Y khoa - Chương II: Nhận thức về khuyết tật

pdf 24 trang vanle 2070
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Y khoa - Chương II: Nhận thức về khuyết tật", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfy_khoa_chuong_ii_nhan_thuc_ve_khuyet_tat.pdf

Nội dung text: Y khoa - Chương II: Nhận thức về khuyết tật

  1. Chương II: Nhận thức về khuyết tật Bên cạnh những quan niệm, hiểu biết về khuyết tật, cách thức phòng ngừa, phục hồi chức năng và hỗ trợ NKT, nhận thức cũng bao gồm sự hiểu biết và chia sẻ trách nhiệm của các cá nhân và cộng đồng trong việc tạo cơ hội bình đẳng và môi trường tiếp cận được cho NKT. Nhận thức đúng được thể hiện ra ngoài qua lời nói, hành động, thái độ cư xử phù hợp với NKT. Hiểu biết về những khó khăn, nhu cầu của NKT và khả năng của họ sẽ giúp các thành viên trong gia đình NKT và mọi người xung quanh có thể cư xử phù hợp và biết cách giúp đỡ NKT. Nhận thức về khuyết tật bao gồm n Khái niệm thế nào là khuyết tật, những nguyên nhân gây nên khuyết tật, các hậu quả của khuyết tật và cách thức phục hồi chức năng, cách hỗ trợ NKT/TKT n Hiểu biết về nhu cầu, quyền lợi và khả năng, trách nhiệm và sự tham gia của cộng đồng NKT/ TKT vào đời sống xã hội. n Nhận thức về trách nhiệm và sự tham gia của mọi cá nhân và tổ chức trong cộng đồng nhằm tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận cho NKT/TKT. Cơ hội cho NKT/TKT được hiểu là mọi cơ hội: học hành, tiếp cận mọi hình thức giáo dục phù hợp ; tiếp cận việc làm : học nghề, vay vốn, sản xuất; tham gia mọi hoạt động chung của cộng đồng : giao thông đi lại, thể thao, giải trí Tình trạng khuyết tật/khuyết tật đôi khi do hậu quả của thái độ và cách ứng xử không đúng của cộng đồng. Những khó khăn trong việc thực hiện chức năng của NKT/TKT không hẳn chỉ do những hạn chế do đặc điểm khuyết tật đem lại mà con do môi trường sống, làm việc và sinh hoạt của cộng đồng không đáp ứng đủ những điều kiện thích nghi để NKT/NKT có thể thực hiện được các công việc của mình. tại sao phải tăng cường nhận thức cho mọi người về vấn đề khuyết tật? n Thứ nhất: bản thân NKT có thể chưa nhận thức đầy đủ về nhu cầu khả năng và năng lực của bản thân, về quyền và vị trí của họ trong đời sống xã hội. Do vậy, họ thường bị mặc cảm, hay đứng bên ngoài các hoạt động Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 21
  2. của gia đình và cộng đồng. NKT có thể cho mình là gánh nặng, là đối tượng đáng được gia đình và xã hội quan tâm. Từ nhận thức đó, NKT thiếu cố gắng, nhụt chí, cam chịu với khuyết tật của mình. Nếu nhận thức đúng về năng lực của bản thân, NKT sẽ tham gia tích cực hơn vào mọi hoạt động của gia đình, cộng đồng và xã hội. NKT sẽ chủ động vượt qua những khó khăn do khuyết tật, những trở ngại về tâm lý, và rào cản nhận thức của cộng đồng, chứng tỏ cho mọi người thấy khả năng của mình. Chính thành công của NKT trong quá trình vượt khó là bài học, là kinh nghiệm, là sự động viên để những NKT khác và mọi người trong cộng đồng thay đổi cách nhìn về NKT. n Thứ hai: Từ phía cộng đồng, nếu nhận thức đúng về khuyết tật, về khả năng của NKT, về vai trò và trách nhiệm của các thành viên cộng đồng, họ sẽ tích cực hỗ trợ NKT thông qua các hoạt động của chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, các hoạt động bảo trợ NKT. Cộng đồng có nhận thức đúng về NKT nghĩa là không giúp đỡ họ quá mức nếu không cần. Thậm chí, NKT có thể giúp đỡ người khác không bị khuyết tật nếu họ có khả năng. Nhận thức đúng của NKT và cộng đồng là tạo được mối quan hệ bình đẳng, giúp đỡ hỗ trợ nhau khi cần thiết. 22 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  3. Làm thế nào để tăng cường nhận thức của các thành viên cộng đồng về khuyết tật? Mỗi đối tượng trong cộng đồng có và cần có những nhận thức khác nhau về vấn đề khuyết tật và trách nhiệm đối với NKT và các hoạt động phục hồi chức năng. Do vậy, bảng dưới đây sẽ trình bày các cách thức thay đổi nhận thức cho các đối tượng khác nhau của cộng đồng. Nhóm đối tượng Cần nhận thức về các vấn đề sau Cách thay đổi nhận thức Người khuyết l Về nhu cầu và khả năng của họ l Học tập để nâng cao trình độ tật trong sinh hoạt hàng ngày, sinh học vấn hoạt cộng đồng và tham gia các l Tham dự tập huấn, hội thảo để hoạt động xã hội thay đổi nhận thức l Về quyền của NKT tham gia bình l Cơ hội tham gia trao đổi, họp đẳng mọi hoạt động trong gia hành ở thôn xóm của tổ chức xã đình, cộng đồng và xã hội. hội (phụ nữ, thanh niên ) l Nhậnthức đúng đắn của NKT đối l Gặp gỡ, tuyên truyền của cộng tác với vấn đề khuyết tật của bản viên và các cá nhân của cộng đồng. thân, sự nỗ lực vượt qua các trở l Phát tờ rơi, tài liệu sách báo ngại hoà nhập cộng đồng. tuyên truyền. l Vai trò và sự tham gia của họ l Băng rôn, báo tường, khẩu hiệu, trong chương trình PHCNDVCĐ phát thanh l Tham gia trong nhóm tự lực của NKT l Giao lưu, liên kết với các mô hình tích cực Gia đình Về vai trò và sự tham gia của gia Tham dự tập huấn, hội thảo để thay người khuyết tật đình trong hỗ trợ NKT/ TKT tại nhà đổi nhận thức Về vai trò và sự tham gia của gia Trao đổi, họp hành ở thôn xóm của đình trong hoạt động khác về tổ chức xã hội (phụ nữ, thanh niên ) PHCNDVCĐ l Phát tờ rơi, tài liệu sách báo l Về thái độ, cách cư xử của gia đình tuyên truyền. đối với NKT và cách hỗ trợ. l Băng rôn, báo tường, khẩu hiệu, l Cách tạo môi trường thích nghi phát thanh cho TKT/Học tập để nâng cao l Tham gia nhóm cha mẹ của TKT trình độ học vấn để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm l Tham quan các mô hình tích cực Cộng tác viên, l Nhận thức về vai trò và trách l Qua tập huấn, hội thảo cán bộ nhiệm của họ trong chương trình l Phân phát tài liệu tuyên truyền, PHCNDVCĐ PHCNDVCĐ hướng dẫn kỹ thuật l Thái độ và cư xử của họ đối với l Thảo luận nhóm cộng tác viên, NKT và gia đình NKT trao đổi kinh nghiệm l Các kiến thức, kỹ năng và thông l Tham quan trao đổi kinh nghiệm tin liên quan đến việc chăm sóc, giữa các địa phương hỗ trợ và PHCN cho NKT/TKT l Chia xẻ kinh nghiệm của các cá nhân l Tham quan các mô hình tích cực Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 23
