Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 - Phần 2

pdf 51 trang Đức Chiến 05/01/2024 510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 - Phần 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tra_thu_thap_thong_tin_ve_thuc_trang_kinh_te_xa.pdf

Nội dung text: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 - Phần 2

  1. CHƯƠNG 2: DÂN SỐ VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG NHÂN KHẨU HỌC 2.1. Quy mô và phân bố dân số 2.1.1. Quy mô dân số Tính đến 01/4/2019, quy mô dân số của 53 DTTS tại Việt Nam đã đạt 14,1 triệu người. Trong số 10 DTTS có tỷ lệ tăng dân số bình uân năm giai đoạn 2009-2019 cao nhất, có đến 0 dân tộc là các DTTS rất ít người. Đây là n hiệu tốt trong việc thực hiện mục tiêu “Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số rất ít người có nguy cơ suy giảm giống nòi” mà Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 đã đề ra. Tổng điều tra năm 2019 được thực hiện vào thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019, thu thập các thông n cơ bản về nhân khẩu học của tất cả người dân trên cả nước, trong đó bao gồm thông n của đồng bào DTTS. Để sử dụng nguồn số liệu sẵn có này, thông n về quy mô và phân bố dân số tại chương này sẽ khai thác số liệu của Tổng điều tra năm 2019. Tại thời điểm 01/4/2019, dân số Việt Nam đạt 96,2 triệu người, trong đó dân tộc Kinh có 82,1 triệu người, chiếm 85,3% tổng dân số cả nước; 53 DTTS còn lại có 14,1 triệu người, chiếm 14,7% tổng dân số cả nước. Sau 10 năm, từ năm 2009 đến năm 2019, quy mô dân số của 53 DTTS đã tăng gần 1,9 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 của các DTTS là 1,42 , cao hơn tỷ lệ tăng bình quân của dân tộc Kinh (1,09%) và tỷ lệ tăng bình quân của cả nước (1,14%). Trong tổng số 14,1 triệu người DTTS, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới, tương ứng là 50,1% so với 49,9 . Các DTTS đông dân nhất lần lượt là Tày, Thái, Mường, Mông, Khmer, Nùng, Dao, Hoa, Gia Rai, Ê Đê. Các DTTS có quy mô dân số ít nhất là Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Si La; trong đó, dân tộc Ơ Đu có dân số ít nhất (428 người). Một số DTTS có tỷ lệ tăng dân số bình quân năm cao như Ngái (4,66 ), Cơ Lao (4,18 ), Rơ Măm (3,82 ), Bố Y (3,52%) - đây đều là những dân tộc ít người. Một số dân tộc có tỷ lệ tăng dân số bình quân năm thấp như Hoa, Khmer, Lô Lô. Đặc biệt, tỷ lệ tăng dân số của dân tộc Hoa là âm (-0,94%), tức là sau 10 năm, quy mô dân số của dân tộc Hoa giảm. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 53
  2. Biểu 2.1: Quy mô và tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 của 10 dân tộc thiểu số có quy mô dân số lớn nhất và 10 dân tộc thiểu số có qu mô dân số nhỏ nhất Dân số thời điểm 01/4/2009 Dân số thời điểm 01/4/2019 Tỷ lệ tăng Người) Người) dân số bình quân năm giai đoạn Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ 2009-2019 (%) TOÀN QUỐC 85 846 997 42 413 143 43 433 854 96 208 984 47 881 061 48 327 923 1,14 Kinh 73 594 341 36 304 063 37 290 278 82 085 826 40 804 641 41 281 185 1,09 53 DTTS 12 250 436 6 107 798 6 142 638 14 119 256 7 073 907 7 045 349 1,42 Tày 1 626 392 808 079 818 313 1 845 492 918 155 927 337 1,26 Thái 1 550 423 772 605 777 818 1 820 950 910 202 910 748 1,61 Mường 1 268 963 630 983 637 980 1 452 095 729 889 722 206 1,35 Mông 1 068 189 537 423 530 766 1 393 547 711 066 682 481 2,66 Khmer 1 260 640 617 650 642 990 1 319 652 650 238 669 414 0,46 Nùng 968 800 485 579 483 221 1 083 298 546 978 536 320 1,12 Dao 751 067 377 185 373 882 891 151 450 089 441 062 1,71 Hoa 823 071 421 883 401 188 749 466 389 651 359 815 -0,94 Gia Rai 411 275 201 905 209 370 513 930 252 234 261 696 2,23 Ê Đê 331 194 163 060 168 134 398 671 195 351 203 320 1,85 Mảng 3 700 1 868 1 832 4 650 2 313 2 337 2,29 Cơ Lao 2 636 1 344 1 292 4 003 2 005 1 998 4,18 Bố Y 2 273 1 170 1 103 3 232 1 695 1 537 3,52 Cống 2 029 1 009 1 020 2 729 1 341 1 388 2,96 Ngái 1 035 557 478 1 649 881 768 4,66 Si La 709 371 338 909 453 456 2,48 Pu Péo 687 352 335 903 467 436 2,73 Rơ Măm 436 227 209 639 317 322 3,82 Brâu 397 196 201 525 255 270 2,79 Ơ Đu 376 219 157 428 237 191 1,30 Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn sinh sống chủ yếu của người DTTS với 49,8 tổng số người DTTS (tương đương khoảng 7 triệu người) đang cư trú, tập trung đông ở các tỉnh như Sơn La, Hà Giang, Lạng Sơn, Hòa Bình, Cao Bằng, Điện Biên, Lào Cai. Người DTTS sinh sống ở Trung du và miền núi phía Bắc phần lớn là người dân tộc Tày, Mông, Thái, Mường, Nùng và Dao. Ngoài ra, Tây Nguyên cũng là vùng tập trung đông người DTTS với 15,6% tổng số người DTTS (tương đương 2,2 triệu người), chủ yếu là người dân tộc Gia Rai, Ê Đê, Ba Na và Cơ Ho. 54 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  3. Biểu 2.2: Số người dân tộc thiểu số theo giới tính, thành thị, nông thôn, vùng kinh tế - xã hội và 10 tỉnh có qu mô người dân tộc thiểu số lớn nhất Đơn vị: Người Giới tính Thành thị, nông thôn Chung Nam Nữ Thành thị Nông thôn TỔNG SỐ 14 119 256 7 073 907 7 045 349 1 950 857 12 168 399 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 7 037 246 3 548 632 3 488 614 638 683 6 398 563 Đồng bằng sông Hồng 468 313 221 415 246 898 96 823 371 490 Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 2 075 922 1 041 143 1 034 779 109 500 1 966 422 Tây Nguyên 2 199 784 1 095 912 1 103 872 223 735 1 976 049 Đông Nam Bộ 1 027 984 518 862 509 122 562 752 465 232 Đồng bằng sông Cửu Long 1 310 007 647 943 662 064 319 364 990 643 Một số tỉnh có quy mô lớn Sơn La 1 045 400 529 393 516 007 57 914 987 486 Hà Giang 749 362 377 798 371 564 70 062 679 300 Gia Lai 699 760 345 838 353 922 64 103 635 657 Đắk Lắk 667 305 333 589 333 716 56 221 611 084 Thanh Hoá 664 707 335 842 328 865 18 488 646 219 Lạng Sơn 655 896 335 345 320 551 95 154 560 742 Hoà Bình 634 725 318 386 316 339 36 836 597 889 Cao Bằng 503 167 250 028 253 139 101 436 401 731 Điện Biên 494 786 250 924 243 862 25 929 468 857 Nghệ An 491 267 248 756 242 511 12 501 478 766 2.1.2. Quy mô hộ Mặc dù vẫn cao hơn uy mô hộ bình quân cả nước, quy mô hộ DTTS đã giảm từ mức 4,4 người/hộ năm 2015 xuống còn 4,1 người/hộ năm 2019. Mông, Khơ mú, Mảng là những dân tộc có quy mô hộ cao nhất, trên 4, người/hộ. Tính đến thời điểm 01/4/2019, số hộ DTTS12 là 3.680.943 hộ, chiếm 13,7% tổng số hộ của cả nước. Phần lớn các hộ DTTS sống ở khu vực nông thôn, chiếm 83,3 , tương đương với gần 3,1 triệu hộ. Số hộ DTTS ở Trung du và miền núi phía Bắc chiếm tỷ trọng cao nhất (47,5%), tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (14,1 ) và Tây Nguyên (13,8 ). Đồng bằng sông Hồng là vùng có ít hộ đồng bào DTTS sinh sống nhất (4,9%). 12 Trong Điều tra 53 DTTS năm 2019, hộ DTTS được quy định là các hộ đáp ứng ít nhất 01 trong 03 điều kiện sau: chủ hộ là người DTTS; vợ hoặc chồng chủ hộ là người DTTS; hộ có tỷ lệ thành viên là người DTTS chiếm từ 50 trở lên. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 55
  4. Biểu 2.3: Số hộ của 05 dân tộc thiểu số có quy mô lớn nhất và 05 dân tộc thiểu số có quy mô nhỏ nhất theo thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội Đơn vị: Hộ Thành thị, nông thôn Vùng kinh tế - xã hội Bắc Trung Đồng Trung du Đồng Bộ và bằng Chung Thành Nông và miền bằng Tây Đông Duyên hải sông thị thôn núi phía sông Nguyên Nam Bộ miền Cửu Bắc Hồng Trung Long TỔNG SỐ 3 680 943 614 315 3 066 628 1 747 160 181 763 520 366 508 899 342 602 380 153 Tày 559 362 113 615 445 747 456 750 44 621 4 554 33 753 19 310 374 Thái 449 690 43 515 406 175 266 315 16 503 144 407 15 309 6 908 248 Mường 407 710 36 366 371 344 235 621 44 303 102 571 13 940 10 832 443 Khmer 398 992 102 669 296 323 176 227 684 1 065 73 152 323 688 Nùng 304 611 47 335 257 276 230 646 14 852 2 710 39 354 16 865 184 Pu Péo 233 92 141 214 9 0 0 9 1 Si La 228 28 200 215 3 1 1 8 0 Brâu 152 6 146 0 0 1 147 3 1 Rơ Măm 150 14 136 0 1 0 138 11 0 Ơ Đu 112 8 104 0 3 107 0 2 0 Số người bình quân một hộ DTTS là 4,1 người, giảm 0,3 người/hộ so với năm 2015 (4,4 người/hộ) nhưng vẫn cao hơn số người bình quân một hộ của cả nước (3,6 người/hộ). Quy mô hộ thấp và giảm dần phản ánh mức sinh của Việt Nam nói chung và của 53 DTTS nói riêng đã giảm trong nhiều năm qua; ngoài ra, nh trạng này cũng phản ánh xu hướng tách hộ (mô hình gia đình hạt nhân thay vì mô hình gia đình truyền thống nhiều thế hệ) và xu hướng di cư của lực lượng lao động người DTTS. Biểu 2.4: Một số dân tộc thiểu số có số người bình quân một hộ cao nhất Tỷ lệ hộ theo số người sống trong hộ (%) Số người bình Số hộ 7 người quân một hộ 1 người 2-4 người 5-6 người trở lên Người/hộ) 53 DTTS 3 680 943 5,6 59,0 27,5 7,9 4,1 Mông 258 339 2,0 34,5 39,3 24,2 5,3 Khơ mú 18 931 2,1 44,8 38,0 15,1 4,8 Mảng 961 5,1 44,4 30,0 20,5 4,8 Lự 1 405 1,8 46,9 38,8 12,5 4,7 Lô Lô 1 017 4,3 43,7 37,0 15,0 4,7 Gia Rai 109 981 2,6 48,1 35,1 14,2 4,7 Xinh Mun 6 387 2,3 50,3 33,7 13,7 4,7 La Chí 3 232 3,7 47,2 35,5 13,6 4,6 Ba Na 62 094 3,3 51,0 31,3 14,4 4,6 56 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  5. Tại khu vực thành thị, quy mô hộ DTTS là 3,6 người/hộ, ở khu vực nông thôn là 4,2 người/hộ. Các dân tộc có quy mô hộ cao nhất là Mông (5,3 người/hộ), Khơ mú và Mảng (4,8 người/hộ). Rơ Măm, Brâu, Hrê, Tày, Pu Péo là những dân tộc có quy mô hộ nhỏ nhất với 3,5 người/hộ hoặc 3,6 người/hộ. Quy mô hộ phổ biến của 53 DTTS là từ 2 đến 4 người/hộ, chiếm 59,0% tổng số hộ DTTS. Tỷ lệ hộ độc thân (hộ 1 người) chiếm 5,6% tổng số hộ; hộ từ 7 người trở lên chiếm 7,9% tổng số hộ. Một số dân tộc có tỷ lệ hộ từ 7 người trở lên cao như: Mông (24,2 ), Mảng (20,5%), Khơ mú (15,1%), Lô Lô (15,0%). 2.1.3. Tỷ số giới tính Tỷ số giới tính của 53 DTTS cao hơn tỷ số giới tính của cả nước và cao hơn tỷ số giới tính của dân tộc Kinh. Tỷ số giới tính của dân số được tính bằng dân số nam trên 100 dân số nữ. Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ số giới tính của 53 DTTS là 100,4 nam/100 nữ, cao hơn tỷ số giới tính của cả nước (99,1 nam/100 nữ) và tỷ số giới tính của dân tộc Kinh (98,8 nam/100 nữ). Tỷ số giới tính chịu tác động bởi ba yếu tố là sinh, chết và di cư. Những nơi có sự lựa chọn giới tính khi sinh (ưa thích con trai) sẽ làm tăng tỷ số giới tính khi sinh và làm tăng tỷ số giới tính. Bên cạnh đó, tỷ số giới tính thường cao ở các nhóm tuổi trẻ và giảm dần khi nhóm tuổi tăng lên do mức tử vong của nam giới cao hơn nữ giới. Những nơi có nhiều nữ giới di cư đi nơi khác sẽ làm tăng tỷ số giới nh và ngược lại. Hình 2.1: Tỷ số giới tính của 53 dân tộc thiểu số Đơn vị: Nam/100 nữ Các DTTS có tỷ số giới tính cao như: Ơ Đu (124,1 nam/100 nữ), Ngái (114,7 nam/100 nữ), Bố Y (110,3 nam/100 nữ), Hoa (108,3 nam/100 nữ). Trong khi đó, một số dân tộc có tỷ số giới tính khá thấp như: Xtiêng (92,4 nam/100 nữ), Mạ (94,1 nam/100 nữ), Brâu (94,4 nam/100 nữ), Mnông (94,9 nam/100 nữ). KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 57
