Tài liệu Sinh lý bệnh - Miễn dịch (Cao đẳng)

pdf 129 trang Phương Mai 03/04/2025 70
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Sinh lý bệnh - Miễn dịch (Cao đẳng)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_sinh_ly_benh_mien_dich_cao_dang.pdf

Nội dung text: Tài liệu Sinh lý bệnh - Miễn dịch (Cao đẳng)

  1. GIỚI THIỆU HỌC PHẦN SINH LÝ BỆNH - MIỄN DỊCH Đối tượng: Cao đẳng - Số tín chỉ: 02 (2/0) - Số tiết: 30 Tiết + Lý thuyết: 30 tiết + Thực hành: 0 tiết - Thời điểm thực hiện: Học kỳ III MỤC TIÊU HỌC PHẦN 1. Trình bày được những khái niệm cơ bản về bệnh, bệnh nguyên, bệnh sinh. 2. Trình bày được các rối loạn chuyển hóa trong cơ thể người, quá trình viêm, sốt.... 3. Trình bày được sinh lý bệnh các cơ quan và sinh lý bệnh qúa trình lão hóa. 4. Giải thích được cơ chế bệnh sinh của một số bệnh thường gặp. 5. Trình bày và phân tích được một số khái niệm trong miễn dịch đại cương và miễn dịch bệnh lý. 6. Nhận định, đánh giá được tình trạng người bệnh phù hợp về trạng thái bệnh lý và quá trình bệnh lý. 7. Lập được kế hoạch chăm sóc, tập luyện phục hồi chức năng cho người bệnh phù hợp và hiệu quả. 8. Nhận định và tiên lượng được người bệnh phù hợp về mặt lâm sàng với hình ảnh và xét nghiệm dựa theo cơ chế bệnh sinh. 9. Ứng dụng được sinh lý bệnh, miễn dịch giải thích cho người bệnh các quá trình nhận định, đánh giá, chăm sóc, tập luyện. 10. Rèn luyện được kỹ năng tư duy, tự học và làm việc nhóm hiệu quả. 11. Nhận thức được vai trò của môn học trọng việc giải thích cơ chế hình thành bệnh, quá trình bệnh lý, trạng thái bệnh lý trong chẩn đoán, chăm sóc người bệnh và nghiên cứu khoa học. NỘI DUNG HỌC PHẦN STT Tên bài Số tiết Số trang 1 Giới thiệu môn sinh lý bệnh 1 3 1
  2. 2 Khái niệm về bệnh 1 8 3 Bệnh nguyên 1 14 4 Bệnh sinh 1 18 5 Sinh lý bệnh quá trình viêm 1 24 6 Sinh lý bệnh điều hòa thân nhiệt – Sốt 1 35 Rối loạn chuyển hóa nước, điện giải và Rối loạn thăng bằng 7 2 42 acid – base 8 Rối loạn chuyển hóa Glucid 2 53 9 Rối loạn chuyển hóa Protid 2 59 10 Rối loạn chuển hóa Lipid 2 64 11 Sinh lý bệnh tạo máu 2 70 12 Sinh lý bệnh hô hấp 2 76 13 Sinh lý bệnh tuần hoàn 2 85 14 Sinh lý bệnh tiêu hóa 2 92 15 Sinh lý bệnh gan – mật 2 99 16 Sinh lý bệnh chức năng thận 2 104 17 Sinh lý bệnh quá trình lão hóa 2 110 18 Đại cương về miễn dịch học cơ bản 2 120 19 Miễn dịch bệnh lý 2 125 Tổng số 30 130 ĐÁNH GIÁ - Hình thức thi: Tự luận. - Thang điểm: 10 - Cách tính điểm: + Điểm chuyên cần: 10% + Điểm kiển tra thường xuyên: 01 bài kiểm tra lý thuyết trọng số 20%. + Điểm thi kết thúc học phần: 01 bài thi tự luận trọng số 70% Công thức tính: Điểm HP = Điểm CC * 0.1 + TX * 0.2 + KTHP * 0.7) 2
