Những dấu ấn sinh học mới trong quản lý Viêm Gan B Mạn
Bạn đang xem tài liệu "Những dấu ấn sinh học mới trong quản lý Viêm Gan B Mạn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
nhung_dau_an_sinh_hoc_moi_trong_quan_ly_viem_gan_b_man.pdf
Nội dung text: Những dấu ấn sinh học mới trong quản lý Viêm Gan B Mạn
- NHỮNG DẤU ẤN SINH HỌC MỚI TRONG QUẢN LÝ VIÊM GAN B MẠN Takako Inoue và Yasuhito Tanaka Khoa Y học lâm sàng, Bệnh viện Đại học Thành phố Nagoya Khoa Tiêu hóa và Gan mật Đại học Kumamoto, TP Kumamoto, Nhật Bản Clinical and Molecular Hepatology – V 26- N 3- July-2020 Virus viêm gan B (HBV) không thể được loại bỏ hoàn toàn khỏi tế bào gan bị nhiễm bệnh do sự hiện diện của cccDNA. Vì viêm gan B mạn tính (CHB) có thể tiến triển thành xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), điều quan trọng là phải quản lý CHB để ngăn ngừa sự phát triển HCC ở những bệnh nhân có nguy cơ cao như: lượng virus tăng nhanh hoặc xơ hóa tiến triển. Dấu ấn sinh học trong huyết thanh là phương pháp không xâm lấn và có giá trị để quản lý CHB. Kháng nguyên core viêm gan B (HBcrAg) tương quan với HBV DNA huyết thanh và cccDNA trong tế bào gan. Ở những bệnh nhân CHB có HBV DNA huyết thanh không phát hiện được hoặc mất HBsAg, HBcrAg vẫn có thể được phát hiện và sự giảm nồng độ HBcrAg có hy vọng hết bệnh cho bệnh nhân. Do đó, HBcrAg có thể dự đoán sự xuất hiện hoặc tái phát HCC. Việc đo đồng phân glycosyl hóa protein liên kết Mac-2 (M2BPGi) đã được giới thiệu để đánh giá xơ hóa gan. Bởi vì M2BPGi tăng cao trong CHB có liên quan đến xơ hóa gan và dự đoán sự phát triển của HCC, việc theo dõi tiến triển của nó là rất cần thiết. Do alpha fetoprotein (AFP) không đủ độ nhạy và độ đặc hiệu cho HCC giai đoạn đầu, nên sự kết hợp giữa AFP và PIVKAII , hoặc AFP L-3 - sẽ cải thiện chẩn đoán HCC. Ngoài ra, Dickkopf-1 và các kháng thể immunoglobulin G lưu hành là những dấu ấn mới để chẩn đoán HCC hoặc đánh giá tiên lượng HCC. Bài này cung cấp một cái nhìn tổng quan về các dấu ấn sinh học HBV mới được sử dụng để quản lý sự phát triển của virus trong cơ thể, tiến trình xơ hóa gan và dự đoán HCC. I.GIỚI THIỆU Virus viêm gan B (HBV) là nguyên nhân phổ biến của bệnh gan cấp tính và mãn tính. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính trong năm 2015, đã có 257 triệu người mắc bệnh viêm gan B mãn tính (CHB), được định nghĩa là kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg). Phần lớn các trường hợp nhiễm HBV mới xảy ra ở các khu vực lưu hành cao như Trung Quốc, Đông Nam Bộ Châu Á và châu Phi cận Sahara. HBV là nguyên nhân phổ biến nhất của ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), chiếm hơn 50% trường hợp trên toàn ung thư toàn thế giới. So với bệnh Page 1 of 18
