào mối quan hệ pháp luật có năng lực chủ thể để thực hiện các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ đó. Các tổ chức, cá nhân, hoặc các chủ thể khác thỏa mãn những điều kiện theo quy định của pháp luật cho mỗi loại quan hệ thỉ có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật đó. Khi các chủ thể có đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật cho mỗi loại quan hệ thì được coi là có năng lực chủ thể (hay còn gọi là tư cách chủ thể). 1.5.2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật a. Quyền của chủ thể: Quyền của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể của quan hệ đó tiến hành. Quyền của chủ thể có các đặc điểm sau: - Khả năng của chủ thể được phép tiến hành xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật quy định; - Khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt hành vi cản trở mình thực hiện quyền, nghĩa vụ và yêu cầu các chủ thể khác thực hiện nghĩa vụ của họ, khi nghĩa vụ đó ảnh hưởng đến quyền của chủ thể có quyền; - Khả năng của chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích phát sinh từ quyền của mình. b. Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể: Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự bắt 26
  28. buộc mà chủ thể trong quan hệ pháp luật phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác. Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật có các đặc điểm sau: - Phải tiến hành một số hành vi nhất định; - Phải kiềm chế không được thực hiện một số hành vi nhất định; - Phải chịu trách nhiệm pháp lý (hậu quả pháp lý) khi xử sự không đúng, không đầy đủ theo những yêu cầu của pháp luật. Đây là yếu tố đặc trưng của nghĩa vụ pháp lý. Quyền và nghĩa vụ pháp lý chủ yếu của chủ thể là hai mặt không thể tách rời nhau trong một quan hệ pháp luật nhất định, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, về nguyên tắc là tương ứng và thống nhất với nhau. 1.5.2.3. Khách thể của quan hệ pháp luật Khách thể của quan hệ pháp luật là cái mà các bên tham gia quan hệ hướng tới để tác động, là những lợi ích mà các chủ thể trong quan hệ pháp luật hướng tới. Khách thể quan hệ pháp luật có thể là những lợi ích vật chất, tinh thần, những lợi ích xã hội khác hoặc thực hiện các quyền chính trị như bầu cử, ứng cử, lập hội Những hành vi hướng tới các đối tượng luôn luôn gắn chặt với quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật. 1.5.3. Sự kiện pháp lý Sự kiện pháp lý là những điều kiện, hoàn cảnh, hành vi, những tình huống cụ thể của cuộc sống mà khi chúng xảy ra thì làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hoặc một số quan hệ pháp luật nhất định. Nói cách khác, là những sự kiện của tự nhiên hay sự kiện phát sinh do con người nhưng được pháp luật quy định là điều kiện làm pháp sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Sự kiện pháp lý là cầu nối giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật. Quy phạm pháp luật chỉ làm nảy sinh quan hệ pháp luật giữa các chủ thể nếu gắn liền với sự kiện pháp lý, khi có sự kiện pháp lý xảy ra, ví dụ: quy phạm pháp luật hình sự vẫn tồn tại, nếu không có tội phạm xảy ra thì quan hệ pháp luật hình sự sẽ không xảy ra; hoặc các quy phạm pháp luật về hợp đồng dân sự đã có nhưng nếu không có hành vi tham gia quan hệ hợp đồng của các chủ thể thì quan hệ pháp luật dân sự về hợp đồng cũng sẽ không xảy ra. 1.6. Văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành 1.6.1. Quy phạm pháp luật 1.6.1.1. Khái niệm 27
  29. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Nhưng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật cũng không phải là nhân tố duy nhất. Bên cạnh pháp luật còn có những nhân tố khác cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội như các quy phạm đạo đức, các phong tục và các quy phạm xã hội khác. - Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự có tính chất khuôn mẫu, bắt buộc mọi chủ thể phải tuân thủ, được biểu thị bằng hình thức nhất định, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được nhà nước bảo đảm thực hiện và có thể có cả các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. - Các quy phạm của các tổ chức xã hội là các quy phạm do các tổ chức xã hội đặt ra, nó tồn tại và được thực hiện trong các tổ chức xã hội đó. - Các quy phạm đạo đức là những quy tắc hành vi được hình thành trong xã hội trên cơ sở quan niệm về đạo đức và được con người tự giác thực hiện. - Các phong tục đươc hình thành trong lịch sử và nó đã biến thành thói quen của mọi người trong xã hội. Giữa các quy phạm pháp luật và các quy phạm khác có sự khác nhau cơ bản: quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, được nhà nước bảo vệ và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Còn các quy phạm khác nói chung không do nhà nước quy định mà do các tổ chức xã hội quy định hay do các quan niệm về đạo đức hình thành nên hoặc được hình thành một cách tự phát do thói quen trong xã hội. Các quy phạm của các tổ chức xã hội được thực hiện không có sự tham gia trực tiếp của nhà nước mà được thực hiện dựa vào tổ chức, lực lượng và uy tín của tổ chức đó. Các quy phạm đạo đức được thực hiện trong đời sống nhờ lòng tin của con người; còn các phong tục được thực hiện trong xã hội nhờ thói quen của mọi người. Quy phạm pháp luật là yếu tố đầu tiên xây dựng hệ thống pháp luật. Quy phạm pháp luật là hiện tượng ý thức, không phải là hiện tượng vật chất. Các quy phạm pháp luật cũng như các quy phạm khác là ý thức, tư tưởng, ý nghĩa, ý chí của giai cấp thống trị. Khi nó được biểu thị trên giấy, dưới hình thức văn bản pháp luật, thì khi đó nó có hình thức vật chất. Quy phạm pháp luật là một dạng của quy phạm xã hội, vừa có dấu hiệu chung của quy phạm xã hội, vừa có đặc điểm riêng, xuất phát từ mối quan hệ với nhà nước. Theo đó, quy phạm pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, là quy tắc hành vi có tính bắt buộc chung đối với mọi người tham gia quan hệ xã hội mà nó có điều chỉnh. Việc thực hiện quy phạm pháp luật được nhà nước thừa nhận và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. 28