  3. BÀI 1 GIỚI THIỆU MÔN SINH LÝ BỆNH MỤC TIÊU HỌC TẬP: 1. Trình bày được tính chất và vai trò của môn Sinh lý bệnh trong Y học. 2. Trình bày được các bước và tầm quan trọng của phương pháp thực nghiệm trong y học. NỘI DUNG 1. Đại cương 1.1. Định nghĩa Sinh lý bệnh là môn học nghiên cứu về những thay đổi chức năng của cơ thể, cơ quan, mô và tế bào khi chúng bị bệnh. Từ đó rút ra các quy luật hoạt động của cơ quan, hệ thống cơ quan bị bệnh, các quá trình bệnh lý điển hình để hiểu quy luật hoạt động của bệnh nói chung. Một cơ quan có thể bị nhiều bệnh khác nhau. Ví dụ: Phổi có thể bị các bệnh khác nhau như: viêm phổi, abces phổi, xơ phổi, tràn dịch màng phổi . Mỗi một bệnh đó có những đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm đặc trưng, nhưng tất cả các bệnh ấy lại có một dấu hiệu chung thuộc về chức năng của phổi như: khó thở, tím, ho đó là sinh lý bệnh cơ quan bộ phận. Một số bệnh có thể xảy ra ở nhiều cơ quan khác nhau như: viêm, rối loạn vi tuần hoàn, rối loạn chuyển hóa, phản ứng miễn dịch Một số bệnh có thể do nhiều nguyên nhân gây ra như: sốt, viêm, mất nước, mất muối Những quá trình bệnh lý này rất hay gặp trong thực tế, đó là sinh lý bệnh đại cương. Sự tổng quát hóa cao nhất trong nghiên cứu sinh lý bệnh nhằm trả lời các câu hỏi như: bệnh là gì? Các bệnh diễn ra theo những quy luật nào? Quá trình lành bệnh và tử vong diễn ra như thế nào? 1.2. Nội dung môn học Khi sinh lý bệnh đã phát triển đầy đủ, nó được định nghĩa như trên và bao gồm 2 nội dung lớn là sinh lý bệnh đại cương và sinh lý bệnh các cơ quan hệ thống. * Sinh lý bệnh đại cương: Có thể chia thành 2 phần nhỏ: - Sinh lý bệnh các quá trình bệnh lý chung, nghĩa là các quá trình bệnh có thể gặp ở nhiều bệnh cụ thể (viêm, sốt, rối loạn chuyển hóa, rối loạn miễn dịch, lão hóa, đói, rối loạn phát triển mô, sinh lý bệnh mô liên kết ) và: - Các khái niệm và quy luật chung nhất về bệnh, như: + Bệnh là gì (các quan niệm); + Nguyên nhân chung của bệnh; + Cơ chế phát sinh, diễn biến, kết thúc của bệnh nói chung; 3
  4. + Tính phản ứng của cơ thể với bệnh. * Sinh lý bệnh cơ quan: Nghiên cứu sự thay đổi hoạt động tạo huyết, hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, chức năng gan, bài tiết, nội tiết, thần kinh khi các cơ quan này bị bệnh. 2. Tính chất, vai trò của môn sinh lý bệnh 2.1. Tính chất tổng hợp: - Môn sinh lý bệnh đi từ các hiện tượng bệnh lý cụ thể tìm cách khái quát hóa thành những quy luật hoạt động của cơ thể bị bệnh. - Sinh lý bệnh vận dụng nhiều thành quả khoa học của các môn khoa học khác, sử dụng các phương pháp của chuyên ngành khác để nghiên cứu và giải thích cơ chế các biểu hiện lâm sàng cơ chế thay đổi các xét nghiệm. 2.3. Tính lý luận: - Sinh lý bệnh học cho phép giải thích cơ chế của bệnh và các hiện tượng bệnh lý nói chung, đồng thời làm sáng tỏ các quy luật chi phối sự hoạt động của cơ thể, cơ quan, tổ chức và tế bào khi bị bệnh. Do đó, trong đào tạo ngoài nhiệm vụ trang bị kiến thức môn học nó còn có nhiệm vụ trang bị phương pháp lý luận và cách ứng dụng các lý luận đó khi học các môn lâm sàng và nghiệp vụ khác. - Có lý luận và biết vận dụng trong thực tế sẽ giúp người cán bộ y tế làm tốt công tác phòng bệnh, chữa bệnh và có các quyết định xử lý đúng đắn. 2.3. Cơ sở của y học hiện đại: - Y học hiện đại là thời kỳ tiếp theo của y học cổ truyền, nó kế thừa những tinh hoa của y học cổ truyền để phát triển và thay thế hẳn y học cổ truyền. - Ở Việt Nam, thời điểm xâm nhập y