- nhân không bị nhiễm HBV, nguy cơ phát triển HCC tương đối tăng 15 lần so với bệnh nhân không nhiễm HBV. Trong khi đó, theo báo cáo các về phát triển HCC đã thay đổi đáng kể trong 12 năm qua. Trong báo cáo của họ, HCC liên quan đến virus viêm gan B và C trở nên ít phổ biến hơn, và nhiều bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn ung thư sớm. Thật không may, mặc dù các chất tương tự nucleos (t) ide (NA) hoặc interferon (IFN) có thể ngăn chặn hiệu quả sự sao chép của HBV, nhưng đây không phải là phương pháp điều trị hết bệnh. Những thuốc này không nhắm trực tiếp vào cccDNA, phần tử chủ chốt chịu trách nhiệm sự tồn tại của virus. cccDNA là mẫu phiên mã ổn định, ngoài mẫu sao chép nhiễm sắc thể cho tất cả các mRNA HBV như pRNA tiền gen. Số lượng và hoạt động phiên mã của cccDNA trong tế bào gan rất quan trọng đối với tiến triển CHB và kết quả lâm sàng. Mục đích hiện tại của điều trị chống HBV chủ yếu để ngăn chặn các biến chứng liên quan đến viêm tiến triển và xơ hóa, nghĩa là suy gan và xơ gan mất bù. Chẩn đoán và theo dõi HCC chủ yếu dựa trên việc phát hiện các dấu ấn ung thư và kỹ thuật hình ảnh. Tuy nhiên vẫn có yêu cầu về dấu ấn sinh học, không xâm lấn, đáng tin cậy và chi phí dễ chấp nhận để quản lý CHB. Đặc biệt, một số lượng đáng kể bệnh nhân CHB, không xơ gan vẫn phát triển HCC. Hướng dẫn hiện tại khuyên nên siêu âm bụng 6 tháng đối với bệnh nhân nghi ngờ HCC ở bệnh nhân CHB xơ hóa hoặc xơ gan tiến triển và cả bệnh nhân không bị xơ gan nhưng ở chủng tộc và độ tuổi nguy cơ cao. Các dấu ấn sinh học để tiên đoán hoặc chẩn đoán tốt hơn HCC vẫn là một ưu tiên lâm sàng và nghiên cứu quan trọng. Trong đánh giá này, chúng tôi giới thiệu các dấu ấn sinh học mới có tiềm năng lớn để quản lý CHB và đánh giá tiên lượng. Đầu tiên là một dấu ấn phản ánh sự sao chép HBV , kháng nguyên HBcrAg, cho thấy mối tương quan tốt với cccDNA. Chất đồng phân glycosyl hóa protein gắn kết Mac-2 (M2BPGi), là một chất đánh giá xơ hóa gan có thể dự đoán sự phát triển của HCC. Cuối cùng, thứ ba là dấu ấn u gan, alpha-fetoprotein (AFP), PIVKA-II ( DCP), AFP- L3, Dickkopf-1 (DKK-1) và các kháng thể immunoglobulin G (IgG) . Chúng tôi sẽ tập trung vào giá trị lâm sàng của các dấu hiệu này như là yếu tố dự báo sự phát triển HCC liên quan đến HBV (Hình 1). Page 2 of 18
- Hình 1. Mối liên quan giữa nhiễm HBV và diễn tiến bệnh gan- Các dấu ấn quan trọng trong theo dõi diễn tiến bệnh dự đoán ung thư và theo dõi ung thư tái phát II. NHỮNG DẤU ẤN SINH HÓA THEO DÕI BỆNH NHÂN NHIỄM HBV Với những phát triển trong nghiên cứu phân tử, một số dấu ấn sinh học liên quan đến lịch sử tự nhiên của CHB và hiệu quả của liệu pháp kháng vi-rút đã được xác định. Dấu ấn sinh học huyết thanh thông thường bao gồm nồng