  6. 2.1.4. Phân bố dân số thành thị và nông thôn Phần lớn người DTTS sống ở khu vực nông thôn, chỉ có 13, % người DTTS sống ở khu vực thành thị, chưa bằng một nửa tỷ lệ dân số thành thị của toàn quốc (34,4%). Theo kết quả Tổng điều tra năm 2019, có gần hai triệu người DTTS sống ở khu vực thành thị, tương đương với 13,8% tổng số người DTTS. Số người DTTS sống ở khu vực nông thôn là hơn 12 triệu người, tương đương với 86,2%. Dân tộc Hoa, Pu Péo, Bố Y, Ngái, Khmer là những DTTS có tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị cao nhất, lần lượt là 69,7 ; 36,2 ; 32,2 ; 27,8 và 23,5 ; trong đó, dân tộc Hoa và Khmer chủ yếu sinh sống ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Các DTTS có tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị thấp nhất là: Xinh Mun (0,6%), La Hủ (1,0 ), Kháng (1,2 ), La Ha (1,5 ), đây đều là những DTTS đang cư trú tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Hình 2.2: Phân bố dân số thành thị, nông thôn 2.1.5. Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi và giới tính Mức độ già hóa dân số của 53 DTTS chậm hơn mức độ già hóa dân số của cả nước. Cứ hai người DTTS trong độ tuổi lao động phải “gánh đỡ” một người phụ thuộc. 2.1.5.1. Tháp dân số Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi và giới tính phản ánh bức tranh tổng quát về mức sinh, mức chết, tốc độ tăng dân số của một tập hợp dân số tại một thời điểm xác định. Tháp dân số là một công cụ thông dụng được dùng để biểu thị sự kết hợp cơ cấu tuổi và giới tính của dân số dưới dạng hình học (đặc trưng là hình tháp). Hình dạng của tháp dân số không chỉ cung cấp các thông tin khái quát về cơ cấu tuổi và giới tính của dân số vào thời điểm xác định mà còn sử dụng để đánh giá sự chuyển dịch cấu trúc dân số qua các năm; bề rộng của nhóm tuổi trẻ nhất (đáy tháp) phản ánh sự tăng hay giảm của mức sinh so với những năm trước trong khi bề rộng của nhóm tuổi cao nhất (đỉnh tháp) phản ánh sự thay đổi hay xu hướng già hóa dân số. 58 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  7. Hình 2.3: Tháp dân số của 53 dân tộc thiểu số và tháp dân số Việt Nam Quan sát bằng trực quan hai tháp dân số ở hình trên thấy rằng các thanh ở đáy tháp dân số của 53 DTTS mở rộng hơn so với tháp dân số Việt Nam, điều này cho thấy mức sinh của 53 DTTS cao hơn mức sinh chung của toàn bộ dân số Việt Nam. Ngược lại các thanh ở đỉnh tháp dân số của 53 DTTS thu hẹp hơn so với tháp dân số Việt Nam, điều này cho thấy tỷ trọng dân số các nhóm tuổi cao của 53 DTTS thấp hơn của cả nước hay nói cách khác là mức độ già hóa dân số của 53 DTTS sẽ chậm hơn mức độ già hóa dân số của cả nước. Số liệu về tỷ trọng dân số theo 03 nhóm tuổi (dưới 15 tuổi, 15-64 tuổi và từ 65 tuổi trở lên) của 53 DTTS và của dân số cả nước tính đến 01/4/2019 cũng phản ánh nhận định trên. Biểu 2.5: Tỷ trọng dân số theo nhóm tuổi của 53 dân tộc thiểu số và của dân số cả nước Đơn vị: % 53 dân tộc thiểu số Toàn quốc Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi 29,7 24,3 Tỷ trọng dân số 15-64 tuổi 65,0 68,0 Tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên 5,3 7,7 2.1.5.2. Tỷ số phụ thuộc Tỷ số phụ thuộc là chỉ tiêu phản ánh gánh nặng của dân số trong độ tuổi lao động. Tỷ số phụ thuộc chung biểu thị phần trăm của dân số dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên trên 100 người ở nhóm tuổi 15-64. Trong đó, tỷ số phụ thuộc trẻ em biểu thị phần trăm của dân số dưới 15 tuổi trên 100 người ở nhóm tuổi 15-64 và tỷ số phụ thuộc người già biểu thị phần trăm của dân số từ 65 tuổi trở lên trên 100 người ở nhóm tuổi 15-64. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 59
  8. Biểu 2.6: Tỷ số phụ thuộc của 53 dân tộc thiểu số và của dân số cả nước Đơn vị: % 53 dân tộc thiểu số Toàn quốc Tỷ số phụ thuộc trẻ em (0-14) 45,8 35,7 Tỷ số phụ thuộc người già (65+) 8,2 11,3 Tỷ số phụ thuộc chung 54,0 47,1 Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ số phụ thuộc chung của 53 DTTS cao hơn tỷ số phụ thuộc chung của dân số toàn quốc, trong đó tỷ số phụ thuộc trẻ em của 53 DTTS cao hơn khá nhiều so với tỷ số phụ thuộc trẻ em của dân số toàn quốc (cao hơn 10,1 điểm phần trăm), ngược lại tỷ số phụ thuộc người già của 53 DTTS thấp hơn tỷ số phụ thuộc người già của toàn quốc (thấp hơn 3,1 điểm phần trăm). Điều này là do 53 DTTS có mức sinh cao hơn mức sinh chung của cả nước và tuổi thọ trung bình thấp hơn tuổi thọ trung bình chung của cả nước, dẫn đến tỷ trọng dân số trẻ (dưới 15 tuổi) của 53 DTTS cao hơn so với tỷ trọng dân số trẻ toàn quốc và tỷ trọng dân số già trên 65 tuổi của 53 DTTS thấp hơn tỷ trọng này của toàn quốc. 2.2. Hôn nhân Kế thừa một số thông tin về hôn nhân đã được thu thập trong Tổng điều tra năm 2019, trong báo cáo này, các phân tích về tình trạng hôn nhân và tuổi kết hôn trung bình lần đầu được tổng hợp từ dữ liệu Tổng điều tra năm 2019, các chỉ tiêu về tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống được phân tích dựa trên dữ liệu Điều tra 53 DTTS năm 2019. 2.2.1. Tình trạng hôn nhân Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn cao hơn tỷ lệ chung của toàn bộ dân số. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM) của người DTTS là 22,7 tuổi, tăng 1,7 tuổi so với năm 2015. Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn là 78,9 , cao hơn tỷ lệ chung của dân số cả nước (77,5%). Một số DTTS có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn cao như: Lự (84,2%), Hrê và Xinh Mun (83,9%), La Chí (83,6%), Mông (83,1%). Dân tộc Hoa, Ơ Đu, Si La là những dân tộc có tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên kết hôn thấp nhất, lần lượt là 66,1%, 68,7% và 69,2%. Đối với đồng bào DTTS, tình trạng ly hôn là không phổ biến với tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên đã ly hôn là 1,2 . Dân tộc Ngái và dân tộc Brâu có tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên ly hôn cao nhất, lần lượt là 2,4% và 2,3%. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của người DTTS là 22,7 tuổi, thấp hơn so với mức trung bình chung của toàn bộ dân số (25,2 tuổi) và tăng 1,7 tuổi so với năm 2015 (21 tuổi). Dân tộc Mông kết hôn lần đầu sớm nhất (19,5 tuổi), tiếp đến là Lự (20,7 tuổi), La Hủ và La Ha (20,8 tuổi). Dân tộc Hoa có tuổi kết hôn trung bình lần đầu cao nhất (27,6 tuổi), tiếp theo là Chơ ro (25,5 tuổi). 60 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  9. 2.2.2. Tảo hôn và hôn nhân cận huyết Tỷ lệ tảo hôn của người DTTS giảm nhưng vẫn ở mức cao, cứ 10 người DTTS thì có 2 người tảo hôn. Tình trạng kết hôn cận huyết của người DTTS đã giảm nhưng vẫn tăng cao ở một số dân tộc. Trong Điều tra 53 DTTS năm 2019, để phục vụ phân tích và so sánh với kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2015, tỷ lệ tảo hôn và tỷ lệ kết hôn cận huyết thống được tính toán cho những người DTTS kết hôn lần đầu trong năm 2018. Tỷ lệ tảo hôn của người DTTS năm 2018 là 21,9 . So với năm 2014, tỷ lệ tảo hôn giảm 4,7 điểm phần trăm, tức giảm trung bình hơn 1 /năm, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu “giảm bình quân 2%-3 /năm số cặp tảo hôn” theo Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015-202513. Dân tộc Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất với 51,5% dân số kết hôn trước tuổi quy định, tiếp đến là dân tộc Cơ Lao (47,8%), Mảng (47,2%), Xinh Mun (44,8%). Một số dân tộc có tỷ lệ tảo hôn thấp (dưới 7%) như: Hoa, Tày, Thổ, Si La Mặc dù tình trạng tảo hôn của người DTTS có sự cải thiện đáng kể, tỷ lệ tảo hôn vẫn ở mức cao tại những vùng tập trung nhiều đồng bào DTTS sinh sống như Tây Nguyên với hơn một phần tư số người bước vào hôn nhân khi chưa đủ tuổi kết hôn (27,5%), tiếp đó là Trung du và miền núi phía Bắc (24,6 ). Đồng bằng sông Hồng, nơi không có nhiều người DTTS sinh sống (3,3%), là vùng có tỷ lệ người DTTS tảo hôn thấp nhất cả nước (7,8%). Tỷ lệ tảo hôn của nữ DTTS luôn cao hơn nam ở tất cả các vùng, ngoại trừ Đồng bằng sông Hồng. Hình 2.4: Tỷ lệ tảo hôn của người dân tộc thiểu số theo giới tính và vùng kinh tế - xã hội, năm 2018 Đơn vị: % 13 Theo Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 14/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025”. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 61
  10. Kết quả điều tra cũng cho thấy, chỉ có 1,1 người DTTS tảo hôn có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong khi tỷ lệ này ở những người không tảo hôn cao gấp gần 18 lần (18,8%); 31/53 DTTS có tình trạng 100% số người tảo hôn không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Vì vậy, cần có các chính sách nhằm nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật cho đồng bào DTTS từ đó góp phần giảm thiểu các hủ tục lạc hậu trong vùng đồng bào DTTS trong đó có tình trạng tảo hôn. Hình 2.5: Tỷ lệ người dân tộc thiểu số có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo tình trạng tảo hôn và giới tính, năm 2018 Đơn vị: % Tỷ lệ người DTTS kết hôn cận huyết thống năm 2018 là 5,6‰, giảm 0,9 điểm phần nghìn so với năm 2014 (6,5‰). Một số DTTS có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống cao năm 2014, đến năm 2018 đã không còn tình trạng này như: Mạ, Mảng, Cơ Ho, Kháng, Chứt. Tuy nhiên, năm 2018 cũng ghi nhận sự gia tăng của tỷ lệ kết hôn cận huyết thống ở một số DTTS như: La Chí, Bru Vân Kiều, Lô Lô, Gia Rai, La Ha. Hình 2.6: Tỷ lệ kết hôn cận huyết thống của một số dân tộc thiểu số, năm 2014 và năm 2018 Đơn vị: ‰ 62 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  11. 2.3. Mức sinh Mức sinh phản ánh mức độ sinh thực tế của một tổng thể dân cư trong thời kỳ nghiên cứu. Mức sinh phụ thuộc vào khả năng sinh sản của mỗi người phụ nữ và các yếu tố dân số, kinh tế và xã hội khác như: mức độ kết hôn, tuổi kết hôn, thời gian có chồng, số con mong muốn của các cặp vợ chồng, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, địa vị của người phụ nữ, chính sách của Nhà nước và hiệu quả sử dụng các biện pháp tránh thai. Mức sinh được phản ánh thông qua các chỉ tiêu: tổng tỷ suất sinh, tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi, tỷ suất sinh thô, tỷ số giới tính khi sinh và một số chỉ tiêu về mức sinh khác. 2.3.1. Tổng tỷ suất sinh14 Các chính sách để thay đổi mức sinh của người DTTS đã có kết quả tích cực, tuy vậy, vẫn cần rất nhiều nỗ lực trong công tác truyền thông nhằm giảm bớt mức sinh đối với một số dân tộc hiện có mức sinh rất cao so với trung bình của cả nước. Ước lượng tổng tỷ suất sinh (TFR) của người DTTS từ kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 là 2,35 con/phụ nữ. Mức sinh của phụ nữ DTTS năm 2019 đã giảm 0,03 con/phụ nữ so với năm 2015 nhưng vẫn khá cao so với mức bình quân chung của cả nước là 2,09 con/phụ nữ15 và cao hơn so với mức sinh thay thế là 2,1 con/phụ nữ. Trong 53 DTTS, dân tộc Hoa và dân tộc Hrê có mức sinh thấp nhất và thấp hơn mức sinh thay thế, lần lượt là 1,52 con/phụ nữ và 2,08 con/phụ nữ. Năm DTTS có mức sinh cao nhất bao gồm: Mảng (4,97 con/phụ nữ), Chứt (3,82 con/phụ nữ), Cơ Lao (3,71 con/phụ nữ), La Hủ (3,68 con/phụ nữ) và Mông (3,57 con/phụ nữ). Hình 2.7: Tổng tỷ suất sinh của 10 dân tộc thiểu số có tổng tỷ suất sinh cao nhất, năm 2015 và năm 2019 Đơn vị: Số con/phụ nữ 14 Tổng tỷ suất sinh (TFR) là số con đã sinh ra sống bình quân của một người phụ nữ trong suốt thời kỳ sinh đẻ (15-49 tuổi), nếu người phụ nữ đó trong suốt thời kỳ sinh đẻ trải qua tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFR) như quan sát được trong thời kỳ nghiên cứu, thường là 12 tháng trước thời điểm điều tra. 15 Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 63
  12. So với năm 2015, mức sinh của một số dân tộc có xu hướng tăng (25 dân tộc). Các dân tộc có mức sinh tăng mạnh nhất so với năm 2015 bao gồm: Xtiêng (tăng 0,55 con/phụ nữ), Lào và La Chí (đều tăng 0,53 con/phụ nữ), Pà Thẻn và Mảng (đều tăng 0,36 con/phụ nữ), Chứt (tăng 0,31 con/phụ nữ). Bên cạnh đó, các dân tộc Chơ Ro, Lự, La Hủ có mức sinh giảm mạnh nhất, lần lượt giảm 0,36 con/phụ nữ, 0,35 con/phụ nữ và 0,32 con/phụ nữ. Trong số các DTTS có quy mô lớn (trên 1 triệu người), dân tộc Mông là dân tộc có mức sinh cao nhất, 3,57 con/phụ nữ, cao hơn nhiều so với các dân tộc có quy mô lớn khác. Tuy vậy, đã có thời điểm tổng tỷ suất sinh của dân tộc Mông đạt đỉnh 9 con/phụ nữ vào năm 199916 và giảm dần đến nay chỉ còn 3,57 con/phụ nữ. Mức sinh của dân tộc Mường và Khmer có xu hướng tăng trở lại sau khi đã đạt dưới mức sinh thay thế vào năm 2015. Điều này cho thấy vẫn cần rất nhiều nỗ lực trong công tác truyền thông nhằm giảm bớt mức sinh của các nhóm DTTS có mức sinh cao. Hình 2.8: Tổng tỷ suất sinh của một số dân tộc thiểu số có quy mô lớn Đơn vị: Số con/phụ nữ 2.3.2. Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi Các DTTS nói chung đều sinh sớm hơn so với mô hình chung của cả nước, trong đó phần lớn phụ nữ DTTS sinh con ở độ tuổi 20-24. Có sự khác biệt về tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của phụ nữ DTTS tính từ kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 và của phụ nữ cả nước tính từ kết quả Tổng điều tra năm 2019. Mô hình sinh của phụ nữ DTTS đạt đỉnh ở nhóm tuổi 20-24 cho thấy phần lớn phụ nữ DTTS sinh con ở độ tuổi này, đạt 152 con/1000 phụ nữ. Số con ở những độ tuổi kế tiếp giảm nhanh (nhóm tuổi từ 25-29 giảm khoảng 25 ). Trong khi đó, độ tuổi sinh con phổ biến của phụ nữ Việt Nam nói chung thuộc về nhóm tuổi từ 25-29 với 130 con/1000 phụ nữ. Ở độ tuổi từ 15-19, các DTTS đạt mức 89 con/1000 phụ nữ, cao hơn nhiều so với mức chung của toàn quốc (35 con/1000 phụ nữ). Như vậy, phụ nữ DTTS có mô hình sinh sớm hơn rất nhiều so với mô hình sinh chung. Từ 25 tuổi trở đi, mức sinh của phụ nữ DTTS giảm mạnh. 16 Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999. 64 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  13. Hình 2.9: Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của toàn quốc và 53 dân tộc thiểu số Đơn vị: Trẻ sinh sống/1000 phụ nữ Hình 2.10: Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của dân tộc Mông và dân tộc Hoa Đơn vị: Trẻ sinh sống/1000 phụ nữ Có thể thấy được sự khác biệt rõ ràng khi so sánh tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi giữa dân tộc Hoa (dân tộc có TFR thấp nhất) và dân tộc Mông (dân tộc có TFR cao nhất trong số các dân tộc có quy mô lớn). Đồ thị của dân tộc Mông có hình dốc đi xuống, đạt mức khá cao ngay ở nhóm tuổi trẻ từ 15-19 với 200 con/1000 phụ nữ và đạt cực đại ở nhóm tuổi từ 20-24 với 208 con/1000 phụ nữ. Như vậy, phụ nữ dân tộc Mông sinh con rất sớm, đa phần sinh con ở độ tuổi từ 15-24; sau độ tuổi này, mức sinh của họ giảm mạnh. Ngược lại, đồ thị về mô hình sinh của dân tộc Hoa cho thấy mức sinh ở nhóm tuổi trẻ từ 15-19 là khá thấp (8 con/1000 phụ nữ), tăng dần ở nhóm tuổi từ 20-24 (51 con/1000 phụ nữ) và đạt cực đại ở nhóm tuổi từ 25-29 (99 con/1000 phụ nữ), sau đó giảm dần ở các nhóm tuổi tiếp theo. So với dân tộc Mông, dân tộc Hoa sinh muộn hơn và ít con hơn, đặc biệt sau độ tuổi 30 họ có xu hướng kéo dài thời kỳ sinh sản. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 65