học hiện đại là năm 1902, năm thành lập trường đại học y khoa Đông Dương. Do vậy phương châm ra là “Khoa học hóa Đông y” và sau đó thay bằng “Kết hợp Đông - Tây y”. - Giải phẫu học và Sinh lý học là hai môn học quan trọng cung cấp những hiểu biết về cấu trúc và hoạt động của cơ thể con người bình thường. Trên cơ sở hai môn học trên, y học hiện đại nghiên cứu trên người bệnh để hình thành môn bệnh học và Sinh lý bệnh là môn học cơ sở. Hiện nay trong công tác đào tạo, Sinh lý bệnh được xếp vào môn học tiền lâm sàng, tạo cơ sở về kiến thức và phương pháp để sinh viên học tốt các môn lâm sàng. 3. Phương pháp nghiên cứu trong sinh lý bệnh 3.1. Khái niệm GS. Thomas “Thực nghiệm trên súc vật và quan sát trên người bệnh là phương pháp cơ bản của sinh lý bệnh”. Phương pháp thực nghiệm trong Y học được Claude Bernard phát triển và tổng kết từ gần 200 năm trước đây, đã giúp cho các nhà Y học nói chung và Sinh lý bệnh nói riêng có một vũ khí quan trọng trong nghiên cứu. Mục đích của y học thực nghiệm là phát hiện được những quy luật hoạt động của cơ thể bị bệnh qua các mô hình thực nghiệm trên súc vật. Phương pháp thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu xuất phát từ sự quan sát khách quan từ các hiện tượng tự nhiên (hiện tượng bệnh lý xảy ra), sau đó dùng các kiến 4
  5. thức hiểu biết từ trước tìm cách cắt nghĩa chúng (gọi là đề ra giả thuyết); sau đó dùng một hay nhiều thực nghiệm để chứng minh giả thuyết đúng hay sai (có thể thực nghiệm trên mô hình súc vật). 3.2. Các bước trong một nghiên cứu thực nghiệm 3.2.1. Bước 1: Quan sát và đề xuất vấn đề - Trước một hiện tượng bệnh lý, dù là nhà y học cổ truyền hay y học hiện đại, người ta đều quan sát và nhận xét hiện tượng bệnh lý. Từ mấy ngàn năm trước, Hyppocrate đã nhận thấy dịch mũi trong suốt, máu ở tim thì đỏ và nóng, máu ở lách thì sẫm hơn, quánh hơn. Điều này đến nay vẫn đúng. Bước một làm tốt sẽ tạo cho bước sau thuận lợi hơn trên con đường tìm đến chân lý. - Ngày nay, ngoài quan sát bằng giác quan, người ta còn sử dụng nhiều dụng cụ, máy móc, thiết bị để quan sát như: dụng cụ đo huyết áp, máy đo đường máu, siêu âm, cộng hưởng từ hạt nhân Nhờ vậy có thể thu được tối đa số lượng thông tim về hiện tượng bệnh lý mà ta quan sát. 3.2.2. Bước 2: Đề giả thuyết Sau khi quan sát (chủ quan hay khách quan), người ta tìm cách cắt nghĩa và giải thích những điều quan sát được. Những người quan sát có thể đồng thời phát hiện giống nhau nhưng cũng có thể khác nhau; cũng có thể giải thích khác nhau về cùng một hiện tượng mà họ cùng quan sát; tuy nhiên những giải thích trên mang tính chủ quan của con người, tuỳ thuộc vào quan điểm triết học của người quan sát mà nội dung giải thích cũng khác nhau (duy tâm, duy vật, biện chứng hay siêu hình). Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ phát triển của y học mà ý nghĩa cũng thay đổi. Từ quan sát, Hypocrate (500 năm BC) đã cho rằng: dịch mũi trong do não tiết ra; thể hiện tình trạng cơ thể bị lạnh; máu đỏ do tim tiết ra, thể hiện tình trạng nóng; còn máu đen do lách tiết ra, thể hiện tình trạng ẩm; và mật vàng do gan tiết ra, thể hiện tình trạng khô. Mọi bệnh lý xảy ra do sự mất cân bằng của 4 chất dịch trên. Phương pháp thực nghiệm do Claude Bernarde đã yêu cầu nhà khoa học: - Quan sát thật tỉ mỉ, khách quan. Càng nhiều thông tin trung thực thì giả thuyết càng dễ gần chân lý. - Khi giải thích, càng vận dụng những kết quả lý luận đã có càng làm cho việc đặt giả thuyết càng có nhiều cơ hội tiếp cận chân lý. Ngày nay, cần lưu ý đến những thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau, và tuỳ theo điều kiện cụ thể mà vận dụng cho thích hợp. Người bệnh đến với thầy thuốc với những triệu chứng cần được phát hiện bằng mọi cách một cách khách quan. Trước tiên người thầy thuốc phải dùng ngũ quan của mình để quan sát; sau đó kết hợp với những phương tiện kỹ thuật cận lâm sàng để tăng cường phát hiện những hiện tượng mà khả năng quan sát con người không làm được. Các xét nghiệm cận lâm sàng và thăm dò chức năng cho những kết quả khách quan, chính xác và nhạy hơn những điều mà bản thân thầy thuốc thu nhận được bằng ngũ quan của mình, song những kỹ thuật ấy cũng do con người làm ra nên chúng phải 5
  6. được tuân thủ những quy tắc và điều kiện thực hiện thì mới có đủ sức tin cậy. Khả năng quan sát của người thầy thuốc chỉ có thể phát triển khi được tiếp xúc với người bệnh thường xuyên. Sau khi có đầy đủ các dữ kiện ở người bệnh, người thầy thuốc hình thành trong trí óc của mình một mô hình bệnh lý nhất định. Đồng thời so sánh mô hình này với các mô hình khác (có được qua học tập, kinh nghiệm) để xem nó giống mô hình nào nhất và định hướng chẩn đoán phù hợp nhất. Nhưvậy chẩn đoán chỉ là một giả thuyết mà người thầy thuốc đặt ra dựa trên những quan sát khách quan thu được. 3.2.3. Chứng minh giả thuyết bằng các thực nghiệm Đây là bước bắt buộc, nhưng Y học cổ truyền đã không có điều kiện thực hiện mà chỉ dừng lại ở bước 1, tức là quan sát; rồi giải thích sau khi thử áp dụng "Y lý" của mình trong thực tiễn. Các thực nghiệm khoa học thường xây dựng các mô hình thực nghiệm trên súc vật từ những quan sát lâm sàng để chứng minh cho các giả thuyết đề ra. Các thực nghiệm này được tiến hành chủ động cấp diễn hoặc trường diễn, cho các hình ảnh bệnh lý sinh động theo thời gian thực nghiệm. Thực nghiệm có thể tiến hành trên từng tổ chức, từng cơ quan cô lập và trên cơ thể nguyên vẹn; hoặc phối hợp với nhau và tiến hành trên cơ thể sống (in vivo) hoặc trong ống nghiệm (in vitro). Nếu chẩn đoán đúng thì quyết định được biện pháp điều trị thích hợp và bệnh khỏi. Như vậy điều trị cũng là một bằng chứng thực nghiệm. Cần lưu ý bằng chứng này cũng có những điều kiện riêng cuả nó. Ví dụ sức đề kháng của cơ thể cần thiết cho quá trình tự khỏi của bệnh, hỗ trợ cho người thầy thuốc cũng như điều trị và làm cho quá trình tự lành bệnh được nhanh hơn. Cũng có bệnh tuy chẩn đoán ra nhưng khoa học hiện nay vẫn chưa điều trị khỏi. Cuối cùng nếu bệnh quá nặng, điều trị không phù hợp thì người bệnh chết và phương pháp giải phẫu thi thể và chẩn đoán sinh thiết là một bằng chứng thực nghiệm vô