độ HBV DNA huyết thanh và HBsAg định lượng, cả hai đều dự đoán nguy cơ xơ gan và HCC. Định lượng HBsAg đã được sử dụng như một dấu ấn dự đoán của bệnh gan, mất HBsAg tự phát, xơ gan và phát triển HCC, khi bổ sung cho phép đo HBV DNA. Tuy nhiên, xơ gan và HCC vẫn có thể xảy ra khi bệnh nhân có huyết thanh HBV DNA và HBsAg không phát hiện được. Ngoài ra, các dấu ấn sinh học dự đoán hiệu quả điều trị, chuyển đổi huyết thanh HBeAg, đáp ứng trước và sau khi ngừng điều trị NA. III. DẤU ẤN HBcrAg Dấu ấn sinh học hiệu quả mới, có nhiều tính năng độc đáo: tiên đoán đáp ứng điều trị, khả năng dự đoán HCC và nhiều ứng dụng trong quản lý viêm gan B mạn. 1.Các thành phần của HBcrAg (Hình 2) Page 3 of 18
- Hình 2. Vòng đời virus viêm gan B và HBcrAg. Nguồn gốc các phân tử HBV ứng dụng trong lâm sàng dùng chẩn đoán, theo dõi, tiên lượng bệnh. HBcrAg chứa ba sản phẩm được mã hóa bởi gen preore / core. HBeAg là một peptide tuần hoàn có nguồn gốc từ protein trước khi phân giải protein và được tiết ra từ tế bào gan. HBcAg là một thành phần của virion và tạo thành nucleocapsid bao quanh DNA của virus. p22cr là một tiền protein 22 kDa có trong hạt tử Dane rỗng âm tính với HBV DNA. Tất cả ba protein đều có chung một chuỗi 149 axit amin . HBcAg, p22cr và HBeAg đều có thể được đo là HBcrAg bằng xét nghiệm huyết thanh học. 2.Phát triển xét nghiệm HBcrAg Báo cáo đầu tiên của HBcrAg năm 2002 liên quan đến sự phát triển của xét nghiệm miễn dịch enzyme nhạy cảm đặc hiệu với HBcAg và HBeAg. Kimura Page 4 of 18
- và cộng sự đã tiết kế các sản phẩm gen core , precore bao gồm HBcAg và HBeAg, là HBcrAg. Xét nghiệm này phát hiện HBcAg và HBeAg, ngay cả trong các mẫu dương tính chống HBc hoặc chống HBe. Do mức độ HBcrAg phản ánh mức độ HBV DNA huyết thanh, xét nghiệm này có thể được sử dụng bổ sung cho HBV DNA để theo dõi bệnh nhân CHB. Tiến bộ hơn nữa đã đạt được với sự phát triển của xét nghiệm miễn dịch men hóa phát quang để phát hiện HBcrAg. Thực hiện lâm sàng của xét nghiệm này được đánh giá hiệu quả ở bệnh nhân CHB. Nồng độ HBcrAg tương quan với nồng độ HBV DNA. Độ chính xác của phép đo tải lượng HBV DNA có được từ xét nghiệm HBcrAg không bị ảnh hưởng bởi sự vắng mặt của HBeAg trong huyết thanh hoặc sự hiện diện của các đột biến trước đó trong bộ gen HBV. Thông tin chi tiết hơn về các ứng dụng mới nhất của HBcrAg đã được xem xét gần đây. Các xét nghiệm HBcrAg định lượng hiện tại có giới hạn phát hiện thấp hơn 100 U / mL, nhưng điểm giới hạn hiện tại là 1.000 (3 log) U / mL. So với test HBcrAg trước đây, chỉ đo HBc, các hệ thống được phát triển gần đây sử dụng p22cr (hạt rỗng) và HBeAg tự động, nhạy hơn và nhanh hơn bằng cách khử kích hoạt chống HBc và chống HBe trong các mẫu thử. Nhật Bản đầu tiên đề xuất HBcrAg trong hướng dẫn lâm sàng về quản lý CHB, sau đó là khu vực châu Á và đến châu Âu. 3.