May, thời trang - Chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam: Những bất lợi, khó khăn và biện pháp đối phó
Bạn đang xem tài liệu "May, thời trang - Chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam: Những bất lợi, khó khăn và biện pháp đối phó", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- may_thoi_trang_chuoi_gia_tri_xuat_khau_det_may_cua_viet_nam.pdf
Nội dung text: May, thời trang - Chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam: Những bất lợi, khó khăn và biện pháp đối phó
- Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 Chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam: Những bất lợi, khó khăn và biện pháp đối phó(1) PGS.TS. Hà Văn Hội* Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 07 tháng 8 năm 2012 Tóm tắt. Do đặc thù sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam là phụ thuộc vào người tiêu dùng nước ngoài, nên trong mỗi “mắt xích” của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may, từ khâu nhập khẩu nguyên liệu thô cho đến các khâu tiếp theo như sản xuất nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may, sản xuất sản phẩm xuất khẩu, phân phối sản phẩm trên thị trường quốc tế đều gặp phải nhiều khó khăn khách quan cũng như chủ quan. Chính vì vậy, để góp phần gia tăng giá trị trong chuỗi giá trị xuất khẩu, ngành dệt may Việt Nam cần tăng cường các biện pháp như chủ động nguồn nguyên liệu và nhân lực cho sản xuất; tăng cường thu thập, phân tích và trao đổi thông tin, nắm bắt tình hình thị trường xuất khẩu; tăng cường tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may khu vực và toàn cầu; nắm vững các quy định của các nước đối với việc nhập khẩu sản phẩm dệt may. Từ khóa: Chuỗi giá trị, xuất khẩu dệt may, khó khăn, công đoạn, biến động. 1. Đặt vấn đề(1)* sản phẩm dệt may xuất khẩu đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động xuất khẩu Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách dệt may. Chính vì vậy, việc nhận diện những mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, kim ngạch khó khăn cũng như bất lợi trong sản xuất sản xuất khẩu dệt may đã có những tiến bộ đáng kể. phẩm dệt may xuất khẩu để có những biện pháp Sau nhiều năm tăng trưởng xuất khẩu bình quân khắc phục là yêu cầu cấp thiết của ngành dệt 30%/năm, Việt Nam chính thức lọt vào top 10 may Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. nước xuất khẩu hàng dệt may hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, ngành dệt may vẫn bị cho là chưa phát huy tối đa năng lực của mình. Đồng thời, 2. Những khó khăn, bất lợi trong chuỗi giá hiện vẫn có trên 70% nguyên liệu phải nhập trị xuất khẩu dệt may Việt Nam khẩu từ nước ngoài. Bên cạnh đó, những bất ổn của các yếu tố nguồn lực đầu vào cho sản xuất Chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may thông thường được tổ chức theo các công đoạn chủ ___ yếu: (1) thiết kế sản phẩm; (2) cung cấp nguyên (1) Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài “Tham liệu thô như sợi tổng hợp, sợi tự nhiên; (3) sản gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, kinh nghiệm của một số nước châu Á và gợi ý đối với Việt Nam”, với sự tài trợ của xuất nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may; (4) Trung tâm Hỗ trợ Nghiên cứu châu Á - Đại học Quốc gia sản xuất sản phẩm xuất khẩu; (5) thực hiện các Hà Nội. phương thức xuất khẩu sản phẩm và (6) * ĐT: 84-913559235 marketing sản phẩm dệt may ở cấp độ bán lẻ. E-mail: hoiktqt@gmail.com, hoihv@vnu.edu.vn 241
- 242 H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 Tuy nhiên, cho đến nay, mô hình xuất khẩu mẫu thiết kế của khách hàng và lẽ đương nhiên chủ đạo của ngành dệt may Việt Nam vẫn là từ chất liệu chính là vải, cho đến nhiều loại phụ hợp đồng gia công và bán FOB (mua nguyên liệu cũng phải theo mẫu của người mua. Do đó, liệu, bán thành phẩm). Dù dưới hình thức nào chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam được thì ngành may Việt Nam vẫn phải sản xuất theo thể hiện quan hệ theo chiều dọc như Sơ đồ 1. sdgf Cung cấp Sản xuất Sản xuất Xuất Marketing nguyên nguyên, phụ sản phẩm khẩu sản sản liệu thô liệu cho dệt may phẩm dệt phẩm ngành dệt may dệt may Sơ đồ 1. Chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Trong các công đoạn của chuỗi giá trị xuất nhập khẩu để bảo đảm sản xuất cần đến 95% xơ khẩu dệt may Việt Nam, mỗi công đoạn đều có bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% những khó khăn, trở ngại. vải dệt kim và 60% vải dệt thoi, dẫn đến bình quân khoảng 70% nguyên, phụ liệu dệt may Việt Nam đang phải nhập khẩu. Từ đó, có thể 2.1. Khó khăn trong công đoạn cung cấp thấy ngành công nghiệp dệt may Việt Nam gần nguyên, phụ liệu như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Do Trong chuỗi giá trị dệt may xuất khẩu, công quá phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nên đoạn cung cấp nguyên liệu là khâu đầu tiên tạo mỗi khi giá nguyên liệu tăng, lập tức ảnh hưởng giá trị cơ bản cùng với công đoạn sản xuất đến giá trị gia tăng của chuỗi giá trị xuất khẩu nguyên liệu như kéo sợi, dệt vải, nhuộm, in vải. dệt may Việt Nam. Điển hình là giá bông nhập Tuy nhiên, trong công đoạn này thường nảy khẩu năm 2011 có lúc lên tới 5-5,2 USD/kg, sinh những khó khăn như sau: trong khi giá trung bình của năm 2010 là Thứ nhất, sự phụ thuộc vào nguyên liệu khoảng 3,2-3,3 USD/kg, tức là tăng 80-90% nhập khẩu (gần gấp đôi so với năm 2010) làm cho kim Đặc trưng của