  30. Như vậy, quy phạm pháp luật là các quy tắc hành vi, có tính bắt buộc chung, được biểu thị bằng hình thức nhất định do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm, nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. 1.6.1.2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật Cấu trúc của quy phạm pháp luật là cơ cấu bên trong, là các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật. Ở dạng chung nhất, cấu trúc của quy phạm pháp luật có dạng: “nếu- thì- khác”, tương ứng với ba bộ phận cấu thành là giả định, quy định và chế tài, tạo thành cấu trúc của một quy phạm pháp luật. a. Bộ phận giả định Bộ phận này nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh, những tình huống cụ thể có thể xảy ra trong thực tế cuộc sống mà con người gặp phải và cần phải xử sự (có hành vi hành động hoặc hành vi không hành động theo quy định của pháp luật). Trong phần giả định còn nêu cả chủ thể (cá nhân, tổ chức, pháp nhân hoặc các chủ thể khác) ở vào những điều kiện, hoàn cảnh, những tình huống cụ thể đó. b. Bộ phận quy định Bộ phận này nêu cách thức (quy tắc) xử sự, quy định mô hình của hành vi, khi các chủ thể ở vào điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể đã nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật thỉ phải thực hiện. c. Bộ phận chế tài Bộ phận này nêu lên những biện pháp tác động của nhà nước nếu chủ thể khi ở trong những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể đã nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật mà không thực hiện hành vi xử sự theo cách thức (quy tắc) đã được mô tả trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Chế tài trong pháp luật có các loại như: chế tài hình sự (hình phạt), chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài kỷ luật. 1.6.2. Văn bản quy phạm pháp luật 1.6.2.1. Khái niệm văn bản Pháp luật có hình thức thể hiện ra bên ngoài, đó là những nguồn của pháp luật. Hình thức cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa là văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, có thể nói, văn bản quy phạm pháp luật là nguồn cơ bản của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật là sản phẩm của quá trình sáng tạo pháp luật. “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của 29
  31. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” (Điều 1, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Sự khác nhau giữa văn bản quy phạm pháp luật và các loại văn bản khác: - Văn bản có tính chất chủ đạo là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm thực hiện các chủ trương lớn, các đường lối, nhiệm vụ lớn, đề cập đến các vấn đề có tính chất chính trị, pháp lý của quốc gia, địa phương (ví dụ: lời tuyên bố, lời hiệu triệu ), động viên nhân dân thực hiện các chính sách đó, tuy mang tính pháp lý nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật. - Văn bản cá biệt là loại văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào quy phạm pháp luật ban hành để giải quyết những vụ việc cụ thể, hiệu lực chỉ một lần và chỉ có quan hệ với những cá nhân, tổ chức chỉ ra trong chính văn bản (ví dụ: bản án, quyết định của toà án, quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ công chức ). 1.6.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay Căn cứ vào loại văn bản và thẩm quyền ban hành văn bản, các văn bản quy phạm pháp luật được chia thành văn bản luật và văn bản dưới luật. a. Văn bản luật Văn bản luật gồm Hiến pháp, luật, bộ luật là những văn bản do Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất- ban hành theo hình thức và thủ tục quy định trong Hiến pháp. Đó là những văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất. Điều 84, Hiến pháp 1992 quy định: Quốc hội có thẩm quyền ban hành Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Giữa Hiến pháp, các đạo luật và bộ luật thì Hiến pháp (luật cơ bản) chiếm một vị trí đặc biệt, có hiệu lực pháp lý tối cao. Hiến pháp quy định các vấn đề cơ bản của một nhà nước như chế độ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, xác định cơ chế quyền lực và quản lý nhà nước, quyền và nghĩa vụ có bản của công dân. Hiến pháp là cơ sở pháp lý cho tất cả hệ thống pháp luật. Các đạo luật, bộ luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác phải được ban hành trên cơ sở Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp. Trình tự và thủ tục thông qua Hiến pháp cũng khác so với sự thông qua các đạo luật thông thường. Những đạo luật về chế độ bầu cử và tổ chức bộ máy nhà nước như Luật bầu cử đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, Luật tổ chức quốc hội, Luật tổ chức chính phủ cũng có vị trí quan trọng trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra còn những đạo luật khác điều chỉnh những vấn đề hẹp hoặc ít quan 30
