Nghiên cứu so sánh chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới của các nước phát triển và đang phát triển

pdf 14 trang Đức Chiến 04/01/2024 780
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu so sánh chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới của các nước phát triển và đang phát triển", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_so_sanh_chinh_sach_khoa_hoc_cong_nghe_va_doi_moi.pdf

Nội dung text: Nghiên cứu so sánh chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới của các nước phát triển và đang phát triển

  1. VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 Review article/Original article Science, Technology and Innovation Policies in Developed and Developing Countries Do Huyen Trang* VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam Received 23 August 2018 Revised 01 March 2019; Accepted 01 March 2019 Abstract: Science, technology and Innovation (STI) plays different roles in developed and developing countries. In developed countries, STI is considered a driving force for innovation, and play a key role in maintaining high economic growth. Meanwhile, the underdeveloped economic and social structure, as well as the largely dependent on foreign technologies of developing countries has led to the insignificant role of STI. However, as STI has brought greater benefits for developing countries in supporting socio-economic development and industrialization, the awareness of STI’s important role has been increased recently. The problem now lies in how developing countries build effective STI policies and strategies. To tackle this problem, more attention and resource have been being located to STI policies making and implementing. Keywords: Policy, Science, Technology and Innovation, Developing countries. * ___ * Corresponding author. E-mail address: 1
  2. VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 Nghiên cứu so sánh chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới của các nước phát triển và đang phát triển Đỗ Huyền Trang* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 336 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 23 tháng 8 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 01 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 01 tháng 3 năm 2019 Tóm tắt: Khoa học, Công nghệ và Đổi mới (STI) đóng vai trò rất khác nhau ở các nước phát triển và đang phát triển. Tại các nước phát triển với nhiều điều kiện tiên tiến, STI là động lực thúc đẩy đổi mới công nghệ, đồng thời đóng vai trò chủ đạo trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Trái lại, ở các nước đang phát triển, STI có vai trò không đáng kể do cấu trúc kinh tế và xã hội lạc hậu và sự phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ nước ngoài. Gần đây, cùng với sự thừa nhận về những lợi ích to lớn của STI trong hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội và quá trình công nghiệp hóa, nhận thức về tính thiết yếu của STI tại các nước đang phát triển đã ngày một gia tăng. Vấn đề hiện tại nằm ở chỗ làm thế nào các nước đang phát triển có thể vượt qua được vòng luẩn quẩn của sự kém phát triển, cũng như xây dựng các chiến lược và chính sách STI hiệu quả. Gần đây, nhiều nước đang phát triển có quan điểm tích cực đối với phát triển nền tảng khoa học và công nghệ (KH&CN). Để đạt được mục đích này, họ đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến việc hoạch định và thực thi chính sách STI quốc gia. Từ khóa: Chính sách, Khoa học, Công nghệ và Đổi mới, STI, nước đang phát triển. 1. Mở đầu (R&D). Tuy nhiên, gần đây, các tiếp cận phân tích mới đã xem xét các yếu tố như cấu trúc kinh Khoa học, công nghệ và đổi mới không chỉ tế - xã hội lạc hậu của các nước đang phát triển là một khía cạnh của tăng trưởng, mà còn là một và những điểm yếu vốn có của nền KH&CN ở yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã các nước này, khiến cho các nhà khoa học cũng hội, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trong như các nhà hoạch định chính sách bắt đầu hoài quá khứ, dưới tác động của những quan niệm nghi về cái nhìn lạc quan nói trên. chung nhấn mạnh tầm quan trọng của khoa học Ngày nay, KH&CN đóng vai trò rất khác và công nghệ đối nhau ở các nước phát triển và đang phát triển. với phát triển kinh tế, nhiều quốc gia đã giữ quan Tại các nước phát triển với nhiều điều kiện tiên điểm về mối quan hệ cân đối giữa tăng trưởng tiến, KH&CN là động lực thúc đẩy đổi mới công kinh tế và đầu tư nghiên cứu và triển khai nghệ, đồng thời đóng vai trò chủ đạo trong việc ___ Tác giả liên hệ. Địa chỉ Email: 1
  3. 2 L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Trái lại, ở mẽ cho quá trình công nghiệp hóa, các nước các nước đang phát triển, KH&CN có vai trò đang phát triển đã nhận ra tính thiết yếu của việc không đáng kể do cấu trúc kinh tế và xã hội lạc phát triển KH&CN. Gần đây, nhiều nước đang hậu và sự phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ phát triển có quan điểm tích cực đối với phát nước ngoài. Đầu tư vào R&D mang hình thái tiêu triển KH&CN. Để đạt được mục đích này, họ đã dùng, và dường như không nghĩ tới sản xuất. Đây thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến việc hoạch định là lý do khiến nhiều chuyên gia tin rằng vấn đề và thực thi chính sách khoa học quốc gia. Với sự về sự lạc hậu mà các nước đang phát triển đang hỗ trợ của các tổ chức nghiên cứu quốc tế, các phải đối mặt không tương tự với những giai đoạn kết quả nghiên cứu có liên quan đến chính sách đầu công nghiệp hoá của các nước công nghiệp KH&CN của các nước đang phát triển. Với sự phát triển. Theo đó, dưới mức phát triển và phát hỗ trợ của các tổ chức nghên cứu quốc tế, các triển không phải là các điều kiện trước và sau nghiên cứu có liên quan đến chính sách STI của theo thước đo thống nhất biểu hiện một quy trình các nước đang phát triển đã đạt được những kết phát triển thường quy. Quan điểm này cho rằng, quả nhất định. tình trạng kém phát triển của các nước đang phát triển hiện nay là một trong những hậu quả trực tiếp của mối quan hệ hiện tại giữa họ và các nước 2. Về Chính