ngành sản xuất sản phẩm dệt ngạch nhập khẩu bông tăng xấp xỉ 120%; xơ sợi may Việt Nam là nguyên, phụ liệu sản xuất hầu tăng gần 70% so với năm 2010. Giá nhập khẩu hết phải nhập khẩu do nguồn cung trong nước nguyên liệu tăng dẫn đến kim ngạch nhập khẩu không đủ và không đáp ứng được yêu cầu của các nguyên liệu tăng. Theo thống kê của Hiệp hội doanh nghiệp sản xuất. Do các nhóm ngành công Dệt may Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu nghiệp phụ trợ của dệt may kém phát triển; ngành nguyên phụ liệu, vải, bông và sợi dệt các loại sản xuất sợi hạn chế về công nghệ, máy móc, của ngành dệt may trong hai tháng đầu năm năng suất và chất lượng, không đáp ứng được nhu 2011 đạt 670 triệu USD, tăng bình quân gấp đôi cầu của ngành dẫn đến ngành dệt may xuất so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, nhập khẩu khẩu hoàn toàn bị động về nguyên liệu. bông tăng đến 103%. Việc giá bông tăng cao khiến giá thành sản xuất các loại sợi dệt cũng Mặc dù từ năm 2009, Việt Nam đã bắt đầu tăng trung bình 30-40% (tùy loại) so với giữa xuất khẩu vải, sợi, xơ polyester, phụ liệu sang năm 2010, đẩy chi phí sản xuất tăng ít nhất 15- một số cường quốc dệt may trên thế giới như 20% [5]. Vì vậy, trong những năm gần đây, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha , góp phần mặc dù kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng nâng cao kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, mạnh nhưng do kim ngạch nhập khẩu nguyên, nhưng tình trạng thiếu nguyên, phụ liệu vẫn là phụ liệu cũng tăng cao nên đã làm giảm giá trị bài toán nan giải với ngành khi tỷ lệ nhập khẩu thực tế của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may. khá cao. Thông thường, nhu cầu về nguyên liệu
- H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 243 Như trên đã nêu, do quá phụ thuộc vào lượng nhập khẩu. Bên cạnh đó, những khó khăn nguyên liệu nhập khẩu nên việc cung cấp về điều kiện khí hậu cũng như diện tích, địa nguyên liệu của các đối tác nước ngoài không lý , đang là những trở ngại cho việc mở rộng ổn định cũng là một trong những khó khăn ảnh diện tích vùng nguyên liệu trồng bông của nước hưởng không nhỏ đến chuỗi giá trị. Theo Hiệp ta. Nếu được tạo điều kiện tối đa từ phía Nhà hội Dệt may Việt Nam, tình hình sản xuất nước và chính quyền địa phương, ngành bông nguyên liệu vải dệt từ sợi bông thế giới giảm cũng chỉ đáp ứng được 10%. Rõ ràng ngành 42% khiến nhiều doanh nghiệp may chậm có bông sợi trong nước đang rơi vào tình thế vải để sản xuất. Nhiều trường hợp, mặc dù hợp không thể tự bảo đảm được nguồn nguyên liệu. đồng mua vải đã được ký với đối tác nhưng vẫn Điều đó đồng nghĩa với việc, ngành dệt may sẽ bị giao hàng chậm, có thời điểm chậm tới nửa tiếp tục phải chịu chi phí đầu vào rất cao do phụ tháng. Có một số doanh nghiệp khó khăn hơn thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. do không tìm được nguồn hàng để mua, ảnh hưởng tới tiến độ, công nhân phải tạm ngừng 2.2. Khó khăn trong công đoạn sản xuất sản sản xuất. Trong trường hợp này, các doanh phẩm dệt may xuất khẩu nghiệp có nguy cơ bị thiệt hại nặng nề về tài chính và cả uy tín của mình. Thông thường khi Thứ nhất, biến động giá nhiên liệu và điện nhận một đơn hàng, doanh nghiệp lên kế hoạch Không chỉ giá nguyên liệu đầu vào tăng mà sản xuất cụ thể từng ngày sao cho kịp ngày giao giá điện, giá xăng dầu tăng trong thời gian vừa hàng trong hợp đồng. Một khi gặp khó khăn về qua cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành nguyên, phụ liệu sản xuất, tiến độ sản xuất xuất khẩu sản phẩm dệt may và giá gia công không theo đúng kế hoạch, doanh nghiệp sẽ xuất khẩu, làm cho ngành dệt may gặp nhiều phải tăng ca sản xuất hoặc thương lượng với đối khó khăn. Việc tăng giá xăng dầu làm chi phí tác dời ngày giao hàng. Khó khăn nối tiếp khó gia công tăng cao khi các vật tư, chi phí bị đội khăn, một khi đã tăng ca sản xuất, doanh nghiệp lên. Cứ mỗi lần tăng giá xăng dầu, các doanh lại tiếp tục đối mặt với vấn đề nhân lực: thiếu nghiệp dệt may thường ví như là bị một “cú nhân công, sự bất mãn của công nhân về thời sốc” làm tăng chi phí. Thông thường, tại các gian và khối lượng công việc [4]. doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu, Thứ hai, nguồn cung ứng nguyên, phụ liệu chi phí cho dầu FO chiếm 15-20% giá thành sản trong nước không ổn định xuất của đơn vị. Giá xăng dầu tăng làm cho chi Do tình hình kinh tế trong nước phải đối phí nhiên liệu tăng, kéo theo chi phí đầu vào mặt với mức lạm phát cao, lãi suất tăng, biến tăng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. động tỷ giá , dẫn đến việc sản xuất nguyên, Trong lần tăng giá xăng dầu đầu năm 2012, các phụ liệu phục vụ cho sản xuất sản phẩm dệt doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may phải gánh may xuất khẩu suy giảm. Đối với các ngành thêm nhiều chi phí; trong khi đó, với tình hình phụ trợ cho ngành dệt may, lực lượng lao động cạnh tranh gay gắt như hiện nay, sản phẩm xuất cho ngành này hầu hết là nông dân (trồng bông) khẩu lại không thể tăng giá bán vì việc đàm phán và tầng lớp lao động tay chân nghèo, chịu ảnh với nhà nhập khẩu để tăng giá bán sản phẩm hưởng rất lớn từ tình hình lạm phát trong thời nhằm chia sẻ bớt khó khăn do chi phí đầu vào gian qua. Nhất là khi chi phí cuộc sống tăng tăng cũng chỉ được một số đối tác chấp nhận. lên, mức thu nhập thấp, dẫn đến tâm lý chán Giá xăng dầu tăng, giá bán điện cũng tăng nản không muốn làm việc hoặc đổi nghề. Lao liên tục đã đẩy chi phí đầu vào của sản xuất động thiếu, chi phí sản xuất lại tăng, hậu quả tất tăng cao. Đối với doanh nghiệp dệt may, tùy yếu là giá của nguyên, phụ liệu ngành dệt may theo loại hình sản xuất gia công xuất khẩu, xuất tăng và sản lượng giảm, dẫn đến các doanh khẩu FOB (mua đứt, bán đoạn), tiêu thụ tại thị nghiệp dệt may Việt Nam buộc phải giảm trường nội địa , doanh nghiệp sẽ chịu nhiều lượng nguyên, phụ liệu mua trong nước và tăng tác động. Giá điện tăng lên, các doanh nghiệp