  4. (tiếp theo) Nhóm đối tượng Cần nhận thức về các vấn đề sau Cách thay đổi nhận thức Thành viên Ban l Về vai trò, trách nhiệm của họ để l Để đại diện Hội NKT tham gia Điều hành PHCN tạo ra môi trường hỗ trợ cho NKT Ban Điều hành DVCĐ các cấp l Về trách nhiệm và sự tham gia của l Tham dự tập huấn, các cuộc họ vào các hoạt động PHCNDVCĐ. họp, hội thảo về chương trình Huy động và lôi kéo mọi nguồn PHCNDVCĐ và về NKT lực trong cộng đồng cho chương l Tham quan chương trình nơi khác trình PHCNDVĐ và vì NKT. l Qua phương tiện thông tin đại chúng Cộng đồng l Về vai trò NKT trong đời sống, l Chương trình giáo dục và học vấn gia đình và trong xã hội phổ thông l Về vai trò sự tham gia của cộng l Tham dự các cuộc họp, cuộc gặp đồng trong việc tạo cơ hội cho mặt phổ biến về chương trình NKT khẳng định bản thân, giúp PHCNDVCĐ và về NKT NKT hoà nhập xã hội. Qua các hoạt động thể thao, vui l ý nghĩa và tầm quan trong của chơi, giải trí của NKT/TKT việc nhìn nhận NKT như một l Tham quan, học hỏi các mô hình thành viên bình đẳng của cộng tích cực đồng l Qua phương tiện thông tin đại chúng Lãnh đạo cộng Về vai trò, trách nhiệm của họ trong l Qua hội thảo đồng việc tạo cơ hội cho NKT khẳng định l Tham quan các đơn vị khác bản thân, giúp NKT hoà nhập xã hội. l Tham quan các mô hình tích cực Về vai trò, trách nhiệm và sự tham l Qua phương tiện thông tin gia của họ vào các hoạt động đại chúng PHCNDVCĐ. Lôi kéo cộng đồng tham gia. Huy động và lôi kéo mọi nguồn lực và sự tham gia trong cộng đồng cho chương trình PHCNDVĐ và vì NKT. Tóm lại để nâng cao nhận thức của các đối tượng khác nhau trong cộng đồng về nhu cầu, quyền và khả năng của NKT và về chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cần có chương trình hành động và các biện pháp phối hợp. Mọi thành viên cộng đồng cần được cung cấp thông tin giúp họ hiểu được vai trò của mình trong việc tạo môi trường thuậnlợi để NKT/TKT phát huy hết được tiềm năng của mình. 1. Quyền của người khuyết tật Tất cả mọi người sinh sống ở mọi quốc gia đều được hưởng những quyền cơ bản: quyền con người, quyền trẻ em. Các bộ luật, chính sách về NKT của mọi quốc gia phải được xây dựng trên nền tảng của các luật cơ bản nêu trên. Khi nói đến quyền của NKT là nói đến quyền được tham gia và được có các cơ hội bình đẳng của họ. Xã hội, cộng đồng phải có trách nhiệm để NKT/ TKT được hưởng quyền của họ. 24 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  5. 1.1 Quyền con người Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người (1948) có nêu: mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính. Mọi người, cho dù là NKT và không khuyết tật đều có quyền bình đẳng như nhau. Quyền cơ bản của con người được chia thành hai mức độ: ở mức cá nhân và mức xã hội. Mọi quyền cơ bản ấy được nêu trong bảng dưới đây: Quyền con người cơ bản Cá nhân Xã hội Quyền được sống và được Quyền có cái ăn, mặc ở và được Quyền thân thể nguyên vẹn thân thể chăm sóc y tế Quyền tham gia phong trào Quyền chính trị Quyền xác định bản thân chính trị Quyền tự do đi lại và sinh sống Quyền được sống ở bất kỳ đất Quyền đi lại nơi nào tuỳ thích nước nào Hội họp và tham gia bất kỳ tổ Quyền xã hội Quyền hoà nhập xã hội chức nào Quyền có điều kiện làm việc tốt Quyền kinh tế Quyền được làm việc và lương xứng đáng Quyền giới tính và Quyền có gia đình hoặc sống Quyền được chọn kiểu cách sống gia đình độc thân Quyền được biểu thị niềm tin Quyền tôn giáo Quyền chọn tôn giáo vào tín ngưỡng một cách cá nhân hay ở nơi công cộng Quyền giao tiếp Quyền được tự do giao tiếp Quyền được giao tiếp - truyền thông Quyền được giáo dục và văn hoá 1.2. Công ước về Quyền trẻ em Theo Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em thì trẻ em là những công dân dưới 16 tuổi. Công ước về Quyền trẻ em ra đời năm 1990, trung thành với những nội dung cơ bản của Quyền con người. Việt Nam là nước thứ hai tham gia Công ước. Theo đó, mọi trẻ em không phân biệt chủng tộc, màu da, lứa tuổi và dân tộc đều có quyền cơ bản. Đó là quyền được sống, phát triển hoàn chỉnh, được bảo vệ khỏi những ảnh hưởng có hại, bị lạm dụng và bóc lột và quyền tham gia đầy đủ vào đời sống gia đình, văn hoá và xã hội. Công ước bảo vệ quyền trẻ em bằng cách thiết lập các chuẩn mực về chăm sóc sức khoẻ, các dịch vụ giáo dục, pháp luật, dân sự và xã hội. Trên thế giới đã có 192 nước tham gia Công ước, mỗi quốc gia đều phải xây dựng và thực hiện mọi hành động và chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho trẻ em. Có 4 nhóm quyền cơ bản như: Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 25