  32. trọng hơn của đời sống nhà nước và xã hội. Chỉ quốc hội mới có quyền thông qua, sửa đổi hoặc huỷ bỏ Hiến pháp, các đạo luật và bộ luật. Tất cả những văn bản pháp luật khác đều phải được ban hành trong sự phù hợp nghiêm ngặt với Hiến pháp và đạo luật, bộ luật. Các văn bản dưới luật trái với các đạo luật đều không có hiệu lực pháp lý và bị bãi bỏ. Các đạo luật không chịu sự kiểm tra, phê chuẩn và đình chỉ của bất kỳ cơ quan nào ngoài quốc hội. b. Văn bản dưới luật Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và các hình thức được pháp luật quy định. Những văn bản này có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản luật, vì vậy khi ban hành phải chú ý sao cho phù hợp với quy định của Hiến pháp và luật. Theo quy định của Hiến pháp 1992, ở nước ta hiện nay có những văn bản dưới luật sau: - Pháp lệnh và nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Khoản 4 Điều 91 Hiến pháp trao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội thẩm quyền ban hành pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao. Quyền ban hành nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định trong khoản 7 Điều 103 Hiến pháp. Các pháp lệnh và nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có hiệu lực pháp lý thấp hơn Hiến pháp, các đạo luật, bộ luật, nghị quyết của Quốc hội, nhưng lại có giá trị pháp lý cao nhất trong các văn bản dưới luật. - Lệnh và quyết định của Chủ tịch nước. Thẩm quyền ban hành lệnh và quyết định của Chủ tịch nước được quy định trong Hiến pháp 1992. Các văn bản do Chủ tịch nước ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, không trái với các pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. - Nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực pháp lý thấp hơn Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội cũng như các văn bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội và không được trái với các văn bản đó. Nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ tuy là văn bản dưới luật nhưng rất quan trọng và ban hành phổ biến. Chúng là những phương tiện để Chính phủ thực hiện tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý nhà nước. - Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Các Bộ, cơ quan ngang bộ là những cơ quan quản lý ngành hoặc lĩnh vực. Khi thực hiện chức năng quản lý, trong khuôn khổ thẩm quyền của mình, các cơ quan này ban hành Thông tư. 31
  33. - Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Các văn bản này được ban hành căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. - Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước. - Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đ iều 120 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước”. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp không được trái với Hiến pháp, luật, các văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các văn bản của các cơ quan quyền lực nhà nước và quản lý nhà nước cấp trên. - Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp. Ủy ban nhân dân là cơ quan do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân trong phạm vi thẩm quyền của mình ra quyết đị nh, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các quyết định, chỉ thị đó (Điều 124 Hiến pháp năm 1992). Các quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân phải phù hợp với Hiến pháp, luật, cũng như tất cả các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên. - Thông tư liên tịch là văn bản giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ với nhau; giữa Tòa án nhân dân tối cao với Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ, cơ quan ngang Bộ với Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị- xã hội. 1.6.2.3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật a. Hiệu lực theo thời gian Là giới hạn xác định thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. - Thời đ iểm phát sinh hiệu lực của văn bản: những văn bản quy phạm pháp luật luôn tồn tại theo thời gian. Chúng có thời điểm bắt đầu hiệu lực và thời điểm hết hiệu lực. Một văn bản quy phạm pháp luật có thời điểm bắt đầu có 32
  34. hiệu lực, tức là từ thời điểm đó các chủ thể pháp luật có liên quan phải chịu sự điều chỉnh của nó, phải tiến hành nó một cách bắt buộc. Trong luật pháp có 4 phương pháp xác định thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật bắt đầu có hiệu lực từ thời điểm công bố nó. Thứ hai, thời điểm bắt đầu có hiệu lực được xác định là sau một khoảng thời gian nhất định kể từ khi công bố văn bản (đăng công báo). Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật bắt đầu có hiệu lực từ thời điểm được chỉ ra trong bản thân văn bản hoặc bằng một đạo luật khác phê chuẩn văn bản ấy. Thứ tư, văn bản của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng công báo, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác. - Hiệu lực trở về trước: một văn bản quy phạm pháp luật về nguyên tắc không có hiệu lực trở về trước. Điều đó có nghĩa là một văn bản quy phạm pháp luật mới được thông qua chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội xuất hiệu sau khi văn bản đó bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực trở về trước trong trường hợp thật cần thiết. Không được quy định hiệu lực trở về trước trong các trường hợp sau: + Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm hành vi đó được thực hiện, luật không quy định trách nhiệm pháp lý. + Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn. - Thời điểm ngưng hiệu lực của văn bản: văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc: + Văn bản quy phạm pháp luật không bị hủy bỏ thì tiếp tục có hiệu lực. + Bị hủy bỏ thì hết hiệu lực. - Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần khi: + Hết thời hạn có hiệu lực được quy định trong văn bản. + Bị thay thế bằng một văn bản mới của chính cơ quan ban hành. + Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực cũng đồng thời hết hiệu lực cùng văn bản đó. b. Hiệu lực theo không gian và đối tượng thi hành Giới hạn tác động về không gian của văn bản quy phạm pháp luật được 33