sách STI công nghiệp phát triển. Thậm chí mối quan hệ này còn là một yếu tố cản trở sự phát triển kinh Chính sách STI là một loại chính sách công tế của các nước đang phát triển. hướng tới điều tiết một lĩnh vực cụ thể, ở đây là hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới. Theo Sự cách biệt/tính cận biên của khoa học có tiếp cận hệ thống, chính sách STI được định thể được dùng để giải thích cho sự yếu kém của nghĩa là các hành động của các tổ chức công lập KH&CN ở các nước đang phát triển. Hoạt động tác động đến hoạt động của hệ thống đổi mới của các tổ chức nghiên cứu bị cho là không ăn nhằm giải quyết các vấn đề của hệ thống này. nhập với sản xuất. Tương tự như vậy, sự phụ Với các nước đang phát triển khác nhau thì bản thuộc công nghệ của các nước đang phát triển chất của các vấn đề của hệ thống đổi mới sẽ khác cũng dẫn đến tình trạng kỹ năng kỹ thuật cần nhau. Bởi các thành tố và chức năng của hệ thống thiết để ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản đổi mới của các nước đang phát triển cũng khác xuất công nghiệp cũng ở mức yếu kém. Trước biệt so với các quốc gia phát triển [1, 2]. hết, do nhu cầu phát triển công nghệ nội địa không tồn tại, nên càng thiếu các cơ hội để tích Về mặt lý thuyết, có quan điểm cho rằng luỹ năng lực KH&CN. Hiệu ứng này dẫn đến chính sách khoa học, chính sách công nghệ và việc vai trò của KH&CN trở nên “không đáng kể chính sách đổi mới hướng đến điều chỉnh những hay ngoại biên”. Đó là lí do vì sao việc theo đuổi phần tử khác nhau của hệ thống [2, tr. 606 – 615] các mục tiêu phát triển thông qua các mối liên hệ + Chính sách khoa học lý tưởng hướng tới giữa phát triển kinh tế với KH&CN ở các nước việc đảm bảo đủ các nguồn lực cho khoa học. đang phát triển rất khó khăn. Ngoài ra, trong bối Loại chính sách này hướng tới điều chỉnh là cảnh các khoản đầu tư cho R&D bị cho là thuần những nhân tố phù hợp với “hệ thống con nghiên tiêu dùng và không mang lại hiệu quả sản xuất, cứu", đó là, các trường đại học, các viện nghiên các nhà hoạch định chính sách của chính phủ cứu, các viện công nghệ và các phòng thực cũng như những người có trách nhiệm phân bổ nghiệm R&D. Công cụ chính sách chủ yếu ngân sách thường đặt ưu tiên thấp cho đầu tư thường là các khuyến khích tài chính dưới dạng KH&CN. Nếu các ngành cũng có xu hướng bỏ trợ cấp trực tiếp, các tài trợ cho R&D, vv, nhằm bê đầu tư vào R&D, thì sự phát triển của làm giảm bớt chi phí cho nghiên cứu khoa học, KH&CN sẽ càng trở nên khó khăn hơn. mà thường là rất cao. Tuy nhiên, ngày nay, vì sự phát triển kinh tế, + Chính sách công nghệ thường tập trung và đặc biệt là vì lợi ích trong việc hỗ trợ mạnh vào các công nghệ hoặc các lĩnh vực cụ thể mang
  4. L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 3 tính quan trọng chiến lược đối với một quốc gia. Theo Niosi, có hai loại chính sách STI: chính Chúng cũng hướng tới điều chỉnh các yếu tố sách ngang và dọc. Chính sách STI theo chiều trong hệ thống đổi mới, nhưng quan tâm nhiều ngang là những chính sách áp dụng như nhau cho hơn tới liên kết giữa trường đại học, viện nghiên tất cả các ngành, không nhắm đến một ngành hay cứu và các ngành, và thường được áp dụng nhiều lĩnh vực cụ thể nào. Ví dụ chính sách thuế hoặc hơn cho khu vực nghiên cứu cơ bản. chính sách tín dụng. Một số chính sách hỗ trợ + Chính sách đổi mới được xem là một chính cho các doanh nghiệp STI hoặc các hoạt động sách tổng hợp toàn diện hơn, đặc biệt chú ý tới R&D trong các doanh nghiệp cũng có thể được các liên kết trong hệ thống đổi mới trong khi chú xem là ví dụ cho chính sách theo chiều ngang. trọng tới các thiết chế và tổ chức hơn chính sách Lợi thế của việc hoạch định chính sách loại này khoa học và chính sách công nghệ có thể làm. là nó áp dụng đồng đều cho tất cả các doanh Thường chính sách đổi mới chú trọng tới đầu ra, nghiệp không phân biệt ngành nghề hoặc lĩnh tức là sản phẩm hoặc dịch vụ mới, do đó, nó đặc vực hoạt động, do đó có vẻ dễ triển khai và áp biệt quan tâm tới các doanh nghiệp như là tác dụng hơn. Tuy nhiên cũng vì tính cào bằng này nhân chính của quá trình biến đổi từ ý tưởng thành mà chính sách loại này khó được sử dụng như sản phẩm hoặc dịch vụ mới. một dạng khuyến khích hay khích lệ phát triển một ngành hay lĩnh vực cụ thể nào. Mặc dù việc phân biệt được các đặc điểm của từng loại chính sách là rất quan trọng, nhưng Trái ngược với chính sách STI theo chiều trong thực tế, ranh giới giữa chúng không thực ngang, là các chính sách theo chiều dọc, hay còn rõ ràng. Hơn nữa, các loại chính sách này không được gọi là các chính sách có nhắm đến mục tiêu nên được xem xét dưới góc độ loại trừ, xung đột cụ thể, thường là các chính sách áp dụng cho một với nhau, mà ngược lại, rất cần thiết để bổ sung ngành hoặc lĩnh vực cụ thể. Một nước đang phát và hoàn chỉnh lẫn nhau. Chúng đều hướng tới triển muốn tránh phân tán các nỗ lực cũng như điều chỉnh hệ thống đổi mới, và do đó, cần phải những nguồn lực hạn chế của mình cho nhiều được kết hợp theo cách có thể giúp các nhà hoạch ngành khác nhau, và dự định tập trung xây dựng định hoặc các chính phủ đạt được mục tiêu chính lợi thế so sánh trong một hoặc nhiều lĩnh vực, thì sách đề ra. cần xây dựng thêm một tập hợp các chính sách theo chiều dọc áp dụng cho lĩnh vực mong muốn. Xét về mặt nội dung, chính sách STI do dó Lợi thế chính của một chính sách nhắm mục tiêu cũng trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều là nó tập trung các nguồn lực và lĩnh vực mà nhà quốc gia cũng như các nhà hoạch định chính nước đặt trọng tâm phát triển. sách, bởi vai trò tối quan trọng đã được thừa nhận trên toàn thế giới của khoa học, công nghệ và đổi Hệ thống chính sách STI của bất kỳ một quốc mới trong phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách gia nào, cũng thường là tập hợp của 2 loại chính STI thực tế và có hiệu quả chính là sự phản ánh sách này. Câu hỏi được đặt ra là, có một trình tự nhận thức và tầm quan trọng của STI ở một quốc khoa học nào cho việc triển khai các loại chính gia. Nỗ lực xây dựng hệ chính sách đó cũng sẽ sách STI hay không? Các chính sách theo chiều phản ánh vai trò của nó trong việc mang lại ngang nên được triển khai trước, đồng thời hay những biến đổi tích cực về lượng và chất cho sau các chính sách theo chiều dọc. Câu trả lời từ toàn bộ nền kinh tế, cũng như nâng cao năng lực thực tế cho thấy trong mỗi hoàn cảnh hay điều cạnh tranh của một quốc gia. Đối với một quốc kiện phát triển khác nhau, các quốc gia khác gia đang phát triển, việc nắm lấy STI như một nhau sẽ xây dựng một mô hình triển khai các công cụ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội là bắt chính sách STI khác nhau. Việc này phụ thuộc buộc. Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào để các quốc vào chiến lược cũng như ý đồ phát triển của gia đang phát triển hoạch định và triển khai chính chính phủ. Đôi khi, các lĩnh vực cần ưu tiên sẽ sách STI một cách có hiệu quả [3, tr. 749-751]. nổi lên rất rõ ràng. Hoặc việc huy động được các nguồn lực ở từng thời điểm khác nhau cũng như khả năng dự báo cũng sẽ đưa lại các chính sách
  5. 4 L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 khác nhau. Yếu tố lịch sử phát triển cũng sẽ có Một số tác giả khác phân biệt giữa các chính tác động tới các quyết định chính sách. Hàn sách STI tuyến tính và phi tuyến tính. Các chính Quốc vào cuối những năm 1950s cũng tập trung sách tuyến tính có thể là thúc đẩy cung hoặc nhu phát triển công nghiệp ô tô và đóng tàu, sau đó cầu kéo. Loại này được đặc trưng bởi vai trò chủ lợi dụng hiệu ứng lan tỏa để phát triển những chốt của chính phủ thông qua các chính sách tích ngành khác như công nghệ thông tin hay thiết bị cực, trước đó đã xác định ưu tiên đổi mới và cung viễn thông. Vào cuối những năm 1940 – 1950, cấp các hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động STI. Canada thực hiện cùng một lúc chính sách ngang Các chính sách phi tuyến tính đặt trọng tâm vào (tín dụng thuế cho R&D và trợ cấp cho R&D của vai trò quan trọng của các thành phần tư nhân và DNVVN) và các chính sách theo chiều dọc (cho thị trường trong việc thúc đẩy và xác định các ưu tiên hàng không vũ trụ, năng lượng hạt nhân công nghệ trọng tâm cũng như các chiến lược hỗ và viễn thông), sau đó, vào những năm 1980, lại trợ. Chính sách cầu kéo tập trung vào việc giải chọn vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học và quyết các thất bại thị trường; do đó, ưu tiên của phần mềm. Trong những năm 1980, Ireland đã chúng chỉ đơn thuần là tìm kiếm những sự bất chọn ngành công nghiệp phần mềm và sau đó đối xứng và chỉ ra các tác động bên ngoài [6, tr. mới thực hiện các chính sách ngang (tức là thuế 15–20]. tín dụng cho R&D năm 2004) [4, tr. 254]. Bên cạnh phân loại trên, có một số tiếp cận khác để nghiên cứu và phân loại chính sách STI. 3. Vai trò của chính sách STI trong phát triển Lundvall và Borrás lập luận rằng các chính sách kinh tế - xã hội STI có tính chất kép: có những công cụ phù hợp KH&CN đóng vai trò then chốt trong việc để thúc đẩy các lĩnh vực cụ thể (khoa học, công tạo ra của cải, sự giàu có, thịnh vượng, nâng cao nghệ hoặc đổi mới), nhưng thiết kế và triển khai chất lượng cuộc sống, tăng trưởng kinh tế về chất chính sách nên được thực hiện bằng cách tuân cũng như các biến đổi khác ở bất cứ xã hội nào. theo một chiến lược có tính hệ thống. Các Ngược dòng lịch sử, KH&CN chính là bánh xe chính sách khoa học được định hướng để tạo thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế vượt ra kiến thức khoa học và hỗ trợ các nghiên cứu bậc ở châu Âu, đặc biệt là Anh và Pháp sau Cách khoa học cũng như các nhà khoa học ở các mạng Công nghiệp lần thứ 1; biến Mỹ từ 1 quốc trường đại học, các trung tâm nghiên cứu công, gia gần như nông nghiệp thành một siêu cường và các phòng thực nghiệm R&D. Các chính quốc; và đưa Nhật Bản chuyển mình vươn lên sách công nghệ tập trung vào phát triển và sau thất bại tại chiến tranh TG thứ I trong thế kỉ thương mại hóa kiến thức công nghệ, thường là XX. Các báo cáo của UNESCO (2004) và UNDP theo từng ngành cụ thể, trong khi các chính sách (2006), cũng như các nghiên cứu về nhóm nước đổi mới thường hướng tới thúc đẩy các quá trình công nghiệp mới cũng đã khẳng định tầm quan cũng như thương mại hóa và phổ biến đổi mới trọng của yếu tố KH&CN trong quá trình CNH [2, tr. 606–615]. thành công của Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore Edler và Georghiou (2007) đã phát triển một và Hongkong. Theo sau thành công của NIEs, cách tiếp cận khác để phân biệt giữa chính sách các nghiên cứu sau này cũng khẳng định đóng trọng cung và trọng cầu. Chính sách trọng cung góp của yếu tố STI vào sự tăng trưởng vượt bậc bao gồm hỗ trợ tài chính và dịch vụ, chẳng hạn của các quốc gia đang phát triển như Trung như thuế quan, hỗ trợ các nghiên cứu của khu Quốc, Ấn Độ, Brazil và gần đây hơn là nhóm các vực công, đào tạo và di động nhân sự, hỗ trợ kỹ quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia thuật cho các DNVVN, tài trợ cho nghiên cứu [7-14]. Ở đây có thể nhận thấy sự biến đổi trong của ngành, chia sẻ kiến thức và thiết lập các nhận thức ở nhóm các quốc gia đang phát triển: mạng lưới nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu. từ tư duy coi STI là chỗ tiêu tốn nhiều nguồn lực, Chính sách trọng cầu bao gồm các quy định, mua không xem trọng kết quả hoặc những đầu ra của sắm công và hỗ trợ tư nhân [5, tr. 949–953]. hoạt động KH&CN, tới tư duy coi STI là động