  6. n Quyền được sống còn: quyền được có cuộc sống bình thường và để phát triển như: có cái ăn, cái mặc, được chăm sóc sức khoẻ, được khai sinh n Quyền được phát triển: quyền được phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần: quyền học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động văn hoá, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo n Quyền được bảo vệ: trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi bị phân biệt đối xử, bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán. n Quyền được tham gia: Trẻ em có quyền được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến liên quan đến cuộc sống của mình. trẻ em có quyền kết bạn, giao lưu và hội họp, tiếp cận thông tin phù hợp. Những nội dung của Công ước đã được Chính phủ ta hiện thực hoá trong các luật như: Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu học, Luật Hôn nhân và gia đình, Chẳng hạn Luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em có quy định các quyền như: n Quyền được khai sinh và có quốc tịch (Điều 5) n Được chăm sóc và nuôi dạy để phát triển thể lực, trí tuệ và đạo đức (Điều 6) n Được chung sống với cha mẹ (Điều 7) n Được tôn trọng về tính mạng, nhân phẩm vàdanh dự (Điều 8) n Được bảo vệ sức khoẻ, trẻ dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh không mất tiền tại các cơ sở y tế của nhà nước (Điều 9) Về vấn đề giáo dục cho TKT, Pháp lệnh NKT có quy định rõ “TKT có quyền được đi học, có quyền tiếp cận với mọi hình thức giáo dục, đặc biệt là giáo dục hoà nhập” Trong 10 năm trở lại đây, vấn đề giáo dục hoà nhập đã được đưa vào như một trong các mục tiêu của ngành giáo dục. Bộ Giáo dục và đào tạo đã xây dựng các văn bản chính sách nhằm thực hiện giáo dục hoà nhập một cách phổ cập, rộng rãi. Chính sách có hướng dẫn việc đào tạo giáo viên, cung cấp tài liệu giảng dạy, tuyên truyền nhậnthức tạo thuận cho việc đưa TKT tới trường Giáo sinh cấp Mầm non và Tiểu học ở các trường Cao đẳng Sư phạm và giáo viên đang dạy học trên địa bàn cả nước đều được tập huấn về “giáo dục hòa nhập và kỹ năng dạy TKT”. 1.3. Quyền của trẻ khuyết tật / người khuyết tật Việt nam n Pháp lệnh về NKT tháng 8 năm 1998 của Chính phủ. Người lớn và trẻ em khuyết tật Việt Nam đều có mọi quyền bình đẳng và được pháp luật bảo vệ. Tháng 8/ năm 1998, Pháp lệnh về NKT được ban hành, đó là tài liệu có tính pháp lý cao nhất bảo vệ quyền bình đẳng và hoà nhập xã hội của NKT. 26 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  7. Pháp lệnh về NKT được ban hành với mục đích tạo cơ sở pháp lý, cơ chế chính sách bảo vệ của Nhà nước đối với NKT, giúp họ vượt khó vươn lên hoà nhập cộng đồng. Mặt khác, Pháp lệnh đã xã hội hoá tối đa sự hỗ trợ của cộng đồng đối với NKT, với tinh thần tôn trọng quyền con người, cùng với Nhà nước chăm sóc NKT, giúp họ tuỳ theo năng lực mà tham gia đời sống xã hội một cách bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. Pháp lệnh quy định những người bị khiếm khuyết, giảm khả năng hoặc khuyết tật theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới đều được xếp vào khái niệm “người khuyết tật”. Tuy vậy, ranh giới để xác định chính xác vần còn đang tranh cãi. Thực tế NKT là những người bị khiếm khuyết nhưng có bị giảm khả năng gây cản trở hoạt động nhất định của người đó. Pháp lệnh NKT gồm 8 chương. Chương 1 nói về những quy định chung. Chương 2 đề cập đến việc chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ nuôi dưỡng và phục hồi chức năng cho NKT. Chương 3 quy định về việc học văn hoá của trẻ em và người lớn khuyết tật. Học nghề và việc làm cho NKT được quy định ở chương 4. Ba chương còn lại đề cập đến các hoạt động văn hoá, vui chơi và tiếp cận các công trình công cộng, đến việc quản lý Nhà nước đối với việc bảo vệ chăm sóc NKT, việc khen thưởng và xử lý vi phạm và các điều khoản thi hành. Những điều khoản quy định việc thành lập tổ chức của NKT, sự chăm sóc của các tổ chức xã hội và cộng đồng, ngăn cấm phân biệt đối xử với NKT đã được nhấn mạnh ngay ở chương đầu tiên của Pháp lệnh. Việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh NKT phải được thể chế hoá thành các văn bản chính sách của nhà nước về NKT. 1.4. Một số văn bản và chính sách về người khuyết tật Pháp lệnh về NKT và một hệ thống các nghị định của các Bộ ngành được ban hành để cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện các quy định của Pháp lệnh. Dưới đây là một số văn bản trong số đó. n Bộ Y tế – Quyết định số 102/2002/QĐ-BYT về khám chữa bệnh và một số dịch vụ PHCN miễn phí cho NKT. – Quyết định 370/2004/QĐ-BYT về đưa Chương trình PHCNDVCĐ là một trong những nội dung của trạm y tế chuẩn quốc gia. Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 27
  8. n Bộ Nội vụ – Quyết định số 71/2003/ QQĐ- BNV của Bộ trưởng về việc phê duyệt Điều lệ Hiệp hội Sản xuất kinh doanh của NKT Việt Nam. – Thông tư số 01/2004/TT-BNV hướng dẫn thực hiện Nghị định 88/2003/ NĐ_CP quy định về tổ chức, quản lý hoạt động của Hội NKT. n Bộ Lao động Thương binh và Xã hội – Quyết định số 1590/2002/ QĐ-LĐTBXH về quy chế hoạt động của Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ NKT. n Bộ Xây dựng – Quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng công trình để đảm bảo NKT tiếp cận sử dụng năm 2004. n Bộ giáo dục và đào tạo – Công văn số 9745/GDTH V/V Hướng dẫn nhiệm vụ giáo dục khuyết tật năm học 2004-2005 của Bộ GD-ĐT: Từ năm 2004 Bộ GD-ĐT đã yêu cầu chuyển các trường chuyên biệt ở các tỉnh thành trung tâm “Hỗ trợ và phát triển giáo dục hoà nhập”, định hướng chuyển cơ sở giáo dục chuyên biệt thành trung tâm nguồn làm nơi hỗ trợ cho công tác giáo dục TKT. – Quyền được giáo dục của TKT được quy định trong Luật giáo dục của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 38/2005/QH11 ban hành ngày 14 tháng 6 năm 2005 có điều 63 về quyền của TKT về giáo dục và tạo điều