  35. xác định bằng lãnh thổ quốc gia hay địa phương hoặc một vùng nhất định. Nhiều văn bản không chỉ ra hiệu lực theo không gian mà điều đó được mặc nhiên xác định theo giới hạn thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản ấy. Những văn bản nào chỉ có hiệu lực trong một vùng nhất định thì giới hạn luôn chỉ rõ trong văn bản đó. Phần lớn các văn bản do các cơ quan quyền lực và quản lý nhà nước ở Trung ương có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam; áp dụng với mọi tổ chức, cá nhân, công dân Việt Nam. Các văn bản do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp ban hành có hiệu lực trên địa bàn địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Hiệu lực theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật gắn liền với tác động của nó đối với nhóm người cụ thể. Thông thường, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong một lãnh thổ nhất định cũng có hiệu lực với mọi cá nhân, tổ chức thuộc lãnh thổ đó. Tuy nhiên, có những văn bản chỉ tác động tới những công chức nhà nước hoặc những người thuộc những ngành nghề nhất định. Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực với cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài sinh sống và làm ăn trên lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác. c. Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật - Áp dụng từ thời điểm có hiệu lực: Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản quy định hiệu lực trở về trước, thì áp dụng theo quy định đó. - Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề do cùng một cơ quan ban hành thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. - Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau. - Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới. Hình sau đây tóm tắt thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước. Lưu ý các mối quan hệ, nhất là quan hệ chỉ đạo cấp trên- cấp dưới trong hình vẽ chưa hoàn toàn chính xác như trong thực tế. 34
  36. Ủy ban thường vụ Quốc hội Quốc hội Chủ tịch nước Pháp lệnh, Nghị quyết Hiến pháp, Luật, Nghị quyết Lệnh, Quyết định Chính phủ: Nghị định, Nghị quyết liên tịch Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Viện trưởng Viện kiểm Tổng kiểm toán Thông tư, Thông tư liên tịch sát nhân dân tối cao nhà nước Hội đồng thẩm phán: Nghị Thông tư, Thông Quyết định quyết tư liên tịch Thủ tướng Chính phủ Quyết định Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ Thông tư, Thông tư liên tịch Hội đồng nhân dân các cấp Ủy ban nhân dân các cấp Nghị quyết Quyết định, Chỉ thị Quan hệ trực thuộc Quan hệ phối hợp Hình 2. Tóm tắt thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật 35
  37. CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 2.1. Bảo vệ môi trường và vai trò của pháp luật 2.1.1. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và các cấp độ bảo vệ môi trường Nguy cơ môi trường bị hủy hoại với những hậu quả nghiêm trọng của nó đã buộc các quốc gia chú ý hơn tới những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường. Nhiều biện pháp kinh tế, xã hội, tổ chức được triển khai nhằm thực hiện việc bảo vệ có hiệu quả môi trường. Nhiều quốc gia đã thực hiện việc giảm hoặc miễn thuế đối với kinh doanh trồng rừng, miễn thuế đối với các chi phí đầu tư vào các biện pháp bảo vệ môi trường, áp dụng việc đánh giá tác động môi trường với các dự án đầu tư, dự án sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân trong nước. Nhiều trung tâm nghiên cứu môi trường được thành lập để nghiên cứu các tác động của môi trường và các biện pháp đối phó nhằm giảm thiểu những hậu quả tiêu cực mà sự trả thù từ môi trường có thể mang lại. Những quyết định của chính phủ về đóng cửa rừng, về việc khoanh vùng các khu bảo tồn thiên nhiên, lập vườn quốc gia đã góp phần đáng kể trong việc ngăn cản sự hủy hoại môi trường. Bảo vệ môi trường là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia và vì thế nó được thực hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau. Cấp độ cá nhân: Môi trường có ảnh hưởng tới bất cứ cá nhân nào, vì vậy, việc bảo vệ môi trường phải được coi là công việc của từng cá nhân. Mỗi cá nhân có trách nhiệm thực hiện đúng những quy định của pháp luật, các quy tắc của cộng đồng để giữ gìn môi trường sống. Việc phát huy hoạt động bảo vệ môi trường ở cấp độ cá nhân hiện nay cần được chú trọng . Quan điểm cho rằng bảo vệ môi trường là công việc của các cơ quan quản lý, các tổ chức bảo vệ môi trường đã dẫn đến sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với môi trường. Chính vì lý do này mà nhiều khu rừng nguyên sinh bị cháy, bị khai thác đến mức hủy hoại bởi những cá nhân. Các hành động riêng lẻ của cá nhân có thể góp phần bảo vệ tốt môi trường và cũng có thể làm tổn hại đến môi trường. Giải pháp cơ bản cho việc nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường ở cấp độ cá nhân nằm ở việc giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của môi trường. Cấp độ cộng đồng: Cộng đồng là tập thể người có gắn kết với nhau bằng những yếu tố kinh tế, xã hội hoặc tổ chức, chính trị. Tồn tại dưới bất cứ hình thức nào, gắn kết với nhau bằng những yếu tố nào, các cộng đồng đều phải quan tâm và bảo vệ môi trường vì lợi ích của chính mình. Ở cấp độ cộng đồng, các biện pháp giáo dục, các hành động tập thể cần được đặc biệt chú trọng. Vai trò 36