  6. L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 5 lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Tầm quan • Chính phủ và khu vực công chiếm vai trò trọng của nó cũng dẫn tới việc phải coi các bàn chủ đạo trong nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh luận về chính sách KH&CN ở một tầm cao mới, vực STI. Phần lớn các hoạt động STI diễn ra tại nghiêm túc và sâu sắc hơn. Sự biến đổi trong khu vực công lập và được tài trợ bởi ngân sách chính sách STI của 1 quốc gia chính là phản ánh nhà nước sự biến đổi về lượng và chất của yếu tố STI của • Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số quốc gia đó. lượng lớn trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp Từ sự công nhận về vai trò của STI trong này thường không có năng lực KH&CN và bị phát triển kinh tế nói trên, các chính sách cụ thể phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài để thực hiện các hoạt động này. để khai thác yếu tố KH&CN đã được ra đời và biến đổi không ngừng, đầu tiên là ở các nước • Các tổ chức cần thiết cho việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, chẳng hạn như trung gian công phát triển, sau đó, dù chậm hơn ở các quốc gia nghệ, cơ sở nghiên cứu và cơ sở thực nghiệm yếu đang phát triển nói chung. Các thảo luận cũng hoặc kém phát triển. như ứng dụng hay các bài học xây dựng hệ thống • Trong các hoạt động STI, hoạt động quan chính sách STI trở nên đặc biệt sôi nổi tại các trọng nhất thường là phổ biến công nghệ, dưới nước đang và kém phát triển [3-4, 15]. Hơn nữa, hình thức hấp thụ và thích ứng với công nghệ hệ thống chính sách STI được xem là đặc biệt có nước ngoài (thường là từ các nước công nghiệp), liên quan đến các nước nhỏ đang phát triển, trong chứ không phải phát triển công nghệ nội tại. bối cảnh trật tự quốc tế, kinh tế cũng như công • Ngành “công nghệ cao” kém phát triển nghệ đang biến đổi từng ngày, và có ảnh hưởng hoặc không tồn tại. Tuy nhiên cốt lõi tại các nước trực tiếp đến bối cảnh phát triển kinh tế và công này là làm sao để áp dụng công nghệ cao trong các lĩnh vực hiện có. nghệ của các nước này. Chính sách STI tại các nước đang phát triển 4. Xây dựng chính sách STI tại các nước đang nên tập trung vào việc tạo cơ chế, hành lang pháp phát triển lý để đẩy mạnh việc nhập khẩu và phổ biến công nghệ nước ngoài trong giai đoạn đầu để phù hợp Những lý thuyết ban đầu về chính sách STI với sự khan hiếm nguồn lực cũng như kiến thức, do được phát triển trong bối cảnh các nền kinh tế kĩ năng. Sau đó mới tiến hành song song với việc công nghiệp, thường tập trung chủ yếu vào các mở rộng các hoạt động R&D và các hoạt động yếu tố thuộc về bên cung (supply-side factors) phát triển năng lực nội tại khác mà thường tương như: các nghiên cứu thuần khoa học, vai trò của đối hạn chế trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa chính phủ trong R&D, các cơ chế chuyển giao từ tại các nước này. kết quả nghiên cứu sang các khu vực khác [16, Ngày nay, tiếp cận từ trên xuống không còn 17]. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, về phù hợp trong xây dựng chính sách, đặc biệt là mặt chính sách, thì trọng tâm của STI lại hầu như STI. Thay vào đó, các tiếp cận hiện đại nhấn rơi vào vấn đề chuyển giao công nghệ từ các mạnh sự tham gia của tất cả các bên liên quan nước phát triển sang các nước đang phát triển. (stakeholders) trong việc xây dựng chính sách. Các nghiên cứu về chính sách STI tại các quốc Ví dụ, xem xét nhu cầu của các bên bị ảnh hưởng gia đang phát triển cũng đưa ra một số đặc điểm trực tiếp bởi chính sách, xem xét nhận thức của khiến các quốc gia đang phát triển bị tách biệt về họ đối với vấn đề đang cần ra quyết định chính mặt STI với phần còn lại của thế giới [1, 2]. sách để có thể có chính sách gần hơn với thực • Các nước đang phát triển thường có giới tiễn nhu cầu. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, hạn thị trường, nguồn lực khan hiếm, thiếu hụt đặc biệt trong bối cảnh các nước đang phát triển, các năng lực kỹ thuật công nghệ. thì chính sách STI nên xuất phát từ cấp độ doanh nghiệp. Tiếp cận này cũng sẽ giúp giải quyết
  7. 6 L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 phần nào các vấn đề liên quan đến tương quan như quy mô thị trường và doanh nghiệp nhỏ cộng công-tư trong các hoạt động STI, góp phần đẩy với các yếu tố ngoại lai về mặt kinh tế dẫn đến mạnh khu vực DNVVN vốn chiếm số đông việc không cảm thấy thực sự cần thiết phải phát nhưng đóng góp cho nền kinh tế chưa đáng kể. triển công nghệ. Hiện nay, vẫn có nhiều công ty Tuy có nhiều điểm tương đồng, nhưng giữa không nhận thấy các yêu cầu cấp thiết đó, không các quốc gia đang phát triển tồn tại sự khác biệt nỗ lực nâng cao hay thậm chí không có ý định về văn hóa, xã hội, kinh tế và đặc biệt là lịch sử phát triển công nghệ. Điều này dẫn đến sự tiếp phát triển. Chính sách STI theo đó được nhấn tục phụ thuộc vào các nguồn nước ngoài để thỏa mạnh là “nhất thiết mang tính cụ thể cho từng mãn các nhu cầu công nghệ của mình. Năng lực quốc gia và cần được xây dựng trên cơ sở phân lựa chọn, thích ứng và nội địa hóa lại càng không tích chi tiết các đặc điểm riêng có của quốc gia được tích lũy. Đây chính là điểm mà chính phủ đó” [3, tr. 757]. có thể vào cuộc. Chỉ đạo cùng với các sáng kiến của Chính phủ là tối cần thiết, bởi các khu vực 5. Vai trò của chính phủ trong hoạch định và cần sự chỉ đạo của chính phủ nhất thường là thực thi chính sách STI tại các nước đang những khu vực cần tầm nhìn dài hạn và rủi ro phát triển đầu tư cao [17, tr. 1153-1154]. Có hai phương thức để chính phủ có thể tham Quan sát cho thấy, tại các nước đang phát gia vào quá trình, một là hỗ trợ trực tiếp, hai là triển thiếu sự tham gia của các thành phần có liên gián tiếp bằng cách tạo ra môi trường thuận lợi quan trong xã hội vào sự phát triển của KH&CN để thúc đẩy các hoạt động này. Trong phương nói chung, xây dựng chính sách STI nói riêng. thức hỗ trợ trực tiếp, Chính phủ có thể làm hai Nếu không có sự tham gia tích cực của các ngành việc. Thứ nhất là hoạch định và xây dựng các hay các lĩnh vực, sẽ không thể có sự kết nối giữa chính sách và biện pháp phát triển STI, và thực nhu cầu thực tiễn và khu vực hàn lâm. Lỗ hổng thi một cách sáng tạo, khôn ngoan và thận trọng; này chính là một trong những nơi mà vai trò của thứ hai, tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên chính phủ cần được tăng cường. Bên cạnh đó, cứu theo các định hướng tiềm năng của quốc gia, một số lí do như thiếu cơ sở hạ tầng và thiết chế, gánh nặng này không thể đặt lên khu vực tư nhân tỉ lệ rủi ro khi đầu tư vào STI cao trong khi quy được. Nhóm nhiệm vụ thứ hai này có thể là mô doanh nghiệp và thị trường đều nhỏ, nhu cầu nghiên cứu cơ bản nhằm mục đích xây dựng tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế năng lực công nghệ quốc gia; các loại nghiên cứu cho sản phẩm nội địa đều dẫn đến tính thiết yếu rủi ro cao và tốn kém, cũng như các dự