kiện tiếp cận cho TKT. Tóm lại: Nhà nước ta đã thông qua nhiều văn bản chính sách nhằm hỗ trợ và tạo cơ hội tham gia bình đẳng của trẻ em và người lớn khuyết tật vào đời sống xã hội. 2. việc làm cho người khuyết tật 2.1. Tại sao NKT cần có việc làm? Việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống vật chât và tinh thần của NKT và gia đình họ; góp phần đem lại cho người khuyết tật một cuộc sống hạnh phúc về tinh thần. Việc làm sẽ giúp cho người khuyết tật có được những giá trị tinh thần và vật chất sau: n Tạo thu nhập ổn định: việc làm giúp họ và gia đình có thu nhập ổn định, giảm bớt khó khăn về kinh tế do việc chữa bệnh và PHCN cần chi trải nhiều kinh phí. n Tăng cường vận động thể chất/tinh thần: việc làm giúp NKT phải nỗ lực hơn, khiên họ có động cơ phải đi lại, di chuyển, vận động, gặp gỡ mọi người, mua bán trao đổi Những việc đó khiến họ năng động hơn, sức khoẻ tốt hơn. 28 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  9. n Có mối liên hệ với mọi người: Nhờ công việc mà NKT được giao lưu với mọi người trong cộng đồng. Họ cần phải gặp gỡ vớ i các ban ngành đoàn thể để vay vốn, thê mướn mặt bằng, bán sản phẩm Do vậy mối quan hệ xã hội của họ được mở rộng. Mọi người trong cộng đồng hiểu biết hơn về khả năng của NKT, uy tín của họ trong cộng đồng được tăng lên. n Tâm lý tự tin: Khi NKT có việc làm, có thu nhập, vai trò và vị thế của họ trong gia đình và trong cộng đồng thay đổi. Mọi người nể họ hơn vì sự cố gắng của họ trong cuộc sống. NKT trở thành tấm gương vượt khó cho mọi người khuyết tật khác trong cộng đồng. 2.2. Người khuyết tật có thể làm được việc gì? Như những người không khuyết tật, người khuyết tật, sau khi học nghề ở một trường lớp nào đó, nếu có khả năng họ vẫn có thể đi làm tại một cơ quan, công sở hoặc xí nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn NKT chỉ cần một công việc ổn định, phù hợp với sức khỏe của mình và mang lại thu nhập đều đặn. Trong trường hợp không đủ điều kiện sức khoẻ hoặc không có chuyên môn sâu để làm các công việc ở văn phòng, công sở, công ty, NKT có thể làm việc tại nhà mình, hay tại nhà NKT khác hay một tổ sản xuất tại địa phương. Đối với đa số NKT vận động, hoặc khiếm thị, công việc ngày tại nhà mình là phù hợp nhất. Còn đối với người bị khiếm thính hoặc người bị chậm phát triển về trí tuệ, họ có thể làm công việc dịch vụ ở địa phương mình Do vậy, việc giúp NKT chọn nghề cần có tư vấn của các chuyên gia PHCN và tư vấn nghề nghiệp cho NKT. Thời gian mà NKT làm việc cũng không bị bó buộc. Họ có thể làm cả ngày như những người khác; hoặc làm nửa ngày hay một số giờ nhất định. Họ cũng có thể không làm vào ban ngày mà làm vào buổi tối Tóm lại, thời gian làm việc của họ cũng cần tính đến tình trạng sức khoẻ, sự bố trí hỗ trợ của gia đình sao cho thích hợp. Đối với NKT thu nhập cho đủ sống là yêu cầu rất quan trọng đối với công việc mà họ sẽ là. Tuy nhiên, những công việc giành cho NKT thường không đòi hỏi tay nghề cao, dễ làm, nên nhiều người bình thường khác cũng làm được. Vì vậy, cơ hội có việc làm cho NKT là không nhiều, NKT đành chấp nhận những công việc có thu nhập thấp; môi trường làm việc không sạch sẽ, hoặc thời gian làm việc không thuận tiện cho việc sinh hoạt hàng ngày. Do vậy, đây là trở ngại cho việc chọn nghề của NKT. Muốn có công việc tốt, NKT cần phần đấu học văn hoá; rèn luyện sức khoẻ để có nhiều cơ hội hơn. Mặt khác, chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể xã hội cần có sự quan tâm, ưu tiên hơn tạo cơ hội nhiều hơn cho NKT và gia đình họ. Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 29
  10. 2.3. Ai có thể giúp NKT có việc làm? Trong việc tạo việc làm cho NKT cần có nhiều cá nhân và tổ chức cơ quan tâm; đặc biệt bản thân NKT và gia đình họ phải chủ động tìm kiếm. Mỗi thành phần, đối tượng trong cộng đồng, nếu làm tốt vai trò của mình thì việc làm cho NKT sẽ không là một vấn đề quá nan giải tới mức không giải quyết được. n Những việc NKT và gia đình họ có thể làm: cố gắng học văn hoá để biết đọc biết viết; nếu có thể thì học về tin học, ngoại ngữ. Đó là nhưng nền tảng cơ bản để xin việc. Việc rèn luyện sức khoẻ, tập luyện PHCN nhằm giúp NKT có đủ sức khoẻ để đáp ứng công việc. Cô găng sao cho NKT độc lập trong công việc chăm sóc cá nhân và sinh hoạt hàng ngày; tự di chuyển trong khoảng cách từ 1-2 km. Nếu cần thì dùng dụng cụ trợ giúp di chuyển như: xe lăn, nạng, nẹp n Những nỗ lực mà Tổ chức của NKT có thể thực hiện vì việc làm cho NKT: là người tổ chức và điều phối cơ hội cho các hội viên của mình. Hội NKT của xã phường có thể quản lý nguồn vốn vay, cho hội viên làm kinh tế gia đình. Hội cũng có thể thành lập cơ sở dậy nghề và đào tạo việc làm; lập cơ sở sản xuất kinh doanh; thu mua sản phẩm cho NKT. n Vai trò của Ban Điều hành xã phường trong việc thúc đẩy việc làm cho NKT: Vận dụng các chủ trương chính sách của Nhà Nước và Đảng về NKT. Ủy ban nhân dân xã và Ban Điều hành có thể đảm bảo tín chấp để cho NKT tiếp cận các nguồn vốn vay lãi xuất thấp; gửi NKT đi học nghề, tạo thuận tiện về mặt thủ tục hành chính, pháp lý để NKT được đi học và mở cơ sở sản xuất tại địa phương. n Vai trò của các ban ngành đoàn thể: Như hội Phụ Nữ, Hội Cựu Chiến Binh; Đoàn Thanh niên; Hội Nông dân có vai trò vận động các nguồn quỹ cho NKT và gia đình họ vay vốn kiểu tín chấp; vận dụng các cơ hội có sẵn trong cộng đồng giúp NKT có việc làm; giúp NKT bán sản phẩm của họ. 2.4. Tổ chức việc làm cho người khuyết tật như thế nào? Việc hỗ trợ cho NKT có việc làm cần tiến hành