Giáo trình Luật dân sự
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật dân sự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_luat_dan_su.pdf
- gtkl0002_p2_6565_501114.pdf
Nội dung text: Giáo trình Luật dân sự
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên: ThS Nguyễn Thị Thanh LUẬT DÂN SỰ Vinh - 2011 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên: Ths Nguyễn Thị Thanh LUẬT DÂN SỰ (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 2
- Phân công biên soạn: - Chủ biên: ThS Nguyễn Thị Thanh - Các tác giả: ThS Phạm Thị Thuý Liễu - Chương 5, 6 ThS Nguyễn Thị Thanh - Chương 1, 4, 7 Hà Thị Thuý - Chương 8, 9, 11 GV Bùi Thuận Yến - Chương 2, 10 GV Nguyễn Thị Phương Thảo - Chương 3 GV Chu Thị Trinh - Chương 12 3
- MỤC LỤC CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM Error! Bookmark not defined. Phần 1 : Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự Việt Nam Error! Bookmark not defined. Phần 2: Nhiệm vụ, nguyên tắc của Luật Dân sự Việt Nam Error! Bookmark not defined. Phần 3: Nguồn của Luật Dân sự Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ Error! Bookmark not defined. Phần 1: Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố của quan hệ pháp luật Dân sự Error! Bookmark not defined. Phần 2: Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự: cá nhân Error! Bookmark not defined. Phần 3: Pháp nhân – Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sựError! Bookmark not defined. Phần 4: Các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 3 ĐẠI DIỆN, THỜI HẠN, THỜI HIỆU Error! Bookmark not defined. 1.Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của đại diện Error! Bookmark not defined. 2. Các hình thưc đại diện Error! Bookmark not defined. 3. Phạm vi đại diện Error! Bookmark not defined. 4. Chấm dứt đại diện Error! Bookmark not defined. 5. Thời hạn Error! Bookmark not defined. 6. Thời hiệu Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 4. GIAO DỊCH DÂN SỰ Error! Bookmark not defined. 1.Khái niệm giao dịch dân sự Error! Bookmark not defined. 2.Phân loại giao dịch dân sự Error! Bookmark not defined. 3.Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 5. TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU Error! Bookmark not defined. Phần 1: Chủ thể, khách thể của quan hệ pháp luật quyền sở hữu Error! Bookmark not defined. Phần 2: Nội dung quyền sở hữu Error! Bookmark not defined. Phần 3: Căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu Error! Bookmark not defined. Phần 4: Các hình thức sở hữu Error! Bookmark not defined. Phần 5: Bảo vệ quyền sở hữu Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 6. NGHĨA VỤ DÂN SỰ Error! Bookmark not defined. Phần 1: Lý luận cơ bản về nghĩa vụ dân sự Error! Bookmark not defined. Phần 2: Các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự Error! Bookmark not defined. Phần 3: Căn cứ làm phát sinh, chấm dứt nghĩa vụ dân sự . Error! Bookmark not defined. Phần 4: Phân loại nghĩa vụ dân sự Error! Bookmark not defined. Phần 5: Thực hiện nghĩa vụ dân sự Error! Bookmark not defined. Phần 6: Trách nhiệm dân sự Error! Bookmark not defined. Phần 7: Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sựError! Bookmark not defined. CHƯƠNG 7. NGHĨA VỤ NGOÀI HỢP ĐỒNG Error! Bookmark not defined. Phần 1: Thực hiện công việc không có ủy quyền Error! Bookmark not defined. 4
- Phần 2: .Nghĩa vụ hòan trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 8. HỢP ĐỒNG DÂN SỰ Error! Bookmark not defined. Phần 1: Lý luận chung về hợp đồng dân sự Error! Bookmark not defined. Phần 2: Hiệu lực của hợp đồng Error! Bookmark not defined. Phần 3: .Giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 9. QUYỀN THỪA KẾ Error! Bookmark not defined. Phần 1: Khái niệm, các nguyên tắc của quyền thừa kế Error! Bookmark not defined. Phần 2: Thừa kế theo di chúc Error! Bookmark not defined. Phần 3: Thừa kế theo pháp luật Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 10 .BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG Error! Bookmark not defined. Phần 1: Khái niệm, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngError! Bookmark not defined. Phần 2: Bồi thường thiệt hại trong các trường hợp cụ thể . Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 11. PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN SỬ DỤNG ĐẤT Error! Bookmark not defined. 1. Khái niệm và đặc điểm của chuyển quyền sử dụng đất . Error! Bookmark not defined. 2. Nguyên tắc chuyển quyền sử dụng đất Error! Bookmark not defined. 3. Điều kiện chuyển quyền sử dụng đất. Error! Bookmark not defined. 4. Hình thức và hiệu lực của các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất Error! Bookmark not defined. 5. Giá chuyển quyền sử dụng đất Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 12. QUAN HỆ DÂN DỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI . Error! Bookmark not defined. 1. Định nghĩa quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Error! Bookmark not defined. 2. Đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Error! Bookmark not defined. 3. Các loại nguồn luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở Việt NamError! Bookmark not defined. Tài liệu tham khảo: Error! Bookmark not defined. 5
- CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM Phần 1 : Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự Việt Nam 1. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự Việt Nam Hệ thống pháp luật nước ta bao gồm nhiều ngành luật, mỗi ngành luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định. Nhóm các quan hệ có cùng tính chất, bản chất hoặc gần gũi nhau do một ngành luật điều chỉnh gọi là đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Luật Dân sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, có đối tượng điều chỉnh được quy định một cách tổng quát trong Điều 1 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 đã được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005. Điều đó có nghĩa là đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là những nhóm quan hệ về nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Các quan hệ này diễn ra giữa các chủ thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có vị trí độc lập, bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt, tự gánh chịu rủi ro cà tự chịu trách nhiệm trong các giao lưu dân sự. Tuy nhiên cần khẳng định rằng quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân là những quan hệ cơ bản và chủ yếu của xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh, trong đó Luật Dân sự chỉ điều chỉnh một phần các quan hệ đó. Ví dụ như : Luật Hành chính điều chỉnh quan hệ nhân thân khi quy đinh trình tự, thủ tục trong việc trao tặng bằng khen, huân huy chương, các danh hiệu thi đua Do đó, chúng ta cần xác định rõ phạm vi quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà Luật Dân sự điều chỉnh 1. Quan hệ tài sản Quan hệ tài sản là những quan hệ xã hội được hình thành giữa con người với nhau thông qua một tài sản nhất định. Như vậy, quan hệ tài sản là một dạng của quan hệ xã hội, nhưng đó là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản chứ không phải là quan hệ giữa người với tài sản. Tài sản trong quan hệ tài sản mà Luật Dân sự điều chỉnh rất đa dạng, phong phú. Theo Điều 163 Bộ Luật Dân sự năm 2005, tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Các quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh có những đặc điểm riêng: Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh luôn liên quan đến tài sản. Quan hệ tài sản có thể liên quan trực tiếp tới đến tài sản như sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thông qua giao dịch thuê bán, cho mượn hoặc gián tiếp liên quan đến taì sản như thông qua việc thanh toán giá trị hợp đồng, bồi thường thiệt hại Quan hệ tài sản được xác lập bởi những chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Những chủ thể tham gia có quyền bình đẳng và tự định đoạt. Các chủ thể được nhắc đến ở đây bao gồm thể nhân, pháp nhân, chủ thể đặc biệt (Nhà nước), hộ gia đình, tổ hợp tác. Quyền tự định đoạt được thể hiện rất rõ trong nội dung thoả thuận của các bên trong giao lưu dân sự. Ở đây chúng ta cũng lưu ý rằng, quan hệ tài sản thể hiện ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ nhưng ý chí đó phải phù hợp với ý chí của Nhà nước. 6
- Trong quan hệ tài sản có sự đền bù ngang giá về lợi ích vật chất đối với các chủ thể tham gia. Ta có thể thấy rõ tính chất này trong quan hệ mua bán, trao đổi hay thuê mướn.v.v Tuy nhiên cũng có những trường hợp đặc biệt không có tính chất này, ví dụ như: quan hệ thừa kế, quan hệ tặng cho không có điều kiện 2. Quan hệ nhân thân Quan hệ xã hội mang tính nhân thân là một trong hai đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự. Nhân thân được hiểu là những yếu tố gắn liền với mỗi chủ thể nhất định, có liên quan trực tiếp đến cá nhân như hình ảnh, tôn giáo, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tín ngưỡng hoặc tổ chức như tên gọi, uy tín Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người liên quan đến giá trị nhân thân của chủ thể (có thể là cá nhân hay tổ chức) và luôn gắn liền với cá nhân và tổ chức đó. Do đó, nó không mang tính giá trị, không tính được thành tiền và cũng không phải là đối tượng để dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân và bảo vệ các lợi ích nhân thân gắn liền với các chủ thể. Những giá trị nhân thân này là cơ sở và nền tảng đã thiết lập nhiều quan hệ dân sự khác. Quan hệ nhân thân được phân thành hai nhóm: quan hệ nhân thân gắn với tài sản và quan hệ nhân thân không gắn với tài sản 2.1. Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản: xuất phát từ giá trị tinh thần và các giá trị tinh thần này không có nội dung kinh tế, đó là các quyền nhân thân do Nhà nước quy định cho các cá nhân. Nhóm quan hệ này có đặc điểm riêng là không có nội dung kinh tế, không gắn với quyền lợi tài sản của chủ thể, do đó không thể chuyển giao cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào, không thể là đối tượng của hợp đồng trao đổi, mua bán, tặng cho Nhóm quan hệ nhân thân không gắn với tài sản này bao gồm: + Nhóm 1: Nhóm quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân cụ thể nhằm cụ thế hóa chủ thể này với chủ thể khác như: quyền với đối với họ tên, hình ảnh + Nhóm 2: Nhóm quan hệ nhân thân gắn liền với giá trị nhân thân mà được ghi nhận và bảo đảm phụ thuộc vào chế độ chính trị - kinh tế - xã hội, các nguyên tắc cơ bản và hệ tư tưởng của chế độ đó như: quyền xác định dân tộc, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận + Nhóm 3: Nhóm quyền nhân thân do các chủ thể tự mình xác lập, ví dụ như quyền nhân thân thuộc về tác giả. Nhóm này có thể thấy rõ nét trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Ví dụ: tác giả có các quyền nhân thân như quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên trên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm 2.2. Quan hệ nhân thân gắn với tài sản là những quan hệ xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu các chủ thể sẽ được hưởng lợi ích vật chất từ việc chuyển quyền đối với kết quả hoạt động sáng tạo. Các quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh đều có chung những đặc điểm sau đây: - Đó là một quan hệ luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và về nguyên tắc thì quyền nhân thân không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Trong những trường hợp nhất định thì được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật. Ví dụ như quyền 7