án quy của can thiệp của nhà nước [18, tr. 806 – 807]. mô lớn; các nghiên cứu cho phúc lợi và phát triển Việc can thiệp của nhà nước thông qua hệ xã hội, vv. thống chính sách STI được mong đợi có thể vượt Ở cấp độ doanh nghiệp, cần khuyến khích và quá những rủi ro của thất bại chính sách, tác hỗ trợ họ nâng cao năng lực nhận thức và tích lũy dụng ngoại biên hoặc tác dụng âm tính của nó. năng lực công nghệ. Một cách khác để khuyến Tuy nhiên, hệ thống chính sách STI luôn cần khích phát triển công nghệ ở cấp độ doanh được đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội rộng hơn, nghiệp là chính phủ cung cấp các trợ giúp pháp bởi bản thân các hoạt động hay các tổ chức STI lý, có thể là một quy tắc bắt buộc, trong đó các luôn không vận hành độc lập, mà như một yếu tố công ty trong ngành dành ra một khoản cho quỹ của một mạng lưới và mạng lưới này vận hành ít nghiên cứu - có thể bằng với chi phí của của việc nhất trong khuôn khổ của một địa phương, một mua công nghệ hoặc giấy phép từ nước ngoài. quốc gia. Chính phủ sau đó sẽ giải ngân quỹ này cho chính Sự thiếu vắng của khối tư nhân trong các các công ty đã sử dụng loại hình dự trữ đặc biệt hoạt động STI tại các nước đang phát triển là một này, khi được yêu cầu, cho các nghiên cứu nhằm điểm đối lập với các nước phát triển, nơi họ đóng thích ứng và làm chủ công nghệ của họ. Chính vai trò dẫn dắt và khởi tạo. Tính rủi ro cao cũng phủ đôi khi có thể phải cung cấp cho các công ty
  8. L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 7 này nhiều khoản tiền các công ty đã đưa vào quỹ. khi con người được giáo dục hoặc tự làm mới Hơn nữa, chính phủ nên cung cấp cho những kiến thức một cách liên tục, họ sẽ bị lạc hậu và công ty này một số ưu đãi tài chính đặc biệt khác. lỗi thời ngay. Ở hầu hết các nước đang phát triển, chi tiêu Tốc độ thay đổi trong công nghệ quá nhanh cho các hoạt động KH&CN phần lớn đến từ ngân như hiện nay dẫn đến khó khăn trong giáo dục sách nhà nước. Ngoài các phân bổ ngân sách trực và đào tạo về STI. Chính phủ phải đi đầu trong tiếp, chính phủ cũng nên đóng vai trò gián tiếp quá trình đổi mới tri thức này bằng cách cung cấp trong việc tăng cường hỗ trợ tài chính cho các nhiều cách thức và phương tiện khác nhau - pháp hoạt động này. Các cơ chế gián tiếp của nhà nước lý, hành chính và/hoặc tài chính. có thể bao gồm đầu tư mạo hiểm, các ưu đãi và đầu tư nước ngoài. 6. Những khó khăn trong việc hoạch định Ngoài ra, cho đến khi khu vực tư nhân được chính sách STI ở các nước đang phát triển trang bị đầy đủ các phương tiện và năng lực, việc thiết lập các tổ chức nghiên cứu trung gian giữa UNESCO, tổ chức có chức năng tư vấn trong khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, giữa khối lĩnh vực chính sách ở các nước đang phát triển, hàn lâm và các ngành, giữa trong nước và nước cho biết việc hoạch định các chính sách STI là ngoài là rất cần thiết. Tiếp cận của Hàn Quốc "quan tâm toàn diện đến các phương tiện thiết trong vấn đề này là: 1) thành lập một viện nghiên chế và phương pháp thực hiện để tăng cường, tổ cứu đa ngành, 2) củng cố trung tâm thông tin cho chức và tận dụng các tiềm năng KH&CN quốc nghiên cứu, 3) thiết lập hệ thống kiểm soát chất gia để củng cố vị thế quốc tế và thực hiện các lượng và Viện Tiêu chuẩn Quốc gia, và 4) cung mục tiêu phát triển chung của quốc gia đó” cấp các hỗ trợ pháp lý để xúc tiến các hoạt động (UNESCO, 1982). nghiên cứu. Chính sách STI theo đó có hai khía cạnh: 1) Chính phủ có thể tiến hành nhiều biện pháp phát triển các tiềm năng STI quốc gia trong dài nhằm tháo gỡ vấn đề tự chủ công nghệ ở cấp độ hạn; và 2) thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả yếu tố doanh nghiệp. Nhưng chỉ khi các công ty nghiêm STI cho các mục tiêu phát triển của quốc gia và túc và thực sự phấn đấu cho sự tự phát triển của các nhu cầu xã hội. Nhìn từ quan điểm này, hầu họ, nếu không các hỗ trợ từ chính phủ không thể hết các quốc gia đang phát triển không có chính đạt được các hiệu quả như mong muốn. Tuy sách STI nhất quán. Trong hầu hết các trường nhiên cũng cần lưu ý rằng thái độ và tư thế của hợp, chính sách STI của họ chỉ đơn giản là kết chính phủ trong thực thi các biện pháp này có quả của sự tích tụ các chính sách từng phần trong ảnh hưởng quan trọng đến kết quả. Cách tiếp cận nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, đây là hiện tượng phổ phải mang tính hỗ trợ, thông cảm và kiên nhẫn, biến ở các nước đang phát triển. và hạn chế hết mức tính độc đoán cũng như tính Để thúc đẩy phát triển STI ở các nước đang quan liêu. Bởi vai trò của chính phủ không phải phát triển, việc chú trọng hoạch định các chính là "kiểm soát" mà là "giúp đỡ." sách quốc gia là thiết yếu. Tuy nhiên việc hoạch Một lĩnh vực khác mà chính phủ cần quan định các chính sách này một cách có cơ sở lại tâm là đào tạo nhân lực và nâng cao kiến thức và chính là nhiệm vụ khó khăn cho các nước đang kỹ năng của người dân. Theo lịch sử, như đã nêu phát triển bởi họ có quá ít kinh nghiệm trong lĩnh ở trên, tốc độ phát triển công nghệ chưa bao giờ vực này. Các nước phát triển có lợi thế không chỉ cao như hiện nay. Ví dụ, vòng đời của công nghệ về kinh nghiệm, năng lực và cơ sở hạ tầng để vào thế kỷ XIX là 100 năm. Vào cuối thế kỷ hoạch định và thực hiện các kế hoạch và chính trước, nó được rút ngắn xuống còn 50 năm. Ngày sách xuất sắc, ngoài ra quy hoạch STI có thể nay, tuổi thọ của một công nghệ đã trở nên ngắn được phối hợp hiệu quả với quy hoạch phát triển hơn cuộc sống con người. Điều này có nghĩa là kinh tế và được phối hợp thực hiện chặt chẽ với chu kỳ của tri thức ngày trở nên ngắn hơn và trừ nhau. Mặt khác, các nước đang phát triển bị vướng vào nhiều vấn đề gây khó khăn trong việc