- 244 H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 sản xuất, tiêu thụ nội địa và gia công sẽ gặp rất Một trong những yếu tố nâng cao khả năng nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp sản xuất dệt cạnh tranh của ngành dệt may xuất khẩu là chi may Việt Nam thừa nhận, dù đơn hàng có nhiều phí lao động thấp. Nhưng tình trạng biến động nhưng với chi phí đầu vào tăng quá cao như lao động, nhất là trong những tháng đầu năm, hiện nay thì doanh nghiệp khó có lãi. Mặc dù kể từ nhiều năm nay đã làm cho khá nhiều giá đơn hàng trong năm 2011 tăng 10-15% so doanh nghiệp ngành dệt may lao đao vì thiếu với năm 2010 nhưng doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Sự thiếu hụt lao động lại thường diễn dệt may vẫn rất lo ngại vì đang phải gánh rất ra ở các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ. nhiều chi phí đã tăng gấp 2-3 lần so với trước Trong khi đó, có hơn 70% các doanh nghiệp dệt đây [5]. may là doanh nghiệp vừa và nhỏ, số lao động Thứ hai, sự bất ổn của các yếu tố sản xuất dưới 300 người. Số doanh nghiệp từ 1.000 công nhân chỉ chiếm 6%. Một trong những nguyên Trong công đoạn sản xuất sản phẩm dệt nhân cơ bản khiến lao động ngành may biến may xuất khẩu, hầu hết đều sử dụng hệ thống động mạnh ở khu vực các doanh nghiệp vừa và điện lưới quốc gia. Khi sản lượng điện trong hệ nhỏ là do mức lương không cao. Hiện số doanh thống điện quốc gia bị giảm vào mùa khô dẫn nghiệp đủ sức trả mức lương trung bình từ 3,5- đến việc thiếu điện phục vụ sản xuất. Việc cắt 4,5 triệu đồng/tháng/người là rất ít. Còn các điện thường xuyên xảy ra, đặc biệt ở các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ trả dao động trên sản xuất sản phẩm dệt may đặt tại các địa dưới 2,5 triệu đồng/người/tháng. Với mức phương. Bên cạnh việc cắt điện thường xuyên lương này, công nhân không thể đảm bảo cuộc thì việc cắt điện không báo trước cũng khiến sống trong tình trạng giá cả tăng cao, buộc họ các doanh nghiệp dệt may thiệt hại nặng nề. Đối phải tìm kiếm việc làm ở những nơi có thu nhập với các ngành sản xuất sử dụng hàng nghìn lao cao hơn. Tình trạng nhân công chuyển dần sang động như da giày, việc cắt điện đột ngột khiến lĩnh vực có thu nhập cao hơn đã gây nên sự khối lượng công nhân đó phải nghỉ việc, trong thiếu hụt lao động trầm trọng cho toàn ngành. khi doanh nghiệp vẫn phải trả tiền lương đầy đủ Hệ lụy của tình trạng này là doanh nghiệp luôn trong những ngày nghỉ đột ngột cùng rất nhiều trong tình trạng lo bị phạt và mất hợp đồng vì chi phí cố định khác. Uớc tính, việc thiếu điện giao hàng trễ. Nhiều doanh nghiệp không dám khiến các doanh nghiệp trong ngành dệt may nhận thêm nhiều đơn hàng, không mở rộng thiệt hại khoảng 300 triệu USD vì giảm thu từ được quy mô sản xuất vì không có lao động. xuất khẩu [5]. Với các doanh nghiệp dệt và Một nguyên nhân khác làm cho tình trạng khan nhuộm có đặc thù là sản xuất phải được thực hiếm lao động phần lớn chỉ diễn ra tại khu vực hiện 24/24 giờ, việc cắt điện không báo trước các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vì khi nhu cầu đã khiến không ít mẻ nhuộm đang chạy dở với dệt may của thế giới giảm thì các doanh nghiệp hàng chục tấn vải và thuốc nhuộm phải bỏ đi. nhỏ sẽ khó có được đơn hàng. Không có đơn Để đảm bảo tiến độ giao hàng trong bối cảnh bị hàng đồng nghĩa với việc cho công nhân nghỉ cắt điện liên tục, thậm chí cắt không báo trước, và người lao động đến các doanh nghiệp khác nhiều doanh nghiệp phải huy động công nhân để tìm việc. Khi có đơn hàng lại, doanh nghiệp sản xuất ca đêm. Tuy nhiên, điều này lại đẩy lại bắt đầu tuyển dụng. Đây cũng là một nguyên doanh nghiệp sang một nỗi lo mới là chi phí sản nhân quan trọng lý giải vì sao lao động dệt may xuất tăng gấp 4 lần so với bình thường và nguy thường xuyên biến động và tập trung chủ yếu ở cơ mất công nhân rất lớn do họ không chịu nổi các doanh nghiệp vừa và nhỏ [4]. cường độ làm việc. Để đối phó với tình trạng Biến động lao động gây ra rất nhiều khó này, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy khăn cho ngành dệt may vì sản xuất dệt may phát điện nhưng chi phí lại tăng vọt, khiến lợi được tổ chức theo dây chuyền, lao động biến nhuận bị giảm. động dẫn đến doanh nghiệp luôn bị động trong Thứ ba, sự biến động của nguồn nhân lực việc bố trí người thay thế, ảnh hưởng đến năng