  38. của cộng đồng đối với việc bảo vệ môi trường là vô cùng to lớn. Cộng đồng, nhất là cộng đồng làng, bản có mối liên hệ mật thiết với môi trường với nhiều lợi ích ràng buộc. Sự thống nhất và ràng buộc bởi lợi ích chung này là nền tảng quan trọng cho việc huy động cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Nhiều cộng đồng đã đưa ra các quy tắc, các chương trình và biện pháp và một trong những biện pháp thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng là sự phân phối công bằng các nguồn tài nguyên và các yếu tố môi trường. Cấp độ địa phương, vùng: Do đặc điểm của môi trường, đặc biệt là các yếu tố môi trường như nước, không khí, việc bảo vệ môi trường sẽ trở nên có hiệu quả nếu được thực hiện ở phạm vi lớn hơn với sự tham gia của nhiều cộng đồng hơn. Hiện nay, ở Việt Nam việc bảo vệ môi trường ở cấp độ địa phương được thực hiện theo nguyên tắc địa giới hành chính. Cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện bảo vệ môi trường là cơ quan hành chính nhà nước địa phương. Cấp độ quốc gia: Việc bảo vệ môi trường ở cấp độ quốc gia được thực hiện thông qua hoạt độ ng quản lý thống nhất của nhà nước trung ương. Nhà nước thông qua các công cụ và hình thức khác nhau để thực hiện việc bảo vệ môi trường. Cấp độ quốc gia về bảo vệ môi trường được xem xét kỹ trong giáo trình này. Cấp độ quốc tế: Thế giới hiện nay đang chứng kiến những cố gắng lớn lao của nhân loại trong việc bảo vệ môi trường. Các tổ chức, các công ước quốc tế lần lượt ra đời để bảo vệ môi trường ở cấp độ quốc tế. 2.1.2. Các biện pháp bảo vệ môi trường Môi trường có thể được bảo vệ không những dưới nhiều cấp độ mà còn bằng nhiều biện pháp khác nhau. Tuy nhiên, những biện pháp cơ bản vẫn là biện pháp tổ chức chính trị, giáo dục, công nghệ, kinh tế và pháp lý. 2.1.2.1. Biện pháp tổ chức- chính trị Chính trị được coi là một trong những biện pháp quan trọng của bảo vệ môi trường. Chính trị là mối quan hệ phát sinh giữa các giai cấp, các nhóm người trong xã hội nhằm thực hiện quyền lực chính trị. Các biện pháp chính trị được thực hiện nhằm xây dựng hoặc củng cố quyền lực và ảnh hưởng chính trị. Ở các nước phát triển, vấn đề môi trường được các đảng phái, tổ chức sử dụng triệt để để thu hút sự ủng hộ chính trị từ quần chúng và các tổ chức xã hội. Nhiều đảng phái chính trị mang màu sắc môi trường đã xuất nhiên. Đảng Xanh (Green Party) ở các nước châu Âu là tổ chức chính trị của những người bảo vệ môi trường. Hoạt động của các đảng này ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội và có vị trí ngày càng vững chắc trong các cơ cấu quyền lực ở những nước 37
  39. này. Tại Đức, Thụy Điển, Đảng Xanh tạo nên một phái mạnh trong quốc hội hai nước này. Ở Việt Nam, các biện pháp chính trị được sử dụng trong bảo vệ môi trường mang sắc thái khác. Đảng Cộng sản Việt Nam đưa vấn đề môi trường vào cương lĩnh, chiến lược hành động của mình không nhằm mục đích tranh cử hay tranh giành quyền lực chính trị mà nhằm tăng thêm tính chất toàn diện, đúng đắn và khả thi của cương lĩnh, chiến lược đó để ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đả ng trong xã hội. Nghị quyết số 41/NQ-TƯ về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta”. Ý nghĩa của các biện pháp chính trị trong bảo vệ môi trường thể hiện qua một số điểm chính sau: - Vấn đề bảo vệ môi trường trở thành các nhiệm vụ chính trị mỗi khi các tổ chức chính trị, đảng phái đưa chúng vào cương lĩnh hoạt động của mình. - Bằng vận động chính trị, vấn đề bảo vệ môi trường sẽ được thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật. 2.1.2.2. Biện pháp kinh tế Các biện pháp kinh tế được sử dụng khá hiệu quả trong các hoạt động quản lý vi mô và vĩ mô đối với nền kinh tế. Trong quản lý và bảo vệ môi trường, các biện pháp kinh tế cũng phát huy tác dụng của nó. Sử dụng biện pháp kinh tế là sử dụng đến những đòn bẩy của lợi ích kinh tế. Thực chất của phương pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường là việc dùng những lợi ích vật chất để kích thích chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho môi trường, cho cộng đồng. Các biện pháp kinh tế được thực hiện trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bao gồn: - Thành lập các quỹ bảo vệ môi trường. - Áp dụng các ưu đãi về thuế đối với những doanh nghiệp, những dự án có các giải pháp tốt về bảo vệ môi trường. - Áp dụng thuế suất cao đối với những sản phẩm mà việc sản xuất chúng có tác động xấu đến môi trường. - Gắn hạn chế hoặc khuyến khích thương mại với việc bảo vệ môi trường. Các hiệp định của GATT trước đây và WTO hiện nay đã tích cực áp dụng biện pháp này. Các biện pháp kinh tế rất phong phú và đa dạng. Việc sử dụng các biện 38