  9. 8 L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 thiết lập và thực hiện các chính sách phù hợp với thực thi sau khi vấn đề chính sách đã nảy sinh. mức độ phát triển kinh tế, năng lực công nghệ và Một phần vì các chính sách như vậy, thường hoàn cảnh đặc thù, điều này đòi hỏi một quá trình hướng tới giải quyết chỉ 1 khía cạnh cụ thể nảy tích lũy thêm kinh nghiệm và nâng cao sinh của hệ thống STI, mà không chú ý đến tính Một khó khăn mang tính chủ quan được phản hệ thống của vấn đề, giải quyết được vấn đề chỗ ánh trong nhiều nghiên cứu là rất nhiều nhà quản này nhưng lại làm phát sinh mâu thuẫn ở các vị lý cũng như các chính phủ đưa ra các quyết định trí khác trong hệ thống. liên quan đến các vấn đề STI trong khi có rất ít Như trên đã nói, Chính sách STI không có hiểu biết về chúng. Những thông tin đầu vào cho nghĩa đơn giản là một chính sách chỉ liên quan hoạch định không được tìm kiếm hoặc được đến nghiên cứu khoa học hay R&D. Chính sách cung cấp dưới dạng không hữu ích, hoặc bị coi STI thậm chí không thể tồn tại tách rời kế hoạch nhẹ. Tương tự như vậy, nhận thức của công phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Do đó chúng về sự phát triển của lĩnh vực này cũng tất yếu là việc hoạch định phương hướng và mục chậm hơn rất nhiều so với những phát triển và tiêu chính sách cho phát triển KH&CN phải thành tựu sâu sắc sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc sống được đặt trong một khuôn khổ tổng thể được xác của họ một cách triệt để và nhanh chóng. định bởi các kế hoạch công nghiệp hoá của quốc KH&CN càng phát triển, thì các nhà lãnh đạo gia, cũng như các chiến lược phát triển kinh tế- chính trị càng phải phản ứng nhanh hơn với nhận xã hội khác. Từ quan điểm này, một kế hoạch thức của công chúng trong quá trình chính sách phát triển chung của quốc gia là tiền đề cho các [19, tr. 115]. chính sách KH&CN và các mục tiêu phát triển Một số học giả cho rằng khó khăn lớn nhất KH&CN phải được thiết lập trong tương quan trong việc hoạch định và thực thi chính sách STI với các mục tiêu quốc gia. ở các nước đang phát triển là vấn đề về tính liên Do tầm quan trọng ngày càng tăng, gần đây kết và điểu chỉnh. Liên kết và điều chỉnh theo nghiên cứu về chính sách STI có xu hướng tăng chiều dọc bởi các mục tiêu và công cụ chính sách lên rõ rệt. Trọng tâm của hoạch định chính sách cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với các STI phải là tìm ra cách tốt nhất để sử dụng đặc điểm và nhu cầu cụ thể của hệ thống đổi mới KH&CN như một phương tiện để đạt được các cụ thể, bao gồm cả môi trường kinh tế xã hội và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, phạm chính trị lớn hơn. Mặt khácvì các chính sách vi của chính sách STI không chỉ bao gồm các khác nhau cần phải được phối hợp để đạt được khoa học tự nhiên và công nghệ, mà còn phải các mục tiêu mong muốn, nên cũng đồng thời tồn tính đến các khoa học khác như khoa học xã hội tại liên kết và điểu chỉnh theo chiều ngang. hay khoa học hành vi - củng cố lập luận về bản Liên kết dọc chất liên ngành của khoa học chính sách. Hoạch định chính sách nói chung, và chính Việc chú ý đến các liên kết dọc ngụ ý rằng sách STI nói riêng, cần dựa trên tiếp cận hệ khi hoạch định ban hành hay điều chỉnh chính thống, tức là chính sách đưa ra để giải quyết một sách STI, cần chú ý đến nhu cầu và đặc điểm cụ vấn đề chính sách cụ thể, nhưng cần dựa trên cái thể của hệ thống đổi mới cũng như hệ thống kinh nhìn hệ thống như một tổng thể, chứ không phải tế xã hội chính trị là hệ thống lớn hơn của nó. các thành tố đơn lẻ, và cần chú trọng đến quan Các nghiên cứu gợi ý rằng nên xuất phát từ phân hệ tương tác giữa các thành phần của hệ thống. tích cụ thể về các vấn đề trong hệ thống đổi mới, Một số phân tích chính sách STI tại các nước và mở rộng ra các vấn đề xung quanh và bao đang phát triển cho thấy nguyên nhân của sự quanh nó. Hoạch định chính sách không thể có thiếu hiệu quả của chính sách là do sự thiếu liên hiệu quả nếu thiếu tông tin, do đó, nên phát triển kết giữa các chính sách và các vấn đề mà chính một hệ thống chỉ báo STI thích hợp để nắm bắt sách hướng tới giải quyết. Một phần vì chính các khía cạnh hệ thống, tiến hành cập nhật hệ thống sách thường có độ trễ, tức là được ban hành và này bằng các dữ liệu được thu thập định kỳ và có hệ thống (UNCTAD, 2010).
  10. L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 9 Do đó, nghiên cứu và xây dựng hệ thống đổi vấn đề ngân sách nhà nước. Sự phối hợp lỏng lẻo mới, cũng như các chính sách STI trong bối cảnh này dẫn đến sự rời rạc trong thực thi và hiệu quả các nước đang phát triển, nên được nhìn nhận của các chính sách STI. dưới góc độ một hệ thống đang hình thành và Một vấn đề khác trong hoạch định chính sách phát triển. Ở hệ thống đó, các yếu tố cấu thành liên quan đến liên kết ngang là vấn đề tập trung đã tồn tại, nhưng các tương tác giữa các phần tử hay phan cấp các chính sách STI. Tập trung có vẫn đang trong quá trình hình thành, và do đó, thể dẫn đến hiệu quả toàn diện hơn nhưng phân chúng khá rời rạc. Nhìn từ quan điểm này giúp cấp sẽ giúp chính sách phù hợp hơn với nhu cầu các nhà hoạch định chính sách dễ dàng hơn trong và hoàn cảnh địa phương, tôn trọng được tính đa việc xác định các ưu tiên của hệ thống tại các dạng trong phát triển vùng. thời điểm nhất định. Bởi vì các nước đang phát triển còn thiếu ý Liên kết ngang thức về sự cần thiết phải thúc đẩy sự phát triển Đầu tiên, mặc dù vai trò quan trọng của STI STI một cách có hệ thống và bao quát, cho nên đối với phát triển kinh tế và xã hội ngày càng cũng thiếu các chính sách và các thiết chế hành được công nhận tại các nước đang phát triển, chính cần thiết. Tương tự, các chiến lược phát nhưng trong các chiến lược phát triển quốc gia, triển cũng không được hoạch định, ban hành và STI chưa được nhìn nhận hoặc văn bản hóa như thực thi. Nhìn chung, các chính sách và thiết chế một trụ cột phát triển, ngang hàng với các trụ cột hành chính có thể được phân thành hai loại: Thứ khác. Hơn nữa, các liên kết ngang - sự phối kết nhất, là trường hợp quy hoạch thống nhất được hợp giữa các bộ và các cơ quan có thẩm quyền thực hiện ở cấp Bộ như ở Nhật Bản và Hàn Quốc; các cấp đối với chính sách STI - cũng là một vấn Thứ hai, là trường hợp quy hoạch được thực hiện đề lớn thường thấy ở các quốc gia đang phát bởi một cơ quan tư vấn đặc biệt như hội đồng triển. khoa học hoặc nghiên cứu. Vì mỗi loại này có Việc áp dụng một cách tiếp cận hệ thống đổi điểm mạnh và điểm yếu, nên không thể khẳng mới cho các chính sách STI có nghĩa