  14. 2.3.3. Tỷ suất sinh thô17 Tỷ suất sinh thô của 53 DTTS cao hơn tỷ suất sinh thô của cả nước. Hoa, Mường, Sán Chay, Nùng, Khmer là các dân tộc có tỷ suất sinh thô thấp nhất. Tỷ suất sinh thô của 53 DTTS năm 2019 là 18,05 trẻ sinh sống/1000 dân, cao hơn tỷ suất sinh thô của cả nước (16,3 trẻ sinh sống/1000 dân18). Có sự khác biệt khi so sánh tỷ suất sinh thô giữa các DTTS. Có đến 34 DTTS (chiếm 64,2% các DTTS) có tỷ suất sinh thô cao hơn tỷ suất sinh thô tính chung cho 53 DTTS, trong đó cao nhất là dân tộc Mảng với 34,88 trẻ sinh sống/1000 dân, cao hơn 1,9 lần so với mức trung bình của 53 DTTS. Các dân tộc có tỷ suất sinh thô thấp nhất bao gồm Hoa, Mường, Sán Chay, Nùng, Khmer. Hình 2.11: Tỷ suất sinh thô của 05 dân tộc có tỷ suất cao nhất và 05 dân tộc có tỷ suất thấp nhất Đơn vị: Trẻ sinh sống/1000 dân 2.3.4. Tỷ số giới tính khi sinh19 Tỷ số giới tính khi sinh của các DTTS thấp hơn so với mức chung của toàn quốc nhưng vẫn cao hơn so với mức cân bằng sinh học. So sánh với số liệu Tổng điều tra năm 2019, tỷ số giới tính khi sinh của các DTTS thấp hơn so với mức chung của toàn quốc, 110,2 bé trai/100 bé gái so với 111,5 bé trai/100 bé gái. Tuy nhiên, so với mức cân bằng sinh học (104-106 bé trai/100 bé gái), tỷ số giới tính khi sinh của 17 Tỷ suất sinh thô (CBR) biểu thị số trẻ em sinh ra sống trong thời kỳ nghiên cứu, thường là 12 tháng trước thời điểm điều tra, tính bình quân trên 1000 người dân có đến thời điểm điều tra. Gọi là “thô” vì tỷ suất này tính trên toàn bộ dân số (tức là bao gồm cả những người có khả năng và không có khả năng sinh con). 18 Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. 19 Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) được xác định bằng số bé trai trên 100 bé gái được sinh ra trong một thời kỳ nghiên cứu, thường là 12 tháng trước thời điểm điều tra; phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số này thông thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống. Bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp có chủ ý và làm ảnh hưởng đển sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số của quốc gia và toàn cầu. 66 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  15. các DTTS vẫn cao hơn. Như vậy, tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh ở Việt Nam không chỉ diễn ra ở các khu vực đô thị phát triển mà còn “len lỏi” đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS. Để đạt được mục tiêu đến năm 2030, tỷ số giới tính khi sinh của cả nước đạt dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống theo Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân số trong tình hình mới, vẫn cần rất nhiều nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân Hình 2.12: Tỷ số giới tính khi sinh của toàn quốc và 53 dân tộc thiểu số theo thành thị, nông thôn Đơn vị: Bé trai/100 bé gái 2.3.5. Tình hình chăm sóc sức khỏe khi sinh Tình hình chăm sóc sức khỏe khi sinh cho phụ nữ DTTS rất tích cực với tỷ lệ phụ nữ DTTS mang thai có đến các cơ sở y tế khám thai trong lần sinh gần nhất đạt %. Tuy nhiên, để duy trì cũng như đảm bảo đạt tỷ lệ này ở tất cả các nhóm DTTS, cần có các chính sách đầu tư hiệu uả và thiết thực hơn nữa. Ở Việt Nam, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tất cả phụ nữ trong thời kỳ mang thai đều được khám thai định kỳ, đều đặn. Kết quả Điều tra 53 DTTS cho thấy, đến nay đã có 88,0 phụ nữ DTTS mang thai có đến các cơ sở y tế để khám thai trong lần sinh gần nhất. Tuy nhiên, mức độ này không đồng đều giữa các dân tộc. Một số dân tộc có tỷ lệ phụ nữ khám thai rất cao như dân tộc Thổ (98,3 ), Tà Ôi (97,8 ), Cơ Ho (97,6 ). Trong khi đó, tỷ lệ này vẫn còn khá thấp ở một số dân tộc như La Hủ (45,3%), La Ha (63,5 ), Mảng (65,9 ). Thực trạng này cho thấy việc chăm sóc sức khỏe thai sản cho phụ nữ DTTS vẫn còn nhiều bất cập bởi tỷ lệ phụ nữ có thai được khám thai đầy đủ có liên quan trực tiếp đến tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực vùng DTTS và miền núi. Vì vậy, lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe người dân nói chung, phụ nữ nói riêng đặc biệt là phụ nữ DTTS đòi hỏi sự quan tâm đầu tư hiệu quả và thiết thực hơn nữa. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 67
  16. Hình 2.13: Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số từ 10-49 tuổi khám thai trong lần sinh gần nhất Đơn vị: % 2.3.6. Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại các cơ sở y tế Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại các cơ sở y tế không đồng đều giữa các dân tộc. Cần có các biện pháp thiết thực hơn nữa để đưa dịch vụ y tế đến với đồng bào DTTS vùng sâu vùng xa cũng như xóa bỏ được các hủ tục lạc hậu về vấn đề sinh sản. Cả nước có 86,4% phụ nữ DTTS sinh con tại các cơ sở y tế, 3,9% phụ nữ DTTS sinh tại nhà có cán bộ chuyên môn đỡ, 9,5% sinh tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ, 0,2% sinh con tại nơi khác. Các dân tộc Mường, Tày, Hoa, Khmer và Nùng có tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế khá cao, lần lượt là 99,3%, 99,2%, 99,0%, 98,7% và 97,1%. Một số dân tộc như Mảng, Mông, Cống và La Hủ có tỷ lệ sinh con tại nhà và không có cán bộ chuyên môn đỡ rất cao, lần lượt là 50,6%, 38,8%, 37,0% và 36,5%. Thực trạng này là một trong các nguy cơ dẫn đến các tai biến khó lường như chết mẹ sau sinh, chết trẻ em dưới 1 tuổi hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe của phụ nữ và trẻ sơ sinh. Vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục quan tâm, xây dựng các mô hình và chính sách phù hợp hơn nữa để góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em đến với đồng bào DTTS, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. 2.4. Mức chết 2.4.1. Tỷ suất chết thô Tỷ suất chết thô (CDR) của 53 DTTS sau chuẩn hoá năm 2019 giảm nhẹ so với năm 2015 nhưng sự biến động về CDR ở từng dân tộc cụ thể không theo xu hướng chung. Sự khác biệt về quy mô dân số, phong tục tập quán có thể là nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt về mức chết giữa các dân tộc. 68 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  17. CDR là chỉ tiêu thường dùng để phản ánh mức độ tử vong của dân số. CDR cho biết trung bình cứ mỗi 1000 dân thì có bao nhiêu người chết trong một thời gian nhất định, thường là 12 tháng trước thời điểm điều tra. Chỉ tiêu này được gọi là tỷ suất chết thô do chịu ảnh hưởng bởi cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính của dân số quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực hay một tập hợp dân số. Theo kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019, CDR chung của 53 DTTS là 7,65‰, cao hơn so với mức chung của cả nước năm 2019 là 6,3‰20. Biểu 2.7: Tỷ suất chết thô của 53 dân tộc thiểu số, năm 2015 và năm 2019 Đơn vị: Người chết/1000 dân 2015 2019 T ỷ suất chết thô 7,28 7,65 Tỷ suất chết thô chuẩn hóa 7,9021 7,65 So sánh kết quả hai cuộc Điều tra 53 DTTS năm 2015 và năm 2019, khi chưa loại bỏ ảnh hưởng của cơ cấu dân số, CDR năm 2019 cao hơn so với năm 2015, tương ứng là 7,65‰ và 7,28‰. Tuy nhiên, sau khi thực hiện chuẩn hóa, tức là loại bỏ ảnh hưởng của cơ cấu tuổi tới chỉ tiêu này, CDR năm 2019 thấp hơn so với năm 2015, tương ứng là 7,65‰ và 7,90‰. CDR chưa chuẩn hóa năm 2019 cao hơn năm 2015 không phản ánh những vấn đề liên quan đến sức khoẻ hay bệnh dịch mà do sự thay đổi về cơ cấu tuổi của dân số khi mà tỷ trọng dân số ở nhóm từ 65 tuổi trở lên tăng làm cho CDR tăng (nhóm người cao tuổi có tỷ suất chết cao hơn các nhóm tuổi khác). Điều này phần nào phản ánh xu hướng già hóa dân số cũng đang diễn ra đối với các DTTS. Không có sự biến động lớn về CDR chung của 53 DTTS giữa năm 2015 và năm 2019 nhưng CDR giữa các dân tộc có sự khác biệt đáng kể. Trong khi phần lớn các dân tộc có CDR ở mức dưới 8,0‰, một số DTTS ít người (dưới 10.000 người) có CDR rất cao, trên 10,0‰, như: Brâu (15,24‰), Pu Péo (13,29‰), Ơ Đu (11,68‰). Sự biến động này có thể là do quy mô và cơ cấu tuổi của các dân tộc rất khác nhau, đặc biệt với những DTTS ít người, ảnh hưởng của quy mô và cơ cấu tuổi của dân số đến CDR càng lớn. 20 Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. 21 Chuẩn hóa tỷ suất chết thô năm 2015 theo cơ cấu dân số của 53 DTTS năm 2019. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 69
  18. Biểu 2.8: Tỷ suất chết thô của 53 dân tộc thiểu số Đơn vị: Người chết/1000 dân Dân tộc CDR Dân tộc CDR Dân tộc CDR Dân tộc CDR Brâu 15,24 Co 8,80 Chứt 7,72 Ba Na 6,88 Pu Péo 13,29 Mạ 8,60 Lô Lô 7,67 Chu Ru 6,88 Ơ Đu 11,68 Tà Ôi 8,58 Chơ Ro 7,66 Thái 6,86 Si La 11,00 La Ha 8,57 Pà Thẻn 7,64 Sán Chay 6,47 Rơ Măm 10,95 Lự 8,44 Hà Nhì 7,48 Dao 6,38 Nùng 9,68 Khơ mú 8,35 Bố Y 7,43 Bru Vân Kiều 6,31 Cống 9,53 Gié Triêng 8,21 Phù Lá 7,30 Ê Đê 6,30 La Hủ 9,41 Cơ Ho 8,13 Ngái 7,28 Gia Rai 6,28 Kháng 9,27 Xơ Đăng 8,07 Khmer 7,24 Thổ 6,22 Mường 9,20 Lào 8,04 Giáy 7,12 Sán Dìu 6,17 Mảng 9,03 Xinh Mun 8,03 Mnông 7,04 Chăm 6,14 Cơ Lao 8,99 Xtiêng 7,92 Hrê 6,92 Tày 8,90 Cơ Tu 7,86 Mông 6,91 Raglay 8,80 La Chí 7,74 Hoa 6,88 2.4.2. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) là số đo mức độ chết của trẻ em trong năm đầu tiên của cuộc sống, phản ánh tình hình cung cấp chất lượng các dịch vụ và phương tiện chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, đánh giá mức độ tử vong của nhóm dân số có mức độ chết cao và tác động mạnh đến tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh. Tuy nhiên, việc khai báo số trẻ em dưới 1 tuổi bị chết thường không đầy đủ do đây là thông tin nhạy cảm mà hộ dân cư thường không muốn nhắc đến (thậm chí có thể khai báo thiếu nhiều hơn so với số chết của người lớn) hoặc cũng có những trường hợp chính bố, mẹ hoặc chủ hộ trong các hộ dân tộc không nhớ trường hợp chết hay theo phong tục của dân tộc những trẻ bị chết quá sớm không được tính là một thành viên nên không được tính. Do đó, IMR được ước lượng bằng phương pháp gián tiếp. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, IMR năm 2019 của 53 DTTS là 22,13‰; trong đó, của nam là 24,82‰, của nữ là 19,29‰. Có thể thấy vấn đề chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em tại các vùng DTTS cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Cải thiện điều kiện, chất lượng sống, nâng cao tỷ lệ tiếp cận với chăm sóc y tế là cơ sở cơ bản để khắc phục và giảm thiểu tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi tại các vùng đồng bào DTTS. Tương tự như CDR, có sự khác biệt khá lớn về IMR giữa các dân tộc, IMR của dân tộc La Hủ cao nhất trong các DTTS (66,23‰), cao gấp 5,5 lần IMR của dân tộc Hoa (11,94‰). 70 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  19. Hình 2.14: Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi của 53 dân tộc thiểu số và một số dân tộc chủ yếu Đơn vị: Trẻ em dưới 1 tuổi chết/1000 trẻ sinh sống 2.4.3. Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của 53 DTTS đã được nâng cao rõ rệt, đạt 70,7 tuổi, ua đó rút ngắn đáng kể khoảng cách với tuổi thọ trung bình của cả nước. Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh (còn gọi là triển vọng sống trung bình khi sinh hay tuổi thọ trung bình) phản ánh mức độ chết của dân số. Chỉ tiêu này không bị tác động bởi cơ cấu dân số theo độ tuổi nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi mức độ chết ở tất cả các độ tuổi, đặc biệt là tuổi sơ sinh và trẻ em. Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh còn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia, một vùng, một địa phương hay dân tộc; là một thành tố để tính Chỉ số phát triển con người (HDI). Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, tuổi thọ trung bình của 53 DTTS là 70,7 tuổi; nam là 68,0 tuổi và nữ là 73,7 tuổi. So với năm 2015, tuổi thọ trung bình của 53 DTTS đã được nâng lên (tăng 0,8 năm), điều đó phản ánh hiệu quả của các chính sách phát triển vùng DTTS trong thời gian qua góp phần đưa tuổi thọ trung bình của các DTTS tiến khá gần tới mức chung của cả nước (73,6 tuổi 22). Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể nhưng vẫn tồn tại sự khác biệt rất lớn về tuổi thọ trung bình giữa các DTTS, tuổi thọ trung bình của dân tộc có tuổi thọ cao nhất (Hoa: 74,4 tuổi) cao hơn 15,1 năm so với dân tộc có tuổi thọ trung bình thấp nhất (La Hủ: 59,4 tuổi). 22 Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 71