Đánh giá lâm sàng gần đây của HBcrAg Công cụ sinh học mới, HBcrAg, đã được sử dụng để hỗ trợ theo dõi CHB và dự đoán kết quả lâm sàng. Các ứng dụng lâm sàng được báo cáo gần đây của HBcrAg (Bảng 1). -Nồng độ HBcrAg trong huyết thanh có liên quan chặt chẽ với nồng độ cccDNA trong nhân tế bào gan, cũng như HBV DNA huyết thanh. Riveiro- Barciela và cộng sự báo cáo rằng nồng độ HBsAg <3 log IU / mL chỉ có giá trị người mang HBV genotype D, không hoạt động. Khi HBcrAg < 3 log log U / mL cộng với HBV DNA ≤2.000 IU / mL có độ chính xác cao trong việc phát hiện người mang HBV không hoạt động, bất kể kiểu gen HBV . Các nghiên cứu đã xác nhận nồng độ HBcrAg trong huyết thanh cao hơn đáng kể ở bệnh nhân HBeAg dương tính so với HBeAg âm tính mà không điều trị bằng thuốc kháng vi-rút và nó cũng tương quan với HBV DNA huyết thanh, pgRNA và cccDNA. Bệnh nhân âm tính với HBcrAg (<3 log U / mL) có lượng cccDNA thấp hơn và hoạt động của cccDNA thấp hơn so với bệnh nhân dương tính với HBcrAg. Hasegawa và cộng sự đã tạo ra một công thức dự đoán hữu ích cho mức độ cccDNA trong nhân tế bào gan ở bệnh nhân CHB. Công thức được đặt tên là điểm số đường huyết lúc đói (FBS)-cres score, dựa trên các biến được sử dụng (FBS, HBcrAg, HBeAg và HBsAg). Điểm FBS-cres score được tính theo phương trình sau: 3.1686 - (0,0148 × FBS) + (0,1982 × HBcrAg) + (0,0008168 × HBeAg) + (0,1761 × log10 (HBsAg)). Ví dụ, trong đoàn hệ, một mối tương quan đáng kể đã được thể hiện giữa mức độ HBcrAg và cccDNA (P <0,0001, r Page 5 of 18
- = 0,67), trong khi điểm FBS-cres có mối tương quan chặt chẽ hơn với mức cccDNA (P <0,0001, r = 0,81) . Trong các khu vực hạn chế về tài nguyên như Châu Phi, các xét nghiệm định lượng DNA HBV có hạn chế và rất tốn kém. Shimakawa và cộng sự đã đánh giá triển vọng của HBcrAg để xác định bệnh nhân Gambian đủ điều kiện điều trị, sử dụng thuật toán thử nghiệm mới không bao gồm HBV DNA. Một thuật toán dễ dàng, dùng trong điều trị, trong đó có HBcrAg không có HBV DNA , với độ nhạy 96,6% và độ đặc hiệu 85,8%. Việc đo HBcrAg, rẻ hơn 5 lần 10 lần so với xét nghiệm HBV DNA, có thể thay thế xét nghiệm HBV DNA. 4. Sự thay đổi HBcrAg và những dấu ấn khác của HBV trong khi điều trị NA Giảm HBV DNA huyết thanh không tương quan với giảm cccDNA trong nhân ở bệnh nhân đang điều trị chống HBV. Trong một nghiên cứu trên 43 bệnh nhân được điều trị bằng NA dương tính hoặc âm tính với HBeAg, 51% vẫn có thể phát hiện được cccDNA. Tương tự báo cáo ở 24 bệnh nhân dương tính với HBeAg được điều trị bằng pegylated interferon (PEG-IFN) và adefovir (ADV) sau đó là đơn trị liệu ADV , 46% bệnh nhân có HBV DNA huyết thanh không