ở nhiều khâu: đào tạo nghề, tìm nguồn vốn, mua sắm công cụ, tìm địa điểm sản xuất kinh doanh; bán sản phẩm n Học nghề: Việc dạy cho NKT tốt nhất được tiến hành ngay tại địa phương nếu ở đó có nghề truyền thống: Mây tre đan, chạm khắc gỗ, dệt, may, thêu sửa chữa máy móc Các tổ sản xuất, các đầu mối gia công, hoặc nhà của người có dịch vụ ( ví dụ: hoặc nghề sửa xe máy ngay tại của hàng) đều là nơi dạy nghề thích hợp với NKT. Có thể nói việc dạy nghề cũng cần được tiến hành dựa vào cộng đồng và ngay tại cộng đồng. 30 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  11. Đôi khi NKT có thể học một số nghề không có tại địa phương, khi ấy, họ phải lên Huyện hoặc Tỉnh. Gia đình họ và địa phương có thể hỗ trợ để việc học nghề được thuận tiện. n Vận động vay vốn: Các nguồn vốn sẵn có tại địa phương là thích hợp nhất để cho NKT vay kiểu tín chấp vì mọi người đều biết gia đình họ. Tuy nhiên việc vay vốn được hoàn trả đúng hạn cần có cơ chế quản lý nguồn vốn. Cơ chế hiện nay thích hợp nhất là để hội NKT quản lý nguồn vốn của họ, giám sát cho vay và giám sát trả nợ. Có một số nguồn vốn khác của Hội Nông dân hoặc hội Phụ nữ cũng cần được Hội NKT bảo lãnh. n Tìm địa điểm kinh doanh: Mặt bằng và địa điểm sản xuất, kinh doanh là một vấn đề quan trọng va mấu trốt. Nếu gia đình NKT không tự no được, có thể nhờ HKT và chính quyền địa phương can thiệp. n Mua sắm công cụ: Các dụng cụ, thiết bị hành nghề như máy móc, nguyên vật liệu cũng cần được mua sắm. Nguồn gốc và chất lượng các thiết bị này cũng cần được tư vấn địa chỉ mua sắm và hướng dẫn cách sử dụng. n Tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ sản phẩm của NKT là vấn đề quan trọng. Việc này cần được tính toán trước khi tiến hành kinh doanh, sản xuất. NKT nên thành lập tổ sản xuất và để những người quản lý lo việc tiêu thụ sản phẩm. Việc xây dựng mạng lưới bán hàng và phân phối sản phẩm, quảng bá thương hiệu cần được tính đến nếu sản phẩm đó đáp ứng được nhu cầu rộng rãi của thị trường. 2.5. Các nhóm việc làm cho các dạng tật khác nhau Nguyên tắc chọn việc làm: Việc tư vấn NKT chọn công việc tương lai của họ cần dựa trên một số yêu cầu sau: n Theo sở thích của NKT: nên chọn công việc mà họ yêu thích. Tuy nhiên lưu ý giữa sở thích và khả năng của họ xem có tương đối phù hợp không? n Theo khả năng sức khoẻ và mức độ tàn tật của họ: Nên nghĩ đến khả năng hiện tại hơn là nghĩ đến khuyết tật của họ. Mặt khác, khả năng của NKT như: di chuyển đi lại ở khoảng cách bao xa, đi lên xuống cầu thang; điều kiện sinh hoạt tại nơi họ học nghề và làm việc phải phù hợp. n Các điều kiện của NKT và gia đình họ: điều kiện địa lý, (ở cách xa đường đi? đường xã có thuận tiện cho xe lăn Khả năng học nghề xong có tiếp cận được vốn vay hay không? n Gợi ý một số nhóm nghề cho NKT: – Trồng cây nông - lâm nghiệp/ diịchvụ chăm sóc và bón tưới – Chăn nuôi gà vịt và gia súc, nuôi cá / dịch vụ chăn nuôi - thú y Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 31
  12. – Đan lát và làm hàng thủ công mỹ nghệ: gồm, lá , mây tre, giấy – Chế biến thực phẩm và đồ ăn truyền thống của địa phương: Bánh kẹo, miến, bánh đa, mỳ – Làm các mặt hàng truyền thống khác: làm giấy, vẽ tranh, in ấn, thủ công nghiệp ( gạch, ngói, xi măng , sắt, thép, ) – Nghề mộc, nghề xây – Làm dịch vụ: Bán hàng, thư ký, kế toán, đưa thư, dạy học, văn phòng Tóm lại: Để tạo việc làm cho NKT cần cân nhắc nhiều yếu tố và khả năng của NKT để giúp họ có công việc ổn định, thu nhập đủ sống; góp phần tăng nguồn đóng góp cho xã hội; tăng chất lượng sống của NKT. 3. vui chơi giải trí, thể thao của người khuyết tật NKT bình đẳng và hoà nhập xã hội thể hiện ở chỗ NKT có quyền tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội. Ngoài các hoạt động liên quan đến bản thân họ, NKT cần cần được khuyến khích tham gia mọi hoạt động trong gia đình, trong cộng đồng giống như mọi thành viên khác. Chẳng hạn, một thanh niên khuyết tật ngoài chăm sóc bản thân, chung sức với các thành viên khác trong gia đình họ làm nội trợ, chăn nuôi gia súc, hoặc các hoạt động có thu nhập khác cũng cần có các hoạt động vui chơi, giải trí, thể dục thể thao. Đây là những nội dung hết sức quan trọng trong đời sống hàng ngày của một người bình thường. Gia đình, bạn bè, cộng đồng, xã hội cần tạo mọi điều kiện để NKT/TKT có thể tiếp cận và tham gia các hoạt động này. 3.1. Tầm quan trọng của vui chơi, giải trí và thể thao đối với người khuyết tật/trẻ khuyết tật n Giúp phát triển kỹ năng vận động/trí tuệ, nhận thức, xã hội: nhờ các hoạt động thể thao, vui chơi cơ thể được vận động, sức khoẻ được tăng cường và chúng đặc biệt có ích đối với trẻ em khuyết tật. Thông qua vui chơi, trẻ em khuyết tật tìm hiểu thế giới xung quanh, giúp tăng cường hiểu biết, tích luỹ kinh nghiệm sống. n Tăng cường sự tham gia của NKT vào đời sống xã hội: Tuy bị khuyết tật, nhưng mỗi người vẫn có những khả năng khác, chẳng hạn một người bị liệt hai chân nhưng có khả năng bắn cung, một người bị mù vẫn chơi nhạc cụ bình thường Nếu chỉ nhìn vào những hạn chế, những khó khăn thì TKT hay NKT khó có thể làm được việc gì. Nhưng nếu tự mỗi NKT hay TKT cố gắng phát huy điểm mạnh nào đó của bản thân, họ vẫn có cơ hội tham gia vào những hoạt động chung của cộng đồng. Chẳng hạn: tham gia 32 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  13. đội văn nghệ của thôn xóm, chơi đàn hoặc phụ trách trang trí, may quần áo cho diễn viên Nhờ vậy, NKT sẽ trở nên có ích cho cộng đồng. n Tạo nên thái độ tốt của NKT đối với xã hội và gia đình: Khi