  20. Hình 2.15: Tuổi thọ trung bình của 05 dân tộc có tuổi thọ trung bình cao nhất và 05 dân tộc có tuổi thọ trung bình thấp nhất Đơn vị: Tuổi 2.5. Giáo dục và đào tạo Tổng điều tra năm 2019 thu thập thông tin về tình hình giáo dục đào tạo của tất cả dân số từ 5 tuổi trở lên, trong đó có người DTTS. Do vậy, kết quả về giáo dục đào tạo của người DTTS trong chương này được khai thác chủ yếu từ dữ liệu Tổng điều tra năm 2019. Bên cạnh đó, để có thông tin về tình hình biết đọc biết viết chữ phổ thông và chữ dân tộc của người DTTS, báo cáo khai thác dữ liệu từ Điều tra 53 DTTS năm 2019. 2.5.1. Tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi Hầu hết các dân tộc đã đạt hoặc vượt mục tiêu “Đến năm 2020 tỷ lệ trẻ em hoàn thành chương trình tiểu học trên 94%”23. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch về thực trạng đi học ở bậc THCS và THPT giữa hai giới và giữa các vùng kinh tế - xã hội. Để hướng tới mục tiêu của Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, cần chú trọng và có những chính sách trực tiếp tác động đến công tác giáo dục bậc THCS và THPT cho trẻ em DTTS. Theo quy định của Luật Giáo dục, hệ thống giáo dục phổ thông của Việt Nam được chia thành 3 cấp với những quy định cụ thể về thời gian và độ tuổi như sau: (1) cấp tiểu học được thực hiện trong năm năm học từ lớp 1 đến lớp 5 và tuổi của học sinh vào học lớp 1 là 6 tuổi; (2) cấp trung học cơ sở (THCS) được thực hiện trong bốn năm học từ lớp 6 đến lớp 9 và tuổi của học sinh vào học lớp 6 là 11 tuổi; (3) cấp trung học phổ thông (THPT) được thực hiện trong ba năm học từ lớp 10 đến lớp 12 và tuổi của học sinh vào học lớp 10 là 15 tuổi. Như vậy, tại 23 Theo Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 10/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015. 72 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  21. thời điểm điều tra ngày 01/4/2019, dân số trong độ tuổi đi học phổ thông là những người sinh từ năm 2001 đến 2012: Dân số trong độ tuổi đi học tiểu học sinh từ năm 2008 đến năm 2012, dân số trong độ tuổi đi học THCS sinh từ năm 2004 đến năm 2007, dân số trong độ tuổi đi học THPT sinh từ năm 2001 đến năm 2003. Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học của người DTTS là 100,5%, cấp THCS là 85,8% và THPT là 50,7%. Ở cấp tiểu học, không có nhiều sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn về tỷ lệ đi học chung (100,4% so với 100,5%). Cấp học càng cao thì khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ đi học chung giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn càng lớn, cụ thể: Cấp THCS, tỷ lệ đi học chung của khu vực thành thị cao hơn tỷ lệ đi học chung của khu vực nông thôn là 6,0 điểm phần trăm (91,0 so với 85,0%); mức chênh lệch này ở cấp THPT là 24,1 điểm phần trăm (71,1 so với 47,0%). So với năm 2015, mức độ tiếp cận với giáo dục phổ thông của người DTTS đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là ở cấp THPT với tỷ lệ đi học chung ở cấp này tăng 8,9 điểm phần trăm24. Biểu 2.10: Tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi theo cấp học, thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội Đơn vị: % Tỷ lệ đi học chung Tỷ lệ đi học đúng tuổi Tiểu học THCS THPT Tiểu học THCS THPT 53 DTTS 100,5 85,8 50,7 96,9 81,6 47,0 Thành thị, nông thôn Thành thị 100,4 91,0 71,1 97,2 87,5 66,9 Nông thôn 100,5 85,0 47,0 96,8 80,7 43,4 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 100,4 90,9 56,9 97,6 87,2 53,5 Đồng bằng sông Hồng 101,4 95,0 65,1 98,3 91,4 62,1 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 100,6 88,5 53,1 97,6 84,9 49,7 Tây Nguyên 100,3 74,5 33,3 94,7 69,0 29,2 Đông Nam Bộ 100,4 81,6 51,3 95,9 76,4 46,5 Đồng bằng sông Cửu Long 100,9 75,7 42,5 95,5 71,1 38,4 24 Năm 2015, tỷ lệ đi học chung của 53 DTTS ở cấp tiểu học là 98,6 ; cấp THCS là 83,9 ; cấp THPT là 41,8 . KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 73
  22. Tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi25 cấp tiểu học của 53 DTTS đạt 96,9 , vượt mục tiêu “Đến năm 2020 tỷ lệ trẻ em DTTS nhập học đúng tuổi bậc tiểu học đạt trên 94 ” theo Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 10/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015. Hầu hết các dân tộc đã đạt hoặc vượt mục tiêu này, tuy vậy, vẫn còn một số ít dân tộc có tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học chưa đạt mục tiêu như dân tộc Gia Rai (90,8%), Ba Na (93,6%), Raglay (93,1%), Xtiêng (91,2%), Brâu (93,9%). Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp THCS và THPT của trẻ em DTTS lần lượt là 81,6% và 47,0%. Một số dân tộc có tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi ở hai cấp này cao hơn mức bình quân chung của cả nước như dân tộc Tày, Hoa, Mường, Nùng, Ngái, Sán Dìu, Si La, Bố Y. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều DTTS có tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi cấp THPT thấp (dưới 30 ) như Mông, Ba Na, Gia Rai, Mnông, Raglay, Xtiêng. Tương tự như tỷ lệ đi học chung, tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em DTTS ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn ở tất cả các cấp học; cấp học càng cao, sự khác biệt này càng lớn. So với năm 2015, cơ hội đi học theo đúng độ tuổi quy định của trẻ em DTTS ngày càng được đảm bảo hơn với tỷ lệ đi học đúng tuổi được cải thiện ở tất cả các cấp26, trong đó rõ rệt nhất là ở cấp THPT (tỷ lệ đi học đúng tuổi tăng 14,8 điểm phần trăm). Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đến năm 2025 “Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi học trung học cơ sở trên 95%, học trung học phổ thông trên 60 ” theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, cần có nhiều chính sách chú trọng hơn nữa đến công tác giáo dục bậc THCS và THPT đối với trẻ em DTTS. Hầu như không có sự khác biệt giữa các vùng kinh tế - xã hội về mức độ phổ cập giáo dục tiểu học nhưng có chênh lệch ở cấp THCS và THPT. Tỷ lệ đi học chung cấp THCS và THPT cao nhất là ở Đồng bằng sông Hồng, tương ứng là 95,0% và 65,1% và thấp nhất là ở Tây Nguyên, tương ứng là 74,5% và 33,3%. Chênh lệch cao nhất giữa các vùng kinh tế - xã hội là 20,5 điểm phần trăm ở cấp THCS và 31,8 điểm phần trăm ở cấp THPT. Tỷ lệ đi học đúng tuổi cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng và thấp nhất ở Tây Nguyên đối với tất cả các cấp học. Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh nữ DTTS cao hơn học sinh nam DTTS; bậc học càng cao, chênh lệch về giới càng rõ nét, đặc biệt ở các dân tộc như Gia Rai, Ê Đê, Xơ Đăng, Cơ Ho, Chăm, Raglay, Xtiêng, Cơ Tu, Gié Triêng, Mạ, Co, Tà Ôi, Chơ Ro. Trong khi hầu hết các DTTS có tỷ lệ học sinh nữ đi học đúng tuổi cao hơn học sinh nam, riêng dân tộc Mông, Cống có tỷ lệ học sinh nam đi học đúng tuổi cao hơn học sinh nữ ở bậc THCS và THPT. 25 Tỷ lệ đi học đúng tuổi là số học sinh trong tuổi đến trường của một cấp học phổ thông đang tham gia vào cấp học đó tính trên 100 người trong tuổi đến trường của cấp học đó. Tỷ lệ đi học chung là số học sinh đang tham gia vào một cấp giáo dục phổ thông (không kể tuổi) tính trên 100 người trong tuổi đến trường của cấp học đó. 26 Năm 2015, tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em DTTS cấp tiểu học là: 88,8 ; cấp THCS là 72,5 ; cấp THPT là 32,2%. 74 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  23. Biểu 2.11: Tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em dân tộc thiểu số theo cấp học Đơn vị: % Tiểu học THCS THPT Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ 53 DTTS 96,8 97,0 80,0 83,3 43,4 50,9 Thành thị, nông thôn Thành thị 97,0 97,4 85,1 89,5 61,3 72,0 Nông thôn 96,7 96,9 79,3 82,3 40,4 46,7 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 97,9 97,4 87,9 86,4 52,0 55,2 Đồng bằng sông Hồng 98,4 98,3 90,7 92,1 60,7 63,5 Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 97,3 97,8 81,9 88,0 43,6 55,9 Tây Nguyên 93,8 95,6 62,4 75,7 21,2 37,2 Đông Nam Bộ 95,6 96,1 74,9 78,0 43,2 49,9 Đồng bằng sông Cửu Long 95,1 95,8 67,9 74,5 33,8 43,3 2.5.2. Trẻ em dân tộc thiểu số ngoài nhà trường Công tác giáo dục đối với đồng bào DTTS đã đạt được những thành tựu nhất định, tỷ lệ trẻ em DTTS ngoài nhà trường giảm gần hai lần trong vòng 10 năm ua. Trẻ em DTTS ngoài nhà trường là trẻ em DTTS đang trong độ tuổi đi học phổ thông (sinh trong giai đoạn 2001 - 2012) nhưng chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học. Tỷ lệ trẻ em DTTS ngoài nhà trường biểu thị số trẻ em DTTS trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học trong tổng dân số DTTS của độ tuổi này. Sau 10 năm kể từ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tình hình giáo dục của trẻ em DTTS đã đạt được những thành tựu nhất định. Tỷ lệ trẻ em DTTS trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học giảm gần hai lần, từ 26,4 năm 2009 xuống còn 15,5 năm 2019. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường của 53 DTTS hiện vẫn cao hơn gần hai lần tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường của cả nước và cao hơn gần ba lần tỷ lệ này của dân tộc Kinh. Tỷ lệ trẻ em trai DTTS trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học cao hơn trẻ em gái, mức chênh lệch là 1,9 điểm phần trăm (16,4 so với 14,5%). Có 19/53 DTTS có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường trên 20 , trong đó tỷ lệ này của dân tộc Brâu cao nhất (35,4%), tiếp đến là dân tộc Xtiêng (35,3%). Dân tộc Sán Dìu và Tày có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường thấp nhất trong 53 DTTS, tương ứng là 3,7% và 5,1%. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 75