- H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 245 suất lao động. Bên cạnh đó, doanh nghiệp lại là một bài toán khó đối với ngành công nghiệp phải mất thêm chi phí cho trợ cấp thôi việc và dệt may Việt Nam, khi công nghiệp dệt sợi, in, chi phí đào tạo lao động mới tuyển dụng. Thông nhuộm trong nước vừa yếu vừa thiếu về cơ sở thường, lao động mới tuyển dụng chưa có kinh hạ tầng cũng như công nghệ sản xuất. nghiệm làm việc, chưa kể tới những trường hợp Bên cạnh đó, mối lo về vốn tín dụng, tức là lao động mới vào tự do nghỉ việc không báo vốn vay cho sản xuất kinh doanh vẫn luôn cáo, gây ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất của thường trực với các doanh nghiệp sản xuất sản doanh nghiệp. phẩm dệt may xuất khẩu. Muốn thu mua được Hiện tại, có một nghịch lý tồn tại ở các số lượng lớn nguyên phụ liệu, các doanh nghiệp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm dệt may xuất phải vay vốn ngân hàng. Lạm phát gia tăng, lãi khẩu, đó là sự thiếu hụt lao động đang gây thiệt suất cho vay của ngân hàng cũng tăng theo, dẫn hại cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh đến giá thành sản xuất đội lên, làm giảm hiệu nghiệp lớn, song việc càng có nhiều lao động quả sản xuất kinh doanh. Lạm phát trong nước lại càng khiến các doanh nghiệp lo lắng bởi họ cao, Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ để phải chi nhiều hơn thu, mỗi khi mức lương tối kiềm chế lạm phát, các ngân hàng thương mại thiểu của người lao động được điều chỉnh tăng thực hiện hạn mức tín dụng. Một số ngân hàng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải tăng thương mại có quy mô lớn, mặc dù chưa đạt thêm khoản chi cho bảo hiểm xã hội. Đây là bài mức dư nợ 30% nhưng do lo ngại rủi ro, họ toán khó cho các doanh nghiệp lớn có quy mô không mặn mà lắm đối với việc cho vay. Lãi 2.000-3.000 lao động. Việc phải gia tăng chi suất cho vay mặc dù đã được các ngân hàng phí đầu vào đã và đang tạo thêm nhiều áp lực thương mại điều chỉnh giảm, nhưng mức giảm cho doanh nghiệp dệt may, nhất là cho bài toán không nhiều, chỉ khoảng 0,5-1%/năm, nên vẫn lương thưởng vào tháng giáp Tết hàng năm. đang ở mức rất cao so với mức lợi nhuận mà Thứ tư, sự biến động tỷ giá và lãi suất doanh nghiệp dệt may có thể đạt được. Lãi suất vốn vay cao, nhiều doanh nghiệp cũng không Trong mấy năm gần đây, lạm phát và sự dám vay, vì cùng với chi phí đầu vào như biến động tỷ giá đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt nguyên, nhiên liệu, lao động tăng, làm cho giá động sản xuất sản phẩm xuất khẩu của các thành sản xuất tăng, mà giá bán lại đang có xu doanh nghiệp. Việc Nhà nước điều chỉnh tỷ giá hướng giảm để cạnh tranh, doanh nghiệp khó có theo hướng tăng giá trị ngoại tệ sẽ có tác dụng lãi để trả ngân hàng. hạn chế nhập siêu. Tuy nhiên, đối với ngành dệt may, hạn chế nhập khẩu cũng đi đôi với việc hạn chế xuất khẩu, bởi doanh nghiệp dệt may 2.3. Khó khăn trong công đoạn xuất khẩu sản phải nhập khẩu tới hơn 70% nguyên liệu để sản phẩm xuất do nguyên liệu trong nước không đủ cung Sản phẩm dệt may làm ra đã gặp phải nhiều cấp. Do đó, với tỷ giá hiện nay, chỉ có doanh khó khăn, nhưng việc đưa các sản phẩm này nghiệp may chuyên xuất khẩu mà không nhập sang thị trường thế giới cũng gặp nhiều trở nguyên, phụ liệu về sản xuất thì mới không bị ngại. ảnh hưởng. Theo thống kê, năm 2009, xuất Thứ nhất, sự cạnh tranh của các sản phẩm khẩu dệt may đạt 9,1 tỷ USD nhưng nhập khẩu dệt may từ các nước khác là 6,8 tỷ USD nguyên, phụ liệu. Như vậy, tỷ giá tăng, các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp không hề có lợi, trái lại bị thiệt thêm vì đồng xuất khẩu dệt may Việt Nam đang phải cạnh USD lên giá, doanh nghiệp phải tốn thêm đồng tranh rất quyết liệt với các quốc gia xuất khẩu Việt Nam để nhập khẩu nguyên, phụ liệu. Hệ dệt may lớn khác trên thế giới như Trung Quốc, quả là giá thành sản xuất tăng cao. Đây sẽ vẫn Ấn Độ, Pakistan Các đơn hàng bị cạnh tranh mạnh, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải
- 246 H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 “thắt lưng buộc bụng”, tiết giảm tất cả các chi phương thức sản xuất lớn, kỷ luật lao động cao, phí có thể để hạ thấp chi phí sản xuất, từ đó trình độ quản lý cao dựa trên sự đồng bộ ở tất nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Theo cả các khâu phục vụ sản xuất nên năng suất cao, số liệu của Trung tâm Thương mại Thế giới dẫn đến chi phí cho một đơn vị sản phẩm thấp. (WTC), Việt Nam đứng trong danh sách top 10 Ngoài ra, nhờ sản xuất đại trà với khối lượng nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới lớn mà giá thành sản phẩm của Trung Quốc về hàng dệt may trong giai đoạn 2007-2009 và giảm được hơn 20%. Bên cạnh đó, Trung Quốc đứng vị trí thứ 7 trong năm 2010 với thị phần còn có nhiều biện pháp giảm giá “thiếu cạnh xuất khẩu gần 3%, sau Trung Quốc (thị phần tranh lành mạnh” khác, như trợ cấp, hạ thấp trị 36,6%), Bangladesh (4,32%), Đức (5,03%), giá thực của đồng nội tệ Trong khi đó, Việt Italy (5%), Ấn Độ (3,9%) và Thổ Nhĩ Kỳ Nam phải chịu chi phí cao do khoảng 70% (3,7%) [5]. nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất phải nhập khẩu. Thêm nữa, máy móc thiết bị mới nhập Năm 2012, ngành dệt may Việt Nam tiếp khẩu nên đang ở giai đoạn phải khấu hao nhanh tục phải đối mặt với khó khăn do các nước nhập nhằm có cơ hội tiếp tục đổi mới công nghệ, khẩu chính là Mỹ và EU đang gặp khó khăn về trình độ quản lý kém, năng suất lao động thấp, tài chính. Để thu hút đơn hàng, các nước như chỉ đạt 50-70% so với năng suất lao động trong Ấn Độ, Indonesia đã phải chấp nhận giảm giá, khu vực, công nghệ lạc hậu hơn khoảng 5 năm. do vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh Việc nhiều doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh tranh nhiều hơn. Theo dự báo của Bộ Công phải vay vốn ngắn hạn để đầu tư phát triển và Thương, tình hình kinh tế ở Mỹ và EU vẫn còn trả lãi vay vốn cao khiến tăng chi phí sản xuất nhiều khó khăn, người tiêu dùng thắt chặt chi kinh doanh cũng làm giảm khả năng cạnh tranh tiêu, trong đó có hàng dệt