tham gia các cuộc thi đấu, các ngày hội thể thao NKT/TKT được thể hiện hết năng lực của bản thân, khiến mọi người hiểu thêm về NKT, tạo được mối quan hệ tốt đẹp với cộng đồng. Một người phải ngồi xe lăn vẫn có thể là nhà vô địch môn bóng bàn hoặc cờ vua Một người cụt một tay vẫn trở thành nhà vô địch về bơi lội. Hoặc như một phụ nữ cụt cả hai chân vẫn có cơ hội trở thành diễn viên điện ảnh Những trường hợp thành công như vậy là nguồn động viên lớn cho những NKT/TKT tích cực tham gia. Không chi động viên NKT, những tấm gương như vậy còn có tác dụng cổ vũ người bình thường trong khó khăn đời thường. n Giảm sự cách ly, xa lánh NKT, gia đình họ Trong tiếp xúc, trao đổi, giao lưu, đặc biệt khi giúp nhau vượt qua những trở ngại để thi đấu, để vui chơi giải trí mối quan hệ tốt sẽ nảy sinh giữa người bình thường và NKT. NKT có thể giúp đỡ người bình thường hay ngược lại. Mối quan hệ hai chiều ấy sẽ tạo điều kiện để NKT và gia đình họ sống vui vẻ, chan hoà với cộng đồng. NKT đỡ mặc cảm. n Tăng cường chất lượng cuộc sống của NKT Ngoài những hoạt động tự chăm sóc, sinh hoạt và giúp đỡ gia đình, NKT/ TKT cũng cần được hưởng những giờ phút thư giãn, những thú vui và sự say mê. Giải trí, vui chơi, thể thao là những khoảnh khắc tuyệt vời trong cuộc sống của NKT/TKT. n Đề phòng khuyết tật Nhờ sự lôi cuốn hấp dẫn của các hoạt động vui chơi, thể thao, giải trí, NKT/ Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 33
  14. TKT có thể quên được những đau đớn, khó khăn vất vả khi cử động một phần nào đó của thân thể. Cũng nhờ những hoạt động ấy mà trẻ em chậm phát triển trí tuệ có thể tập trung lâu hơn, học và nhớ dễ dàng hơn. Do vậy, những hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí là những hình thức tập luyện hấp dẫn nhất đối với NKT/TKT. 3.2. Những hoạt động có thể chọn lựa n Vui chơi, giải trí l Xem phim l Nghe ca nhạc/múa hát/kịch l Du lịch l Các hoạt động sáng tạo như: vẽ, nặn, xếp hình, cắt dán, thêu thùa l Đọc sách ở thư viện l Xem triển lãm l Cắm trại l Câu cá, nuôi chim cá cảnh l Chăm sóc cây hoa cảnh l Tham gia hội hè, lễ hội văn hoá- lịch sử ở địa phương l Đi mua sắm l Tham dự các lễ hội tôn giáo ( hội đền chùa, rước sách ) l Tổ chức liên hoan văn nghệ, đóng kịch n Thể thao Thế vận hội giành cho NKT/TKT: các môn ngồi xe lăn, bơi, điền kinh, cầu lông, bóng bàn, đánh cờ, bắn cung 3.3. Tổ chức vui chơi, giải trí, thể thao cho người khuyết tật/ trẻ khuyết tật n Người hỗ trợ và tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí và thể thao. Đó là: – Tổ chức tự lực của NKT, Hội NKT, Hội cha mẹ TKT – Chương trình PHCNDVCĐ, Uỷ ban Thể dục thể thao các cấp, các tổ chức xã hội (như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân ) – Các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ – Chính quyền tổ chức nhân dịp kỷ niệm Ngày toàn quốc chăm sóc NKT (18 tháng 4 ) n Cách thức hỗ trợ – Tìm nguồn kinh phí hoặc tìm nhà tài trợ: đó có thể là các hãng sản xuất và kinh doanh dụng cụ thể thao, hãng đồ chơi, hoặc xí nghiệp, nhà máy, các tổ chức xã hội hoặc thông qua cuộc vận động quyên góp Các nguồn vật chất này có thể bằng tiền mặt hay bằng hiện vật, quà tặng hay giải thưởng. 34 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  15. – Điều kiện tiếp cận: Nơi thi đấu hoặc tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí cho NKT/TKT cần đủ rộng, có thể dễ dàng di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Các lối đi cho xe lăn, vệ sinh rộng và phù hợp Có thể cần một số tình nguyện viên giúp đỡ NKT/TKT di chuyển lên xuống ô tô, qua cầu nhỏ, đường xá gồ ghề,hoặc giúp người khiếm thị di chuyển Có thể cần một số phương tiện hoặc thiết bị trợ giúp như: sách vở bằng chữ nổi Braille, các dụng cụ hoặc thiết bị thể thao cần làm thích ứng với NKT (ví dụ bàn bóng bàn làm với chiều cao phù hợp, sân chạy dành cho người khiếm thị ) hoặc cần chuẩn bị tình nguyện viên cùng cặp. Đối với trẻ khiếm thị, để tổ chức thi đấu bóng đá, cần chuẩn bị mũ đệm đội đầu và bóng có lục lạc để trẻ định hướng được. – Chọn hoạt động phù hợp với khả năng của NKT: để nhiều người NKT/ TKT có thể tham gia nên chọn lựa các hoạt động sao cho phù hợp. Chẳng hạn: người khiếm thính có thể tham gia kịch câm, múa rối, đánh cờ Người ngồi xe lăn có thể chơi các môn thể thao như: cầu lông, bóng bàn Trẻ em bại não bị múa vờn có thể chơi cờ, vẽ, ghép hình Tóm lại: Hoạt động vui chơi giải trí và thể thao là phần không thể thiếu trong đời sống của NKT/TKT. Giúp họ tham gia đầyđủ vào mọi hoạt động của đời sống chính là thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội cho NKT. 4. nhóm tự lực/Hội người khuyết tật/hội cha mẹ trẻ khuyết tật 4.1. Nhóm tự lực và Hội người khuyết tật là gì? Nhóm tự lực, Câu lạc bộ, Hội là một tổ chức gồm các thành viên có chung chí hướng, nguyện vọng, họ cam kết đóng góp thời gian, công sức và nguồn lực để thực hiện những mục tiêu chung. Nhóm tự lực, Câu lạc bộ hoặc hoặc Hội NKT là một tổ chức của NKT có thể gồm cả thành viên gia đình họ nhằm đại diện cho NKT. Về mức độ tổ chức và pháp lý các tổ chức của NKT có thể ở các dạng sau: Nhóm tự lực: là các nhóm của NKT hoặc cha mẹ TKT, họ tự nguyện gặp gỡ nhau, sinh hoạt nhóm chung. Nếu các thành viên không thích thì hoạt động của nhóm có thể tự chấm dứt. Sự tồn tại và hoạt động của nhóm không cần sự công nhận của chính quyền. Câu lạc bộ NKT: cũng tương tự như Hội NKT Hội NKT hoặc Hội cha mẹ: quy mô ít nhất 5-6 thành viên. Về tổ chức Hội hoạt động có tôn chỉ mục đích và có điều lệ. Có những quy định mà mọi hội viên bắt buộc phải tuân thủ như: thủ tục vào và ra khỏi hội, khen thưởng, kỷ luật hoặc khai trừ khỏi hội. Về pháp lý, Hội chỉ được chính quyền địa Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 35