phát hiện được và 66% có cccDNA phát hiện được. Sự khác biệt giữa HBcrAg huyết thanh và HBV DNA có thể được giải thích bằng tác động của NA đối với sao chép ngược và ngăn chặn sự sao chép DNA HBV, trong khi việc sản xuất HBcrAg vẫn tồn tại. Việc giảm HBcrAg đã chứng minh mối tương quan tốt với mức độ thay đổi nồng độ cccDNA trong nhân. Ngược lại với HBV DNA huyết thanh, việc giảm HBcrAg chậm hơn trong khi điều trị NA, với sự gia tăng tỷ lệ HbcrAg/ HBV DNA huyết thanh sau 3 tháng sử dụng lamivudine. Hơn nữa, ở những bệnh nhân được điều trị NA, HBV DNA huyết thanh không phát hiện được, trong đó còn 78% có HbcrAg. Ngay cả ở những bệnh nhân có huyết thanh HBsAg âm tính vẫn còn 21% có HBcrAg có thể phát hiện được, mặc dù HBV huyết thanh có thể phát hiện được chỉ 2,1% . Nồng độ HBcrAg trong huyết thanh ban đầu và thay đổi trong khi điều trị chống HBV cũng có thể dự đoán hiệu quả và tiên lượng cho CHB. Do HBV DNA không thể phát hiện được ở hầu hết các bệnh nhân nhân điều trị NA, nên HBcrAg sẽ được sử dụng làm chất đánh dấu thay thế. Đối với những bệnh nhân dương tính với HBeAg được điều trị bằng PEG-IFN, mức HBcrAg cơ bản cao> 8 log U / mL sẽ dự đoán khoảng 94% không đạt được chuyển đổi huyết thanh HBeAg và ức chế DNA HBV sau 12 tuần. Nồng độ HBcrAg thay đổi khi điều trị có thể dự đoán kết quả lâm sàng. Trong 58 bệnh nhân dương tính với HBeAg được điều trị bằng PEG-IFN, nồng độ HBcrAg ở tuần 12 dự đoán chuyển đổi huyết thanh HBeAg sau 24 tuần sau khi kết thúc điều trị với AUROC là 0,896. Đối với bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp NA (n = 39), nồng độ HBcrAg thấp hơn ở những bệnh nhân có chuyển đổi huyết thanh HBeAg so với các bệnh nhân còn HBeAg dương tính. Page 6 of 18
- Kết hợp HBsAg, HBcrAg để tiến đoán hiệu quả điều trị. HbcrAg ban đầu là yếu tố tiên đoán độc lập HBcrAg sẽ dưới ngưỡng phát hiện. Sự thay đổi HbcrAg tương quan HBsAg khi điều trị NA cả HBeAg dương và âm tính. Một nghiên cứu cho thấy sau khi điều trị NA 8 năm chỉ có 21,3% có HBcrAg< 3log. 5. HBcrAg trong tiên đoán dừng điều trị NA Mục đích của điều trị CHB là chuyển đổi huyết thanh HBeAg, mất HBsAg và giảm HBcrAg. Đối với bệnh nhân HBeAg âm tính, mục đích là mất HBsAg. Vì rất khó để mất HBsAg nên sự giảm HBsAg và HBcrAg được xem xét là hiệu quả điều trị NA. Vì vậy HBcrAg có thể hữu ích ở pha HBeAg âm tính và Hiệp hội gan Nhật bản đã dùng trong hướng dẫn ngưng thuốc NA trong điều trị CHB . Tiêu chuẩn cho ngừng NA là : 1. Ít nhất đã điều trị 2 năm NA , 2. HBV DNA âm tính , 3.HBeAg âm tính. Khi có đủ 3 tiêu chuẩn này, nguy cơ tái phát được quyết định bởi lượng HBsAg và HBcrAg tại thời điểm ngừng điều trị. Trong quá trình điều trị NA, HBcrAg có thể giảm, sự giảm này có thể tiên đoán tái phát