- công bố và phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết có thể dịch chuyển lại cho người thừa kế. Mặc dù vây, có quyền không thể chuyển giao: quyền đứng tên tác giả, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. - Đa số các quyền nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh thì đều không có giá trị kinh tế và không có nội dung tài sản. Quyền nhân thân không xác định bằng tiền, kể cả các quyền nhân thân gắn với tài sản. 2. Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật được hiểu là cách thức tác động lên các quan hệ xã hội do ngành luật đó điều chỉnh. Cách thức tác động này nhằm hướng tới việc điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi hay chấm dứt sao cho phù hợp với điều kiện chính trị- kinh tế- xã hội cũng như đặc điểm của nhóm quan hệ xã hội đó. Theo lý luận chung, phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là những cách thức, biện pháp tác động của ngành luật đó lên các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước phù hợp với ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ nhưng tôn trọng lợi ích của nhà nước, của tập thể và các chủ thể khác. Phương pháp điều chỉnh của mỗi ngành luật do Nhà nước đề ra dựa trên tính chất khách quan của những quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh và được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Do đặc điểm, tính chất của các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà Luật Dân sự điều chỉnh nên phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự Việt Nam có một số đặc trưng sau: - Các chủ thể tham gia quan hệ xã hội thuộc đối tượng của Luật Dân sự có sự độc lập về tổ chức và tài sản, bình đẳng về địa vị pháp lý. Sự bình đẳng của những người tham gia vào các quan hệ này thể hiện ở chỗ không bên nào có quyền áp đặt ý chí của minh cho bên kia trong việc tham gia giao dịch dân sự. Bình đẳng về địa vị pháp lý còn thể hiện trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, giữa các chủ thể không có sự phân biệt giới tính, trình độ văn hóa, dân tộc, tôn giáo (đối với cá nhân). - Các chủ thể có quyền tự định đoạt, tự do cam kết và thoả thuận trong các quan hệ mà mình tham gia. Các bên có quyền tự lựa chọn chủ thể tham gia quan hệ, tự do lựa chọn biện pháp, cách thức để thực hiện , quyền và nghĩa vụ cũng như biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, cách thức xử lý tài sản khi có sự vi phạm. Tuy nhiên thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội và không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân khác. Đó chính là các giới hạn mà pháp luật đặt ra đối với các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự như: giới hạn ở những quan hệ xã hội mà chủ thể bị buộc phải tham gia hoặc không được tham gia (ví dụ như: mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; quan hệ trưng mua, trưng dụng tài sản); giới hạn về các nghĩa vụ trong quan hệ xã hội mà chủ thể tham gia (ví dụ như hợp đồng vay có thỏa thuận về lãi suất nhưng không vượt quá giới hạn (Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005) - Trách nhiệm dân sự của bên vi phạm trước bên bị vi phạm trong các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự luôn liên quan đến tài sản. Mặc dù pháp luật dân sự điều chỉnh cả quan hệ nhân thân với quan hệ tài sản nhưng các quan hệ tài sản chiếm phần lớn, đại đa số. Các quan hệ tài sản này mang tính chất hàng hóa tiền tệ 8
- nên sự vi phạm của một bên thường dẫn đến sự thiệt hại về tài sản của bên còn lại. Nên bên cạnh các loại trách nhiệm khác như cải chính, xin lỗi công khai thì trách nhiệm tài sản là loại trách nhiệm phổ biến nhất trong phương pháp điều chỉnh của luật dân sự. Bên vi phạm nghĩa vụ thường bị bên bị xâm phạm yêu cầu bồi thường thiệt hại để khôi phục tình trạng tài sản như lúc chưa bị vi phạm và thông thường được hưởng một khoản tiền bồi thường, hoặc một tài sản cùng loại (dựa trên thỏa thuận của các bên). - Đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là tự thỏa thuận và hòa giải. Đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp này xuất phát từ chính tính chất của các quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ dân sự là sự bình đẳng và tự định đoạt nên các chủ thể thường lựa chọn phương pháp thỏa thuận để giải quyết tranh chấp. Và cũng chỉ có phương pháp thỏa thuận và hòa giải giữa các bên tham gia quan hệ dân sự mới đảm bảo một cách tối ưu nhất lợi ích giữa các bên. Khi lợi ích được dung hòa ở mức độ tối đa thì sẽ tạo điều kiện để các bên thực hiện nghĩa vụ của mình và chính vì thế mà đảm bảo cho lợi ích của bên kia. Trong trường hợp không thể hòa giải được thì có thể giải quyết tranh chấp đó bằng con đường Tòa án theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự và chủ yêu là trên cơ sở yêu cầu của một trong các bên. 3. Sơ lược lịch sử phát triển của Luật Dân sự Việt Nam Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 90/SL cho phép tạm thời giữ các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những luật mới áp dụng cho toàn quốc. Theo Sắc lệnh này, Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883, Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931, Bộ dân luật Trung kỳ năm 1936 vẫn tạm thời có hiệu lực thi hành ở Việt Nam sau ngày thành lập chính quyền nhân dân. Bước phát triển tiếp theo ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 97/SL, theo đó việc tiếp tục áp dụng các luật lệ cũ không được trái với các nguyên tắc được quy định tại Sắc lệnh này. Sắc lệnh số 97/SL đã đặt cơ sở cho sự hình thành và phát triền pháp luật dân sự mới ở nước ta, với những nguyên tắc thực sự dân chủ, tiến bộ, mang tính nhân dân sâu sắc như: “Những quyền dân sự đều được luật bảo về khi người ta hành sử nó đúng với quyền lợi của nhân dân” hay “Người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân” hay “Người đàn bà có hồng có toàn năng lực về mặt hộ” hay “Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô hiệu”. Việc áp dụng các quy định pháp luật dân sự nói trên kéo dài cho đến năm 1959 và chấm dứt khi TANDTC bằng chỉ thị số 772/CT – TATC đình chỉ việc áp dụng luật phong kiến đế quốc. Trong những năm đầu từ đầu thập kỷ 60 đến thập kỷ 80, nhiều văn bản pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản theo hướng nhằm thực hiện công cuộc cải tạo và xây dựng XHCN; thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp. Cho nên, phương pháp mệnh lệnh – hành chính 9
- đã được sử dụng chủ yếu trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự. Các nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của Luật Dân sự chưa được coi trọng đúng mức. Trong những năm 80, thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đặc biệt là việc chuyển đổi kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh pháp luật tương ứng, trong đó có vai trò của Luật Dân sự. Để đáp ứng những đòi hỏi đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản: Hôn nhân và Gia đình (năm 1986), Pháp lệnh thừa kế (năm 1990), Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (năm 1988), Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (năm 1989), Pháp lệnh hợp đồng dân sự (năm 1991), Pháp lệnh nhà ở (năm 1991), Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh , cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam (năm 1992) v.v Một trong những đặc điểm của pháp luật dân sự trong giai đoạn này là sự ra đời của hàng loạt pháp lệnh, đánh dấu cho một bước phát triển mới của pháp luật dân sự và tạo ra những tiền đề cho việc soạn thảo và ban hành Bộ Luật Dân sự sau này. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cơ bản của Luật Dân sự chưa được pháp luật dân sự điều chỉnh đầy đủ, chẳng hạn như các quan hệ sở hữu tài sản, nghĩa vụ dân sự, các hợp đồng dân sự thông dụng v.v Do vậy, trên thực tế khi giải quyết tranh chấp, Tòa án vẫn phải vận dụng các báo cáo tổng kết ngành, báo cáo chuyên đề và thông tư hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao để bù lấp chỗ trống trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự. Đến năm 1995, Bộ luật dân sự được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/1996 đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991 là một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực lập pháp của nước ta. Bộ luật dân sự có tầm quan trọng “sau hiến pháp” điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho việc phát triển các quan hệ dân sự, kinh tế. Kể từ sau khi có Bộ luật dân sự, về cơ bản chúng ta áp dụng các quy định trong đó để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự phát sinh sau khi Bộ luật dân sự ra đời. Tuy nhiên thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án còn nhiều phức tạp, nhiều điều khoản còn chưa phù hợp thực tế cuộc sống của nhân dân. Để khắc phục vấn đề này Nhà nước đã ban hành một số văn bản quan trọng như: Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH ngày 20/08/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991; Nghị quyết số 01/2003 ngày 10/04/2003 của Hội đồng thẩm phán TANNDTC “Về hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình”; Nghị quyết số 02/2004/NQ/HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình”. Bộ luật dân sự 1995 ra đời nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế vẫn có hiệu lực. Sau đó, Luật Thương mại ra đời (năm 1997) dẫn tới tình trạng tách rời chế định hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại, việc áp dụng các nguyên tắc của dân luật để giải quyết các tranh chấp hợp đồng phát sinh không được áp dụng ở nước ta. Điều này có điểm khác với các nước trên thế giới theo truyền thống civil law. Để khắc phục tình trạng chưa thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật dân sự Bộ luật dân sự 2005 ra đời. Có thể nói 10
- Bộ luật dân sự lần này có nhiều điểm ưu việt hơn, vì đã xóa bỏ được những điểm chưa hợp lý trong các quy định luật đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của pháp luật trước đó và pháp luật quốc tế Phần 2: Nhiệm vụ, nguyên tắc của Luật Dân sự Việt Nam 1. Nhiệm vụ của Luật Dân sự Việt Nam Nhiệm vụ của Luật Dân sự Việt Nam, đặc biệt được thể hiện trong quy định tại Điều 1 của Bộ Luật dân sự, là “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đằng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triền kinh tế - xã hội” Nhiệm vụ đó được xác định trên cơ sở vị trí, vai trò và mục tiêu của sự điều chình pháp luật dân sự trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta. Ngoài nhiệm vụ nêu trên, Luật Dân sự Việt Nam còn có nhiệm vụ đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi khách quan sau đây: Bảo vệ sở hữu toàn dân, tăng cường, khuyến khích, đẩy mạnh giao lưu dân sự, bảo đảm đời sống và phát triển sản xuất. Pháp luật dân sự Việt Nam là công cụ pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tạo cơ sở pháp lý tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, quyền con người về dân sự Luật Dân sự góp phần bảo đảm cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc dân tộc Việt Nam, góp phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. 2. Các nguyên tắc cơ bản của Luật dân sự Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì những nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chỉ đạo, những chuẩn mực chung được pháp luật ghi nhận có tác dụng định hướng và chỉ đạo cho toàn bộ các quy phạm pháp luật của ngành luật đó. Những nguyên tắc này có ý nghĩa rất to lớn, đặc biệt đối với việc áp dụng tương tự pháp luật. Những nguyên tắc của Luật dân sự được ghi nhận tại Bộ Luật dân sự: “Những nguyên tắc cơ bản” với 9 điều luật quy định 9 nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên, trong từng chế định riêng biệt thì cũng có những nguyên tắc riêng, song trong phần này chúng ta chỉ đề cập đến những nguyên tắc cơ bản được đề cập đến tại chương II, phần thứ nhất của Bộ Luật dân sự. Những nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự, được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 bao gồm những nguyên tắc sau đây: 2.1. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Đây là nguyên tắc được đưa lên vị trí đầu tiên trong hệ thống các nguyên tắc trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự 2005. Nguyên tắc có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự - những quan hệ mang tính chất “tư” và rất cá nhân. Nội dung của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận có thể hiểu là các bên chủ thể tham gia quan hệ dân sự có quyền tự do thể hiện ý chí, tự do chọn lựa đối tác, tự do lựa chọn hình thức và các loại giao dịch; tự do lựa chọn các điều kiện 11