  16. phương côngnhận sau khi đã thực hiện các thủ tục xin phép chính quyền. Hội có con dấu và tài khoản riêng, có quỹ hội. Hoạt động của Hội phải tuân thủ luật pháp và chính sách của địa phương. Nhóm tự lực, Câu lạc bộ hoặc Hội NKT có thể gồm các dạng: Nhóm/Hội đơn tật: nhóm người có khó khăn vận động, ví dụ: Câu lạc bộ “Hy vọng”, Câu lạc bộ “Tương lai tươi sáng” là những tổ chức của NKT về vận động ở Hà Nội. Còn có các dạng tổ chức khác như: Câu lạc bộ người khiếm thị Hà Nội, Câu lạc bộ người khiếm thính Hải Phòng, Hội người mù Lâm đồng Những tổ chức này gồm các thành viên có cùng một dạng tật. Họ hiểu nhu cầu của nhau và có cùng chung nguyện vọng và mục đích hoạt động nên dễ thống nhất, gắn bó lâu bền. Nhóm/Hội đa tật: gồm NKT các dạng khác nhau, ví dụ: Hội NKT xã Vĩnh Tú, Huyện Vĩnh Linh, Tỉnh Quảng Trị. Hội gồm NKT về vận động, người bị hành vi bất thường (tâm thần), người bị động kinh, cha mẹ TKT Ngoài ra còn nhiều tổ chức khác nữa. Các tổ chức này gồm NKT khác nhau nên có tiếng nói đại diện cho toàn bộ NKT ở một địa phương. Họ hiểu nhu cầu, năng lực và nguyện vọng của mọi NKT. Năng lực của Hội cũng mạnh hơn do liên kết được nhiều thành viên. Tuy nhiên, thành lập Hội cần vận động lâu hơn, ý kiến và nguyện vọng của hội viên đôi khi khó thống nhất 4.2. ý nghĩa của nhóm tự lực/Hội người khuyết tật đối với người khuyết tật Tổ chức của NKT hay của cha mẹ TKT nếu có tổ chức tốt, hoạt động năng nổ, và nhiều sáng kiến có thể phát huy thế mạnh của một tổ chức, thực hiện được nhiều hoạt động sau: n Giúp đỡ lẫn nhau, giao lưu và chia xẻ Các hội viên của Hội gặp nhau và trao đổi tâm tư tình cảm, động viên lẫn nhau, dưới một mái nhà chung đồng cảm, NKT kết bạn, trở nên thân thiết với nhau, là chỗ dựa về tình cảm, quyền lợi khi khó khăn. Hội trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, là người bảo vệ quyền lợi của NKT khi có gì đó khúc mắc. n Giúp NKT vượt qua mặc cảm, trở ngại về tâm lý, tự tin hội nhập xã hội Bằng những tấm gương NKT vượt khó vươn lên và thành đạt trong cuộc sống, các hội viên tự tin hơn, tự mình vượt qua trở ngại trong cuộc sống. Họ tự lập, không trông chờ, ỷ lại. Nhờ tổ chức tự lực, các hội viên trở nên tự tin và yêu đời hơn, không còn mặc cảm vì khuyết tật của bản thân. n Phát triển kinh tế cho hội viên Đại diện cho các hội viên, tổ chức của NKT có thể liên hệ với các cơ quan, 36 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  17. tổ chức trong và ngoài nước tìm kiếm nguồn vốn vay. Thông thường, vay vốn cần có thế chấp tài sản hoặc tín chấp nhờ sự bảo lãnh của một tổ chức. Phần lớn gia đình NKT là các hộ nghèo, nên sự bảo lãnh của Hội NKT là rất cần thiết giúp họ có thể tiếp cận các nguồn vốn vay. Hội còn có chức năng quản lý Quỹ và đề xuất cho vay lên lãnh đạo UBND xã. Chủ tịch UBND xã là người ký quyết định cho vay từ các nguồn vốn ở địa phương như quỹ Hội Nông dân, Quỹ xoá đói giảm nghèo của Hội Phụ nữ n Tổ chức các hoạt động tạo việc làm, thu nhập cho NKT Hội NKT có thể cùng các hội viên của mình thảo luận và tiến hành các dự án sản xuất như: chăn nuôi, trồng trọt, dịch vụ, làm nghề thủ công Đặc biệt nếu địa phương có nghề truyền thống thì đó là cơ hội rất tốt để hội viên học và hành nghề ngay. n Bồi dưỡng năng lực cho NKT – Cung cấp thông tin cho NKT: Tại cuộc họp Câu lạc bộ, Hội NKT biết thêm thông tin của các tổ chức NKT địa phương khác. Hội cũng có khả năng tài chính gửi hội viên đi tham quan học tập để học nghề hoặc sản xuất, học kinh nghiệm làm ăn – Tạo cơ hội để NKT khẳng định bản thân: Nhờ sự tiến cử và tín nhiệm của tổ chức, NKT mới có cơ hội tham gia các tổ chức xã hội, các hoạt động ở địa phương. n Khuyến khích TKT đến trường Hội có thể vận động chính quyền địa phương miễn giảm học phí và đóng góp để động viên TKT đi học. Các tổ chức của NKT có thể vận động các tổ chức xã hội ở địa phương thăm hỏi động viên, tặng quà TKT hiếu học hoặc đạt thành tích tốt. Hội NKT còn có thể can thiệp với nhà trường để thay đổi kiến trúc xây dựng ở trường để tiếp nhận TKT đến trường. n Các hoạt động thể thao, văn hoá văn nghệ Hội có thể tổ chức các hoạt động vui chơi, thể thao, giải trí của NKT như thi đấu thể thao, cắm trại cho TKT và các hội viên khuyết tật. ở những nơi có chương trình PHCNDVCĐ, tổ chức của NKT có thể phát huy hơn nữa vai trò của nó thông qua những chức năng sau: n Quản lý điều hành các dịch vụ PHCNDVCĐ Tổ chức của NKT có khả năng tham gia vào quản lý điều hành các dịch vụ PHCNDVCĐ ở mọi lĩnh vực. Ví dụ: dịch vụ y tế - phục hồi chức năng, giáo dục TKT, dạy nghề và tạo việc làm và các hoạt động khác. n Tư vấn Tổ chức NKT có khả năng tư vấn cho lãnh đạo địa phương khi xây dựng các chính sách liên quan đến NKT và TKT. Tư vấn xuất phát từ nhu cầu, khả năng và quyền của NKT/TKT để họ tham gia bình đẳng vào đời sống xã hội. Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 37