  40. pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản, các biện pháp này thường mang lại hiệu quả cao hơn trong bảo vệ môi trường so với các biện pháp khác. 2.1.2.3. Biện pháp khoa học- công nghệ Môi trường được tạo bởi nhiều yếu tố vật chất phức tạp. Việc tìm hiểu cấu trúc, quy luật hoạt động và các ảnh hưởng của môi trường nói chung và các yếu tố cấu thành nó nói riêng không thể thực hiện được một cách đầy đủ nếu thiếu các biện pháp khoa học và công nghệ. Tương tự, việc bảo vệ môi trường cũng không thể thiếu các giải pháp khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Ví dụ đơn giản là đốt rác, nếu cộng đồng chỉ xử lý đốt đơn giản thì từ ô nhiễm này sẽ dẫn đến ô nhiễm khác. Nhưng nếu có công nghệ đốt phù hợp thì ô nhiễm hầu như bị loại bỏ. Việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật và công nghệ được khẳng định trong nguyên tắc thứ 9 của Tuyên bố Rio De Janeiro. 2.1.2.4. Biện pháp giáo dục Ý thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường sẽ được nâng cao thông qua các hoạt động tuyên truyền và giáo dục. Càng mở rộng thông qua các hoạt động giáo dục cộng đồng về tác hại của sự ô nhiễm, suy thoái môi trường thì càng nâng cao được hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường. Vai trò của giáo dục là đặc biệt. Khi người ta đã có ý thức tự giác thì việc bảo vệ môi trường sẽ được dễ dàng thực hiện và đạt được hiệu quả cao. Sau đây là một số hình thức thực hiện: - Đưa giáo dục ý thức bảo vệ môi trường vào chương trình học tập chính thức của các trường phổ thông, dạy nghề, cao đẳng và đại học. - Sử dụng rộng rãi các phương tiện truyền thông để giáo dục cộng đồng. - Tổ chức các hoạt độ ng cụ thể như: ngày môi trường thế giới, tuần lễ xanh, ngày làm sạch thế giới - Tổ chức các diễn đàn trao đổi về môi trường và bảo vệ môi trường, cũng như các cuộc điều tra xã hội về môi trường. 2.1.2.5. Biện pháp pháp lý Biện pháp pháp lý là một trong những biện pháp quan trọng nhất trong bảo vệ môi trường. Nó đảm bảo cho các hành vi, các mối quan hệ trong xã hội phải tuân thủ pháp luật về môi trường và bảo vệ môi trường và đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ của con người khi có quan hệ pháp luật môi trường. Toàn bộ nội dung của giáo trình này đi sâu vào phân tích nội dung của biện pháp này. 2.1.3. Pháp luật trong bảo vệ môi trường Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường có vị trí đặc biệt quan 39
  41. trọng. Môi trường bị hủy hoại chủ yếu do các hoạt động của con người trong quá trình phát triển của chính mình. Do vậy, hơn bất kỳ biện pháp nào khác, việc tác động, điều chỉnh các hành vi của con người sẽ là biện pháp có hiệu quả nhất trong bảo vệ môi trường. Ý nghĩa của pháp luật trong bảo vệ môi trường thể hiện qua những khía cạnh sau: - Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường. Môi trường vừa là điều kiện sống, vừa là đối tượng của sự tác động hàng ngày của con người. Sự tác động của con người làm biến đổi rất nhiều tình trạng của môi trường theo chiều hướng tiêu cực, làm suy thoái các yếu tố thành phần môi trường. Và trong một mối quan hệ hữu cơ giữa con người và môi trường, con người sẽ phải chịu những tác động bất lợi từ phía môi trường. Chính vì lý do đó, việc khai thác có định hướng, có tính đến sự cân bằng của môi sinh có tác dụng rất lớn trong bảo vệ môi trường. - Pháp luật quy định các chế tài hình sự, hành chính, kinh tế để buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình với môi trường. Việc đưa ra các tiêu chuẩn để định hướng các hành vi khai thác các thành phần môi trường có ý nghĩa quan trọng. - Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là một công việc khó khăn và phức tạp. Nhiều yếu tố của môi trường có phạm vi rộng lớn, có cấu tạo phức tạp nên việc bảo vệ chúng đòi hỏi phải có hệ thống các tổ chức thích hợp. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra cơ chế hoạt động cho các tổ chức bảo vệ môi trường. - Pháp luật quy định các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường mà thông qua pháp luật, chúng trở thành những tiêu chuẩn pháp lý mà tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải tuân theo khi khai thác, sử dụng các thành phần của môi trường. - Pháp luật giải quyết các tranh chấp liên quan đến môi trường, sử dụng các thành phần môi trường và bảo vệ môi trường. 2.2. Khái niệm luật môi trường Việt Nam 2.2.1. Khái niệm luật môi trường Xuất phát từ phạm vi của luật môi trường, có thể khái niệm về luật môi trường như sau: Luật môi trường là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa 40
  42. các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống của con người. Khái niệm trên đây của luật môi trường cho thấy cần phải nhận thức rõ một nguyên tắc cơ bản sau: Các quan hệ xã hội phát sinh thuộc phạm vi tác động của luật môi trường phải gắn với việc bảo vệ môi trường sống của con người. Điều này có nghĩa là không phải bất cứ sự tác động nào của các chủ thể vào các yếu tố của môi trường cũng làm phát sinh quan hệ pháp luật môi trường. Các vấn đề pháp luật môi trường chỉ nảy sinh khi nào sự tác động đó gây tổn hại hoặc có nguy cơ gây tổn hạn đến môi trường. Ví dụ, xung quanh yếu tố môi trường là đất đai có nhiều mối quan hệ. Quan hệ sở hữu hay quan hệ sử dụng đất, quan hệ thương mại, quan hệ dân sự, quan hệ hành chính. Người sử dụng đất có thể có nhiều tác động đối với đất như trồng cây, xây dựng công trình, đào ao Những tác động này có thể làm nảy sinh các quan hệ khác nhau và tùy vào tính chất sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, nếu người sử dụng đất chôn vào lòng đất những hóa chất độc hại gây ô nhiễm cho môi trường xung quanh thì quan hệ phát sinh từ hành vi này thuộc phạm vi điều chỉnh của luật môi trường. Rõ ràng, người sử dụng đất không hề vi phạm sở hữu của người khác, không vi phạm hợp đồng với bất kỳ ai, không xâm phạm trực tiếp đến lợi ích vật chất của bất cứ chủ thể cụ thể nào. Thế nhưng, điều rất