cùng quý giá. Muốn có kết quả cần thiết phải có các phương pháp đúng, Claude Bernard: “Chỉ có những phương pháp tốt mới cho phép chúng ta phát triển và sử dụng tốt hơn những khả năng mà tự nhiên đã phú cho chúng ta”. Muốn vậy phải có được những nhận xét lâm sàng chính xác, khách quan; đề ra những giả thuyết đúng đắn, khoa học; tìm các phương pháp thực nghiệm thích hợp để chứng minh cho sự phù hợp giữa thực tế lâm sàng và giả thuyết đã nêu; từ đó rút ra được những quy luật chung nhất của bệnh lý và cuối cùng là ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả trong thực tế (đối với công tác phòng bệnh và điều trị). 3.3. Đức tính phải có Nhà nghiên cứu cần có nhiều đức tính nhưng cần phải có 3 đức tính cơ bản nhất - Tỷ mỉ: Nhất là trong bước quan sát - Chính xác: Giác quan và máy móc đều có sai số lớn hay nhỏ, phải thực hiện các đo đạc với độ chính xác cao nhất có thể. - Trung thực: Khi quan sát, đề ra giả thuyết hoặc khi làm thực nghiệm để chứng minh càng trung thực càng dễ dàng thành công và càng nhiều cơ hội tiếp cận chân lý. 3.4. Vận dụng phương pháp thực nghiệm trong lâm sàng 6
  7. Người cán bộ y tế là người làm khoa học, quá trình khám để phát hiện đúng bệnh giống như quá trình phát hiện chân lý, nghĩa là tuân thủ theo đúng các bước đi trên. Chẩn đoán bệnh, chẩn đoán chăm sóc hay nhận định tình trạng bệnh thực chất là ứng dụng các bước của phương pháp thực nghiệm để tăng khả năng tìm ra được chân lý. Tác phong và đức tính của người cán bộ y tế trong trường hợp này vẫn là tỉ mỉ, chính xác, trung thực. LƯỢNG GIÁ 1. Trình bày 3 tính chất của môn sinh lý bệnh học? 2. Liệt kê 3 bước trong phương pháp thực nghiệm của sinh lý bệnh? 3. Sau khi học phương pháp thực nghiệm, để làm tốt công tác thì đức tính cần phải có của cán bộ y tế là gì? 7
  8. BÀI 2 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH MỤC TIÊU 1. Trình bày được quan niệm hiện nay về bệnh. 2. Trình bày được các đặc điểm cơ bản để hiểu về bệnh. 3. Phân biệt được bệnh, quá trình bệnh lý, trạng thái bệnh lý. NỘI DUNG 1. Khái niệm về bệnh Kể từ thời nguyên thủy cuả y học, trải qua trên 5000 năm, khái niệm về bệnh thay đổi theo thời gian, phụ thuộc chủ yếu 2 yếu tố: - Trình độ văn minh của xã hội đương thời - Thế giới quan (bao gồm cả triết học) của mỗi thời đại. Trong một xã hội có thể đồng thời xuất hiện nhiều khái niệm về bệnh, kể cả những khái niệm đối lập nhau, đó là điều bình thường - nó nói lên những quan điểm học thuật khác nhau có thể cùng tồn tại trong khi chờ đợi sự ngã ngũ. Một quan niệm về bệnh bao giờ cũng chi phối các nguyên tắc chữa bệnh, phòng bệnh. Do đó nó có vai trò rất lớn trong thực hành. 1.1. Một số khái niệm trong lịch sử 1.1.1. Thời nguyên thủy Bệnh là sự trừng phạt của các đấng siêu linh đối với con người ở trần thế. Ở đây có sự lẫn lộn giữa bản chất của bệnh với nguyên nhân gây bệnh. Đáng chú ý là quan niệm này bước sang thế kỷ XXI vẫn tồn tại ở những bộ tộc lạc hậu hoặc một bộ phận dân cư trong xã hội văn minh. Tuy nhiên trên thực tế người nguyên thủy đã bắt đầu biết dùng thuốc mà không