  24. Hình 2.16: Tỷ lệ trẻ em DTTS ngoài nhà trường theo giới tính, năm 2009 và năm 2019 Đơn vị: % Tỷ lệ trẻ em DTTS ngoài nhà trường giữa các cấp học cũng có sự khác biệt khá rõ. Cấp học càng cao, tỷ lệ này càng tăng. Ở cấp tiểu học, cứ 100 em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học thì có khoảng 2 em không được đến trường; con số tương ứng ở cấp THCS là 13 em, ở cấp THPT là 46 em. Một số DTTS có tỷ lệ trẻ em không đi học THCS cao hơn khoảng ba lần so với mức chung của 53 DTTS như Brâu (45,2 so với 13,3%), Xtiêng (39,6% so với 13,3%), Gia Rai (36,3% so với 13,3%). Tình trạng học sinh DTTS trong độ tuổi học THPT không đến trường là phổ biến ở hầu hết các dân tộc với 27/53 DTTS có tỷ lệ học sinh trong độ tuổi không đi học THPT chiếm trên 50%. Ở tất cả các cấp học và hầu hết các DTTS, tình trạng bỏ học hoặc chưa bao giờ đi học của trẻ em trai luôn cao hơn trẻ em gái. Hình 2.17: Tỷ lệ trẻ em DTTS ngoài nhà trường theo cấp học Đơn vị: % 76 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  25. 2.5.3. Tình hình biết đọc biết viết của người dân tộc thiểu số 2.5.3.1. Tình hình biết đọc biết viết chữ phổ thông Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết chữ phổ thông ngày càng cao. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sự khác biệt về tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông giữa nam và nữ, giữa khu vực thành thị và nông thôn. Biết đọc biết viết chữ phổ thông là khả năng đọc và viết một đoạn văn đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày bằng tiếng phổ thông (tiếng Kinh). Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông là một trong những chỉ tiêu chung phản ánh kết quả của giáo dục đối với đồng bào DTTS, được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm những người DTTS biết đọc biết viết chữ phổ thông của một độ tuổi nhất định trong tổng dân số DTTS của độ tuổi đó. Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông của người DTTS từ 15 tuổi trở lên là 80,9 , tăng 1,7 điểm phần trăm so với năm 2015. Như vậy, sau gần 5 năm tỷ lệ này tăng lên không nhiều và để đạt được mục tiêu của Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 “Đến năm 2025 người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông trên 90 ”, cần tập trung các chính sách để nâng cao tỷ lệ đi học của trẻ em DTTS ở các cấp và các chương trình bổ túc văn hóa đối với người DTTS ngoài độ tuổi đi học phổ thông. Nhìn chung, tỷ lệ biết đọc viết chữ phổ thông còn khá thấp ở nhiều DTTS, trong đó thấp nhất là các dân tộc Mảng (46,2%), La Hủ (46,9%), Lự (49,7%), Mông (54,3%). Các DTTS có tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông cao như dân tộc Ngái (96,5 ), Sán Dìu (95,7 ), Mường (95,5%), Tày (94,9%), Thổ (94,9%), Hoa (91,0%), Nùng (90,0%). Có sự khác biệt về giới và khu vực thành thị, nông thôn về khả năng đọc thông viết thạo chữ phổ thông của người DTTS. Nam DTTS có tỷ lệ đọc thông viết thạo chữ phổ thông cao hơn nữ DTTS 11,6 điểm phần trăm (86,7 so với 75,1%). Tỷ lệ này của người DTTS sống ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn 8,9 điểm phần trăm (88,7 so với 79,8). Hình 2.18: Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông của người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên, năm 2015 và năm 2019 Đơn vị: % KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 77
  26. 2.5.3.2. Tình hình biết đọc biết viết chữ dân tộc mình Tỷ lệ người DTTS biết đọc biết viết chữ dân tộc mình còn rất thấp. Ê Đê là dân tộc có tỷ lệ người biết chữ của dân tộc mình cao nhất, đạt 38,8%. Biết đọc biết viết chữ dân tộc mình là khả năng đọc và viết được một đoạn văn đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày bằng tiếng dân tộc mình. Có 32/53 DTTS có chữ viết riêng của dân tộc mình. Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết chữ của dân tộc mình còn thấp (15,9%). Tỷ lệ này cao nhất là ở dân tộc Ê Đê (38,8%), tiếp đến là các dân tộc Ba Na (31,7%), Hoa (31,4%), thấp nhất là ở dân tộc Co, Lự (0,8%). Tỷ lệ nam giới biết đọc biết viết chữ của dân tộc mình cao hơn nữ giới (17,5% so với 14,2%); ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (26,2% so với 14,4%). Hình 2.19: Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ dân tộc mình của người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên Đơn vị: % 78 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  27. 2.5.4. Trình độ giáo dục cao nhất đạt được Khoảng một phần năm người DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ THPT hoặc trên THPT. Cứ 100 người DTTS từ 15 tuổi trở lên, 9 người có trình độ chuyên môn kỹ thuật. 2.5.4.1. Trình độ học vấn Trong nhiều năm qua, với các chính sách dân tộc được xây dựng và thực thi dựa trên nguyên tắc “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”, Đảng và Chính phủ đã chú trọng quan tâm đến công tác giáo dục ở các vùng đồng bào DTTS, qua đó đạt được những kết quả quan trọng, tạo nền tảng thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc. Những thành tựu bước đầu trong công tác phát triển giáo dục ở các vùng DTTS hiện nay là hệ thống giáo dục từ mầm non đến THPT được củng cố và phát triển, bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc. Theo kết quả Tổng điều tra năm 2019, tỷ lệ người DTTS có trình độ từ THPT trở lên chiếm 20,2% tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên, thấp hơn tỷ lệ này của toàn quốc 16,3 điểm phần trăm. Giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn có sự chênh lệch về trình độ học vấn cao nhất của người DTTS. Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ học vấn thấp (chưa tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp tiểu học và tốt nghiệp THCS) ở khu vực thành thị thấp hơn so với nông thôn; ngược lại, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ học vấn cao hơn (tốt nghiệp từ THPT trở lên) ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Trong đó, tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên chưa tốt nghiệp tiểu học ở khu vực nông thôn cao hơn hai lần so với thành thị (lần lượt là 27,8% và 13,4%); tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ từ THPT trở lên của khu vực thành thị cao hơn hai lần so với khu vực nông thôn (lần lượt là 38,7% so với 17,1%). Biểu 2.13: Tỷ trọng người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên theo trình độ cao nhất đạt được, thành thị, nông thôn và giới tính Đơn vị: % Trung học Dưới Trung học Cao đẳng Tổng số Tiểu học phổ Sơ cấp Trung cấp tiểu học cơ sở trở lên thông 53 DTTS 100,0 25,6 26,1 28,1 11,1 1,6 2,5 5,0 Thành thị 100,0 13,4 22,0 25,9 17,6 3,0 4,6 13,5 Nông thôn 100,0 27,8 26,8 28,4 10,0 1,4 2,2 3,5 2.5.4.2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật Có 9,1 người DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ chuyên môn kỹ thuật, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ dân số có trình độ chuyên môn kỹ thuật của cả nước (19,2%). Trong số những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ người DTTS có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm hơn một nửa (5,0%), tăng 2,1 điểm phần trăm so với năm 2015. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 79
  28. Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo ở khu vực thành thị là 11,1 , cao hơn gần hai lần so với khu vực nông thôn (7,0 ). Trong đó, tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ đại học trở lên ở khu vực thành thị cao hơn gấp năm lần ở khu vực nông thôn, tương ứng là 10,2% so với 2,1%. Biểu 2.14: Tỷ trọng người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và thành thị, nông thôn Đơn vị: % Không có Đại học Tổng số Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng trình độ CMKT trở lên 53 DTTS 100,0 90,9 1,6 2,5 1,7 3,3 Thành thị 100,0 78,9 3,0 4,6 3,3 10,2 Nông thôn 100,0 92,9 1,4 2,2 1,4 2,1 2.6. Lao động và việc làm Điều tra 53 DTTS năm 2019 thu thập thông tin về tình trạng việc làm của người DTTS từ 15 tuổi trở lên nhằm đánh giá mức độ tham gia thị trường lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lao động DTTS của nền kinh tế. Thông tin về việc làm của người lao động DTTS là cơ sở để xây dựng, hoạch định các chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào DTTS như tạo việc làm, giảm nghèo, nâng cao giáo dục và đào tạo nghề, đảm bảo an sinh xã hội. 2.6.1. Lực lượng lao động Lực lượng lao động là bộ phận dân số cung cấp hoặc sẵn sàng cung cấp sức lao động để sản xuất của cải vật chất và dịch vụ nhằm mục đích tạo thu nhập cho cá nhân hoặc gia đình. Nói cách khác, lực lượng lao động là những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm hoặc thất nghiệp trong thời kỳ tham chiếu27. 2.6.1.1. Cơ cấu lực lượng lao động Toàn quốc có 8,03 triệu người DTTS tham gia vào lực lượng lao động; trong đó, nữ giới chiếm gần một nửa lực lượng lao động DTTS. Theo kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019, có 8,03 triệu người DTTS từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động; trong đó, nữ giới chiếm 47,9%. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 851,6 nghìn người, chiếm 10,6% tổng số lực lượng lao động DTTS. Nhóm dân số tham gia lực lượng lao động nhiều nhất là 25-54 tuổi, chiếm 67,3% lực lượng lao động DTTS. Tỷ trọng nữ trong lực lượng lao động DTTS của khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn, 46,8% so với 48,1%. Tỷ trọng này thấp nhất tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (42,6%) và cao nhất tại Trung du và miền núi phía Bắc (49,1%). 27 Thời kỳ tham chiếu: 07 ngày trước thời điểm quan sát. 80 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  29. Biểu 2.15: Phân bố lực lượng lao động dân tộc thiểu số theo thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội Lực lượng lao động Tỷ trọng (%) Nghìn người) % Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ TỔNG SỐ 8 025,5 4 178,7 3 846,8 100,0 100,0 100,0 47,9 Thành thị 851,6 453,3 398,3 10,6 10,8 10,4 46,8 Nông thôn 7 173,9 3 725,4 3 448,5 89,4 89,2 89,6 48,1 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 4 171,2 2 121,1 2 050,1 52,0 50,8 53,3 49,1 Đồng bằng sông Hồng 183,1 93,4 89,7 2,3 2,2 2,3 49,0 Bắc Trung Bộ và Duyên hải 48,0 miền Trung 1 201,7 624,5 577,2 15,0 14,9 15,0 Tây Nguyên 1 250,9 647,0 603,9 15,6 15,5 15,7 48,3 Đông Nam Bộ 564,8 317,2 247,6 7,0 7,6 6,5 43,8 Đồng bằng sông Cửu Long 653,8 375,5 278,3 8,1 9,0 7,2 42,6 2.6.1.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động Cứ 100 người DTTS từ 15 tuổi trở lên, có 3 người tham gia vào lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam DTTS cao hơn nữ DTTS, của khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị. Có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giữa một số dân tộc. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là một trong những số đo chung nhất về mức độ tham gia lực lượng lao động của dân số. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người DTTS được định nghĩa là phần trăm người DTTS thuộc lực lượng lao động chiếm trong tổng dân số DTTS từ 15 tuổi trở lên. Có 83,3 người DTTS tham gia lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam DTTS cao hơn nữ DTTS 7,8 điểm phần trăm, của khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị 12,9 điểm phần trăm. Tại cả khu vực thành thị và khu vực nông thôn, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam DTTS đều cao hơn của nữ DTTS. Tuy nhiên, chênh lệch này tại khu vực thành thị cao gấp hơn hai lần so với khu vực nông thôn, tương ứng là 14,0% và 6,8%. Biểu 2.16: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người dân tộc thiểu số theo giới tính và thành thị, nông thôn Đơn vị: % Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động Chênh lệch Tổng số Nam Nữ nam - nữ TỔNG SỐ 83,3 87,2 79,4 7,8 Thành thị 72,0 79,2 65,2 14,0 Nông thôn 84,9 88,3 81,5 6,8 KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 81
  30. Có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giữa một số dân tộc. Trong khi một số DTTS dưới 10.000 người có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao như Cơ Lao, Lự, Cống thì nhóm dân tộc trên 10.000 người có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp như: Chăm, Khmer, Hoa. Trong đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp nhất thuộc về dân tộc Hoa (64,3%) và cao nhất là dân tộc Cơ Lao (94,8 ). Một vài lý do giải thích sự khác biệt này là do dân tộc Hoa sinh sống chủ yếu ở khu vực thành thị, nơi có điều kiện kinh tế phát triển, dễ tiếp cận các điều kiện về giáo dục nên có xu hướng kéo dài thời gian học tập ở nhóm dân số trẻ và có xu hướng nghỉ làm việc khi đã qua độ tuổi lao động (khác với khu vực nông thôn, những người đã qua độ tuổi lao động ở khu vực thành thị thường không tiếp tục tham gia vào thị trường lao động). Hình 2.20: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của 03 dân tộc có tỷ lệ cao nhất và 03 dân tộc có tỷ lệ thấp nhất, 01/10/2019 Đơn vị: % 2.6.1.3. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động là người DTTS ở nước ta còn thấp và có sự khác biệt lớn giữa các dân tộc. Tỷ lệ lực lượng lao động là người DTTS được đào tạo chuyên môn kỹ thuật (viết gọn là CMKT) từ sơ cấp trở lên ở nước ta vẫn còn thấp, chỉ chiếm 10,3 . Đây là hạn chế của lực lượng lao động là người DTTS trong việc tiếp cận thị trường lao động và nâng cao năng suất lao động tạo thu nhập. Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo của nam DTTS cao hơn nữ DTTS (11,7% so với 8,9%), của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (23,2% so với 8,8%). Trong số lực lượng lao động DTTS có trình độ CMKT, có 29,3 đã được đào tạo trình độ từ đại học trở lên. Con số này ở khu vực thành thị cao gấp 1,8 lần ở khu vực nông thôn, tương ứng với 44,3% và 24,5 . Điều này có nghĩa là ở khu vực thành thị, cứ 10 người DTTS tham gia lực lượng lao động đã được đào tạo CMKT thì có khoảng 4 người có trình độ từ đại học trở lên; trong khi đó, ở khu vực nông thôn, con số này tương đương khoảng 2 người. 82 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  31. Hình 2.21: Tỷ lệ lực lượng lao động dân tộc thiểu số đã qua đào tạo từ sơ cấp trở lên theo giới tính và thành thị, nông thôn Đơn vị: % Trong các DTTS dưới 10.000 người, tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo thấp nhất ở dân tộc Brâu (2,2%) và cao nhất ở dân tộc Pu Péo (29,0 ). Có 09/14 DTTS dưới 10.000 người có tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo thấp hơn mức chung của 53 DTTS (tức thấp hơn 10,3 ). Với nhu cầu thị trường lao động ngày càng khắt khe, đòi hỏi về trình độ ngày càng cao thì việc nâng cao trình độ CMKT cho người DTTS nói chung và các DTTS ít người nói riêng sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm và nâng cao thu nhập cho các nhóm lao động này. Hình 2.22: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp trở lên của các dân tộc thiểu số dưới 10.000 người Đơn vị: % 2.6.2. Việc làm Việc làm là vấn đề thiết yếu của phần đông dân số, không chỉ đem lại thu nhập mà còn đem lại nhiều lợi ích khác như giảm nghèo, cân bằng cuộc sống, góp phần tạo dựng những chuyển đổi tích cực trong xã hội. Chính vì vậy, nghiên cứu việc làm và đặc trưng về việc làm của người DTTS có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho người DTTS trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 83