- của giao dịch tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng của mình. Các chủ thể khác không có quyền áp đặt, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản các chủ thể trong việc tự do cam kết, thỏa thuận. 2.2. Nguyên tắc bình đẳng Nguyên tắc này quy định và bảo đảm vị trí bình đẳng giữa các bên trong giao lưu dân sự. Sự bình đẳng giữa các chủ thể ở đây được hiểu là mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật như nhau hoặc cùng một dạng pháp nhân thì cũng có năng lực pháp luật giống nhau Các chủ thể ngang bằng về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ văn hóa, nghề nghiệp của các chủ thể. Trong khi tham gia quan hệ dân sự không được dùng các yếu tố này để phân biệt đối xử với các chủ thể. 2.3. Nguyên tắc thiện chí, trung thực Đây là một nguyên tắc rất quan trọng của Luật Dân sự, không chỉ ghi nhận trong Luật dân sự Việt Nam mà còn được khẳng định trong pháp luật dân sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Quan hệ dân sự chỉ đạt được hiệu quả cao nhất – đảm bảo tối đa lợi ích của các bên chủ thể tham gia quan hệ dân sự khi các bên đảm bảo sự thiện chí và trung thực. Nguyên tắc này biểu hiện rõ ràng: Các bên không được lừa dối nhau trong việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Không được lừa dối, lợi dụng lòng tin của người khác trong giao dịch dân sự mà các bên đều phải có thiện chí mong muốn sự tốt đẹp đối với các chủ thể cùng tham gia quan hệ dân sự. Các bên chủ thể không vì lợi ích của cá nhân mà làm thiệt hại đến lợi ích của người khác. Nếu một bên có căn cứ cho rằng bên kia không trung thực thì phải chứng minh được điều này. 2.4. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự Nguyên tắc này được quy định tại Điều 7 Bộ luật Dân sự năm 2005. Nguyên tắc này được hiểu là khi tham gia giao dịch, các bên có trách nhiệm thực hiện đúng những điều khoản do các bên thỏa thuận. Các điều khỏan do các bên thỏa thuận là nghĩa vụ buộc các bên phải thực hiện. Mặt khác, các bên cũng phải tuân thủ việc thoả thuận đã đặt ra, nếu một bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì phải chịu trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại (Khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự 2005). Nguyên tắc này yêu cầu các bên cần tự nguyện thực hiện nhưng khi các bên không tự nguyện thực hiện thì sẽ bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự mang tính đền bù bằng tài sản, thể hiện phương pháp điểu chỉnh bằng tài sản. Đặc điểm này xuất phát từ đặc trưng phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ tài sản, hơn nữa những hành vi gây thiệt hại chủ yếu trong quan hệ tài sản nên hầu hết đều gây thiệt hại về vật chất 2.5. Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp Xuất phát từ các đặc điểm xã hội, truyền thống dân tộc ở nước ta, Bộ luật dân sự đã nâng việc tôn trọng đạo đức, truyền thống thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự. Theo đó, việc xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự phải đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng 12
- và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết tương thân tương ái mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2.6. Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự Đây là nguyên tắc xuất phát từ những đặc điểm truyền thống dân tộc và các quyền công dân đã được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận. Trên cơ sở nội dung các quyền dân sự được quy định tại Hiến pháp năm 1992, Luật Dân sự Việt Nam đưa ra phương thức nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền dân sự của công dân. Để thực hiện nguyên tắc này có hai cách thức: một là các bên trong quan hệ dân sự áp dụng các biện pháp tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và hai là cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền cho chủ thể quyền trong quan hệ dân sự theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh phương thức tự bảo vệ quyền của mỗi chủ thể, phương thức bảo vệ quyền lợi các bên trong giao dịch dân sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền được sử dụng khi bên có quyền lợi bị vi phạm không thể hoặc không đủ khả năng bảo vệ quyền dân sự của mình trước hành vi vi phạm. Cơ quan nhà nước có thể tiến hành các hoạt động: + Yêu cầu công nhận quyền công dân hợp pháp; + Buộc chấm dứt hành vi vi phạm: Biện pháp này được áp dụng phổ biến với mọi loại giao dịch dân sự như bảo vệ quyền sở hữu, quyền nhân thân, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền dân sự khác; + Buộc xin lỗi, cải chính công khai; + Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; + Buộc bồi thường thiệt hại; Hình thức phạt vi phạm thì chỉ áp dụng khi 2 bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. 2.7. Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác Đây là nguyên tắc mang tính chất kinh điển, nền tảng của Luật Dân sự mà nội dung của nó là việc xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. 2.8. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể khi xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phải theo căn cứ, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trong trường hợp pháp luật không quy định, thì có thể cam kết thỏa thuận và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, miễn là không trái với những nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự. Nguyên tắc này cũng là nguyên tắc truyền thống của Luật Dân sự. 2.9. Nguyên tắc hòa giải Đây là nguyên tắc đặc thù của pháp luật dân sự Việt Nam. Nguyên tắc này có mối quan hệ biện chứng với nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận, nguyên tắc bình đẳng cũng như nguyên tắc thiện chí trung thực trong giao lưu dân sự. Nguyên tắc hòa giải thể hiện trong các giai đoạn của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự và đặc biệt trong giải quyết tranh chấp dân sự. 13
- Nguyên tắc này thể hiện các bên không phép được dùng vũ lực, các biện pháp cưỡng ép buộc các bên phải thực hiện các hành vi theo mong muốn của mình. Khi có tranh chấp xảy ra, các bên phải ưu tiên việc tiếp tục tự thỏa thuận để tìm ra phương án tối ưu nhất cho việc giải quyết tranh chấp, để đảm bảo lợi ích cho các bên cũng như thúc đẩy tối đa việc các bên tự nguyện thực hiện các nội dung do mình tự thỏa thuận. Các tranh chấp khi không thể hòa giải thì các bên mới có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Nhưng kể cả trong giai đoạn cơ quan nhà nước giải quyết các tranh chấp thì khi các bên tự hòa giải được thì vẫn được cơ quan Nhà nước công nhận. Phần 3: Nguồn của Luật Dân sự 1. Khái niệm Khi nói đến nguồn của pháp luật, điều đó cũng có nghĩa là muốn nói đến hình thức bên ngoài của pháp luật hay nói một cách khác là các hình thức ghi nhận và ban hành các quy phạm pháp luật. Nguồn của luật còn được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các cách thức, biện pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của một ngành luật. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội này bằng cách nào, theo phương thức nào cũng như hình thức của sự ghi nhận và ban hành các quy phạm pháp luật - một phần phụ thuộc vào tuyền thống văn hóa, pháp lý cũng như khả năng xây dựng pháp luật ở từng nước. Căn cứ vào mức độ sử dụng các nguồn của pháp luật, người ta phân biệt các hệ thông pháp luật trên thế giới và đánh giá những đặc điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước. Nguồn của Luật Dân sự ở nước ta được hiểu là các văn bản quy phạm pháp luật dân sự do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự luật định nhằm điều chình các quan hệ dân sự giữa các chủ thể trong cùng một khoảng thời gian và không gian nhất định. Tuy nhiên không phải mọi văn bản ban hành đều là nguồn của Luật Dân sự, mặc dù văn bản đó có “điều chỉnh” quan hệ tài sản hoặc quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự. Ví dụ: Một bản án dân sự của Tòa giải quyết tranh chấp quyền sở hữu, một quyết định phân nhà cho công nhân viên chức nhà nước v.v Theo khoa học pháp lý được xem là nguồn của Luật Dân sự phải đáp ứng các điều kiện sau đây: - Văn bản phải chứa đựng các quy tắc xử sự để điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Vì vậy, các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành mà không chứa đựng các quy tắc xử sự chung như bản án của Tòa án thì không phải là nguồn của Luật Dân sự. - Văn bản phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Chỉ những cơ quan được pháp luật quy định mới có quyền ban hành văn bản quy định pháp luật dân sự. Ví dụ: Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12/11/1996 thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền hạn ban hành luật, còn ùy ban thường vụ Quốc hội chỉ có quyền ban hành Pháp lệnh. 14
- - Văn bản đó phải được ban hành theo đúng hình thức, trình tự, thủ tục luật định. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định hình thức, thủ tục, trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật. - Văn bản đó được Nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp thich hợp, trong đó quan trọng nhất là cưỡng chế buộc thi hành và áp dụng chế tài đối với người có hành vị vi phạm pháp luật. 2. Các loại nguồn của Luật Dân sự Việt Nam. Mỗi một văn bản quy phạm pháp luật tương ứng với một mức độ điều chỉnh nhất định, với mức độ khái quát hay cụ thể khác nhau, trên cơ sở đó, có thể phân loại các văn bản quy phạm pháp luật theo hai tiêu chí, đó là mức độ điều chỉnh và mức độ hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật, trên cơ sở các tiêu chí đó, nguồn của Luật Dân sự Việt Nam bao gồm: 2.1. Hiến pháp Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước do Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành, trong đó các quy định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế và các quyền cơ bản của công dân có vị trí quan trọng có liên quan đến Luật Dân sự. Đối với Luật Dân sự, các quy định về chế độ kinh tế (chương II), quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (chương V) của Hiến pháp năm 1992 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mà Bộ Luật Dân sự đã cụ thể hóa. 2.2. Bộ Luật Dân sự và các bộ luật, đạo luật khác Các luật khác có liên quan đến dân sự như Bộ Luật Hàng hải, Luật hàng không dân dụng, Luật thương mại, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng v.v do Quốc hội ban hành điều chỉnh các quan hệ dân sự, được coi là nguồn quan trọng nhất của pháp luật dân sự, trong đó Bộ Luật Dân sự giữ vị trí trung tâm trong các nguồn của Luật Dân sự. Các nghị quyết của Quốc hội liên quan đến việc thi hành Bộ Luật Dân sự cũng được coi là nguồn của Luật Dân sự. 2.3. Pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trước khi Bộ Luật Dân sự được ban hanh, pháp lệnh là nguồn đặc biệt quan trọng của Luật Dân sự Việt Nam. Có một loạt pháp lệnh được ra đời hình thành nên các chế định của Luật Dân sự như Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (năm 1989), Pháp lệnh thừa kế (năm 1990), Pháp lệnh hợp đồng dân sự (năm 1991) HIện nay, còn có nhiều pháp lệnh quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự, ví dụ như Pháp lệnh quản lý ngoại hối 2.4. Nghị định của Chính phủ. Đây là nguồn phong phú, quan trọng của Luật Dân sự, thể hiện hầu hết các lĩnh vực mà Luật Dân sự điều chỉnh. Có thể kể ra một số nghị định như: Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về hụi họ biêu phường; Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm; Nghị định số 172/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản; Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới 2.5. Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính Phủ cũng là một trong những nguồn quan trọng của Luật Dân sự. 2.6. Quyết định, Chỉ thị, Thông tư 15
- Các văn bản trên của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ để cụ thể hóa luật, pháp lệnh, nghị định trong phạm vi, lĩnh vực Bộ, ngành quản lý là bộ phận quan trọng đối với pháp luật dân sự. Ngoài ra, các cơ quan này và các cơ quan có thẩm quyền khác có thể ban hành các văn bản liên tịch như Thông tự liên tịch. 2.7. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành, áp dụng pháp luật dân sự cũng là nguồn của Luật Dân sự. Loại nguồn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác xét xử. Đối với Thông tư của Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết cuả Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn thi hành, áp dụng các quy phạm pháp luật dân sự, cho đến nay vẫn còn quan điểm khác nhau về việc có coi đó có là nguồn của Luật Dân sự hay không. Về phương diện này, trước hết cần khẳng định rằng án lệ và thực tiễn xét xử của Tòa án ở nước ta không được coi và nguồn của Luật, vì toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam theo như quy định của Hiến pháp. Do vậy, Tòa án nhân dân tối cao không có chức năng lập pháp. Tuy nhiên, trên lĩnh vực Luật Dân sự cho phép áp dụng nguyên tắc tương tự cũng như các phương pháp khoa học để giải thích, hướng dẫn thi hành luật, thì các Nghị quyết do Tòa án nhân dân tối cao ban hành nhằm cụ thể hóa, hướng dẫn chi tiết việc áp dụng các quy phạm pháp luật dân sự có quy phạm pháp luật dân sự cũng có thể được coi là một loại nguồn của Luật Dân sự (theo nghĩa rộng). CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật dân sự? 2. Phân tích các đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự? 3. Phân tích các đặc điểm của quan hệ tài sản do Luật dân sự Việt Nam điều chỉnh? 4. Phân tích các đặc điểm của quan hệ nhân thân do Luật dân sự Việt Nam điều chỉnh? 5. Phân tích các nguyên tắc của Luật Dân sự? 16