chỉ phó mặc số phận cho thần linh. 1.1.2. Thời các nền văn minh cổ đại * Trung Quốc cổ đại: Trong những thời kỳ cổ đại, mỗi nền văn minh đều có những triết lý khác nhau về vũ trụ, về con người, về sự sống Chúng là cơ sở cho những khái niệm về bệnh của từng thời kỳ. Ví dụ như trong thời kỳ cổ Trung Hoa, quan niệm về vũ trụ là vạn vật đều do hai lực là âm, dương và năm nguyên tố là ngũ hành hình thành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). Con người một thứ tiểu vũ trụ nên mọi trạng thái đều phụ thuộc vào trạng thái cân bằng giữa hai lực và ngũ hành ấy. Các nhà y học Trung Quốc cổ đại cho rằng: Bệnh là sự mất cân bằng âm, dương và sự rối loạn quan hệ tương sinh tương khắc của ngũ hành trong cơ thể. Lý luận âm dương ngũ hành có vẻ mơ hồ, trừu tượng nhưng các thầy thuốc Đông y khi áp dụng vào trong điều trị bệnh đã thu được kết quả rất khả quan, không thể phủ nhận. 8
  9. * Hy Lạp và La Mã cổ đại Có hai trường phái lớn: - Trường phái Pythogore (600 năm trước CN) cho rằng: Trong cơ thể có 4 yếu tố Thổ (khô), Khí (ẩm), Hỏa (nóng), Thủy (lạnh) phù hợp về tỷ lệ và sự cân bằng sẽ tạo ra sức khỏe và ngược lại sẽ sinh bệnh. Cách chữa bệnh: cũng là điều chỉnh lại, bổ sung cái thiếu và yếu, kiềm chế cái mạnh và thừa. - Trường phái Hyppocrate (500 năm trước CN), không chỉ thuần túy như trường phái trên mà còn trực tiếp quan sát cơ thể sống. Ông cho rằng cơ thể có 4 dịch tồn tại theo tỷ lệ riêng, có quan hệ cân bằng với nhau để tạo ra sức khỏe, đó là: + Máu đỏ: do tim sản xuất, mang tính nóng; ông nhận xét rằng khi cơ thể bị sốt thì tim đập nhanh và da đỏ. Đó là do tim tăng cường sản xuất máu đỏ. + Dịch nhầy: do não sản xuất, mang tính lạnh; ông nhận xét rằng khi cơ thể bị lạnh thì dịch mũi chảy ra rất nhiều. + Máu đen: do lách sản xuất, mang tính ẩm. + Mật vàng: do gan sản xuất, mang tính khô Bệnh phát sinh là do mất cân bằng về tỷ lệ và quan hệ giữa 4 loại dịch đó. Lý thuyết của Hyppocrate có ảnh hưởng rất lớn đối với y học châu Âu thời cổ đại. Bản thân ông là nhà y học cổ truyền vĩ đại, có công lao rất lớn, ví dụ đã tách y học khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, chủ trương chẩn đoán bằng phát hiện triệu chứng khách quan, đề cao đạo đức y học, ông cũng là tác giả của “lời thề thầy thuốc” truyền tụng đến ngày nay. Bằng những quan sát và thực nghiệm là nền tảng cho y học sau này, Ông được coi là ông tổ của ngành Y học nói chung. * Các nền văn minh khác - Cổ Ai cập: Bệnh là do hít phải khí “xấu” và không trong sạch - Cổ Ấn Độ: Ảnh hưởng của đạo Phật, đạo Phật cho rằng con người có linh hồn, nếu nó còn ngự trị trong thể xác là sống, đe dọa thoát khỏi thể xác là bệnh, thoát hẳn khỏi thể xác là chết. 1.1.3. Thời kỳ Trung cổ và Phục hưng * Thời kỳ Trung cổ IV - XII): Bệnh là sự trừng phạt của Chúa đối với tội lỗi của con người. Thời này những nhà y học có quan điểm tiến bộ bị ngược đãi * Thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XVI - XVII), Y học có nhiều bước tiến nhảy vọt, có nhiều thuyết ra đời đặt nền móng cho y học hiện đại. Các thuyết đều cố vận dụng những thành tựu mới nhất của các khoa học khác. - Thuyết cơ học: Cơ thể như một cỗ máy, bệnh được ví như sự trục trặc của máy móc. - Thuyết hóa học: Bệnh tật là do sự thay đổi tỷ lệ các hóa chất trong cơ thể, hoặc sự rối loạn của các phản ứng hóa học. - Thuyết lực sống: Lực sống (lực làm cho sinh vật sống và không thối rữa) cũng chi phối sức khỏe và bệnh tật của cơ thể bằng lượng và chất của nó. 9