  32. 2.6.2.1. Lao động có việc làm Toàn quốc có 7,9 triệu lao động DTTS có việc làm, chiếm 82,1% tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên. Đa số lao động có việc làm cư trú ở nông thôn và phần lớn chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, tỷ lệ lao động có việc làm trên tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên là 82,1 , tương đương 7,9 triệu người. Tỷ lệ này ở nam DTTS cao hơn so với nữ DTTS, tương ứng là 86,0% so với 78,3%. Phần lớn lao động DTTS có việc làm là ở nhóm tuổi 15-54 (86,8%) và chủ yếu cư trú ở nông thôn (89,4%). Biểu 2.17. Phân bố lao động dân tộc thiểu số có việc làm theo giới tính và thành thị, nông thôn Lao động DTTS có việc làm Tỷ trọng lao động DTTS có việc làm trên Nghìn người) tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên (%) Chung Nam Nữ Chung Nam Nữ TỔNG SỐ 7 913,0 4 121,2 3 791,8 82,1 86,0 78,3 Thành thị 836,1 444,4 391,7 70,6 77,6 64,1 Nông thôn 7 076,9 3 676,8 3 400,1 83,7 87,1 80,3 Chỉ có 10,3% lao động DTTS có việc làm đã qua đào tạo, còn lại đến 89,7% không có trình độ CMKT. Tỷ trọng lao động DTTS có việc làm không có CMKT ở khu vực nông thôn cao gấp 1,2 lần ở khu vực thành thị, tương ứng là 91,2% và 76,8%. Các dân tộc La Hủ, Xinh Mun, Xtiêng, Brâu, Ba Na có tỷ lệ lao động có việc làm không được đào tạo CMKT cao nhất với khoảng 98,0 lao động không được đào tạo CMKT, trong khi đó tỷ lệ này thấp nhất là ở dân tộc Pu Péo, Chơ Ro, Ngái, Tày, Bố Y, lần lượt là 69,5%, 73,2%, 73,6%, 79,4%, 80,5%. Hình 2.23: Tỷ lệ lao động có việc làm không có trình độ chuyên môn kỹ thuật của 05 nhóm dân tộc có tỷ lệ cao nhất và 05 nhóm dân tộc có tỷ lệ thấp nhất Đơn vị: % 84 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  33. 2.6.2.2. Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế Chuyển dịch cơ cấu lao động DTTS theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong khu vực Công nghiệp, Xây dựng và Dịch vụ và giảm tỷ trọng lao động trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản đang diễn ra mạnh mẽ. Tuy vậy, tỷ trọng lao động DTTS làm việc trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn cao hơn hai lần so với tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực này của toàn quốc. Giai đoạn 2015-2019, tỷ trọng lao động DTTS có việc làm theo khu vực có sự dịch chuyển khá tích cực theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản và tăng tỷ trọng lao động trong khu vực Công nghiệp, Xây dựng và Dịch vụ. Các chính sách thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ của Chính phủ trong những năm gần đây đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người DTTS, góp phần vào sự chuyển dịch tích cực giữa các khu vực kinh tế. Tỷ trọng lao động DTTS có việc làm trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 81,9 năm 2015 xuống còn 73,3 năm 2019. Mặc dù vậy, khi so sánh với tỷ trọng chung của cả nước, tỷ trọng lao động DTTS làm việc trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn còn rất cao, 73,3% so với 35,3% của cả nước. Chỉ có 26,7 lao động DTTS làm việc trong khu vực Công nghiệp, xây dựng và Dịch vụ. Biểu 2.18: Tỷ trọng lao động dân tộc thiểu số có việc làm theo khu vực kinh tế, năm 2015 và năm 2019 Đơn vị: % Toàn bộ dân số Dân tộc thiểu số Dân tộc thiểu số (từ Tổng điều tra (từ Điều tra 53 DTTS (từ Điều tra 53 DTTS năm 2019) năm 2015) năm 2019) TỔNG SỐ 100,0 100,0 100,0 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 35,3 81,9 73,3 Công nghiệp và xây dựng 29,2 8,6 14,8 Dịch vụ 35,5 9,5 11,9 Có sự khác biệt lớn về cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế giữa các DTTS. Trong khi ở một số dân tộc như Brâu, Xinh Mun, La Hủ, Rơ Măm, Ba Na, lao động chủ yếu làm việc trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản (trên 95%) thì ở một số dân tộc khác, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực này là khá thấp (dưới 50 ), đặc biệt là dân tộc Hoa với chỉ 23,1 lao động làm việc trong khu vực này. Trong 14 DTTS dưới 10.000 người, có đến 12 DTTS có tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản cao hơn mức chung của 53 DTTS (tức cao hơn 73,3 ). KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 85
  34. Hình 2.24: Tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản của 05 nhóm dân tộc có tỷ trọng cao nhất và 05 nhóm dân tộc có tỷ trọng thấp nhất Đơn vị: % 2.6.2.3. Cơ cấu lao động có việc làm theo nghề nghiệp Lao động đòi hỏi kỹ năng thấp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao động DTTS có việc làm theo nhóm nghề nghiệp. Có sự khác biệt lớn về tỷ lệ lao động làm nghề giản đơn giữa một số dân tộc. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, nhóm nghề “Lao động giản đơn” vẫn thu hút nhiều lao động DTTS nhất với tỷ lệ 68,6% và chủ yếu là lao động giản đơn trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản (92,2 lao động giản đơn làm việc trong khu vực này). Tuy nhiên, so với năm 2015, tỷ trọng lao động làm công việc giản đơn đã giảm 6,8 điểm phần trăm. Trong 09 nhóm nghề, người DTTS làm “Lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị” chiếm tỷ trọng thấp nhất, chiếm 0,5 . Đa phần trong số họ là nam giới với 71,8 lao động DTTS làm “Lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị” là nam giới, chỉ có 28,2% là nữ giới. Nhóm lao động làm công việc “CMKT bậc cao” và “CMKT bậc trung” chiếm 3,3% tổng số lao động DTTS có việc làm, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2015 nhưng vẫn thấp hơn 7,0 điểm phần trăm so với tỷ lệ lao động thuộc hai nhóm này của cả nước. 86 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  35. Biểu 2.19: Tỷ trọng lao động dân tộc thiểu số có việc làm theo giới tính và nghề nghiệp Đơn vị: % Toàn quốc Dân tộc thiểu số Tỷ trọng nữ (từ Tổng điều tra (từ Điều tra 53 trong tổng số DTTS năm 2019) DTTS năm 2019) TỔNG SỐ 100,0 100,0 48,2 1. Nhà lãnh đạo 0,8 0,5 28,2 2. CMKT bậc cao 7,5 2,0 57,4 3. CMKT bậc trung 2,8 1,3 59,0 4. Nhân viên 1,8 0,5 46,7 5. Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng 18,3 5,3 59,2 6. Nghề trong nông, lâm, ngư nghiệp 7,9 9,9 34,1 7. Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan 14,5 6,6 29,6 8. Thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị 13,2 5,3 45,0 9. Nghề giản đơn 33,2 68,6 51,1 Khi xem xét theo nhóm dân tộc, có 11 DTTS có tỷ trọng lao động có việc làm là “Lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị” cao hơn mức chung của cả nước (theo Tổng điều tra năm 2019 là 0,8 ) như: Si La (3,8 ), Lào (2,0 ), Pu Péo (1,7 ), Cơ Lao (1,6 ), Bố Y (1,4%), Ngái (1,1 ), Cơ Tu (1,1 ), Co (1,1 ), Hà Nhì (1,1 ), Tày (1,0 ), Gié Triêng (0,9 ). Ngược lại, một số DTTS không có lao động là “Lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị” như: Xtiêng, Chơ Ro, Ơ Đu, Brâu. Sự khác biệt về cơ cấu nghề nghiệp theo dân tộc thể hiện rõ nhất ở nhóm “Nghề giản đơn”. Các dân tộc La Hủ, Xinh Mun, La Ha, Ơ Đu, Hrê, La Chí có tỷ lệ lao động làm nghề giản đơn cao nhất (hơn 91 ), cao hơn gần gấp đôi tỷ trọng này ở các dân tộc Chăm, Xtiêng, Khmer, Ngái, Hoa - nhóm có tỷ trọng lao động làm nghề giản đơn thấp nhất. Hình 2.25: Tỷ trọng lao động làm nghề giản đơn của 05 dân tộc có tỷ trọng cao nhất và 05 dân tộc có tỷ trọng thấp nhất Đơn vị: % KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 87
  36. Đa số lao động ở nhóm DTTS dưới 10.000 người làm nghề giản đơn, chỉ có dân tộc Pu Péo (66,1%) và Ngái (44,5%) có tỷ trọng lao động này thấp hơn mức chung của 53 DTTS (68,6%). Hình 2.26: Tỷ trọng lao động giản đơn trong tổng số lao động có việc làm của 14 dân tộc thiểu số dưới 10.000 người, 01/10/2019 Đơn vị: % 2.6.2.4. Cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế làm việc Công việc có vị thế thấp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao động DTTS có việc làm. Bất bình đẳng giới vẫn còn khá rõ khi nữ DTTS chiếm tỷ trọng cao hơn nam DTTS ở những công việc có vị thế thấp hơn. Vị thế việc làm của người lao động được chia thành năm nhóm: “Chủ cơ sở”, “Tự làm”, “Lao động gia đình”, “Làm công ăn lương” và “Xã viên hợp tác xã”. Số lao động “Tự làm” và “Lao động gia đình” chiếm khoảng ba phần tư tổng số lao động DTTS có việc làm; trong đó, “Lao động gia đình” không được trả công trả lương chiếm 38,8 . Người DTTS làm “Chủ cơ sở” chiếm tỷ trọng rất nhỏ (0,5%). Biểu 2.20: Vị thế việc làm của lao động dân tộc thiểu số theo giới tính và thành thị, nông thôn Đơn vị: % Vị thế việc làm Tổng số Lao động Xã viên Làm công Chủ cơ sở Tự làm gia đình hợp tác xã hưởng lương TỔNG SỐ 100,0 0,5 36,1 38,8 0,0 24,6 Nam 100,0 0,7 44,8 26,6 0,0 27,9 Nữ 100,0 0,3 26,6 52,0 0,0 21,1 Thành thị 100,0 1,8 28,8 16,3 0,1 53,0 Nông thôn 100,0 0,4 36,9 41,4 0,0 21,3 88 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  37. Có sự khác biệt về vị thế việc làm theo giới tính, tỷ lệ nam DTTS trong nhóm “Chủ cơ sở”, “Làm công hưởng lương” và “Tự làm” cao hơn so với nữ DTTS. Tỷ lệ lao động nữ DTTS tham gia nhóm “Lao động gia đình” - nhóm lao động yếu thế là 52,0 , cao hơn gần hai lần so với tỷ lệ lao động nam DTTS thuộc nhóm này (26,6%). Vị thế việc làm của lao động DTTS ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn có sự khác biệt theo hướng lao động khu vực thành thị có vị thế việc làm cao hơn: 53,0 lao động khu vực thành thị làm việc với tư cách là người “Làm công hưởng lương”, trong khi con số này ở khu vực nông thôn chỉ là 21,3 . Hơn 95,6 người làm “Lao động gia đình” hiện đang cư trú ở khu vực nông thôn. Có sự chênh lệch đáng kể về tỷ trọng lao động làm “Chủ cơ sở” giữa một số dân tộc. Trong khi một số dân tộc có tỷ trọng lao động làm “Chủ cơ sở” khá cao như Hoa (3,2 ), Chơ Ro (2,0%), Ngái (1,9%) thì nhiều dân tộc không có lao động làm việc ở vị trí này như: Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu, Pu Péo, Si La. Xem xét vị thế việc làm của các DTTS dưới 10.000 người cho thấy, đa số lao động có việc làm của các dân tộc này là “Lao động gia đình” không được trả lương, trả công và “Tự làm” - nhóm các công việc yếu thế, không ổn định và hầu hết không có bảo hiểm xã hội. Hình 2.27: Tỷ trọng lao động gia đình và lao động tự làm trong tổng số lao động có việc làm của 14 dân tộc thiểu số dưới 10.000 người Đơn vị : % 2.6.3. Thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp của người DTTS là 1,40%, thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp chung của dân số toàn quốc (2,05%). Vùng có tỷ lệ người DTTS thất nghiệp cao nhất là Đồng bằng sông Cửu Long và thấp nhất là Tây Nguyên. Thất nghiệp là những người không có việc làm, có các hoạt động tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc ngay khi có cơ hội việc làm trong giai đoạn tham chiếu. Thất nghiệp là vấn đề KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 89