- CHƯƠNG 2 QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ Phần 1: Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự 1. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự 1.1. Khái niệm quan hệ pháp luật dân sự Trong đời sống xã hội giữa con người với con người luôn luôn phát sinh nhiều mối quan hệ xã hội. Những quan hệ xã hội này được nhiều quy tắc xử sự điều chỉnh như quy phạm đạo đức, tôn giáo, tập quán, pháp luật.v.v trong đó quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất, nhằm hướng các quan hệ xã hội phát sinh, phát triển phù hợp với ý chí của Nhà nước. Quan hệ pháp luật dân sự là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự được các quy phạm pháp luật dân sư tác động tới trên cơ sở chủ thể độc lập về tổ chức và tài sản, bình đẳng về địa vị pháp lý và các quyền, 17
- nghĩa vụ của các chủ thể được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước. 1.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự: Quan hệ pháp luật dân sự là một dạng của quan hệ pháp luật nên nó cũng có những đặc điểm của quan hệ pháp luật nói chung. Nhưng xuất phát từ đặc điểm đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự, quan hệ pháp luật dân sự còn có một số đặc điểm riêng sau đây: Thứ nhất: Chủ thể tham gia quan hệ dân sự rất đa dạng nhưng độc lập về tài sản và tổ chức: Quan hệ pháp luật dân sự là các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh thường nhật đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, cho hoạt động sản xuất và kinh doanh. Do đó có thể khẳng định đây là những quan hệ xã hội phát sinh thường nhật trong một phạm vi rất rộng, đáp ứng nhu cầu của bất cứ chủ thể nào trong xã hội. Cũng chính vì thế các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng, bao gồm: cá nhân; pháp nhân; tổ hợp tác; hộ gia đình và Nhà nước. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự đều độc lập, không lệ thuộc về mặt tổ chức và tài sản. Sự bình đẳng về mặt tổ chức ở đây được hiểu là các chủ thể không lệ thuộc với nhau về mặt tổ chức, phải tự chịu trách nhiệm về những thiệt hại do mình gây ra. Bên cạnh đó, các chủ thể bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ bằng tài sản của mình. Thứ hai: Địa vị pháp lý của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng và không phụ thuộc vào các yếu tố xã hội khác Trong quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể có sự độc lập tương đối về quyền và nghĩa vụ dân sự, họ tự định đoạt việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự theo nhu cầu và ý muốn của mình đồng thời phải độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi thực hiện trong quan hệ pháp luật đó. các bên tham gia giao dịch dân sự luôn bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý, không có sự phân biệt về thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc, trình độ văn hóa, nghề nghiệp Sự bình đẳng của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự là một đặc điểm không có đối với các chủ thể khi tham gia quan hệ hành chính, hình sự. Thứ ba: Quan hệ pháp luật dân sự phát sinh trên cơ sở lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần Khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự, trong đa số các trường hợp các chủ thể luôn đặt ra và mong muốn đạt được những lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần, trong đó chủ yếu là lợi ích vật chất. Xuất phát từ đặc trưng quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ tài sản nên nó cũng mang các đặc điểm là có tính chất hàng hóa – tiền tệ và tính chất đền bù tương đương nên lợi ích về vật chất là một biểu hiện phổ biến trong quan hệ dân sự. Mặt khác, các bên thiết lập một quan hệ dân sự nhằm một mục đích nhất định, và mục đích có được thỏa mãn bằng hành vi của chính người đó hoặc bằng việc thực hiện nghĩa vụ của phía bên kia. Thứ tư: Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chỉ do pháp luật quy định mà có thể các bên trong quan hệ pháp luật dân sự thỏa thuận mà không trái với pháp luật. Các chủ thể tự quyết định việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách tự nguyên, nếu không tự nguyện thực hiện hoặc có hành vi vi phạm quyền của chủ 18
- thể quyền thì chủ thể có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự mang tính cưỡng chế. Các biện pháp này rất đa dạng, có biện pháp mang tính chất tinh thần như xin lỗi, cải chính công khai , có biện pháp mang tính chất tài sản như: bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp đồng Tuy nhiên biện pháp cưỡng chế chỉ áp dụng để bảo vệ quyền và nghĩa vụ dân sự khi các bên tham gia không tự bảo vệ được quyền của mình bằng các biên pháp được pháp luật dân sự quy định. Ở đây chúng ta cũng cần lưu ý về sự khác nhau giữa trách nhiệm dân sự để bảo vệ quan hệ pháp luật dân sự với các loại trách nhiệm pháp lý khác. Nếu trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm hình sự chỉ có thể áp dụng đối với người trực tiếp vi phạm pháp luật thì trong một số trường hợp một người lại có thể phải chịu trách nhiệm dân sự vì hành vi của một người khác gây ra thiệt hại. Ví dụ như trong trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cha mẹ hoặc người giám hộ phải bồi thường thiệt hại do con dưới 15 tuổi gây ra. 2. Các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự 2.1. Chủ thể Cũng giống như quan hệ pháp luật nói chung, chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những người tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự và có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ ấy. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, Nhà nước. Tuy nhiên các chủ thể trên không thể tham gia vào tất cả các quan hệ pháp luật dân sự. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm, nội dung của quan hệ xã hội, năng lực pháp luật dân sự mỗi chủ thể chỉ có thể tham gia vào những quan hệ pháp luật dân sự nhất định. Ví dụ như: Đối với quan hệ thừa kế (thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật) người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân. Trong quan hệ pháp luật dân sự có những quan hệ pháp luật dân sự mà hai bên chủ thể (bên có quyền và bên có nghĩa vụ) đều được xác định . Ví dụ như quan hệ về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự. Nhưng cũng có những quan hệ pháp luật dân sự chỉ có thể xác định được chủ thể quyền. Ví dụ như quan hệ pháp luật về sở hữu chỉ xác định được chủ sở hữu đối với tài sản của họ. 2.2. Khách thể Theo Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, khách thể của quan hệ pháp luật là cái mà quy phạm pháp luật tác động đến. Như vậy khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là cái mà các quy phạm pháp luật dân sự tác động tới. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: tài sản; hành vi và các dịch vụ; kết quả của hoạt dộng tinh thần sáng tạo; các giá trị nhân thân và quyền sử dụng đất. Cụ thể là: - Tài sản: Theo Điều163 Bộ luật dân sự tài sản bao gồm: “Vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản khác”. Ta có thể xem xét các khái niệm cụ thể của từng đối tượng được liệt kê trong khái niệm tài sản trên. Vật là phạm trù pháp lý, là một bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Tiền được hiểu là vật cùng loại đặc biệt có giá trị trao đổi với các hàng hóa, chỉ do Nhà nước ban hành và mang mệnh giá (những đồng tiền có giá trị lưu hành thì mới được coi là tiền). 19
- Giấy tờ có giá là loại tài sản đặc biệt do Nhà nước hoặc các tổ chức phát hành theo trình tự nhất định. Có rất nhiều loại giấy tờ có giá có hình thức khác nhau như: Công trái, trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu, séc Những giấy tờ có giá này là hàng hóa trong một thị trường đặc biệt đó là thị trường chứng khóan. Quyền tài sản: là quyền trị giá được bằng tiền, có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự: Quyền sở hữu trí tuệ, quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại - Hành vi và các dịch vụ: Đây là khách thể chủ yếu trong các quan hệ pháp luật dân sự về nghĩa vụ và hợp đồng. Hành vi có thể là hành động (làm một cái gì đó như trả tiền, giao vật, thực hiện dịch vụ ) nhưng có thể cũng là không hành động (không làm cái gì đó như không được công bố thông tin, không được gây mất trật tự vào một thời điểm nhất định ). Các dịch vụ là một hay nhiều công việc mà chủ thể phải làm để thỏa mãn lợi ích của chủ thể phía bên kia như dịch vụ tư vấn pháp lý, gửi giữ, du lịch - Kết quả của hoạt động tinh thần, sáng tạo: Hoạt động tinh thần sáng tạo thông thường là kết quả của hoạt động tinh thần của con người. Sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ như các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học hoặc các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (kiểu dáng công nghiệp ) - Các giá trị nhân thân Các giá trị nhân thân là khách thể quan hệ pháp luật dân sự trong các quyền nhân thân của công dân hay tổ chức. Các quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể dịch chuyển được trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Các quyền nhân thân không phụ thuộc vào các quan hệ gia đình hay nghề nghiệp mà nó được luật pháp quy định và ngày càng mở rộng. Nội dung các quyền này đươc ghi nhận từ Điều 24 đến Điều 51 của Bộ luật dân sự năm 2005. - Quyền sử dụng đất: Là một loại khách thể đặc biệt trong các quan hệ pháp luật dân sự vì đất đai thuộc sở hữu của nhà nước nhưng nhà nước giao cho các cá nhân, tổ chức và giao cho các chủ thể này có quyền năng của chủ sở hữu (có thể là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt). 2.3. Nội dung Nội dung quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia vào quan hệ đó. Quan hệ pháp luật dân sự xác định cho những người tham gia được thực hiện những hành vi nhất định và có các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để bảo đảm thực hiện các hành vi đó. 2.3.1 Quyền dân sự Quyền dân sự là mức độ được phép xử sự mà pháp luật dân sự quy định cho người có quyền được thực hiện và được bảo vệ bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Quyền dân sự được thể hiện dưới ba phương diện sau: - Chủ thể mang quyền có thể tự mình thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định để bảo vệ và hưởng các quyền dân sự. Ví dụ như: chủ thể tự mình thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản để thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của mình. - Có quyền yêu cầu chủ thể phía bên kia phải thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của mình. Ví dụ như: chủ sở hữu, người chiếm 20
- hữu hợp pháp tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình chấm dứt hành vi xâm phạm tới tài sản của họ. - Chủ thể mang quyền khi bị chủ thể khác có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc chủ thể đó chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại. 2.3.2. Nghĩa vụ dân sự: Nghĩa vụ dân sự được hiểu là những xử sự bắt buộc mà luật quy định cho người có nghĩa vụ phải thực hiện. Cách xử sự của người có nghĩa vụ dân sự có thể là: - Người có nghĩa vụ phải thực hiện hành vi hoặc không được thực hiện hành vi nhất định vì lợi ích của người mang quyền. Ví dụ như: người bán tài sản có nghĩa vụ giao hàng hóa cho người mua đúng hợp đồng đã ký kết. - Người mang nghĩa vụ buộc phải gánh chịu một hậu quả pháp lý nhất định theo sự thỏa thuận của các bên hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi họ có hành vi không thực hiện nghĩa vụ xâm hại tới quyền và lợi ích của chủ thể mang quyền. 3. Phân loại quan hệ pháp luật dân sự Quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng và phong phú, đa dạng cả về chủ thể, khách thể, nội dung, cách thức phát sinh Việc phân loại này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt thực tiễn vì nó góp phần hiểu đúng về quan hệ giữa các bên và áp dụng đúng pháp luật nhằm giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra. 3.1. Căn cứ vào khách thể của quan hệ pháp luật dân sự Căn cứ vào khách thể của quan hệ pháp luật dân sự (nhóm điều chỉnh của quan hệ pháp luật dân sự)có thể chia quan hệ pháp luật dân sự thành hai loại: Quan hệ nhân thân: Là các quan hệ dân sự liên quan đến các vấn đề nhân thân và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho người khác trừ trường hợp pháp luật cho phép. Ví dụ: đứng tên tác giả trong một tác phẩm, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, tên gọi . Quan hệ tài sản: Là quan hệ pháp luật dân sự luôn gắn với một tài sản nhất định hoặc việc chuyển dịch một tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Ví dụ như quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng hay quan hệ thừa kế Do đặc trưng của hai loại quan hệ này nên các biện pháp được áp dụng để bảo vệ các quan hệ pháp luật khi có sự vi phạm cũng khác nhau. Khi quan hệ pháp luật dân sự về tài sản bị xâm phạm thì đòi hỏi áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản để bảo vệ quyền tài sản của người bị xâm phạm. Khi quan hệ pháp luật dân sự về nhân thân bị xâm phạm thì chế tài không mang tính chất tài sản mà thường áp dụng các hình thức như buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai 3.2 Căn cứ vào tính xác định của chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ Dựa vào tiêu chí này, quan hệ pháp luật dân sự được chia thành hai loại: - Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối: Trong quan hệ này, chủ thể quyền được xác định, còn các chủ `thể khác đều là chủ thể nghĩa vụ. Nghĩa vụ của các chủ thể nghĩa vụ được biểu hiện là dạng nghĩa vụ không hành động (tức là không thực hiện bất cứ hoạt động nào xâm phạm tới quyền của chủ thể quyền). Thông thường, các loại quyền tuyệt đối được pháp luật ghi nhận mà không phải do các bên thỏa thuận. - Quan hệ pháp luật dân sự tương đối: 21