may, nên lượng hàng về giá của sản phẩm dệt may Việt Nam. Ngoài dệt may tiêu thụ tại những thị trường này dự ra, tiền lương công nhân và các chi phí khác ở báo năm 2012 sẽ giảm so với năm 2011. Lượng Việt Nam như điện, nước, viễn thông, vận hàng tiêu thụ giảm đồng nghĩa với việc đơn tải , đang có xu hướng tăng cùng với những hàng ít và mức độ cạnh tranh để giành được yếu kém trong tổ chức và quản lý khiến hoạt đơn hàng sẽ tăng cao, đặc biệt là cạnh tranh về động sản xuất và xuất khẩu phát sinh những giá sẽ gay gắt hơn. lãng phí không đáng có làm ngành dệt may Việt Đồng thời, tự do hóa thương mại ngày càng Nam gặp nhiều bất lợi trong cạnh tranh quốc tế. sâu rộng, mở ra một thị trường rộng lớn hơn và Như vậy, dù chi phí về giờ công lao động Việt thông thoáng hơn không những đối với Việt Nam rất thấp nhưng tất cả các yếu tố trên đã Nam mà với nhiều nước trên thế giới. Không liên tiếp đội giá bán sản phẩm dệt may Việt còn sự bảo hộ của Nhà nước, doanh nghiệp dệt Nam lên cao, khiến sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với may Việt Nam xét về giá bán vẫn thua các nước các nước có ngành công nghiệp dệt may phát khác trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc. Bangladesh Thứ hai, sự biến động kinh tế thế giới Theo đánh giá của các nhà kinh tế, giá cả Sự biến động kinh tế thế giới trong những sản phẩm dệt may Việt Nam thường cao hơn năm gần đây là khó khăn nằm ngoài tầm kiểm giá sản phẩm cùng loại của Trung Quốc khoảng soát của các doanh nghiệp nói chung và các 20%. Lý do là ngành dệt may Việt Nam phát doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nói riêng. triển chậm hơn so với Trung Quốc hàng thập Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh kỷ. Ngành dệt may Trung Quốc đã đáp ứng hầu tế toàn cầu, bắt nguồn từ Mỹ năm 2007, đã làm hết nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, máy giảm đáng kể nhu cầu đối với hàng dệt may móc thiết bị hiện đại đã được trang bị và vận xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2008, hành tối đa công suất, lao động đã làm quen với người tiêu dùng Mỹ tiêu 200 tỷ USD cho hàng
- H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 247 dệt may, giảm 3,6% so với 2007, và tiêu dùng Đặc điểm của xuất khẩu dệt may là được dệt may trong quý I năm 2009 cũng giảm 10% bảo hộ chặt chẽ ở hầu hết các nước trên thế giới so với cùng kỳ năm 2008. bằng những chính sách, thể chế đặc biệt. Trước Đối với Pháp, một trong nhiều quốc gia bị khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan ảnh hưởng từ sự sụp đổ các ngân hàng và hệ trọng của Vòng đàm phán Uruguay ra đời và thống tài chính quốc tế theo hiệu ứng domino, phát huy tác dụng, việc buôn bán sản phẩm dệt nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Pháp may giữa các nước được điều chỉnh theo những tương đối ổn định qua các năm cho đến năm thể chế thương mại này. Nhờ đó, phần lớn các 2007. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế đối với may đã bị giảm trong năm 2008- 2009. Trong nhập khẩu hàng dệt may. Mức thuế phổ biến bối cảnh nhu cầu thị trường Pháp có xu hướng đánh vào hàng dệt may cũng cao hơn so với các giảm và bản thân các doanh nghiệp đang phải hàng hóa công nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng đối phó với những khó khăn về tài chính, giá nước nhập khẩu còn đề ra nhiều quy định riêng nguyên vật liệu tăng cao, kim ngạch xuất khẩu đối với hàng dệt may nhập khẩu. Những thể chế hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Pháp nhằm bảo hộ sản xuất hàng dệt may của mỗi năm 2009 đạt chỉ hơn 138,5 triệu USD, giảm nước và hạn chế nhập khẩu này đã chi phối thị 7,87% so với năm 2008 [5]. trường hàng dệt may thế giới, ảnh hưởng rất lớn Tại các quốc gia châu Âu, cuộc khủng đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế hoảng nợ công đã khiến người tiêu dùng siết giới, trong đó có Việt Nam. chặt chi tiêu, thị trường nhập khẩu bị thu hẹp. Đối với các mặt hàng nhập khẩu, chính Năm 2011, lượng xuất khẩu hàng dệt may của phủ Mỹ đưa ra những quy định rất ngặt nghèo, Việt Nam sang thị trường này giảm gần 30% so chỉ một sơ sẩy nhỏ do không am hiểu luật pháp với năm 2010. Bên cạnh đó, các nhà nhập khẩu cũng có thể quyết định sự thành bại của một hàng dệt may của EU đang chuyển dần những chuyến hàng, thậm chí cả một doanh nghiệp. đơn hàng từ Việt Nam sang Campuchia, Lào và Trong những năm tới, Việt Nam khó có thể Bangladesh nhằm tránh mức thuế nhập khẩu tiếp tục tăng thị phần của mình trên thị trường 10% do Việt Nam không còn nằm trong danh Mỹ trừ khi ký kết Hiệp định Thương mại Tự sách những quốc gia được hưởng tiêu chuẩn do ASEAN-Mỹ hoặc Hiệp định xuyên Thái Tối huệ quốc (MFN), còn các nước này vẫn đang Bình Dương không bị ràng buộc bởi điều kiện được hưởng tiêu chuẩn MFN với mức thuế suất sử dụng sợi của Mỹ. Thêm vào đó, từ năm nhập khẩu 0%. Điều này khiến các doanh nghiệp 2011, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam dệt may Việt Nam bị giảm lượng đặt hàng từ EU. phải đối mặt với thách thức mới về công nghệ Bên cạnh đó, các doanh nghiệp với quy mô nhỏ và quản lý quy trình sản xuất khi Mỹ chính cũng khó đáp ứng những tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội mà các nhà nhập khẩu EU đang thức áp dụng các luật mới về tiêu chuẩn an ngày càng siết chặt hơn. toàn sản phẩm đối với hầu hết mặt hàng xuất khẩu vốn là các sản phẩm xuất khẩu thế mạnh Những biến động kinh tế tiêu cực tại khu của Việt Nam, trong đó có sản phẩm dệt may. vực EU cũng sẽ tác động tiêu cực đến xuất khẩu Những quy định này đỏi hỏi ngành dệt may ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới Việt Nam phải thực hiện đổi mới trong các đây. Lượng hàng dệt may xuất khẩu sang thị khâu nguyên liệu đầu vào và công nghệ nhằm trường EU từ đầu năm 2012 đến giữa tháng đảm bảo đủ các tiêu chuẩn xuất khẩu hàng 3/2012 đã giảm trung bình từ 25-30% so với hóa. Trong khi đó, điều kiện kinh tế khó khăn cùng thời điểm năm 2011 [5]. của Mỹ sẽ buộc các chủ hàng giảm bớt đơn đặt Thứ ba, các quy định pháp lý đối với sản hàng dệt may từ Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm dệt may nhập khẩu phẩm như áo jacket, quần, v.v