  18. n Hỗ trợ cho Ban Điều hành PHCNDVCĐ ở địa phương Đại diện của tổ chức NKT tham gia Ban Điều hành sẽ thay mặt NKT tham gia các giai đoạn lập kế hoạch, triển khai và giám sát, đánh giá các hoạt động PHCNDVCĐ. Nhờ vậy, chương trình sẽ phù hợp với nhu cầu của NKT và duy trì được thường xuyên. Cải thiện tiếp cận các dịch vụ PHCNDVCĐ: bằng cách hỗ trợ những hoạt động chăm sóc sức khoẻ và tập luyện, PHCN cho NKT. Hội NKT có nhiệm vụ động viên NKT tham gia, giúp đõ nhau tập luyện. Hội NKT có thể lập danh sách NKT có nhu cầu được cấp phát xe lăn, các dụng cụ tập để xin các tổ chức nhân đạo hỗ trợ. Tại cuộc họp của chi Hội hàng tuần, NKT có thể trao đổi phương pháp tập luyện. NKT động viên nhau và hướng dẫn nhau tập và giám sát sự tiến bộ cho nhau. Tổ chức của NKT còn lập danh sách NKT và TKT có nhu cầu phẫu thuật, hay cần dụng cụ trợ giúp Từ đó họ kêu gọi hỗ trợ của chương trình PHCNDVCĐ ở địa phương hay từ các tổ chức quốc tế n Tăng cường vị thế của NKT trong cộng đồng Những thành công của NKT và hoạt động của tổ chức NKT sẽ tạo cho NKT một vị thế mới trong cộng đồng. Cộng đồng hiểu hơn về khả năng của NKT, dễ chấp nhận họ hơn. 4.3. Thành phần của nhóm tự lực/ Hội người khuyết tật Tổ chức của người khuyết tật bao gồm hội viên là: Bản thân NKT Thành viên gia đình NKT: khi NKT không đủ khả năng thể hiện nhu cầu, nguyện vọng của mình (ví dụ Người lớn bị thất ngôn, nói khó, bị tâm thần hoặc trẻ em bị chậm phát triển trí tuệ ) thì vợ chồng, cha mẹ hoặc người thân có thể đại diện cho NKT/ TKT tham gia Hội NKT. Hội cha mẹ TKT có thể gồm một số tình nguyện viên hoặc nhà tài trợ. Thành lập nhóm tự lực n Để lập nhóm tự lực hoặc Câu lạc bộ NKT cần tuân theo các trình tự sau – Có nhóm của NKT – Xác định nhu cầu của nhóm và của các thành viên – Vận động các thành viên tham gia tổ chức – Bầu nhóm trưởng, tổ trưởng. – Có mục tiêu và chương trình hành động rõ ràng – Triển khai hoạt động của nhóm – Họp mặt, đánh giá hoạt động. n Chuyển nhóm tự lực thành câu lạc bộ hoặc Hội NKT – Lập Ban vận động thành lập Hội (ít nhất 3thành viên) 38 Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
  19. – Ban vận động hoàn chỉnh hồ sơ xin phép thành lập hội – Gửi hồ sơ xin phép đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. – Có Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền n Lễ ra mắt nhằm – Phân công trách nhiệm của các thành viên – Bầu Ban Chấp hành – Thống nhất kế hoạch hành động – Thực hiện kế hoạch – Họp hành và sơ kết hoạt động n Các điều kiện để xin phép thành lập hội – Có mục đích hoạt động không trái với pháp luật, không trùng lặp về tên gọi và lĩnh vực hoạt động với hội đã được thành lập trước đó. – Có điều lệ – Có trụ sở – Có đủ số hội viên tham gia n Hồ sơ xin phép thành lập Câu lạc bộ hoặc Hội NKT – Đơn xin phép thành lập hội – Dự thảo điều lệ – Dự kiến phương hướng hoạt động – Danh sách những người trong ban vận động được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận – Sơ yếu lý lịch của người đứng đầu ban vận động có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền – Các văn bản xác định về trụ sở và tài sản của hội 4.4. Duy trì hoạt động của nhóm tự lực và hội người khuyết tật Để duy trì hoạt động của nhóm tự lực, Hội người khuyết tật cần có các điều kiện sau n Có mục tiêu và kế hoạch hành động rõ ràng, đáp ứng với nhu cầu của nhóm n Có các thành viên tích cực cam kết cống hiến thời gian, công sức và nguồn lực n Sự cam kết hỗ trợ của chính quyền địa phương n Tạo được nguồn kinh phí của hội n Tăng cường năng lực của các hội viên n Gây dựng và phát triển mạng lưới, liên kết với các tổ chức của NKT các cấp trên và cùng cấp. n Nhóm tự lực hoặc Hội NKT, hội cha mẹ TKT là một cơ cấu rất cần thiết, hỗ trợ đắc lực cho NKT về mọi mặt trong quá trình hoà nhập xã hội, đồng thời là cầu nối giữa chính quỳên, xã hội với các hội viên khuyết tật. Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 39
  20. Tài liệu tham khảo n Đại cương Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. NXB Y học, 1993. n Giáo trình Vật lý trị liệu Phục hồi chức năng, NXB Y học, 2000. n Trần Thị Thu Hà - Trần Trọng Hải, 2005, “Phát hiện sớm, can thiệp sớm một số dạng tàn tật ở trẻ em Việt Nam”, NXB Y học. n Biwako Mellennium Framework for Action (full text). UN ESCAP, 2002. n Ma. Lucia Mirasol Magallona, 2005, Manual for CBR workers and Caregivers, C&E Publishing Inc.
  21. Danh mục bộ tài liệu Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng  Hướng dẫn triển khai thực hiện phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng  Đào tạo nhân lực phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng  Hướng dẫn cán bộ PHCNCĐ và cộng tác viên về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng  Hướng dẫn người khuyết tật và gia đình về Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 20 Tài liệu kỹ thuật về PHCN cho tuyến cộng đồng sử dụng, bao gồm: 1. Phục hồi chức năng sau tai biến mạch máu não 2. Phục hồi chức năng tổn thương tuỷ sống 3. Chăm sóc mỏm cụt 4. Phục hồi chức năng trong bệnh viêm khớp dạng thấp 5. Phòng ngừa thương tật thứ phát 6. Dụng cụ phục hồi chức năng tự làm tại cộng đồng 7. Phục hồi chức năng trẻ trật khớp háng bẩm sinh 8. Phục hồi chức năng cho trẻ cong vẹo cột sống 9. Phục hồi chức năng bàn chân khoèo bẩm sinh 10. Phục hồi chức năng cho trẻ bại não 11. Phục hồi chức năng khó khăn về nhìn 12. Phục hồi chức năng nói ngọng, nói lắp và thất ngôn 13. Giao tiếp với trẻ giảm thính lực (khiếm thính) 14. Phục hồi chức năng trẻ chậm phát triển trí tuệ 15. Phục hồi chức năng trẻ tự kỷ 16. Phục hồi chức năng người có bệnh tâm thần 17. Động kinh ở trẻ em 18. Phục hồi chức năng sau bỏng 19. Phục hồi chức năng bệnh phổi mạn tính 20. Thể thao, văn hoá và giải trí cho người khuyết tật Sản phẩm chương trình hợp tác “Tăng cường năng lực Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng” giữa Bộ Y tế Việt Nam và Uỷ ban Y tế Hà Lan Việt Nam SÁCH KHÔNG BÁN