  38. kinh tế - xã hội được nhiều quốc gia quan tâm để giám sát và xây dựng các chính sách việc làm, an sinh xã hội. Thông tin về tình trạng thất nghiệp của người DTTS giúp đánh giá cung và cầu của thị trường lao động, đo lường mức độ sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển để ban hành và điều chỉnh các chính sách lao động việc làm liên quan tới người DTTS. Mặc dù đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp hơn 10 năm qua, nhưng hệ thống bảo hiểm thất nghiệp nói riêng và hệ thống an sinh xã hội nói chung tại Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện để phục vụ tốt người lao động. Đa số người dân phải làm mọi công việc để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Chính vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam thường thấp hơn so với các nước phát triển. Theo kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp của người DTTS từ 15 tuổi trở lên là 1,40%, thấp hơn 0,65 điểm phần trăm so với tỷ lệ thất nghiệp của toàn bộ dân số từ 15 tuổi trở lên (2,05% - theo kết quả Tổng điều tra năm 2019). Đa phần người DTTS Việt Nam cư trú ở khu vực nông thôn nhưng tỷ lệ thất nghiệp của khu vực thành thị lại cao hơn 1,3 lần so với khu vực nông thôn (tương ứng là 1,82% và 1,35%). Sự khác biệt về cơ hội tiếp cận thông tin về việc làm, trình độ CMKT và khả năng lựa chọn công việc linh hoạt của người lao động có thể là nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này. Nữ DTTS là nhóm yếu thế hơn nam DTTS trong tiếp cận việc làm khi mà tỷ lệ thất nghiệp của nữ giới cao hơn nam giới (1,43% so với 1,38%). Vùng có tỷ lệ người DTTS thất nghiệp thấp nhất là Tây Nguyên (1,15%) và cao nhất là Đồng bằng sông Cửu Long (2,22%). Biểu 2.21: Tỷ lệ thất nghiệp của người dân tộc thiểu số theo giới tính, thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội Đơn vị: % Giới tính Chung Nam Nữ TỔNG SỐ 1,40 1,38 1,43 Thành thị 1,82 1,98 1,64 Nông thôn 1,35 1,30 1,41 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 1,19 1,25 1,13 Đồng bằng sông Hồng 1,74 1,77 1,71 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 1,73 1,58 1,90 Tây Nguyên 1,15 1,06 1,25 Đông Nam Bộ 1,77 1,71 1,84 Đồng bằng sông Cửu Long 2,22 1,94 2,58 Có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ thất nghiệp giữa một số DTTS dưới 10.000 người. Trong khi Pu Péo và Chứt là hai dân tộc có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất, lần lượt là 8,88% và 6,11%, tỷ lệ thất nghiệp của các dân tộc còn lại đều dưới 2 , đặc biệt dân tộc Lự và Rơ Măm có tỷ lệ thất nghiệp được ghi nhận bằng không. 90 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  39. CHƯƠNG 3: ĐIỀU KIỆN NHÀ Ở, SINH HOẠT VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA HỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ 3.1. Nhà ở và điều kiện sinh hoạt Việc thực hiện Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 10/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS gắn với Mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015 đã đem lại một số hiệu quả rõ rệt. Qua 10 năm, điều kiện nhà ở và sinh hoạt của người dân trên phạm vi cả nước đã cải thiện đáng kể, qua đó tác động tích cực đến đời sống của đồng bào 53 DTTS. Trong chương này, các nội dung phân tích về tình trạng nhà ở, diện tích nhà ở bình quân đầu người của 53 DTTS được tổng hợp từ dữ liệu Tổng điều tra năm 2019, các phân tích về hộ DTTS ở nhà truyền thống và điều kiện sống của hộ DTTS được tổng hợp từ dữ liệu Điều tra 53 DTTS năm 2019. 3.1.1. Tình trạng nhà ở Đa số hộ DTTS đang sống trong các ngôi nhà thuộc quyền sở hữu riêng của hộ (chiếm 95%). Mặc dù điều kiện nhà ở đã được cải thiện, vẫn còn hơn một phần năm hộ đồng bào DTTS đang sống trong các ngôi nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ. Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, gần như toàn bộ các hộ DTTS đã có nhà ở (đạt 99,8%). Trong số các hộ DTTS có nhà ở, 95% hộ có nhà riêng, 5% hộ ở nhà thuê mượn (thuê mượn của nhà nước, tư nhân hoặc nhà của tập thể). Một số dân tộc có tỷ lệ hộ ở nhà thuê mượn cao hơn mức bình quân chung của 53 DTTS như: Khmer (14,6 ), Cơ Lao (10,3 ), Brâu (8,9%). Hình 3.1: Tỷ lệ hộ ở nhà thuê mượn của 05 dân tộc có tỷ lệ cao nhất và 05 dân tộc có tỷ lệ thấp nhất Đơn vị: % KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 91
  40. Phần lớn các hộ DTTS đều sống trong các ngôi nhà kiên cố hoặc bán kiên cố, chiếm tỷ trọng 79,2%, thấp hơn 13,9 điểm phần trăm so với mức bình quân chung của cả nước (93,1%). Cả nước vẫn còn 20,8% hộ DTTS đang sống trong các ngôi nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ.28 Biểu 3.1: Tỷ trọng hộ có nhà ở theo mức độ kiên cố, thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội Đơn vị: % Kiên cố hoặc bán kiên cố Thiếu kiên cố hoặc đơn sơ Toàn quốc 53 DTTS Toàn quốc 53 DTTS TỔNG SỐ 93,1 79,2 6,9 20,8 Thành thị 98,2 94,2 1,8 5,8 Nông thôn 90,3 76,2 9,7 23,8 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 84,4 75,3 15,6 24,7 Đồng bằng sông Hồng 99,3 96,3 0,7 3,7 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 97,3 81,9 2,7 18,1 Tây Nguyên 90,3 80,9 9,7 19,1 Đông Nam Bộ 98,4 95,4 1,6 4,6 Đồng bằng sông Cửu Long 80,8 71,1 19,2 28,9 Ở khu vực nông thôn, có 23,8% số hộ DTTS sống trong những ngôi nhà thiếu kiên cố và đơn sơ, cao hơn 4 lần so với tỷ lệ này ở khu vực thành thị (5,8 ). Điều kiện nhà ở của một số dân tộc còn rất hạn chế với tỷ lệ hộ ở trong nhà đơn sơ khá cao như La Hủ (67,0%), Xinh Mun (47,7%), Cống (47,4%), La Chí (47%). 3.1.2. Diện tích nhà ở bình quân đầu người Diện tích nhà ở bình uân đầu người của các hộ DTTS thấp hơn rất nhiều so với diện tích bình quân chung của cả nước. Một số DTTS có diện tích nhà ở bình uân đầu người dưới 10m2/người. Diện tích nhà ở bình quân đầu người của các hộ DTTS là 16,9m2/người, thấp hơn 6,3m2/người so với mức bình quân chung của cả nước từ kết quả Tổng điều tra năm 2019 (23,2m2/người). Hộ DTTS sống tại Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có diện tích bình quân đầu người thấp nhất, tương ứng là 13,0m2/người và 14,9m2/người. Trung du và miền núi phía Bắc, nơi tập trung đông đồng bào DTTS sinh sống, có diện tích nhà ở bình quân đầu người khá cao với 18,4m2/người, cao hơn mức trung bình chung của 53 DTTS. 28 Phân loại chất lượng nhà ở được thực hiện qua tham chiếu tới thông tin về vật liệu chính của 03 bộ phận cấu thành nhà ở bao gồm: cột/trụ/tường chịu lực, mái và tường/bao che. Dựa trên cách phân loại trên, nhà ở hộ dân cư được chia thành hai loại: nhà kiên cố và bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố và đơn sơ. Nhà kiên cố và bán kiên cố là nhà có từ hai kết cấu chính trở lên được làm bằng vật liệu bền chắc. Nhà thiếu kiên cố và đơn sơ là nhà chỉ có một trong ba kết cấu chính hoặc không có kết cấu chính nào được làm bằng vật liệu bền chắc. 92 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  41. Biểu 3.2: Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ dân tộc thiểu số theo thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội Đơn vị: m2/người Chung Thành thị Nông thôn 53 DTTS 16,9 20,9 16,2 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 18,4 27,7 17,5 Đồng bằng sông Hồng 18,6 21,6 17,8 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 14,9 20,1 14,7 Tây Nguyên 13,0 17,2 12,6 Đông Nam Bộ 16,3 16,0 16,7 Đồng bằng sông Cửu Long 18,3 19,9 17,8 Ngoài dân tộc Ngái, diện tích nhà ở bình quân đầu người của các dân tộc đều thấp hơn trung bình chung của cả nước. Một số DTTS có diện tích nhà ở bình quân đầu người dưới 10m2/người như Raglay (9,0m2/người), Bru Vân Kiều (9,2m2/người), La Hủ (8,3m2/người). 3.1.3. Hộ dân tộc thiểu số ở nhà truyền thống Hơn một phần tư số hộ DTTS (26,2%) đang sống trong các ngôi nhà truyền thống của dân tộc mình, giảm 3,1 điểm phần trăm so với năm 2015. Đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc có thể được thể hiện qua rất nhiều hình thức, như trang phục, âm nhạc, các phong tục tập quán và cả kiến trúc của những ngôi nhà mà họ sinh sống. Đặc trưng nhà truyền thống của đồng bào DTTS ở Tây Bắc là những ngôi nhà sàn, ở Tây Nguyên là ngôi nhà rông, Bảo tồn và phát triển các ngôi nhà truyền thống của 53 DTTS là hết sức cần thiết nhưng cũng rất khó khăn khi vừa gìn giữ các nét văn hóa truyền thống đặc trưng của dân tộc, vừa phải đảm bảo chất lượng cuộc sống của đồng bào DTTS trong thời đại mới. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, 26,2% hộ DTTS đang ở trong ngôi nhà truyền thống của dân tộc mình, giảm 3,1 điểm phần trăm so với năm 2015 (29,3 ). Ba vùng có tỷ lệ hộ DTTS sống trong nhà truyền thống của dân tộc mình cao nhất gồm: Trung du và miền núi phía Bắc (38,9%), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (26,6%) và Tây nguyên (17,9%). Biểu 3.3: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số theo loại nhà đang ở và vùng kinh tế - xã hội Đơn vị: % Không phải Dân tộc Nhà truyền nhà truyền không có Tổng số thống của Khác thống của nhà truyền dân tộc dân tộc thống 53 DTTS 100,0 26,2 70,4 3,3 0,1 Vùng kinh tế - xã hội Trung du và miền núi phía Bắc 100,0 38,9 59,8 1,2 0,1 Đồng bằng sông Hồng 100,0 1,9 92,5 5,6 0,0 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 100,0 26,6 72,4 0,9 0,1 Tây Nguyên 100,0 17,9 81,3 0,7 0,1 Đông Nam Bộ 100,0 1,1 97,7 1,2 0,0 Đồng bằng sông Cửu Long 100,0 1,6 75,8 22,6 0,0 KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 93
  42. Dân tộc La Ha và dân tộc Kháng có tỷ lệ hộ ở nhà truyền thống cao nhất tương ứng là 82,3% và 81,0%. Một số dân tộc có tỷ lệ hộ ở nhà truyền thống rất thấp như: Gié Triêng và Chơ Ro (1,3%), Khmer (1,2%), Ngái (0,9%). 3.1.4. Điều kiện sống của hộ 3.1.4.1. Điều kiện sinh hoạt Đa số các hộ DTTS được tiếp cận điện và nguồn nước hợp vệ sinh. Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng hố xí hợp vệ sinh đã đạt được Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, 96,7% hộ DTTS sử dụng điện lưới thắp sáng, tăng 2,8 điểm phần trăm so với năm 2015. Tuy nhiên, một số dân tộc vẫn còn tỷ lệ cao hộ phải sử dụng nguồn năng lượng khác để thắp sáng (trên 15%) bao gồm: Cơ Lao (15,3 ), La Hủ (17,1%), Mông (19,6%), Mảng (19,9%), Khơ mú (23,5%), Lô Lô (23,7%). Hầu hết các hộ DTTS khu vực thành thị đã được tiếp cận với điện lưới để thắp sáng (đạt 99,7 ), trong khi đó vẫn còn 3,7% số hộ dân DTTS khu vực nông thôn chưa được tiếp cận điện lưới. Biểu 3.4: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số theo điều kiện sinh hoạt của hộ và thành thị, nông thôn Đơn vị: % Chung Thành thị Nông thôn TỔNG SỐ 100,0 100,0 100,0 Nhiên liệu chính dùng để thắp sáng Điện lưới 96,7 99,7 96,3 Điện máy phát 1,7 0,1 1,9 Dầu lửa 1,1 0,2 1,3 Khí ga 0,0 0,0 0,0 Khác 0,5 0,0 0,5 Nguồn nước ăn uống chính Nguồn nước hợp vệ sinh 88,6 97,7 87,2 Nguồn nước không hợp vệ sinh 11,4 2,3 12,8 Hố xí chính Hố xí tự hoại/ bán tự hoại 59,6 92,9 54,5 Hố xí khác 32,1 5,6 36,2 Không có hố xí 8,3 1,5 9,3 Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh29 là 88,6 , tăng 15,3 điểm phần trăm so với năm 2015. Tuy nhiên, vẫn còn một số dân tộc có tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh thấp (dưới 50%) bao gồm: Bru Vân Kiều (48,5%), Si La (48,3%), Cống (43,5%) và Chứt (39,2%). 29 Nguồn nước hợp vệ sinh bao gồm: nước máy, nước mua (xi téc, bình), nước mưa, nước giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ 94 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  43. Có sự chênh lệch về tỷ lệ hộ DTTS được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn; tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 97,7 , cao hơn 10,5 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn (87,2%). Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng hố xí hợp vệ sinh (hố xí tự hoại hoặc bán tự hoại) là 59,6 , tăng 31,7 điểm phần trăm so với năm 2015. Điều này cho thấy điều kiện vệ sinh của đồng bào DTTS đã được cải thiện đáng kể và vượt mục tiêu đến năm 2020 “tỷ lệ hộ DTTS được sử dụng hố xí hợp vệ sinh trên 40 ” theo Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 10/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015. Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng hố xí hợp vệ sinh ở khu vực thành thị là 92,9%, cao gấp 1,7 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn (54,5%). Tình trạng hộ không có hố xí ở một số dân tộc còn cao như: La Hủ (41,7%), Raglay (47,9%), Mảng (55,9), Si La (57,5%), Co (58,7%). 3.1.4.2. Tiện nghi sinh hoạt Tiện nghi sinh hoạt của hộ DTTS đã được cải thiện, nhiều hộ DTTS có phương tiện để tiếp cận thông tin văn hóa, xã hội và công nghệ thông tin. Ti vi, đài (radio, radio casetts), máy vi tính (máy bàn, laptop), điện thoại cố định, di động, máy tính bảng được xem là những thiết bị điện tử, nghe nhìn giúp hộ DTTS có thể tiếp cận tới thông tin văn hóa, xã hội và công nghệ thông tin. Trong đó, ti vi đã trở thành một loại thiết bị sinh hoạt phổ biến của các hộ DTTS ở cả khu vực nông thôn và thành thị với 81,5% hộ DTTS có sử dụng ti vi. Cách biệt giữa thành thị và nông thôn về tỷ lệ này là 4,9 điểm phần trăm, tương ứng là 85,7% và 80,8%. Một số dân tộc có tỷ lệ hộ sử dụng ti vi rất thấp, dưới 50%, bao gồm: La Hủ (35,3%), Mông (40,3%), Mảng (43,5 ) và Cơ Lao (46,9 ). Tỷ lệ hộ DTTS có sử dụng điện thoại cố định, di động, máy tính bảng là 92,5 , tăng 17,1 điểm phần trăm so với năm 2015. Khác biệt về tỷ lệ này giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn là 4,1 điểm phần trăm, tương ứng là 96,1% và 92,0%. Những dân tộc có tỷ lệ hộ sử dụng các thiết bị này thấp nhất bao gồm: La Hủ (34,6%), Chứt (51,0 ), Rơ Măm (54,8 ). Biểu 3.5: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số có các thiết bị sinh hoạt nghe nhìn theo thành thị, nông thôn Đơn vị: % Toàn quốc Thành thị Nông thôn Ti vi 81,5 85,7 80,8 Điện thoại cố định, di động, máy tính bảng 92,5 96,1 92,0 Đài (radio, radio casetts) 7,2 9,2 6,9 Máy vi tính (máy bàn, laptop) 10,3 33,3 6,7 Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng đài (radio, radio casetts) hiện chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ với 7,2% tổng số hộ DTTS, không thay đổi nhiều so với năm 2015 (7,0%). Tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 6,9%, thấp hơn khu vực thành thị 2,3 điểm phần trăm. Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng máy vi tính (máy bàn, KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 95