- 248 H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 Ngoài ra, Mỹ cũng đang áp dụng tiêu mang tính khách quan, còn có những khó khăn chuẩn SA 8000 cho hàng nhập khẩu Việt Nam. mà nguyên nhân bắt nguồn từ chính bản thân Tiêu chuẩn được xây dựng dựa trên các các doanh nghiệp dệt may. Do đó, các doanh nguyên tắc chung về quyền con người. Các nghiệp cần thực hiện một số biện pháp cụ thể để yêu cầu của tiêu chuẩn phù hợp với những quy có thể gia tăng giá trị trong mỗi công đoạn của định trong các công ước của Tổ chức Lao động chuỗi giá trị dệt may xuất khẩu. Thế giới (ILO), Công ước của Liên Hợp Quốc Thứ nhất, để tránh bất lợi do bị phụ thuộc về quyền trẻ em và Tuyên bố chung về nhân vào các đơn hàng của đối tác nước ngoài, chủ quyền [2]. Ngành dệt may Việt Nam cũng động trong việc thiết kế sản phẩm xuất khẩu, được một số doanh nghiệp Mỹ cảnh báo rằng ngành dệt may Việt Nam cần phân khúc thị nếu không sớm nâng năng lực làm hàng chất trường xuất khẩu để xác định đúng “mắt xích” lượng cao thì sẽ khó cạnh tranh được với các trong chuỗi giá trị, từ đó đầu tư cho khâu thiết đối tác khác đến từ các nước châu Á. Áp lực kế. Đối với các thị trường “dễ tính” như Hàn này khiến ngành dệt may phải xây dựng hệ Quốc, Angola, New Zealand, Ấn Độ, Nga , thống các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may phù ngành dệt may cần mạnh dạn đầu tư vào khâu hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế, thiết kế thời trang. Với tiềm năng về nhân lực, ngành dệt may hoàn toàn có thể tự thiết kế sản đồng thời đầu tư nâng cấp các trung tâm giám phẩm chứ không sản xuất theo yêu cầu thiết kế định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để của nước ngoài như trong các đơn hàng gia hỗ trợ các doanh nghiệp trong quản lý chất công với các khách hàng lớn như Mỹ, EU, Nhật lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. Bản. Làm được điều này, ngành dệt may Việt Không chỉ chính phủ Mỹ mà hầu hết các Nam sẽ giảm dần sự phụ thuộc vào các đơn nước nhập khẩu sản phẩm dệt may đều đưa ra hàng gia công, tập trung nâng cao tỷ lệ làm những rào cản kỹ thuật đối với ngành dệt may hàng xuất khẩu theo phương thức ODM (tự Việt Nam. Ví dụ, thị trường Nhật Bản (đứng thiết kế, sản xuất và bán sản phẩm cho khách sau thị trường Mỹ và EU về nhập khẩu sản hàng), đồng thời tăng sử dụng các nguyên phụ phẩm dệt may Việt Nam) quy định các sản liệu được sản xuất trong nước, từ đó giá trị gia phẩm phải có chứng chỉ sạch và thân thiện với tăng trong khâu thiết kế sẽ được nâng lên. Để môi trường. Đây là rào cản kỹ thuật đối với sản phát triển công tác thiết kế, cần thực hiện các phẩm dệt may khi xuất khẩu vào thị trường này. biện pháp cụ thể như thực hiện chính sách thu Và đây cũng chính là những trở ngại tiềm tàng hút các nhà thiết kế mẫu chuyên nghiệp hoặc đối với hàng dệt may Việt Nam về mặt pháp lý. nhà thiết kế tài năng vào làm việc với chế độ ưu Các tổ chức, doanh nghiệp đối tác có thể “vin” đãi, tăng cường đào tạo nâng cao tay nghề cho vào các biện pháp hạn chế trên làm cái cớ để các nhà thiết kế hiện có chèn ép các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam Tuy nhiên, đối với các khách hàng khó tính nhằm bảo hộ thị trường dệt may trong nước, như Mỹ, EU và Nhật Bản, ngành dệt may lại hoặc ép giá các sản phẩm dệt may hay đâm đơn phải cẩn trọng trong việc đầu tư vào khâu thiết kiện các doanh nghiệp Việt Nam nhằm mục kế sản phẩm. Từ giữa thập niên 1990, ở Việt đích riêng. Nam, khâu thiết kế thời trang đã được đặt ra. Qua gần 20 năm, hoạt động thiết kế thời trang 3. Một số biện pháp nhằm gia tăng giá trị của Việt Nam đã có những bước tiến nhất định, trong chuỗi giá trị dệt may xuất khẩu nhưng cho đến nay, các mẫu sản phẩm do Việt Nam thiết kế vẫn chưa được khách hàng nước Mỗi “mắt xích” trong chuỗi giá trị dệt may ngoài chấp nhận, đặc biệt đối với các khách xuất khẩu của Việt Nam đều gặp phải những hàng ở Mỹ, EU, Nhật Bản. Hiện tại vẫn có tới khó khăn và trở ngại. Bên cạnh những khó khăn khoảng 90% sản phẩm dệt may xuất khẩu của