dễ nhận thấy là tác động này đã làm cho môi trường bị ô nhiễm, quyền của cộng đồng được hưởng môi trường sống an toàn, trong lành bị xâm hại. Những ví dụ tương tự có thể đưa ra với các thành phần khác của môi trường như nước, không khí. Việc đổ chất thải ra đại dương thoạt nhìn không liên quan đến bất cứ quốc gia hay cộng đồng nào. Thực tế, tất cả các quốc gia, kể cả quốc gia không có biển, cũng đứng trước nguy cơ bị tổn hạn vì hành vi đổ chất thải ra đại dương. Các quan hệ xã hội mà các quy phạm pháp luật môi trường điều chỉnh có thể được phân loại theo các nhóm sau: - Các quan hệ giữa một bên là các cá nhân, tổ chức với một bên là nhà nước phát sinh từ hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Các quan hệ này chứa đựng những yếu tố của quan hệ pháp luật hành chính và chính vì thế có quan điểm cho rằng luật môi trường thuộc nhóm luật hành chính. Những quan hệ này bao gồm: + Quan hệ phát sinh từ hoạt động đánh giá tác động môi trường. + Quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật và chính sách môi trường. 41
  43. + Quan hệ phát sinh từ việc xử lý vi phạm pháp luật môi trường. - Quan hệ phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân với nhau do thỏa thuận ý chí của các bên. Đặc trưng của quan hệ này là sự thỏa thuận, sự bình đẳng. Các bên trong mối quan hệ này thực hiện các quyền của mình trong lĩnh vực môi trường một cách bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Trong lĩnh vực môi trường, mối quan hệ này ngày càng trở nên phổ biến hơn do khả năng định hướng hành vi chủ thể thông qua không phải là chế tài, hình phạt mà là các lợi ích kinh tế. Luật môi trường trong bối cảnh đó cần chú trọng hơn các giải pháp điều chỉnh thông qua các lợi ích kinh tế. Ví dụ điển hình cho sự phát triển của mối quan hệ này là nhiều nước đã chuyển sang mua bán quota chất thải, hay việc mua bán CERs (giấy chứng nhận giảm phát thải CO2 trong Cơ chế phát triển sạch) Các mối quan hệ mang tính chất dân sự thương mại như thế trong lĩnh vực môi trường bao gồm: + Quan hệ về bồi thường thiệt hại do việc gây ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường gây nên. + Quan hệ phát sinh từ việc hợp tác khắc phục thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái hoặc sự cố môi trường gây ra. + Quan hệ phát sinh từ việc giải quyết tranh chấp môi trường. + Quan hệ trong lĩnh vực phối hợp đầu tư vào các công trình bảo vệ môi trường. 2.2.2. Các nguyên tắc chủ yếu của luật môi trường Các nguyên tắc của luật môi trường nêu dưới đây cần được phân biệt với các nguyên tắc cụ thể được áp dụng trong các chế định hay nhóm quan hệ khác nhau của nó. Các nguyên tắc nêu dưới đây chi phối một cách toàn diện các quan hệ phát sinh việc bảo vệ môi trường. Những nguyên tắc hoặc những quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với từng nhóm quan hệ luật môi trường cần phải được ban hành nhằm thực hiện các nguyên tắc cơ bản này. Chẳng hạn, trong quản lý nhà nước về môi trường, các nguyên tắc tổ chức và vận hành các thể chế nhà nước có chức năng kiểm soát ô nhiễm, bảo tồn thiên nhiên, xử phạt hành chính, các quy phạm điều chỉnh hành vi của tổ chức, cá nhân đều phải xuất phát từ việc đảm bảo cho người dân được sống trong môi trường an toàn. 2.2.2.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền con người đượ c sống trong môi trường trong lành Một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, trong điều kiện của những thập kỷ cuối thế kỷ 42
  44. XX, quyền sống của con người, mặc dù được đảm bảo hơn về mặt pháp lý bằng các thể chế dân chủ, song lại bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm và suy thoái các thành phần môi trường. Trong điều kiện đó, quyền sống của con người phải được gắn chặt với môi trường. Tuyên bố của Liên hợp quốc về môi trường đã đưa quyền của con người được sống trong môi trường trong lành thành một nguyên tắc của quan hệ giữa các quốc gia. Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố Stockholm nêu rõ: “con người có quyền cơ bản được sống trong một môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”. Tuyên bố Rio de Janeiro cũng khẳng định: “con người là trung tâm của các mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”. Nguyên tắc này chi phối việc xây dựng pháp luật và chính sách của tất cả các quốc gia trên thế giới, và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. 2.2.2.2. Tính thống nhất trong quản lý và bảo vệ môi trường Môi trường là một thể thống nhất của nhiều yếu tố vật chất khác nhau. Vì vậy, trong quản lý và bảo vệ môi trường cần sự thống nhất và điều này được coi như là một nguyên tắc của luật môi trường. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất trong quản lý môi trường được xác định trong Điều 12 Hiến pháp năm 1992. nguyên tắc này có một số đòi hỏi như sau: - Các chính sách cũng như các quy định pháp luật về môi trường phải được ban hành với sự cân nhắc toàn diện đến các yếu tố khác nhau của môi trường để việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này không bị phân tán và thiếu đồng bộ. Trong thực tế, có không ít các chính sách, các quy định của pháp luật được ban hành chỉ nhằm giải quyết một hiện tượng cụ thể trước mắt mà không tính đến ảnh hưởng dây chuyền của văn bản đó đối với các hiện tượng xã hội khác. - Việc quản lý môi trường được thực hiện dưới sự điều hành của một cơ quan thống nhất. Đòi hỏi này trên thực tế đã được đáp ứng khá đầy đủ ở Việt Nam. Hệ thống cơ quan quản lý môi trường ở nước ta đã được xây dựng hoàn thiện đáng kể trong vòng 10 năm gần đây. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan này đã được xác định và phân công tương đối hợp lý. - Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về bảo vệ môi trường, quy trình đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và các quy trình thẩm định báo cáo kèm theo với tư cách là những công cụ kỹ thuật quan trọng của quản lý môi trường cần được xây dựng và áp dụng một cách thống nhất trong 43