sau khi ngưng NA. Khi ngừng NA mà HBcrAg>3.7 log sẽ tiên đoán tái phát sau 1 năm. Khi điều trị ETV hay TDF, HBcrAg là yếu tố tiên đoán tái phát độc lập. 6. HBcrAg tiên đoán HCC xảy ra hay tái phát Rất khó tiên đoán HCC xảy ra ở bệnh nhân đang điều trị NA. Nồng độ cao HBV DNA là yếu tố nguy cơ xơ gan, HCC. HBV DNA âm tính giảm nguy cơ HCC nhưng điều này không hoàn toàn đúng. Nhiều dấu ấn liên quan phát triển HCC ở bệnh nhân CHB bao gồm HBcrAg (bảng 1 ) HBcrAg thì chính xác hơn HBV DNA trong tiên đoán HCC đối với bệnh nhân CHB chưa từng điều trị. Trong quá trình theo dõi bệnh nhân CHB không điều trị, có đột biến core promoter với HBcrAg>2,9 log có khả năng xảy ra HCC. Trong một nghiên cứu khác người ta thấy rằng, HBcrAg là yếu tố độc lập tiên đoán HCC ở bệnh nhân có lượng virus trung bình (2.000—19.999 IU/mL), khi HBcrAg 4 log cho thấy nguy cơ cao HCC. Đối với bệnh nhân điều trị NA, mặc dù HBV DNA âm tính nhưng HCC vẫn xảy ra. Khả năng ung thư xảy ra sau 3 năm là 13,6% , 5 năm là 17,7 % khi HBcrAg > 3,4 log ở thời điểm HBV DNA âm tính. Khả năng ung thư xảy ra sau 3 năm là 0%, 5 năm là 2,4 % khi HBcrAg <3,4 log ở thời điểm HBV DNA âm tính. Sau điều trị HBcrAg>3,9log tiên đoán nguy cơ HCC với tỉ số chênh 5,95. Để tìm hiểu hiệu quả lâu dài của điều trị NA, người ta đã so sánh bệnh nhân CHB có điều trị NA và không điều trị, người ta thấy rằng HBcrAg ban đầu cao và đôt biến BCP dễ tiến triển ung thư dù có điều trị hay không. Nghiên cứu mới đây cho thấy rằng kết hợp HBsAg định lượng và HBcrAg là dấu ấn hiệu quả đánh giá HCC xảy ra ở bệnh nhân CHB. Người ta thấy rằng bệnh nhân HbeAg âm Page 7 of 18
- tính , HCC hay xảy ra ở bệnh nhân HBsAg thấp và HBcrAg cao mặc dù điều trị NA. Mức độ HBcrAg trước phẫu thuật là dấu ấn có giá trị để theo dõi tái phát HCC, nhiền nghiên cứu đã xác nhận điều này. Trong một nghiên cứu 55 bệnh nhân HBcrAg> 4,8log lúc chẩn đoán HCC và tỉ số rủi ro là 8,89 trong tiên đoán tái HCC sau 2 năm. Cuối cùng tỉ lệ sống còn trong nhóm HBcrAg cao lại thấp hơn nhóm HBcrAg thấp. Bảng 1. Ứng dụng HBcrAg trên bệnh nhân viêm gan B mạn Phâ loại Tình hình bệnh Nồng độ HBcrAg (log U/mL) Diễn tiến tự Chuyển đổi huyết thanh HBeAg <4,92 log nhiên Chuyển đổi huyết thanh HBsAg Âm tính , (2,7 log) Hoạt động cccDNA trong gan thấp hoặc <3log cccDNA không hoạt động Phản ảnh virus không hoạt động ≤ 3log và HBV DNA ≤ với độ tin cậy cao 2000 U/mL Điều trị kháng Chuyển đổi huyết thanh HBeAg Không đáp ứng khi ban virus khi dùng PegIFN tuần 12 đầu HBcrAg>8log Page 8 of 18