  10. 1.1.4. Thế kỷ XVIII – XIX: Đây là thời kỳ phát triển của y học hiện đại, với sự vững mạnh của Giải phẫu học và Sinh lý học. Rất nhiều quan niệm về bệnh ra đời dựa trên những kết quả đã được thực nghiệm kiểm tra và khẳng định - Thuyết bệnh lý tế bào: Bệnh là do các tế bào bị tổn thương, hoặc các tế bào tuy lành mạnh nhưng thay đổi về số lượng, vị trí và thời điểm xuất hiện. - Thuyết rối loạn hằng định nội môi: Claud Benard (nhà sinh lý học thiên tài) cho rằng: Bệnh xuất hiện khi có rối loạn hằng định nội môi trong cơ thể. - Freud (1856- 1939) cho rằng: Bệnh là do rối loạn và mất cân bằng giữa ý thức, tiềm thức, bản năng. 1.2. Quan niệm về bệnh hiện nay 1.2.1. Những yếu tố liên quan * Hiểu biết về bệnh qua các quan niệm về sức khỏe - WHO/OMS (1946) đưa ra định nghĩa: “Sức khỏe là tình trạng thoải mái về tinh thần, thể chất và giao tiếp xã hội chứ không phải chỉ là vô bệnh vô tật”. Đây là định nghĩa mang mục tiêu xã hội đang được chấp nhận rộng rãi. - Các nhà Y học cho rằng: “Sức khỏe là tình trạng lành lặn của cơ thể về cấu trúc, chức năng, cũng như khả năng điều hòa giữa cân bằng nội môi, phù hợp và thích nghi với sự thay đổi của ngoại cảnh. 1.2.2. Mức trừu tượng và mức cụ thể trong định nghĩa về bệnh * Mức trừu tượng cao nhất khi xác định tổng quát về bệnh - “Bệnh là tình trạng tổn thương hoặc rối loạn về cấu trúc và chức năng, dẫn tới mất cân bằng nội môi và giảm khả năng thích nghi với ngoại cảnh” - Hoặc “Bệnh là sự thay đổi về lượng và chất các hoạt động sống của cơ thể do tổn thương cấu trúc và rối loạn chức năng, gây ra do tác hại từ môi trường hoặc từ bên trong cơ thể”, v..v... Định nghĩa này phải bao hàm được mọi bệnh lý từ rất nhỏ đến lớn. * Giảm mức trừu tượng hơn nữa, người ta định nghĩa bệnh như trong quá trình bệnh lý chung. - Đó là tình trạng bất thường gặp phổ biến (trong nhiều cơ thể bị các bệnh khác nhau), có tính chất tương tự nhau, không phụ thuộc nguyên nhân, vị trí tổn thương, loài và cùng tuân theo một quy luật. * Tăng mức cụ thể hơn nữa, khi ta cần xác định loại bệnh Nói khác, đó là quan niệm coi mỗi bệnh như một “đơn vị phân loại”. Ví dụ viêm phổi (không phải viêm nói chung), sốt thương hàn (không phải sốt nói chung), bệnh ung thư da (không phải quá trình u nói chung)... - Định nghĩa hiện nay đang được lưu hành là: “Bệnh là bất kỳ sự sai lệch nào về cấu trúc và chức năng của bất kỳ bộ phận, cơ quan, hệ thống nào của cơ thể biểu hiện bằng một bộ triệu chứng đặc trưng giúp cho thầy thuốc có thể chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt, mặc dù nhiều khi ta chưa rõ về nguyên nhân, về bệnh lý học và tiên lượng” (Từ điển Y học Dorlands 2000). 10