- Quan hệ pháp luật dân sự tương đối là quan hệ pháp luật xác định cả chủ thể quyền và nghĩa vụ. Trong loại quan hệ này, nội dung quyền và nghĩa vụ thông thường do các bên thỏa thuận dựa trên các quy định của pháp luật. Nội dung các thỏa thuận này các nhà làm luật không thể quy định chi tiết mà chỉ đưa ra các quy định khung để các chủ thể dựa trên đó thỏa thuận. 3.3. Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền dân sự Để thỏa mãn quyền của mình, chủ thể quan hệ pháp luật dân sự có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau, có thể trực tiếp thực hiện quyền, có thể thực hiện quyền thông qua hành vi của chủ thể khác. Dựa trên cơ sở này, quan hệ pháp luật dân sự được phân thành 2 loại: - Quan hệ pháp luật dân sự vật quyền: Đây là quan hệ dân sự mà trong đó quyền của chủ thể bên này được thực hiện thông qua hành vi trực tiếp của chủ thể mang quyền. Ví dụ: chủ sở hữu muốn thỏa mãn quyền của mình sẽ thực hiện hành vi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. - Quan hệ pháp luật dân sự trái quyền: Quan hệ dân sự trái quyền là những quan hệ mà trong đó quyền của chủ thể bên này có được thực hiện hay không hoàn toàn thông qua hành vi mang tính nghĩa vụ của chủ thể bên kia. Ví dụ như: hành vi trả tiền của bên mua đối với bên bán trong quan hệ mua bán thực hiện quyền được nhận khoản tiền mua bán hàng hóa của người bán. 4. Căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự chính là sự kiện pháp lý. 4.1. Khái niệm sự kiện pháp lý Các sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong đời sống thực tế mà đã được pháp luật dự liệu các hậu quả pháp lý nhất định (có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sư Một sự kiện thực tế có thể làm phát sinh thay đổi, chấm dứt nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ như: A đâm chết B, hành vi trái pháp luật của A làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, làm phát sinh quan hệ thừa kế . 4.2. Phân loại Các sự kiện pháp lý được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí. * Dựa vào hậu quả pháp lý có thể phân chia sự kiện pháp lý thành sự kiện làm phát sinh, sự kiện làm thay đổi và sự kiện làm chấm dứt.quan hệ pháp luật dân sự. + Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự: là những sự kiện thực tế do pháp luật quy định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ: A điều khiển xe ô tô gây tai nạn làm cho B bị thương. Hành vi gây tai nạn đó làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của A đối với B. + Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật dân sự: là những sự kiện thực tế do pháp luật quy định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm thay đổi quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ: A ký hợp đồng thuê nhà ở với thời hạn 2 năm với giá 1 triệu đồng. 1 năm sau, A và B thỏa thuận lại hợp đồng thuê nhà với giá 1 triệu rưỡi và thời gian thuê thành 3 năm. Sự thỏa thuận lại giữa A và B là sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật dân sự. 22
- + Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự: là những sự kiện thực tế do pháp luật quy định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. * Dựa trên nguồn gốc phát sinh sự kiện pháp lý sự kiện pháp lý được phân thành 4 loại: hành vi pháp lý, xử sự pháp lý, sự biến pháp lý và thời hạn. Đây là cách phân loại được áp dụng phổ biến nhất. + Hành vi pháp lý là hành vi có ý thức của con người và được pháp luật quy định hậu quả pháp lý. Hành vi pháp lý được chia thành hai loại : Hành vi pháp lý hợp pháp: hành vi có ý thức của con người, diễn ra phù hợp với quy định của pháp luật và được pháp luật quy định hậu quả pháp lý. Ví dụ như hành vi thỏa thuận của các chủ thể trong hợp đồng làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Hành vi pháp lý bất hợp pháp: hành vi có ý thức của con người, diễn ra trái với quy định của pháp luật và được pháp luật quy định hậu quả pháp lý. Ví dụ như hành vi gây thiệt hại tới sức khỏe của cá nhân khác làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự bồi thường thiệt hại. + Xử sự pháp lý được thực hiện bởi hành vi của con người nhưng hành vi đó hướng tới một mục đích nhất định, tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì có hậu quả pháp lý phát sinh. Hậu quả pháp lý này không nằm trong ý thức của chủ thể. Ví dụ như: việc được lợi không có căn cứ pháp luật của chủ thể. + Sự biến pháp lý: sự xuất hiện và diễn biến của sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý thức của con người như mưa, bão, lũ, động đất, sóng thần + Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Sau thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý nhất định. Ví dụ: người bắt được gia súc đi lạc, sau khi đã thông báo công khai 6 tháng mà không ai nhân lại thì người đó có quyền sở hữu gia súc đó. Phần 2: Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự: cá nhân 1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân 1.1. Khái niệm năng lực pháp luật dân sự Cá nhân là nhân là con người cụ thể và đang sống. Cá nhân có hộ tịch rõ ràng, cho phép phân biệt được với cá nhân khác. Mọi cá nhân không nhất thiết đều có quyền và nghĩa vụ giống nhau, dù tất cả các cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Việc xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân lệ thuộc vào kết quả đánh giá năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân đó. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng được hưởng những quyền dân sự và khả năng gánh vác những nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định (Khoản 1 Điều 14 Bộ luật Dân sự) Năng lực pháp luật của cá nhân có từ khi cá nhân được sinh ra và mất đi khi cá nhân chết. Với quy định trên, pháp luật thừa nhận năng lực pháp luật dân sự của cá nhân gắn liền với cá nhân đó suốt đời và không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tuổi tác, tinh thần, tài sản 1.2. Đặc điểm của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân - Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau” (khoản 2 điều 14 Bộ luật dân sự). Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân sẽ không bị hạn chế bởi bất cứ yếu tố nào khác như giai cấp, trình độ, 23
- nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo Mọi cá nhân có điều kiện như nhau đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau. - Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được Nhà nước quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật dân sự. - Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có tính lịch sự, phụ thuộc vào chế độ chính trị, bản chất của nhà nước. - Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không thể bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định cho tất cả cá nhân nhưng Nhà nước không cho phép cá nhân tự hạn chế năng lực pháp luật dân sự của mình cũng như của cá nhân khác. “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không thể bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định”. Điều này được quy định tại Điều 16 Bộ Luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên trong một số trường hợp năng lực pháp luật dân sự của cá nhân bị hạn chế. Đó là các trường hợp như: + Văn bản pháp luật quy định một loại chủ thể nào đó không được phép thực hiện các giao dịch dân sự cụ thể. Ví dụ: người nước ngoài không có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam trừ trường hợp quy định tại Điều 125 Luật nhà ở. + Văn bản quyết định đơn hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ: Quyết định cấm cư trú đối với một người nào đó. Việc hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không phaỉ là tước bỏ năng lực pháp luật dân sự mà chỉ là tạm đình chỉ (mang tính chất tạm thời) khả năng biến quyền khách quan thành quyền chủ quan của chủ thể riêng biệt. Và việc hạn chế năng lực hành vi dân sự được áp dụng đối với một số chủ thể nhất định, trong một số giai đoạn và ở một số địa phương nhất định. - Năng lực pháp luật dân sự có tính bảo đảm: Khả năng có quyền và có nghĩa vụ dân sự chỉ tồn tại là quyền khách quan và do pháp luật quy định cho các chủ thể. Để biến nó thành những quyền dân sự cụ thể cần phải có những điều kiện đảm bảo thực hiện. Đó là cơ sở kinh tế xã hội và hành lang pháp lý thông thoáng, mèm dẻo, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể 1.3 Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân Nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho cá nhân. Nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, vào đường lối chính sách của Nhà nước Cụ thể các quyền dân sự được quy định tài Điều 15 Bộ Luật Dân sự năm 2005, Hiến pháp năm 1992, bao gồm: - Quyền nhân thân: Đây là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định có thể chuyển giao cho người khác. Quyền nhân thân được chia thành hai nhóm: quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định từ Điều 24 đến Điều 51 và các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân được quy định tại Điều 25 Bộ Luật Dân sự năm 2005. Quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định chi tiết trong phần sáu của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. - Quyền thừa kế, quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản Cá nhân được quyền sở hữu tài sản đối với tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Mặc dù vậy, cá nhân không được sở hữu tài 24
- sản mà pháp luật quy định không thể thuộc hình thức sở hữu của cá nhân. Bên cạnh đó, phải thực hiện nguyên tắc chung là việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, tập thể và cá nhân khác. Quyền thừa kế: Cá nhân được quyền để lại di sản thừa kế. Cá nhân có quyền được hưởng di sản thừa kế. Khi hưởng thừa kế, cá nhân phải thực hiện quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản thừa kế. - Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự đó 2. Năng lực hành vi của cá nhân 2.1. Khái niệm năng lực hành vi của cá nhân Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi họ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự bên cạnh năng lực pháp luật vốn là thuộc tích đã được pháp luật ghi nhận. Theo quy định tại điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự” Ta có thể thấy rõ những đặc điểm của năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong sự so sánh với năng lực pháp luật của cá nhân. - Năng lực hành vi dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định dựa trên sự phát triển về độ tuổi cũng như khả năng xác thực và làm chủ hành vi của cá nhân. Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ được thừa nhận cho những cá nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Điều kiện này được quy định trong pháp luật các nước có sự khác biệt. Ví dụ như theo pháp luật Nhật Bản: độ tuổi thành niên là 20 tuổi, theo pháp luật Việt Nam: độ tuổi thành niên là 18 tuổi. - Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là không bình đẳng, các cá nhân khác nhau có Năng lực hành vi dân sự khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong việc phân chia mức độ năng lực hành vi dân sự. - Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định và có thể bị mất hoặc bị hạn chế khi cá nhân còn sống 2.2. Mức độ năng lực hành vi của các nhân Mặc dù pháp luật quy định năng lực pháp luât là như nhau nhưng khi xác định năng lực hành vi thì lại không như nhau. Dựa theo trình độ nhận thức và độ tuổi, pháp luật dân sự chia năng lực hành vi dân sự thành các mức độ: - Năng lực hành vi đầy đủ Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên sẽ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự). Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có đầy đủ tư cách chủ thể, có quyền tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với tư cách chủ thể độc lập, tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Người có năng lực hành vi đầy đủ (từ 18 tuổi trở lên) còn có quyền đăng ký kết hôn (đối với nữ). Người từ 18 tuổi trở lên được suy đoán có đủ năng lực hành vi trừ trường hợp có quyết định của Tòa án về hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. - Năng lực hành vi một phần Người có năng lực hành vi một phần là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Người trong độ tuổi từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi được xem là người có năng lực hành vi dân sự một phần . 25