- H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 249 Việt Nam dưới hình thức gia công cho nước ngành dệt may sẽ chủ động thực hiện các đơn ngoài, tức là sản xuất sản phẩm xuất khẩu theo hàng đã đàm phán với các đối tác. Đồng thời, mẫu mã, kiểu dáng của nước ngoài. Đối với các tránh được bất lợi do giá nguyên liệu thế giới thị trường khó tính, yêu cầu về mẫu mã, kiểu gia tăng, ngành dệt may có thể giữ vững vị trí dáng sản phẩm rất cao. Mẫu thiết kế của các trong top các nước dẫn đầu về xuất khẩu hàng trung tâm thời trang quốc tế nổi tiếng như New dệt may. York, Paris, Milano, Franfurt đã trở thành Ngành dệt may cần khẩn trương triển khai thương hiệu quá quen thuộc với khách hàng của dự án trồng bông vải theo mô hình trang trại các nước này. Chính vì vậy, các sản phẩm do thay thế phương thức trồng bông phân tán trong ngành dệt may Việt Nam tự thiết kế khó có thể các hộ dân để nguồn nguyên liệu được sản xuất len chân được vào thị trường Mỹ, EU, Nhật và cung ứng ổn định. Bên cạnh đó, ngành dệt Bản Do đó, mong muốn tham gia vào chuỗi may cần đẩy mạnh việc triển khai các dự án sản giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu ở xuất xơ visco, chủ yếu từ nguồn nguyên liệu là “mắt xích” thiết kế khó có thể trở thành hiện bột gỗ bạch đàn và keo lai tai tượng, vốn đang thực và việc đầu tư vào khâu thiết kế khó có thể được trồng nhiều ở Việt Nam. Đây là dự án mang lại hiệu quả. Thực tế cho thấy, trên thế hiện do Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) giới đã có một số nước thành công trong phát thực hiện. Với dự án đầu tư nhà máy có công triển ngành dệt may hướng ra xuất khẩu trong suất 120 tấn/năm, Việt Nam có thể chủ động giai đoạn đầu mới công nghiệp hóa. Mô hình khoảng 30% nhu cầu nguyên liệu sản xuất các của các NIE với sự thành công của Hồng Kông mặt hàng vải pha visco để tạo ra các loại thời và Hàn Quốc cách đây hơn 30 năm trong lĩnh trang yêu cầu rủ, mát, mềm mại và bóng hơn. vực dệt may là ví dụ điển hình. Các quốc gia Dự án này sẽ phát triển khoảng 5.000 ha vùng này, cho đến lúc chuyển giao ngành dệt may trồng cây nguyên liệu, góp phần phủ xanh đất sang các nước kém phát triển hơn, vẫn không trống, đồi trọc và tạo thêm việc làm, tăng thu thành công trong khâu thiết kế thời trang (Hồng nhập cho nông dân [3]. Tuy nhiên, để việc triển Kông thành công khi trở thành trung tâm trao khai dự án hiệu quả, Vinatex cần phải tranh thủ đổi, mua bán nguyên phụ liệu, còn Hàn Quốc sự ủng hộ của các địa phương, nơi triển khai dự chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp án trồng nguyên liệu. Bản thân Vinatex không khác. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của thể tự thực hiện điều này mà cần có sự hỗ trợ Hàn Quốc đến nay chỉ khoảng gần 14 tỷ của Chính phủ và Bộ Công Thương cũng như USD/năm). Hiện tại, các quốc gia mới nổi như các Bộ, ngành liên quan. Trung Quốc, Brazil cũng chỉ trở thành các công Thứ ba, chủ động nguồn nhân lực để giảm xưởng của thế giới hoặc trung tâm cung cấp bớt khó khăn do sự biến động của nguồn nhân nguyên, phụ liệu [1]. lực. Một trong những điều lo ngại nhất của Thứ hai, chủ động nguồn nguyên liệu cho nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay sản xuất để tránh bất lợi khi giá cả và nguồn là không có đủ lao động để thực hiện đơn hàng cung ứng nguyên liệu biến động. Như đã nêu đã ký. Bên cạnh đó, do yêu cầu về lao động trên, để tránh quá phụ thuộc vào nguyên liệu tăng nhanh nên khả năng đáp ứng của các cơ sở nhập khẩu, việc chủ động sản xuất một phần đào tạo chưa theo kịp. Điều đó dẫn đến tình nguyên liệu cung ứng cho nhu cầu sản xuất toàn trạng tranh giành lao động giữa các doanh ngành dệt may đang là một vấn đề “nóng”. Để nghiệp, đặc biệt là tại các khu công nghiệp, nơi làm được điều này, Nhà nước và ngành dệt may tập trung nhiều doanh nghiệp dệt may, như khu Việt Nam cần phải có chiến lược quy hoạch công nghiệp Bắc Thăng Long - Nội Bài, khu nguồn nguyên liệu, hướng tới nguyên liệu nội công nghiệp Đồng Nai Bên cạnh đó, nguồn sẽ thay thế phần lớn nguyên liệu ngoại nhập. nhân lực công nghiệp chất lượng cao cũng thiếu Khi đã chủ động được phần lớn nguyên liệu, trầm trọng. Việc tìm kiếm nguồn nhân lực chất
- 250 H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 lượng từ các trường học, trung tâm đào tạo tại phương pháp hiệu quả nhất để nâng cao xuất Việt Nam gần như không thể bởi không có. Tự khẩu của ngành là tạo điều kiện cho từng doanh đào tạo thì nhiều doanh nghiệp thiếu kinh phí, nghiệp tự ra quyết định để cải tiến hoạt động thiết bị Ngay cả khi doanh nghiệp muốn đào tạo của chính mình. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp thì cũng ít thành công bởi người lao động hay vì dệt may xuất khẩu cần có đầy đủ thông tin về lợi ích trước mắt mà cản trở việc nâng cao tay xu hướng trên thị trường, thị hiếu, tình hình nghề. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần chủ động đào xuất nhập khẩu để đưa ra các quyết định sáng tạo nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng yêu cầu, suốt và cần thiết. Tuy nhiên, việc doanh nghiệp nhiệm vụ, trên cơ sở có chính sách hỗ trợ, khuyến tự thu thập và phân tích những thông tin cần khích công nhân nâng cao tay nghề thiết là không hiệu quả. Giải pháp tốt nhất là ngành dệt may cần xây dựng một hệ thống thu Thứ tư, tăng cường tham gia chuỗi giá trị thập, phân tích và phổ biến thông tin cho toàn toàn cầu. Trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành ngành, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay kịp thời và đưa ra những chính sách hợp lý. chủ yếu vẫn sản xuất theo tiêu chuẩn khách hàng (Original Equiment Manufacture - OEM). Bên cạnh đó, ngành dệt may cần nâng cao Tuy nhiên, để trở thành nhà cung ứng đạt chuẩn chất lượng dự báo và đánh giá thị trường; theo OEM, vẫn còn nhiều vấn đề lớn mà các doanh dõi sát sao tình hình tại các thị trường dệt may nghiệp Việt Nam cần cố gắng hơn nữa so với chính là Mỹ, EU và Nhật Bản; tìm kiếm và các nước Đông Á. Mặt khác, muốn thâm nhập khai thác cơ hội tại các thị trường tiềm năng sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh như Hàn Quốc, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung nghiệp Việt Nam cần phải