là kết hợp định một cách chắc chắn rằng cách tiếp cận thứ trong nội dung chính sách nhiều chính sách khác nhất hay thứ hai là nổi trội hơn. Mỗi quốc gia nhau theo truyền thống (chính sách giáo dục, phải chọn cách thức phù hợp hơn với hoàn cảnh chính sách công nghiệp, chính sách thương mại, riêng biệt và mức độ phát triển của mình. Quan vv). Theo nghĩa này, chính sách đổi mới có thể trọng hơn nữa là lưu ý đến tính hệ thống toàn được coi là một hệ thống chính sách, tích hợp các diện, chính sách STI cần phải có mối liên kết hữu chính sách riêng và độc lập theo truyền thống cơ với kế hoạch phát triển chung của quốc gia. vào một hệ thống mới. Bất kì một chính sách có Cần phải duy trì những liên kết này từ thời điểm hiệu quả nào, hoăcj 1 nhóm chính sách hướng tới hoạch định xuyên suốt quá trình thực hiện và việc khuyến khích các hoạt động STI đều phải đánh giá sau này. mang tính tổng hợp và có sự kết hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách khác như sự điều tiết của 7. Các rào cản trong thực thi chính sách STI thị trường, thuế, phát triển hạ tầng, vv. Các chính ở các nước đang phát triển sách KH&CN do đó, nên có tính tổng hợp cao, Các nhà hoạch định chính sách và chính phủ phạm vi điều tiết rộng, và có tính hệ thống để tại các quốc gia đang phát triển đều ngày càng phục vụ cho mục đích đẩy mạnh và hỗ trợ các nhận thức rõ được tầm quan trọng của STI cho hoạt động STI. phát triển bền vững, tuy nhiên việc xây dựng và Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các bên có liên triển khai các chính sách này thường gặp nhiều quan trong hoạch định ban hành và thực thi các rào cản, sau đây là một số rào cản được chỉ ra chính sách STI ở các nước đang phát triển qua các nghiên cứu thực tế tại một số quốc gia thường rất nghèo nàn. Giữa họ thậm chí còn tồn đang phát triển tại Châu Mỹ La Tinh hay Trung tại một số cạnh tranh, đặc biệt khi liên quan đến Mỹ, Nam Á [3, 20].
  11. 10 L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 Thứ nhất, việc gia tăng nhận thức về tầm hoặc chính sách STI lâu dài và xuyên suốt mà quan trọng của STI như động lực chính cho tăng không có sự thay đổi nào. trưởng kinh tế thường không đi kèm với việc gia Thứ ba, chính phủ các nước không xây dựng tăng đáng kể các nguồn lực, đặc biệt là tài chính thiết chế và phân bổ tài chính cho việc đánh giá cho các hoạt động này. Các hỗ trợ tài chính cho các chương trình và chính sách STI. Sự thiếu hụt các hoạt động STI là rất hiếm và thậm chí không này chính là một rào cản để làm vững mạnh thêm tồn tại ở một số quốc gia đang phát triển. Cho hiệu quả của chính sách STI. VIệc không thực nên thường chính phủ các quốc gia này dành hiện hoạt động đánh giá chính sách, hoặc đánh ngân sách rất hạn chế để triển khai các chương giá nhưng không tổ chức thu thập các chỉ báo trình hay chiến lược STI quốc gia. Thêm vào đó, STI một cách có hệ thống và định kỳ là một yếu các đơn vị nhà nước chịu trách nhiệm về chính điểm làm cản trở các hoạt động đánh giá chính sách STI không có đủ các đòn bẩy cần thiết để sách nói chung, và đánh giá chính sách STI nói thúc đẩy các chương trình này tới tất cả các đơn riêng. Theo lý thuyết, thiếu bước đánh giá được vị có liên quan khác. Thông thường, các kế cho là hoạt động xây dựng và triển khai không hoạch STI quốc gia không được triển khai đầy hiệu quả. đủ và đúng đắn bởi thiếu kinh phí khi triển khai Thứ tư, các chính phủ phải đối mặt với sự các thông tư hay các kế hoạch chính sách cụ thể. suy giảm cam kết từ tất cả các thành tố của hệ Đi kèm với thiếu vốn tài chính thường là sự yếu thống đổi mới với các hoạt động STI. Đầu tư kém của đội ngũ nhân lực, nhất là các cán bộ R&D từ khu vực tư nhân là rất hiếm và thông triển khai chính sách. Thực chất, ngân sách thiếu thường các doanh nghiệp tư nhân không có nhu hụt chỉ phản ánh một phần rào cản chính trị: STI cầu đối với các hỗ trợ sâu hơn trong lĩnh vực này. chưa thực sự có được vị trí một trong các trụ cốt Trường đại học chủ yếu tập trung vào giảng dạy, của phát triển kinh tế xã hôi như thực chất các yếu về nghiên cứu và yếu cả trong các liên kết văn bản quản lý vẫn phản ánh. Khả năng sinh lợi với khu vực tư nhân. thấp của khu vực công là một rào cản cho việc đầu tư công vào STI, bởi thông thường các chính Thứ năm, vấn đề sở hữu trí tuệ ở các quốc phủ đang phát triển phải đối mặt với việc đáp gia đang phát triển còn yếu, mặc dù hầu hết đã ứng các nhu cầu thiết yếu khác như an ninh có ý thức xây dựng các luật cũng như quan tâm lương thực, an sinh xã hội cơ bản, giáo dục và an tới vấn đề này hơn trong thời gian qua. tuy nhiên, ninh quốc gia. một lần nữa, ngân sách để triển khai và thực hiện đặc biệt các hoạt động liên quan đến thực thi Thứ hai là sự thiếu vắng của cac chiến lược quyền sở hữu trí tuệ còn hạn chế. dài hạn cũng như các kế hoạch triển khai cụ thể. Việc triển khai các chính sách STI thường bị đặt Thứ sáu, tính phối hợp giữa các cơ quan thừa trong các biến đổi thiết chế rất thường xuyên, lúc hành trong xây dựng và hoạch định chính sách thì có lợi, lúc lại tạo rất nhiều cản trở. Vị trí của STI rất thấp. Đôi khi có mâu thuẫn giữa chính các chiến lược và chính sách STI này trong các các cơ quan này trong vấn đề ngân sách hoặc ra chiến lược kinh tế xã hội tổng thể phụ thuộc vào quyết định. Các bộ và cơ quan khác thường có các trọng tâm hoặc các ưu tiên cụ thể của từng xu hướng tiến hành chiến lược kế hoạch của chính phủ. Thông thường, việc triển khai một riêng mình, mà thường là không mang tính phối chương trình hay hoạt động STI cụ thể thường hợp và tích hợp với nhau. Đây là một trở ngại liên đới tới nhiều bộ ngành, cụ thể nhất thường trong tăng cường tính hiệu quả có bộ KH&CN, bộ tài chính, bộ kế hoạch và đầu của chính sách STI và sử dụng có hiệu quả các tư. Hơn thế nữa, các kết quả cụ thể mang lại bởi nguồn lực công vốn đã khan hiếm. các hoạt động STI thường cần nhiều thời gian Thứ bảy, hệ thống giáo dục không đáp ứng hơn là một giai đoạn kinh tế cụ thể. Do đó, khó đủ cả về số lượng lẫn chất lượng nguồn nhân lực. có thể có được sự cam kết thực hiện chiến lược Đặc biệt, các hoạt động STI đòi hỏi nhân lực chất lượng cao.