- Khi người có năng lực hành vi dân sự một phần tham gia vào các giao dịch dân sự đòi hỏi yêu cầu phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ những giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. Ở đây chúng ta lưu ý trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa vụ được xác lập, thực hiện giao dịch và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2005). - Không có năng lực hành vi Người không có năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 6 tuổi. Mọi giao dịch của người này đều phải thông qua người đại diện xác lập và thực hiện. Có sự hạn chế như vậy bởi người ở độ tuổi dưới 6 tuổi chưa thể và chưa đủ khả năng để nhận thức được hành vi của mình. - Mất năng lực hành vi dân sự “Mất” năng lực hành vi dân sự được hiểu là đã có năng lực hành vi dân sự nhưng sau đó, sau một sự kiện nào đó khiến cho người đó không còn có năng lực hành vi nữa. Cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2005) Người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự khi có những điều kiện, với những trình tự, thủ tục nhất định như: phải có kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền (như các bệnh viện ) và Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố dựa trên yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan . Khi bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: mọi giao dịch dân sự của người này đều do người đại diện của xác lập và thực hiện. - Hạn chế năng lực hành vi dân sự Hạn chế năng lực hành vi dân sự tức là đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng sau đó theo quy định của pháp luật sẽ bị hạn chế bớt một phần. Hạn chế năng lực hành vi dân sự được áp dụng đối với người nghiện ma túy và các chất kích thích khác dẫn đến hậu quả phá tán tài sản của gia đình. Năng lực hành vi dân sự của người thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 25 Bộ Luật Dân sự năm 2005. Theo đó, Tòa án có thẩm quyền trực tiếp ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự của người thành niên dựa trên yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Khi đó, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ có người đại diện và Tòa án sẽ quy định phạm vi đại diện. Nếu các giao dịch liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của người đại diện, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người này. Cụ thể hơn, chúng ta có thể xem xét sự khác nhau giữa mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự: 26
- Tiêu chí phân biệt Mất NLHVDS Hạn chế NLHVDS 1. Cơ quan có TAND TAND thẩm quyền ra QĐ 2. Đối tượng bị áp Người bị bệnh tâm thần Người nghiện ma túy, dụng hoặc mắc các bệnh khác mà nghiện các chất kích thích không thể nhận thúc làm chủ khác dẫn đến phá tán tài sản được hành vi của mình (phải có gia đình kết luận của tổ chức giám định về việc cá nhân đó không nhận thức làm chủ được hành vi 3. Người có quyền Người có quyền, lợi ích Người có quyền, lợi ích yêu cầu liên quan liên quan. Cơ quan, tổ chức hữu quan 4. Người đại diên Người đại diện (xác định Người đại diện, phạm theo quan hệ giám hộ). Người vi đại diện do Tòa án quyết đại diện toàn quyền về việc xác định. Giao dịch dân sự liên lập thực hiện giao dịch dân sự quan đến tài sản của người bị và lợi ích của người bị mất năng hạn chế năng lực hành vi dân lực hành vi sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ trường hợp giao dịch nhằm phục vụ đời sống hằng ngày 5. Tình trạng pháp Tình trạng pháp lý giống Tình trạng pháp lý lý như người chưa đủ 6 tuổi giống người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi 3. Giám hộ 3.1. Khái niệm Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước được pháp luật quy định hoặc được cử thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ (Điều 58 Bộ luật dân sự năm 2005). Mục đích của việc giám hộ là nhằm khắc phục tình trạng của người có năng lực pháp luật dân sự nhưng không thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện được quyền và nghĩa vụ của họ vì họ là những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. 3.2. Người được giám hộ Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật dân sự năm 2005 thì những người được giám hộ bao gồm: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha mẹ hoặc 27
- cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và cha mẹ có yêu cầu; 3.3 . Người giám hộ Giám hộ có hai hình thức: giám hộ đương nhiên và giám hộ được cử. Giám hộ đương nhiên: là hình thức giám hộ do pháp luật quy định, người giám hộ đương nhiên chỉ có thể là cá nhân (Điều 61 và Điều 62 Bộ luật dân sự năm 2005; Pháp luật quy định điều kiện của người giám hộ: người đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ. Một người có thể làm giám hộ cho nhiều người. Việc chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên được thực hiện theo các quy định tại các Ðiều 70 và 72 BLDS, cụ thể là: Nếu người chưa thành niên có anh, chị đã thành niên, thì anh, chị cả là giám hộ đương nhiên; nếu anh, chị cả không đủ điều kiện để làm người giám hộ, thì anh, chị tiếp theo là giám hộ đương nhiên; nếu không có anh, chị hoặc anh, chị không đủ điều kiện làm người giám hộ, thì ông, bà nội, ông bà ngoại là giám hộ đương nhiên; Giám hộ cử là hình thức giám hộ theo trình tự do pháp luật quy định. Người giám hộ cử có thể là cá nhân hoặc tổ chức (Điều 63, Điều 64 Bộ luật dân sự năm 2005. Nếu không có giám hộ đương nhiên, thì những n gười thân thích của đương sự cử một người trong số họ làm người giám hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích đủ điều kiện làm người giám hộ, thì họ có thể cử một người khác làm người giám hộ; nếu những người thân thích không cử được người giám hộ, thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (nơi người được giám hộ cư trú) phối hợp với các tổ chức xã hội tại cơ sở cử người giám hộ hoặc đề nghị tổ chức từ thiện đảm nhận việc giám hộ; nếu vẫn không cử được người giám hộ theo cách đó, thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đề nghị cơ quan lao động, thương binh và xã hội nơi cư trú của người được giám hộ đảm nhận trách nhiệm giám hộ. Các giải pháp về cử người giám hộ cho người chưa thành niên thể hiện tính nhân văn rất cao của luật viết Việt Nam hiện hành. Nếu không phải trong trường hợp giám hộ đương nhiên, thì việc giám hộ chỉ có giá trị một khi người giám hộ (được cử) đồng ý nhận nhiệm vụ giám hộ. Việc cử người giám hộ phải được ghi nhận bằng văn bản, được đăng ký và công nhận tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. Người giám hộ đương nhiên không cần có văn bản, cũng không phải đăng ký tư cách giám hộ của mình. 3.4 . Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ Nội dung các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ được quy định tại Điều 65; Điều 66; Điều 67 Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó, quyền của người giám hộ bao gồm: - Người giám hộ có quyền sử dụng và định đoạt các tài sản của người được giám hộ, với điều kiện việc sử dụng và định đoạt đó phải phù hợp với lợi ích của người được giám hộ. Người giám hộ không có quyền tặng cho người khác tài sản của người được giám hộ, cũng không có quyền thay mặt người được giám hộ chấp nhận một di sản không có khả năng thanh toán hay từ chối một di sản có khả năng thanh toán. Người giám hộ chỉ có thể bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ (và có lẽ cả việc bảo lãnh bằng tài sản 28
- của người được giám hộ) một khi có sự đồng ý của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. - Người giám hộ không được xác lập các giao dịch với người được giám hộ liên quan đến tài sản của người sau này. - Người giám hộ có quyền được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ. Nghĩa vụ của người giám hộ là phải bảo vệ quyền, lợi ích của người được giám hộ: người giám hộ có nghĩa vụ quản lý tài sản, giám sát hoặc tự mình thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của người được giám hộ . Người giám hộ phải chăm sóc, giáo dục người được giám hộ nếu người đó là người có năng lực hành vi dân sự một phần; chăm sóc và bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự. Người giám hộ đối với người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục người được giám hộ, trong khi người giám hộ cho người chưa thành niên đủ 15 tuổi không có nghĩa vụ này. Người giám hộ phải quản lý tài sản cho người được giám hộ. Người giám hộ phải quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình, nghĩa là phải tránh làm mất mát, hư hỏng tài sản và bảo đảm sức sinh lợi của tài sản. Người giám hộ đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự mà họ tham gia. Người giám hộ không chỉ nói đồng ý hay không đồng ý để người được giám hộ xác lập giao dịch mà còn phải đại diện cho người sau này trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch đó. 3.5 . Thay đổi và chấm dứt việc giám hộ Theo Bộ luật dân sự năm 2005 Ðiều 70, việc thay đổi người giám hộ có thể được thực hiện trong các trường hợp sau đây: - Cá nhân là người giám hộ không còn có đủ các điều kiện quy định tại Ðiều 69 Bộ luật dân sự; - Cá nhân là người giám hộ chết, bị Toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự; - Có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc người giám hộ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ; - Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác có đủ điều kiện nhận làm giám hộ. Việc thay đổi người giám hộ phải được thực hiện theo thứ tự do luật quy định: người giám hộ đương nhiên được thay thế bằng người giám hộ đương nhiên kế tiếp; việc cử người giám hộ chỉ được thực hiện một khi không có giám hộ đương nhiên, và cũng phải theo trật tự thiết lập tại Ðiều 70 Bộ luật dân sự. Việc chuyển giao việc giám hộ của người giám hộ được cử được quy định tại Ðiều 81 Bộ luật dân sự: phải lập thành văn bản có ghi nhận tình trạng tài sản của người được giám hộ; phải được sự chứng kiến và công nhận của ủy ban nhân dân nơi người giám hộ mới cư trú. 3.6. Chấm dứt việc giám hộ. Việc giám hộ đối với người chưa thành niên chấm dứt trong các trường hợp được dự liệu tại Ðiều 73 Bộ luật dân sự, đặc biệt, khi người được giám hộ đã thành niên, 29
- chết, hoặc khi cha, mẹ của người được giám hộ đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền đại diện theo luật đối với con chưa thành niên của mình. Trong thời hạn 3 tháng kể từ thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ phải thanh toán tài sản với người được giám hộ hoặc với cha, mẹ của người này (Ðiều 73 khoản 1). Trong trường hợp người được giám hộ chết, thì trong thời hạn ba tháng kể từ thời điểm mở thừa kế, người giám hộ phải thanh toán tài sản cho những người thừa kế của người chết; nếu chưa tìm được người thừa kế, thì người giám hộ tiếp tục quản lý tài sản của người chết (như một người quản lý thực tế di sản) cho đến khi tài sản được giải quyết theo các quy định của pháp luật về thừa kế và thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. Việc thanh toán tài sản được thực hiện với sự giám sát của người cử người giám hộ (nếu có) và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. 4. Nơi cư trú của cá nhân: Trong quan niệm truyền thống, đời sống pháp lý của cá nhân nhất thiết phải gắn với một địa điểm nào đó. Luật gọi nơi chốn đó là nơi cư trú. Chế định nơi cư trú là biện pháp định vị cá nhân trong không gian, về phương diện pháp lý. Nơi cư trú phải là một điểm cố định trên lãnh thổ chứ không thể là một điểm di động. Nơi cư trú là nơi cá nhân xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Đó là nơi giữ vai trò địa chỉ liên lạc giữa cá nhân với Nhà nước, cụ thể hơn, với các cơ quan Nhà nước: gửi giấy báo thuế cho người chịu thuế; hội đồng bầu cử gửi thẻ cử tri đến nơi cư trú của cử tri; hội đồng nghĩa vụ quân sự gửi giấy triệu tập để khám sức khoẻ và lệnh gọi nhập ngũ đến nơi cư trú của người phải thi hành nghĩa vụ quân sự; Thông thường, nơi cư trú của cá nhân cũng là nơi đăng ký khai sinh của cá nhân, nơi đăng ký kết hôn, nơi đăng ký khai tử, nơi Tòa án tuyên bố một cá nhân mất tích hay đã chết do vắng mặt tại nơi cư trú trong một thời hạn nhất định, là nơi mở thừa kế khi người đó chết. Mặt khác trong các tranh chấp dân sự, đây cũng là căn cứ để xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Theo Bộ luật dân sự Ðiều 48 khoản 1, nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ khẩu thường trú. Hoặc là nơi người đó đang sinh sống (nếu không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh sống); Đối với người chưa thành niên từ 18 tuổi trở xuống: nơi cư trú là nơi cư trú của cha mẹ hoặc của người giám hộ; là nơi cư trú của người cha/mẹ mà người đó thường xuyên chung sống nếu cha/mẹ có nơi cư trú khác nhau; hoặc cũng có thể là nơi cư trú khác nếu cha/mẹ hoặc người giám hộ đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. 5. Tuyên bố mất tích, tuyên bố chết Trong thực tế, có những trường hợp một số người tham gia vào quan hệ pháp luật mà biệt tích không rõ lý do gây nên tình trạng không ổn định kéo dài cho quan hệ pháp luật dân sự đó và gây ảnh hưởng đến quyền lợi của những người liên quan và nhà nước. Trên cơ sở cần bảo vệ quyền lợi của những chủ thể liên quan, pháp luật dân sự quy định chế định: tuyên bố mất tích và tuyên bố chết. 5.1. Cá nhân mất tích - Mất tích là sự thừa nhận của Toà án về tình trạng biệt tích của một cá nhân trên cơ sở có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Không chắc chắn về số phận của đương sự, đó là nét đặc trưng của tình trạng mất tích. 30