  44. laptop) là 10,3 , tăng 2,6 điểm phần trăm so với năm 2015. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cũng cho thấy có sự khác biệt rõ ràng về tỷ lệ hộ sử dụng máy vi tính giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, tương ứng là 33,3% so với 6,7 ; điều này phản ánh sự chênh lệch về trình độ phát triển công nghệ thông tin giữa hai khu vực. Ngoài các thiết bị sinh hoạt nghe nhìn đã đề cập ở trên, các thiết bị phục vụ sinh hoạt cơ bản khác cũng được phần lớn hộ DTTS sử dụng và tăng đáng kể so với năm 2015. Tăng cao nhất là tỷ lệ hộ sử dụng tủ lạnh, tăng 22,3 điểm phần trăm (năm 2015: 32,2 , năm 2019: 54,5 ); tỷ lệ hộ sử dụng điều hòa mặc dù tăng 3,7 điểm phần trăm nhưng vẫn ở mức thấp (năm 2015: 2,9 , năm 2019: 6,6 ). Hình 3.2: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số theo tình trạng sử dụng một số thiết bị sinh hoạt cơ bản Đơn vị: % Đa số các hộ DTTS sử dụng phương tiện giao thông có động cơ của cá nhân (mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện, xe máy điện) cho mục đích sinh hoạt của hộ (89,1%). Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng ô tô là 2,1 , tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2015. Tỷ lệ hộ DTTS sử dụng phương tiện giao thông cá nhân có động cơ ở khu vực thành thị không có nhiều khác biệt so với khu vực nông thôn. 3.2. Đời sống văn hoá tinh thần và tiếp cận dịch vụ công cộng 3.2.1. Sử dụng Internet Cơ hội tiếp cận thông tin của người DTTS ngày càng được mở rộng với tỷ lệ hộ DTTS sử dụng Internet đạt 61,3%, tăng hơn chín lần so với năm 201530. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, cùng với sự tăng cao của tỷ lệ hộ sử dụng máy vi tính và điện thoại, tỷ lệ hộ được tiếp cận Internet của đồng bào vùng DTTS đã được cải thiện đáng kể, chiếm 61,3% tổng số hộ DTTS, tăng 54,8 điểm phần trăm so với năm 2015. So sánh tỷ lệ hộ sử dụng Internet theo vùng kinh tế - xã hội cho thấy tỷ lệ này cao nhất thuộc về vùng Đông Nam Bộ (78,3%) và thấp nhất thuộc về vùng Tây Nguyên (46,1%). 30 Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. 96 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  45. Hình 3.3: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số sử dụng Internet theo thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội Đơn vị: % Trong số 53 DTTS, dân tộc Hoa có tỷ lệ hộ sử dụng Internet cao nhất (83,7%), tiếp đến là dân tộc Ngái (81,9%) và thấp nhất là dân tộc La Hủ (10,2%). Nếu như năm 2015, chưa có hộ nào thuộc dân tộc Rơ Măm và Brâu sử dụng Internet thì đến nay, tỷ lệ hộ sử dụng Internet của hai dân tộc này đã đạt lần lượt là 30,8% và 15,1%. Sự cải thiện về tỷ lệ hộ sử dụng Internet cho thấy cơ hội tiếp cận thông tin của các hộ DTTS đã được mở rộng, từ đó góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS. Hình 3.4: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số sử dụng Internet của 10 dân tộc có tỷ lệ cao nhất Đơn vị:% KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 97
  46. 3.2.2. Nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm hoặc sát cạnh nhà đang ở Tỷ lệ hộ DTTS nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm hoặc sát cạnh nhà đang ở năm 2019 đã giảm 6,5 điểm phần trăm so với năm 2015; tuy nhiên, trên toàn uốc hiện vẫn còn 24,4% hộ DTTS đang nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm hoặc sát cạnh nhà đang ở. Nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm nhà hoặc sát cạnh nhà thường phổ biến ở các vùng DTTS do đặc điểm xã hội và phong tục tập quán của các dân tộc. Tuy nhiên, lối sống này ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của các hộ đồng bào DTTS. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, mặc dù tỷ lệ hộ DTTS nuôi nhốt gia súc, gia cầm đã giảm 6,5 điểm phần trăm so với năm 2015, trên toàn quốc hiện vẫn còn 24,4% hộ DTTS đang nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm hoặc sát cạnh nhà đang ở. Dân tộc có tỷ lệ hộ nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm hoặc sát cạnh nhà cao nhất là Lự (49,8 ), La Chí (48,2 ), Ơ Đu (45 ), Mông (43,1 ). Các dân tộc này chủ yếu sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, địa hình đi lại khó khăn. Hình 3.5: Tỷ lệ hộ nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm hoặc sát cạnh nhà của 10 dân tộc có tỷ lệ cao nhất Đơn vị: % 3.2.3. Vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội Tỷ lệ hộ DTTS được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội năm 2019 là 19,7%. Ơ Đu là dân tộc có tỷ lệ vay vốn cao nhất (60%), cao gấp hơn ba lần so với tỷ lệ chung của 53 DTTS. Vốn tín dụng chính sách xã hội đã góp phần giúp các hộ DTTS có nguồn lực phát triển kinh tế, nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống và tạo động lực để thoát nghèo. Tỷ lệ hộ DTTS vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội năm 2019 là 19,7 . Dân tộc có tỷ lệ hộ vay vốn từ nguồn này cao nhất là Ơ Đu (60 ), cao gấp hơn ba lần so với tỷ lệ chung của 53 DTTS. 98 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  47. Hình 3.6: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội của 10 dân tộc có tỷ lệ cao nhất Đơn vị: % Trong số các hộ DTTS vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội năm 2019, đa số các hộ được vay vốn ở mức từ 21-50 triệu đồng, chiếm 64,3%; chỉ có 7,3% số hộ được vay vốn với số tiền từ 51 triệu đồng trở lên. Trong khi định mức trần vay vốn ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định là 100 triệu đồng, tỷ lệ hộ DTTS được vay vốn từ 1 đến 50 triệu đồng chiếm tới 92,7 . Điều này cho thấy, việc tận dụng nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội nhằm phát triển kinh tế của các hộ DTTS còn khá hạn chế. Lý do có thể vì phần lớn các hộ DTTS mới dừng lại ở việc sản xuất, kinh doanh với quy mô nhỏ, chưa có nhu cầu vay các khoản vốn lớn hoặc do hồ sơ vay vốn, phương án sản xuất, kinh doanh của hộ chưa đáp ứng được các yêu cầu, quy định của ngân hàng đối với các khoản vay này. Để đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn về tính hiệu quả cũng như khả năng tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội cho phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS, cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Hình 3.7: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội theo giá trị khoản vay Đơn vị: % KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 99
  48. Có 20,2% hộ DTTS có nhu cầu vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội trong năm 2020 và khoản tiền muốn vay bình quân là 54 triệu đồng; trong đó, nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh chiếm đến 84,1 . Điều này cho thấy các hộ DTTS rất cần nguồn vốn hỗ trợ để thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và vươn lên làm giàu. Vì vậy, cần có các chính sách để tạo điều kiện cho các hộ DTTS tiếp cận đa dạng các nguồn vốn vay. 3.2.4. Tiếp cận dịch vụ công cộng Tiếp cận dịch vụ công cộng của đồng bào DTTS còn gặp khó khăn do khoảng cách từ nhà đến các cơ sở cung cấp dịch vụ còn xa. Trong đó, các dân tộc Ơ Đu, Mảng, Cống, La Ha và Si La có khoảng cách từ nhà đến cả ba cơ sở cung cấp dịch vụ công cộng gần nhất gồm chợ, bệnh viện và trường học thuộc nhóm xa nhất. Nghiên cứu khoảng cách từ nhà của các hộ DTTS đến các cơ sở hạ tầng gần nhất bao gồm trường học, bệnh viện và chợ/trung tâm thương mại nhằm mục đích đánh giá khả năng tiếp cận đến các dịch vụ công cộng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt cơ bản của hộ DTTS, từ đó đưa ra các chính sách phù hợp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào vùng DTTS. Khoảng cách trung bình từ nhà đến chợ (hoặc trung tâm thương mại) gần nhất của các hộ DTTS năm 2019 là 8,9 km, giảm 0,2 km so với năm 2015 (9,1 km), mặc dù vậy, khoảng cách này vẫn tương đối xa để các hộ DTTS có thể thường xuyên tiếp cận đến hoạt động giao thương buôn bán và trao đổi. Khoảng cách từ nhà đến chợ hoặc trung tâm thương mại của dân tộc Ơ Đu là 29,2 km, giảm hơn một nửa quãng đường so với năm 2015 (năm 2015: 70,1 km). Tuy nhiên, đối với dân tộc Lô Lô thì khoảng cách trung bình từ nhà đến chợ năm 2019 lại tăng lên 5,5 km so với năm 2015. Biểu 3.6: Khoảng cách trung bình từ nhà đến chợ/trung tâm thương mại gần nhất của 10 dân tộc có khoảng cách xa nhất, năm 2015 và năm 2019 Đơn vị: Km Mức giảm năm 2019 Năm 2015 Năm 2019 so với năm 2015 53 DTTS 9,1 8,9 0,2 Ơ Đu 70,1 29,2 40,9 Cống 34,7 20,8 13,9 Si La 23,5 20,6 2,9 Mảng 29,7 20,5 9,2 Co 22,1 19,1 3,0 Gié Triêng 23,5 18,1 5,4 Xinh Mun 19,2 18,1 1,1 Lô Lô 12,6 18,1 -5,5 Lự 25,9 17,7 8,2 La Ha 23,6 17,6 6,0 100 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019
  49. Khoảng cách trung bình từ nhà đến bệnh viện gần nhất của đồng bào DTTS năm 2019 là 14,7 km, giảm 2 km so với năm 2015 (16,7 km). Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy một tín hiệu đáng mừng là cả 10 dân tộc có khoảng cách từ nhà đến bệnh viện xa nhất năm 2019 (gồm Ơ Đu, Xinh Mun, Mảng, Cống, La Ha, Kháng, Mông, Pu Péo, Si La và Bru Vân Kiều), thì khoảng cách này đều đã giảm so với năm 2015. Đặc biệt, khoảng cách từ nhà đến bệnh viện gần nhất của dân tộc Ơ Đu đã giảm 37,1 km, từ 72 km năm 2015 xuống còn 34,9 km năm 2019. Hình 3.8: Khoảng cách trung bình từ nhà đến bệnh viện gần nhất của 10 dân tộc có khoảng cách xa nhất, năm 2015 và năm 2019 Đơn vị: Km Khoảng cách từ nhà đến trường tiểu học và THCS gần nhất của đồng bào DTTS lần lượt là 2,2 km và 3,7 km, giảm so với năm 2015 (lần lượt là 2,5 km và 3,6 km). Tuy nhiên, khoảng cách đến trường THPT vẫn tương đối xa. Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy học sinh THPT của các hộ DTTS cần di chuyển trung bình 10,9 km để đến trường. Mặc dù, khoảng cách từ nhà đến trường THPT của dân tộc Ơ Đu và Rơ Măm đã giảm đáng kể so với năm 2015, giảm lần lượt là 18 km và 15 km nhưng học sinh THPT của các hộ thuộc hai nhóm dân tộc này hiện vẫn phải di chuyển quãng đường rất xa mới có thể đến trường, tương ứng là 52,2 km và 44,3 km. Như vậy, các dân tộc Ơ Đu, Mảng, Cống, La Ha và Si La còn khá nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các cơ sở cung cấp dịch vụ về y tế, giáo dục và thương mại. Đây là những DTTS có khoảng cách di chuyển đến cả ba cơ sở cung cấp dịch vụ công thuộc nhóm xa nhất. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019 | 101
  50. Hình 3.9: Khoảng cách trung bình từ nhà đến trường trung học phổ thông gần nhất của 10 dân tộc có khoảng cách xa nhất, năm 2015 và năm 2019 Đơn vị: Km 102 | KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THU THẬP THÔNG TIN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA 53 DÂN TỘC THIỂU SỐ NĂM 2019