- Chuyển đổi huyết thanh HBeAg Không đáp ứng khi ban khi dùng PegIFN + NA 4 tuần đầu HBcrAg>4,5 log và tiếp tục PegIFN 20 tuần Không kháng Lamivudine <4,6log sau 6 tháng điều trị Tái phát trong vòng 1 năm sau HBcrAg> 3,7 log lúc khi ngưng NA dừng Tái phát bất kể HBV DNA âm 3,2—3,7 log khi ngừng tính hơn 6 tháng NA HCC xảy ra hay Nguy cơ cao khi HBV DNA ≥ 4log tái phát trung bình ( 2.000- 19.900 U/mL) Tích lũy HCC trong khi điều tri ≥3,4 log ở thời điểm NA HBV DNA âm tính Phát triển HCC trong khi điều Phát hiện HBcrAg tri NA Hiệu quả lâu dài của NA đối với HBcrAg cao và đột HCC biến BCP liên quan HCC, độc lập với NA Đánh giá tái phát HCC HBcrAg>3log và HBsAg>3log Tỉ lệ HCC đối với BN đã điều >4,67log trước điều trị trị và > 3,89 log sau điều trị Phát triển HCC BN chưa điều >2,9log trị HCC tái phát trong vòng 2 năm >4,8 log lúc chẩn đoán Tái phát HBV Tái phát HBV khi dùng ức chế Phát hiện HBcrAg lúc miễn dịch 2 năm ban đầu Tái nhiễm HBV cccDNA cao sau ghép gan >4 log trước khi ghép gan IV.DẤU ẤN ĐÁNH GIÁ XƠ HÓA GAN: M2BPGi Dựa trên sự thay đổi cấu trúc M2BP trong tiến trình xơ hóa gan, M2BPGi được phát triển như là glycobiomarker đánh giá các giai đoạn xơ hóa gan. M2BPGi được dùng trong viêm gan B mạn, đánh giá xơ hóa gan và tiên đoán HCC. 1.M2BPGi và đặc tính: Page 9 of 18
- Năm 2013 M2BPGi được giới thiệu như dấu ấn sinh hóa đánh giá xơ hóa gan. Gan xơ hóa làm thay đổi chuỗi đường M2BP, sau khi gắn kết glycosylation tạo thành M2BPGi, mức độ M2BPGi này tương quan đáng kể với sự tiến triển của xơ hóa gan. Các xét nghiệm định lượng của M2BP huyết thanh với các cấu trúc chuỗi đường biến đổi đặc hiệu xơ hóa, nghĩa là M2BPGi, đã được phát triển, đánh giá và phê duyệt cho sử dụng lâm sàng tại Nhật Bản . M2BPGi được phát hiện bằng cách sử dụng mối liên kết lectin gọi là WFA (Hình 3) . Một xét nghiệm tự động đo nồng độ M2BPGi huyết thanh, dùng 10 µL huyết thanh , trong thời gian 17 phút cho kết quản (Hình 3B) . Thử nghiệm M2BPGi (Sysmex Corp, Hyogo, Nhật Bản) với cut-off nhỏ hơn 1 là âm tính. Hình 3. Phát hiện WFA-M2BP. A: Cấu trúc WFA-M2BP, B: Quá trình định lượng M2BPGi trong vòng 17 phút 2. M2BPGi cho dự đoán HCC trong CHB M2BPGi chủ yếu được sử dụng để đánh giá xơ gan ở bệnh nhân CHC. Tuy nhiên, giá trị chẩn đoán của M2BPGi để đánh giá xơ hóa gan đã được chứng minh ở bệnh nhân viêm gan virus, CHB, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, và bệnh đường mật, CHC. Ngoài ra, nồng độ M2BPGi có thể tiên lượng về nguy cơ phát triển HCC ở CHB, CHC hoặc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Hơn nữa, ở bệnh nhân CHC có đáp ứng virus kéo dài sau điều trị DAA, M2BPGi là yếu tố tiên lượng cho sự phát triển của HCC ở những bệnh nhân không có tiền sử HCC trước đó. Trong phần này, chúng tôi tóm tắt các nghiên cứu cho thấy M2BPGi có hiệu quả tốt trong việc đánh giá xơ hóa gan và dự đoán HCC ở CHB. Mức M2BPGi dự đoán sự phát triển HCC ở bệnh nhân CHB. Kim và cộng sự Page 10 of 18