- - Điều kiện được coi là mất tích: người đã biệt tích khỏi nơi cư trú từ hai năm liên tục trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Vậy có nghĩa rằng tình trạng mất tích chỉ được xác nhận về phương diện pháp lý sau khi tình trạng vắng mặt đã được xác nhận do hiệu lực của việc thực hiện các biện pháp thông báo, tìm kiếm của Toà án. Và việc xác nhận mất tích không đương nhiên mà phải trên cơ sở có đơn yêu cầu và có đủ các điều kiện để xác nhận theo quy định của luật, đặc biệt là điều kiện về thời gian biệt tích liên tục. Người yêu cầu tuyên bố mất tích phải là người có quyền và lợi ích liên quan. Một khi các chứng cứ về tình trạng mất tích được chấp nhận, Toà án ra quyết định tuyên bố mất tích. Quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực ngay lập tức và không thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Về quan hệ nhân thân: việc một người bị tuyên bố mất tích làm phát sinh các hệ quả: nếu người này có vợ hoặc chồng và con chưa thành niên, thì con chưa thành niên được đặt dưới sự chăm sóc của vợ hoặc chồng; nếu con chưa thành niên không còn cha hoặc mẹ bên cạnh, thì chế độ giám hộ được áp dụng Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích có thể xin ly hôn vì lý do mất tích của người này. Về việc quản lý tài sản: Ðối với tài sản chung, thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý - Tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý, thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý. - Nếu không có người được quy định như trên, thì Toà án chỉ định một người trong số người thân thích quản lý tài sản của người vắng mặt; nếu không có người thân thích, thì Toà án chỉ định một người khác quản lý tài sản - Huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích, theo yêu cầu của người đó hoặc của bất kỳ người nào có quyền và lơi ích liên quan (Ðiều 90 khoản 1). Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao, sau khi đã thanh toán chi phí quản lý (Ðiều 90 khoản 2). Nhưng trong trường hợp vợ hoặc chồng của người mất tích đã ly hôn theo một bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, thì quan hệ hôn nhân vẫn không thể được khôi phục: nếu muốn thiết lập lại quan hệ đó, hai người phải tiến hành lại thủ tục kết hôn. 5. 2. Tuyên bố chết - Tuyên bố chết là sự thừa nhận của Toà án về cái chết đối với một cá nhân khi cá nhân đó đã biệt tích trong thời hạn theo luật định trên cơ sở đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. - Điều kiện cá nhân bị tuyên bố chết: Cá nhân có thể bị tuyên bố là đã chết bằng một quyết định của Toà án, theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, trong những trường hợp sau đây (Bộ luật dân sự Ðiều 81 khoản 1): + Sau ba năm, kể từ ngày có quyết định tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức là còn sống; 31
- + Mất tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà không có tin tức là còn sống; + Bị tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt mà vẫn không có tin tức là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về thời hạn; + Biệt tích đã năm năm và không có tin tức là còn sống hoặc đã chết; thời hạn năm năm được tính theo quy định tại khoản 1 Ðiều 78 Bộ luật dân sự; Trên cơ sở có quyết định tuyên bố là đã chết, người có quyền và lợi ích liên quan phải tiến hành đăng ký khai tử cho người bị tuyên bố là đã chết tại cơ quan hộ tịch. - Hiệu lực của quyết định tuyên bố là đã chết. Người bị tuyên bố là đã chết coi như là người chết (Ðiều 82): quan hệ hôn nhân chấm dứt; con chưa thành niên của người này, nếu không còn cha và mẹ sẽ được giám hộ; các tài sản của người này được chuyển giao cho người thừa kế theo các quy định của pháp luật về thừa kế. Ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết do Toà án xác định tuỳ theo trường hợp (Điều 81 khoản 3); nếu không xác định được ngày đó, thì ngày mà quyết định của Toà án tuyên bố người đó là đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết. - Huỷ bỏ quyết định tuyên bố là đã chết: Trong trường hợp người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, thì Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, theo yêu cầu của người đó hoặc người có quyền và lợi ích liên quan (Ðiều 83 khoản 1) Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người thừa kế trả lại tài sản hiện còn (Ðiều 83 khoản 3). Trong trường hợp người thừa kế của người chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế, thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận; nếu gây thiệt hại, thì phải bồi thường (cùng điều luật). Quyền lợi của người thứ ba giao dịch với người thừa kế được xác định tuỳ theo người thứ ba ngay tình hoặc không ngay tình. Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác, thì hôn nhân sau vẫn có hiệu lực pháp luật sau khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố là đã chết. Các quan hệ khác về nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống được khôi phục. Ðiều đó có nghĩa rằng nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống chưa kết hôn với người khác, thì quan hệ hôn nhân giữa hai người được lập lại sau khi có quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố là đã chết Phần 3: Pháp nhân – Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự 1. Khái niệm Cùng một mục đích hoặc quan tâm đến cùng một quyền lợi, các cá nhân liên kết với nhau và tạo thành một nhóm người có tổ chức để thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ tổ chức đó, nhằm đạt đến mục đích chung hoặc bảo vệ quyền lợi chung. Tuy nhiên có một vấn đề khó khăn là các quy tắc liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân không đủ để chi phối các quan hệ phát sinh từ sự hình thành các nhóm cá nhân có tổ chức. Khi giữa lợi ích riêng và lợi ích chung có sự mâu thuẫn thì cá nhân luôn có thiên hướng hy sinh lợi ích chung để bảo vệ lợi ích riêng. Mặt khác, thời gian tồn tại của nhóm sẽ không dài thời gian tồn tại của cá nhân, trong khi người giao dịch với nhóm có thể còn sống sau khi tất cả các thành viên trong nhóm đều chết. 32
- Ðể bảo vệ tốt lợi ích chung của nhóm cũng như lợi ích của người thứ ba có quan hệ với nhóm, cần công nhận sự tồn tại độc lập của nhóm so với cá nhân. Pháp luật đã đáp ứng yêu cầu đó bằng cách thừa nhận cho nhóm có tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật. Nhóm được coi như có nhân thân của riêng mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Do được nhân cách hoá, nhóm có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Một con người trừu tượng, nhóm thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể được bố trí vào các cơ quan của nhóm, gọi là các cơ quan quản trị, điều hành và kiểm soát hoạt động của nhóm. Pháp luật gọi những nhóm như thế là những pháp nhân. Khái niệm pháp nhân ra đời với mục tiêu là để phân biệt với cá nhân (nó có ý nghĩa về mặt lý luận. Chính vì lẽ đó, khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, Pháp nhân là chủ thể của quan hệ nhưng có tên gọi là pháp nhân Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp và có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập (theo Điều 84 Bộ luật dân sự). 2. Các điều kiện của pháp nhân Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 pháp nhân là một chủ thể của quan hệ pháp luật và định nghĩa pháp nhân như là một tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, và nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập (Bộ luật dân sự Ðiều 84). Theo định nghĩa đó, luật thừa nhận tư cách pháp nhân của những tổ chức sau đây: cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức kinh tế; tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp; quỹ xã hội, quỹ từ thiện; các tổ chức khác có đủ các điều kiện ghi nhận tại định nghĩa nêu trên Các điều kiện của pháp nhân là các dấu hiệu mà khi các tổ chức đáp ứng đầy đủ thì được công nhận là pháp nhân. Bao gồm. - Phải là một tổ chức và được thành lập một cách hợp pháp Hợp pháp được hiểu là có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập theo thủ tục luật định. Các hình thức được cho là hợp pháp (tức là được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập) bao gồm: + Cơ quan nhà nước thành lập; + Cơ quan nhà nước cho phép thành lập; + Cơ quan nhà nước công nhận thành lập; + Cơ quan nhà nước đăng ký thành lập; - Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ Tổ chức là một tập thể người được sắp xếp dưới một hình thái nào đó (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần, bệnh viện ) phù hợp với chức năng, lĩnh vực hoạt động và phải đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của loại hình tổ chức đó. Sự độc lập về mặt tổ chức của pháp nhân còn thể hiện ở chỗ là pháp nhân không bị chi phối bởi các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự (kể cả kinh tế, lao động ). Ngòai ra sự tồn tại của pháp nhân không bị phụ thuộc vào sự thay đổi trong thành viên của pháp nhân. 33
- - Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó Tài sản độc lập chính là tài sản của pháp nhân, tức là pháp nhân là chủ sở hữu và có đầy đủ quyền năng của chủ sở hữu. Tài sản của pháp nhân hòan toàn độc lập với tài sản của các thành viên của pháp nhân mặc dù tài sản của pháp nhân có thể hình thành từ nguồn tài sản riêng của các thành viên pháp nhân. Tài sản này bao gồm: Tài sản riêng của pháp nhân và các tài sản được Nhà nước giao cho hoặc các tài sản mà pháp nhân được tặng cho. Biểu hiện của tài sản pháp nhân bao gồm: vốn, các tư liệu sản xuất, các tài sản khác Pháp nhân phải chịu trách nhiệm trên cơ sở tài sản riêng độc lập của mình có nghĩa là khi có nghĩa vụ tài sản pháp nhân phải tự mình thực hiện chứ không thể yêu cầu cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý hay bất kỳ chủ thể nào khác thực hiện thay mình trừ khi có sự đồng ý tự nguyện của các chủ thể khác. Pháp nhân cũng không thể buộc các thành viên của pháp nhân chịu trách nhiệm tài sản thay mình trừ khi có thỏa thuận khác. - Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trước Tòa án Pháp nhân tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với đầy đủ quyền và nghĩa vụ phải thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật và điều lệ của pháp nhân. Khi pháp nhân không chịu thực hiện nghĩa vụ của mình thì có thể trở thành bị đơn trước tòa cũng như khi pháp nhân bị chủ thể khác xâm phạm đến lợi ích thì hòan toàn có quyền gửi đơn tới Tòa án. Lúc này pháp nhân sẽ có tư cách là nguyên đơn. Khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự, pháp nhân có các quyền dân sự, trong đó có quyền bảo vệ lợi ích riêng. Ví dụ như quyền kiện để yêu cầu bảo vệ lợi ích của riêng mình, trong lĩnh vực tài sản (đòi nợ hội phí, đòi lại tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật, đòi bồi thường thiệt hại vật chất, ). Quyền kiện cáo để yêu cầu bảo vệ lợi ích riêng được thừa nhận cho tất cả các loại pháp nhân. Pháp nhân cũng có thể kiện cáo để yêu cầu bảo vệ lợi ích chung. Thông thường, quyền kiện cáo đòi bảo vệ lợi ích chung được luật chính thức thừa nhận cho một số pháp nhân là tổ chức xã hội hoặc một cơ quan Nhà nước đảm trách một hoặc nhiều mặt công tác xã hội. Ví dụ, Uỷ ban chăm sóc và bảo vệ trẻ em có thể kiện yêu cầu cấm bán thuốc lá cho trẻ em. 3. Phân loại pháp nhân Việc phân loại pháp nhân dựa trên các đặc tính của riêng biệt của pháp nhân. Người ta phân chia ra làm 4 loại pháp nhân: - Các pháp nhân là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang Là những pháp nhân được giao tài sản để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, các hoạt động khác trong lĩnh vực quản lý, điều hành xã hội vì lợi ích công cộng không nhằm mục đích kinh doanh. Cơ quan này hoạt động dựa vào nguồn kinh phí nhà nước cấp và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi kinh phí đó. Ví dụ: Bộ tư pháp, bệnh viện, các trường học - Các pháp nhân là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp Các pháp nhân này được thành lập vì mục đích xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự thì các tổ chức này phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Ví dụ: Tổ chức chính trị: Đảng cộng sản Việt Nam; tổ chức chính trị xã hội: Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội liên hiệp thanh niên, Hội cựu chiến binh 34