  45. phạm vi cả nước. - Việc bảo vệ môi trường phải được coi là sự nghiệp của toàn dân. Mọi công dân, mọi tổ chức đều phải tham gia bảo vệ môi trường thông qua việc tuân thủ các quy định của pháp luật môi trường, thực hiện các hành động chung của cộng đồng nhằm bảo vệ môi trường. 2.2.2.3. Nguyên tắc đảm bảo sự phát triển bền vững Phát triển bền vững thực chất là sự liên kết giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường và các giá trị khác. Phát triển bền vững là một trong những nguyên tắc quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc tế về môi trường. Phần lớn các quốc gia đã đưa nguyên tắc này vào trong hệ thống pháp luật của mình. Pháp luật môi trường Việt Nam cũng đặc biệt coi trọng nguyên tắc phát triển bền vững. Khoản 1 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định: “Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu”. Nguyên tắc đảm bảo sự phát triển bền vững có những đòi hỏi sau đây: - Các biện pháp bảo vệ môi trường phải được coi là một yếu tố cấu thành trong các chiến lược hoặc các chính sách phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương, vùng và của từng tổ chức. - Phải tạo ra bộ máy và cơ chế quản lý có hiệu quả để có thể tránh được tham nhũng và lãng phí cac nguồn lực, nhất là các nguồn tài nguyên thiên nhiên. - Phải hoàn thiện quá trình quyết định chính sách và tăng cường tính công khai của các quá trình đó, đảm bảo để cho các quyết định, chính sách ban hành nhằm vào sự phát triển bền vững. - Phải coi đánh giá tác động môi trường như là một bộ phận cấu thành của dự án đầu tư. 2.2.2.4. Nguyên tắc coi trọng tính phòng ngừa Môi trường khác với các hiện tượng khác ở chỗ khả năng khôi phục hiện trạng hoặc là không thể thực hiện được hoặc rất khó khăn, tốn kém và mất nhiều thời gian. Chẳng hạn, những khu rừng nguyên sinh, những vùng rừng nhiệt đới khi bị tàn phá sẽ khó lòng phục hồi. Chính vì thế, ngăn ngừa những hành vi gây hại cho môi trường càn được chú trọng hơn so với việc áp dụng các hình phạt hoặc chế tài khác. Luật môi trường coi phòng ngừa là một nguyên tắc chủ yếu. Nguyên tắc này hướng việc ban hành và áp dụng các quy định pháp luật vào sự ngăn chặn của chủ thể thực hiện các hành vi có khả năng gây nguy hại cho môi trường. 44
  46. Các biện pháp ngăn chặn áp dụng trong bảo vệ môi trường rất đa dạng. Tuy nhiên, bản chất chính của các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn là bằng việc kích thích lợi ích hoặc triệt tiêu các lợi ích vốn là động lực của việc vi phạm pháp luật môi trường, nâng cao ý thức tự giác của con người trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. 2.3. Khái quát sự phát triển của luật môi trường Việt Nam Luật môi trường là ngành khoa học mới của đối với phần lớn các quốc gia đang phát triển trên thế giới. Điều này có lý do riêng của nó. Pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết xã hội luôn luôn phải chịu sự chi phối của nhu cầu xã hội. Khi việc bảo vệ môi trường chưa được ý thức rõ, chưa trở thành thách thức xã hội thì luật môi trường chưa được chú ý. Trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, khi sự phát triển kinh tế là động lực phát triển của các quốc gia thì tài nguyên, môi trường không phải là vấn đề quan trọng. Các quốc gia sẵn sàng khai thác hết tài nguyên để công nghiệp hóa, để phát triển. Môi trường chưa phải là thử thách khi vấn đề phát triển, dân số chưa đạt tới mức đáng báo động. Chỉ đến khi tất cả quốc gia phải đối mặt với sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, sự mất cân bằng sinh thái và sự trả thù khốc liệt của thiên nhiên thì vấn đề bảo vệ môi trường mới nổi lên như một thách thức xã hội. Luật môi trường ra đời là biện pháp giải quyết thách thức đó. Luật môi trường xuất hiện sớm ở các nước phát triển, nơi thách thức môi trường trở nên quyết liệt hơn do tốc độ công nghiệp hóa, ô nhiễm công nghiệp ở các nước đó. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, sự thách thức của vấn đề môi trường khác nhau, nhất là khi xem xét ở những thành phần cụ thể của môi trường. Ở Việt Nam, luật môi trường xuất hiện chậm. Có thể nói trong hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam thì luật môi trường là lĩnh vực mới nhất. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của luật môi trường không chứa đựng những phân kỳ phức tạp, những giai đoạn thăng trầm như một số lĩnh vực luật khác. Quá trình phát triển luật môi trường có thể được chia ra hai giai đoạn chính sau đây: 2.3.1. Giai đoạn trước năm 1986 Giai đoạn này luật môi trường với tư cách là lĩnh vực riêng chưa xuất hiện. Trong giai đoạn này, khó có thể tìm thấy văn bản pháp luật riêng nào về vấn đề môi trường. Mặc dù nhà nước đã có những ý tưởng và những cố gắng nhất định về bảo vệ môi trường, song việc thể chế hóa các ý tưởng này chưa được hoàn thiện. Văn bản pháp luật được coi là sớm nhất đố i với lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam là Sắc lệnh số 142/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 45