sản xuất dưới dạng Đông, Nga, Đông Âu, Nam Mỹ nhằm hạn sản xuất thiết kế gốc (Original Design chế sự phụ thuộc vào các thị trường dệt may Manufacture - ODM) hay sản xuất nhãn hiệu chính và gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Đồng gốc (Own Brand Manufacture - OBM) [3]. thời, ngành dệt may Việt Nam cũng cần thay đổi cách nhìn đối với thị trường Trung Quốc, Bên cạnh đó, Hiệp hội Dệt may Việt Nam không chỉ coi thị trường này là nguồn cung cần khuyến khích các doanh nghiệp tích cực cấp nguyên, phụ liệu dệt may chủ yếu mà còn tham gia chuỗi cung ứng ASEAN. Để có thể coi đây là một trong những thị trường đầy tiềm chuyển dần lên các mô hình sản xuất ở cấp độ năng cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cao hơn, thoát khỏi tình trạng gia công và tăng trong thời gian tới. giá trị gia tăng, cơ hội mở ra cho Việt Nam khi một mối liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất Thứ sáu, nắm vững các quy định đối với sản dệt và may trong ASEAN để xây dựng chuỗi phẩm dệt may nhập khẩu. Khi xuất khẩu sản cung ứng trong khu vực được xây dựng. phẩm dệt may sang thị trường nước ngoài, các SAFSA - chuỗi cung ứng dệt may chất lượng doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ những yêu cầu về cao ASEAN là một trong những mô hình đó. tiếp cận thị trường của các đối tác thương mại. SAFSA được kỳ vọng sẽ nâng cao năng lực Những yêu cầu thường là về luật pháp, nhãn cạnh tranh cho doanh nghiệp dệt may. Hai bên mác, ký mã hiệu và hệ thống quản lý, nhằm gồm nhà cung cấp và khách hàng đều có lợi: mục tiêu đảm bảo vệ sinh, an toàn cho người nhà cung cấp sẽ có lợi nhuận cao hơn khi tiêu dùng, an toàn cho môi trường tự nhiên và chuyển dần từ gia công sản phẩm đơn thuần xã hội. Chẳng hạn, những yêu cầu về tiếp cận sang sản xuất dịch vụ trọn gói, còn khách hàng thị trường liên quan tới xã hội, môi trường và có nhiều sự lựa chọn về các nhà cung ứng dịch chất lượng đang ngày càng quan trọng trong vụ hơn với thời gian được cung ứng sản phẩm thương mại quốc tế và thường được các nhà ngắn hơn. nhập khẩu EU quy định dưới dạng nhãn hiệu, Thứ năm, tăng cường thông tin, nắm bắt quy tắc hành xử và hệ thống quản lý. Còn đối tình hình thị trường xuất khẩu. Một trong những với thị trường Mỹ, dệt may luôn là một mặt
- H.V. Hội / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 241‐251 251 hàng có vị trí quan trọng trong chính sách chuỗi xuất khẩu sản phẩm dệt may, các doanh thương mại của Mỹ, vì vậy Mỹ luôn chú trọng nghiệp dệt may cần nhận rõ những khó khăn, việc thực thi các chính sách quản lý nhập khẩu thách thức trong hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với mặt hàng này. Một trong những chiến xuất khẩu sản phẩm dệt may trong bối cảnh nền lược chủ đạo đó là kiềm chế các nước xuất khẩu kinh tế thế giới có nhiều biến động. Trên cơ sở đó, thông qua các hiệp định dệt may song phương doanh nghiệp dệt may có thể xây dựng các biện hay các thỏa thuận khống chế số lượng bằng pháp khắc phục khó khăn, nâng cao năng lực cạnh các công cụ: quy định về hạn ngạch, quy định tranh, nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị xuất khẩu nhãn mác, quy định về các tiêu chuẩn an toàn, dệt may của doanh nghiệp. bảo vệ môi trường Các công cụ hạn chế thương mại này có thể gây trở ngại cho sản Tài liệu tham khảo phẩm dệt may Việt Nam khi nó không đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn ký thuật, tiêu [1] Dương Đình Giám (2010), “Nâng cao hiệu quả chuẩn về điều kiện lao động Do đó, để tránh ngành may xuất khẩu, có cần một giải pháp toàn trở ngại này, các doanh nghiệp trong nước một diện?” Tạp chí Công nghiệp số 10/2010. mặt phải cẩn thận khi tuân thủ các yêu cầu phía [2] Nguyễn Ngọc Sơn (2008), “Dệt may Việt Nam thời đối tác, mặt khác phải nắm chắc các vấn đề kỳ hậu WTO: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí pháp lý đối với sản phẩm dệt may, nhằm chủ Kinh tế và Dự báo, Số 11 (Số 427). động đối phó khi các tình huống xấu xảy ra. [3] Hồ Tuấn (2008), “Chất lượng tăng trưởng dệt may Việt Nam từ cách tiếp cận chuỗi giá trị”, Tạp chí Công nghiệp, Số 9/2008. 4. Kết luận [4] Nguyễn Sơn (2011), “Dệt may giữ vững vị trí đứng đầu”, Thời báo Kinh doanh, Để tiếp tục giữ vững vị trí hiện nay trong nền kinh tế, đồng thời góp phần gia tăng giá trị trong Value Chain of Exporting Textile and Garment of Vietnam: Obstacles, Difficulties and Countermeasures Assoc. Prof. Dr. Hà Văn Hội Faculty of International Business and Economics, VNU University of Economics and Business, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract. The exporting textile and garment of Vietnam is characterized by its dependence on foreign consumers. Therefore, there are both objective and subjective difficulties in each of the “chain” of the value chain of textile exports, from importation of raw materials to the following stages such as production of raw materials, accessories for the textile industry, and products for export, and distribution of products in international markets. Thus, in order to add value to the export value chain, Vietnam’s garment and textile industry should strengthen proactive measures such as preparing actively material and human resources for production; further collecting, analyzing exchanging information of the international markets and the export markets; participating in the global and regional textile supply chain; and mastering the rules of other countries for textile products import.