- - Các pháp nhân là các tổ chức kinh tế Loại pháp nhân này phổ biến trong xã hội, biểu hiện là các doanh nghiệp nhà nước, các công ty, các hợp tác xã. Các pháp nhân này hoạt động vì mục đích kinh tế và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. - Các pháp nhân là tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện Pháp nhân này cũng hoạt động với mục đích được quy định trong Điều lệ của pháp nhân và không trái với các quy định của pháp luật. Tài sản của pháp nhân dạng này được hình thành từ sự đóng góp của các thành viên và các nguồn tài trợ khác phù hợp với điều lệ và quy định của pháp luật. Nếu pháp nhân này không còn hoạt động thì tài sản của pháp nhân không được phân chia cho các thành viên mà giải quyết theo quy định trong Điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (bởi vì nó bị chi phối bởi mục đích hoạt động của pháp nhân). 4. Năng lực chủ thể của pháp nhân 4.1. Năng lực pháp luật của pháp nhân Năng lực pháp luật của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình. Pháp nhân có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phát sinh. Khác với năng lực pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của pháp nhân do luật xác định về nội dung, phù hợp với đặc điểm của từng loại pháp nhân, thậm chí với từng pháp nhân. Chắc chắn, pháp nhân không thể có các quyền và nghĩa vụ đặc thù của cá nhân, như quyền kết hôn, quyền nhận cha, mẹ cho con, quyền nuôi con nuôi Mỗi pháp nhân có những mục đích xác định để theo đuổi và, do đó, có khả năng có những quyền và nghĩa vụ giới hạn bởi chính các mục đích đó. Ví dụ: Sở tư pháp không có năng lực giao kết hợp đồng mua bán nông sản hàng hoá, do không có tư cách thương nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn không có năng lực phát hành cổ phiếu; Mục đích của các pháp nhân được xác định trong điều lệ của pháp nhân. Bởi vậy, khi giao dịch với pháp nhân loại này, người thứ ba, muốn tránh khả năng giao dịch bị tuyên bố vô hiệu do không phù hợp với mục đích của pháp nhân đối tác, nên tham khảo điều lệ của pháp nhân trước khi quyết định nên hay không nên tiến hành giao kết. Cần lưu ý rằng người thứ ba luôn ở trong tình trạng buộc phải biết nội dung điều lệ của pháp nhân tư pháp, bởi trong mọi trường hợp, điều lệ này luôn được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nghĩa là được công bố cho tất cả mọi người. 4.2. Năng lực hành vi của pháp nhân. Pháp nhân không có năng lực hành vi thực. Pháp nhân, dù được nhân cách hoá, không phải là con người cụ thể và do đó, không thể tự mình xử sự. Ngay cả các cơ quan của pháp nhân cũng chỉ vận hành thông qua vai trò của những cá nhân cụ thể đảm nhận các chức vụ cụ thể. Pháp nhân luôn phải được đại diện, từ khi được thành lập cho đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực hành vi của pháp nhân thực ra là năng lực hành vi mà pháp nhân vay mượn của những con người mà pháp nhân hoá thân vào. 5. Hoạt động của pháp nhân Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự thì pháp nhân phải thông qua hoạt động của mình (phân biệt với hoạt động bên trong là các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý cán bộ, lao động ) mà là các hoạt động bên ngoài với các chủ thể khác. 35
- Hoạt động của pháp nhân thì thông qua hành vi của người đại diện cho pháp nhân hoặc các thành viên khác của pháp nhân. Người đại diện cho pháp nhân bao gồm người đại diện đương nhiên hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. + Người đại diện đương nhiên: Được hiểu là người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Đ141 Bộ luật dân sự 2005). + Người đại diện theo ủy quyền: là người mà được người đại diện đương nhiên ủy quyền lại, được nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi nằm trong phạm vi ủy quyền. Việc ủy quyền phải được thực hiện bằng văn bản. Hành vi của thành viên pháp nhân: Thành viên pháp nhân khi thực hiện những nghĩa vụ lao động dựa trên hợp đồng lao động thì cũng được coi là hành vi của pháp nhân chứ không phải hành vi của cá nhân và nó sẽ tạo nên quyền và nghĩa vụ của pháp nhân (trong khuôn khổ nhiệm vụ được giao) 6. Các yếu tố lý lịch của pháp nhân Lý lịch của pháp nhân là tổng hợp các sự kiện pháp lý để cá biệt hóa pháp nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Những yếu tố lý lịch của pháp nhân được xác định trong điều lệ của pháp nhân hay quyết định thành lập pháp nhân. Những yếu tố này bao gồm: - Tên của pháp nhân. Pháp nhân phải có tên gọi riêng và phải sử dụng tên gọi của mình trong các giao dịch. Tên gọi của pháp nhân trong luật Việt Nam phải bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt với các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động (Bộ luật dân sự Ðiều 87 khoản 1), ví dụ: công ty cổ phần Bảo Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu, Pháp nhân có thể sử dụng tên gọi tắt hoặc tên gọi bằng tiếng nước ngoài trong các hoạt động trao đổi thông tin hoặc trong quan hệ giao tế. Tên gọi của pháp nhân hoạt động thương mại (tên thương mại) là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Tên thương mại có giá trị tài sản, có thể được chuyển nhượng và được bảo hộ theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, việc lựa chọn tên gọi của pháp nhân thương mại không tự do như việc đặt tên cho một cá nhân. - Trụ sở của pháp nhân. Pháp nhân có trụ sở tại nơi đặt cơ quan điều hành của mình (Bộ luật dân sư Ðiều 90), dù có thể toàn bộ hoặc một phần lớn hoạt động của pháp nhân được thực hiện ở nơi khác. Trụ sở của pháp nhân, trong chừng mực nào đó, mang ý nghĩa đối với pháp nhận (và đối với người giao dịch với pháp nhân) như nơi cư trú của cá nhân: nếu pháp nhân là bị đơn trong một vụ tranh chấp liên quan đến động sản, thì Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, trên nguyên tắc, là Toà án nơi có trụ sở của pháp nhân Pháp nhân có thể chọn nơi khác làm địa chỉ liên lạc. Ngoài ra pháp nhân có thể có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh. Văn phòng đại diện không phải là pháp nhân mà chỉ là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ lợi ích đó. 36
- Chi nhánh của pháp nhân là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. - Quốc tịch của pháp nhân. Cũng như cá nhân, pháp nhân có quốc tịch riêng. Tất cả các pháp nhân được thành lập tại Việt Nam đều là pháp nhân Việt Nam. Các pháp nhân tư pháp có trụ sở tại Việt Nam, trên nguyên tắc cũng là pháp nhân Việt Nam. Việc xác định quốc tịch pháp nhân có ý nghĩa trong việc xác định pháp luật chi phối tới hoạt động của pháp nhân. 7. Thành lập và chấm dứt pháp nhân 7.1. Thành lập pháp nhân Trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay, mỗi loại pháp nhân được pháp luật quy định cho một trình tự, thủ tục thành lập riêng, trình tự thủ tục thành lập doanh nghiệp nhà nước được quy định trong Luật doanh nghiệp nhà nước, trình từ thủ tục thành lập hợp tác xã được quy định trong Luật Hơp tác xã. Các trình tự thành lập pháp nhân có thể chia thành 3 loại. a. Trình tự mệnh lệnh. Theo trình tự này, pháp nhân được thành lập trên cơ sở một văn bản, một quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Pháp nhân là các cơ quan nhà nước như doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp v.v được thành lập theo trình tự này. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập pháp nhân một số quyền và nghĩa vụ cụ thể, còn giao cho nó một số tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó. b. Trình tự cho phép. Theo trình tự này, pháp nhân được lập ra do sang kiến của các hội viên hoặc các tổ chức, điều lệ hội viên, dự thảo và thông qua điều lệ v.v của pháp nhân dự định thành lập trong tương lai, sau đó cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của nó rồi ra quyết định cho phép thành lập, trình tự này được sử dụng để thành lập pháp nhân các tổ chức xã hội nghề nghiệp, đoàn thể xã hội. c. Trình tự phê chuẩn. Trình tự này lập ra pháp nhân là hợp tác xã các loại. Theo trình tự này các điều lệ mẫu về một loại pháp nhân nhất định đã được Chỉnh phủ quy định. Trên cơ sở điều lệ mẫu, pháp nhân dự định thành lập chuẩn bị điều lệ riêng của mình rồi đề nghị cấp có thẩm quyền kiểm tra các điều kiện cần thiết của tổ chức này để ra quyết định công nhận các pháp nhân của nó. Theo Luật Hợp tác xã, hợp tác xã có tư các pháp nhân kể từ ngày được cấp giất chứng nhận đăng ký kinh doanh. 7.2. Chấm dứt pháp nhân Khi chấm dứt pháp nhân sẽ làm phát sinh hậu quả pháp là chấm dứt năng lực pháp luật dân sự và hoạt động của pháp nhân. Điều 108 Bộ Luật Dân sự quy định pháp nhân có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Theo quyết định cơ quan có thẩm quyền của pháp nhân đã được điều lệ của pháp nhân quy định. Theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Khi pháp nhân có những hoạt động trái pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật khác thì có thể bị giải thể. Việc giải thể pháp nhân 37
- trong trường hợp này thực hiện theo nguyên tắc cơ quan nào quyết định thành lập pháp nhân thì cơ quan đó có quyền giải thể pháp nhân. Đây là hình thức hiair thể băt buộc pháp nhân. Hết thời hạn hoạt động được ghi trong điều lệ hoặc trong quyết định của cơ quan Nhà nước co thẩm quyền về thành lập pháp nhân. Bị tuyên bố phá sản: Chấm dứt pháp nhân theo trình tự này chỉ áp dụng đồi với pháp nhân là doanh nghiệp bằng hình thức tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Hợp nhất pháp nhân là trường hợp hai hay nhiều pháp nhân lien kết thành một pháp nhân hoàn toàn mới mà trong đó các pháp nhân cũ chấm dứt sự tồn tại nhưng các quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho pháp nhân mới. Bộ Luật Dân sự quy định: “Các pháp nhân cùng loại có thể hợp nhất với nhau thành một pháp nhân mới theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc theo thỏa thuận của các pháp nhân đó” Sát nhập pháp nhân là việc một pháp nhân sát nhập vào một pháp nhân khác theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc theo thỏa thuận của các pháp nhân đó mà pháp nhân dược sát nhập chấm dứt sự tồn tại, các quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho pháp nhân sát nhập. Chia pháp nhân là trường hợp một pháp nhân chia ra thành hai hoặc nhiều pháp nhân riêng rẽ, độc lập mà trong đó pháp nhân bị chia chấm dứt sự tồn tại, các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân này được chuyển giao cho các pháp nhân mới được chia ra. Tách pháp nhân là việc tách một số chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân đang tồn tại để giao cho một hoặc một số pháp nhân mới đảm nhiệm. Khác các trường hợp cải tổ pháp nhân trên, khi tách pháp nhân bị tách vẫn tồn tại, chỉ một số quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho các pháp nhân mới được tách ra. Việc hợp nhất, chia, tách pháp nhân được thực hiện theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền của pháp nhân đã được điều lệ pháp nhân quy định. Phần 4: Các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự 1. Nhà nước- chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sụ Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước là chủ thể đặc biệt bởi nó cũng tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự nhưng nó có những đặc thù riêng mà không giống như bất cứ một chủ thể nào khác, chính vì thế mà nó trở thành chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự nói riêng và các quan hệ pháp luật khác: Nhà nước là chủ thể mà nắm quyền lãnh đạo thống nhất trên tất cả các mặt như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc chế độ sở hữu toàn dân. Mặt khác Nhà nước tự quy định các quyền cho mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cũng như cách thức thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Nhà nước là chủ thể của tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam Nhà nước chuyển giao quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền quản lý tài sản, giao cho các chủ thể khác (cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân ) thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Đồng thời Nhà nước cũng là chủ sở hữu đối với các tài sản vô chủ, tài sản không có người thừa kế, tài sản bị trưng thu, trưng mua. 38