  12. L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 11 Thứ tám, hệ thống tài chính và hành chính ở trong các điều kiện kinh tế-xã hội và chính trị cụ các quốc gia đang phát triển không hỗ trợ các thể của từng quốc gia đang phát triển cũng cần hoạt động đổi mới. Cả các doanh nghiệp mới hết sức sáng suốt và cẩn trọng. cũng như lâu năm rất khó để tiếp cận các hỗ trợ tài chính hoặc phải đối mặt với hệ thống thủ tục hành chính rất phức tạp để triển khai các hoạt Tài liệu tham khảo động được cho là đổi mới. Ở đây tồn tại một vòng luẩn quẩn: một mặt, phía tài chính tránh [1] Lundvall, B.A. (2009), Handbook of innovation systems and developing countries: building việc hỗ trợ các dự án đổi mới nhiều rủi ro bởi domestic capabilities in a global setting, không có thiết chế khuyến khích cho các khu vực Cheltenham, UK, Northampton, MA: Edward ít hoặc gần như không tạo ra lợi nhuận. Mặt Elgar. khác, nhu cầu tín dụng trong lĩnh vực này cũng [2] Lundvall, B.A., Borrás, S. (2006), Science, rất thấp do số lượng các doanh nghiệp tham gia Technology, and Innovation Policy, in The Oxford vào hoạt động đổi mới rất ít. handbook of Innovation, Oxford University Press. Nhìn chung những rào cản trong thực thi [3] Padilla-Pérez, R., Gaudin, Y. (2014), Science, technology and innovation policies in small and cũng xuất phát từ những khó khăn ngay trong developing economies: The case of Central khâu hoạch định như đã nêu ở trên, và cũng rất America, Research Policy, 43(4), 749-759. dễ nhận diện ở các nước đang phát triển. [4] Niosi, J. (2010). Rethinking science, technology and innovation (STI) institutions in developing countries, Innovation, 12(3), 250-268. 8. Kết luận [5] Elder, J., Georghiou, L. (2007), Public procurement and innovation — resurrecting the Do yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa và lịch demand side, Research Policy 36(7), 949-963. sử phát triển khác biệt, các nước đang phát triển [6] Cimoli, M., Ferraz, J.C., Primi, A., 2005, Science và đã công nghiệp hóa có lẽ đã sử dụng những and Technology Policies in Open Economies: The cách tiếp cận khác nhau trong quá trình hoạch Case of Latin America and the Caribbean, định các chính sách KH&CN của mình. Nhưng Productive Development Series 165. ECLAC, United Nations, Santiago de Chile, Chile. dù có sử dụng cách tiếp cận nào, thì chính sách [7] Dosi, G. (1988). Technical change and economic STI cũng không nằm ngoài mục tiêu chung là theory, New York, Pinter Publishers. phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, mở ra và [8] Fagerberg, J., Godinho, M. (2006), Innovation and nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Catching-up, in The Oxford handbook of Chính sách STI là một loại hình chính sách Innovation, Oxford University Press. công. Về bản chất nó là tập hợp có hệ thống các [9] Fagerberg, J., Verspagen, B. (2007), Innovation, chính sách KH&CN, chính sách giáo dục, chính growth and economic development: have the sách công nghiệp, tài chính, thương mai, vv. conditions for catch-up changed?, Intl’ Journal of Mục tiêu chính yếu của chính sách này là nhận Technological Learning, Innovation and dạng ra các hệ thống đổi mới với nghĩa là hệ Development, 1, 13-33. thống tri thức, có sức mạnh cạnh tranh thị [10] Figueiredo, P. (2014), Beyond technological catch- trường, đem lại thịnh vượng cho quốc gia. Chính up: An empirical investigation of further phủ đóng vai trò chủ đạo trong việc hoạch định innovative capability accumulation outcomes in và tổ chức thực thi chính sách STI. latecomer firms with evidence from Brazil, J. Eng. Trước các thử thách và rào cản đã được nhận Technol. Manage, 31, 73-102. diện, việc hoạch định và triển khai các chính sách [11] Hobday, M. (1995), East Asian latecomer firms: STI cần hết sức thận trọng và mang tính chọn lọc Learning the technology of electronics, World cao, bởi sự hạn chế về nguồn lực cũng như các Development, 23(7), 1171. rào cản thiết chế và hành chính khác, ngay cả việc lựa chọn phân bổ nguồn lực như thế nào
  13. 12 L.V. Chiều và nnk. / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 [12] Kim, L. (1997), Imitation to Innovation: The the face of global innovation challenges, Asia Dynamics of Korea's Technological Learning, Pacific Journal of Management, 26(3), 589-609. Harvard Business School Press, Boston. [17] Dodgson, M., Hughes, A., Foster, J., & Metcalfe, [13] Lee, K., Lim, C. (2001), Technological regimes, S. (2011), Systems thinking, market failure, and the catching-up and leapfrogging: findings from the development of innovation policy: The case of Korean industries, Research Policy, 30(3), 459- Australia, Research Policy, 40(9), 1145. 483. [18] Hadjimanolis, A., & Dickson, K. (2001), [14] Lee, K., Park, T. Y., & Krishnan, R. T. (2014), Development of national innovation policy in small Catching ‐ up or Leapfrogging in the Indian IT developing countries: the case of Cyprus, Research Service Sector: Windows of Opportunity, Path ‐ Policy, 30(5), 805-817. creating, and Moving up the Value Chain, [19] Glenn, J. C. (2010), Globalisation and risk Development Policy Review, 32(4), 495-518. management of science and technology, Int. J. [15] Crespi, G., Dutrénit, G. (2014), Science, Foresight and Innovation Policy, 6(1/2/3). Technology and Innovation Policies for [20] Siyanbola, W. O., Olaopa, O. R., & Hassan, O. M. development: The Latin American Experience, (2013), Designing and Implementing a Science, Springer International Publishing Technology and Innovation Policy in a Developing [16] Dodgson, M. (2009), Asia’s national innovation Country: Recent Experience from Nigeria, systems: Institutional adaptability and rigidity in Industry and Higher Education, 27(4), 323-331