Giáo trình Văn hóa các dân tộc Việt Nam

pdf 47 trang vanle 1710
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Văn hóa các dân tộc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_van_hoa_cac_dan_toc_viet_nam.pdf

Nội dung text: Giáo trình Văn hóa các dân tộc Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI GIÁO TRÌNH (Lưu hành nội bộ) VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM (Dành cho sinh viện hệ đại học chính quy) Tác giả: Trần Thị Tuyết Nhung NĂM 2017 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU Văn hóa các dân tộc Việt Nam là tài liệu được biên soạn để phục vụ cho việc học tập, giảng dạy của giảng viên và sinh viên đại học các ngành Địa lý. Tài liệu cung cấp những kiến thức cơ bản về văn hóa các dân tộc Việt Nam như khái niệm, đối tượng nghiên cứu của văn hóa, đặc trưng văn hóa các dân tộc Việt Nam Giáo trình được biên soạn dựa trên để cương chi tiết học phần Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã được Hội đồng khoa học và Đào tạo nhà trường thông qua. Tài liệu không chỉ phục vụ cho việc học tập, giảng dạy học phầnVăn hóa các dân tộc Việt Nam mà còn là một tài liệu tham khảo trong quá trình kiến tập, thực tập và giảng dạy sau này của sinh viên. Mặc dù đã hết sức cố gắng, song do biên soạn lần đầu, giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong đồng nghiệp và bạn đọc đóng góp ý kiến để giáo trình được hoàn thiện hơn. 2
  3. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ DÂN TỘC 1 1.1. Các khái niệm về văn hóa 1 1.1.1. Khái niệm bản sắc văn hóa, bản lĩnh dân tộc 2 1.1.2. Khái niệm sắc thái văn hóa dân tộc (tộc người) 6 1.1.3. Vùng văn hóa và phân vùng văn hóa Việt Nam 6 1.2. Các khái niệm về dân tộc, tộc người 7 1.2.1. Khái niệm dân tộc 7 1.2.2. Khái niệm tộc người 8 1.2.3. Nhóm địa phương 9 CHƯƠNG 2. MIỀN NÚI VIỆT NAM: THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI 11 2.1. Điều kiện địa lý tự nhiên Việt Nam 11 2.2. Các dân tộc (tộc người) thiểu số ở Việt Nam 12 CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT 13 NAM 3.1. Qúa trình hình thành dân tộc (quốc gia) Việt Nam 13 3.2. Văn hóa việt Nam là một nền văn hóa đa dạng mà thống nhất 13 3.3. Văn hóa các dân tộc Việt Nam có quá trình hình thanh và phát triển lâu đời 15 3.4. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp 24 3.5. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là nền văn hóa với tư duy kỹ thuật thủ công 26 mang phong cách tộc người đậm đà 3.6. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là sự biểu hiện của nền văn hóa dân gian đa 26 dạng phong phú và độc đáo 3.7. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là sự phản ánh quá trình tiếp xúc và biến 26 đổi văn hóa tộc người CHƯƠNG 4. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 28 4.1. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Tây Bắc 28 4.2. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Việt Bắc 30 4.3. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa châu thổ Bắc bộ 33 4.4. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Trung bộ 39 4.5. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên 42 4.6. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Nam bộ 44 3
  4. CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ DÂN TỘC 3 TIẾT 1.1. Các khái niệm về văn hóa *Văn hóa: Văn hóa là một thực thể vận động theo không gian và thời gian. Văn hoá là một từ tiếng Hán, ban đầu được dùng với nghĩa “dùng văn để hoá”, tức là dùng hiểu biết để khai hoá, phát triển. Đến thời cận đại, nghĩa của từ văn hoá dần dần có sự thay đổi và ngày nay, văn hoá được hiểu với nghĩa rộng là những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội loài người. Trong ngữ hệ Latinh, chữ “văn hoá” là “Cultura” được hiểu với nghĩa ban đầu là trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm Đến giữa thế kỷ XIX, do sự phát triển của các ngành khoa học như nhân loại học, xã hội học, dân tộc học , khái niệm văn hoá đã thay đổi. Các nhà nghiên cứu đã thống nhất rằng văn hoá gồm tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử (khái niệm này cũng được đưa ra trong Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994). Theo GS. Trần Ngọc Thêm thì “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này được các nhà nghiên cứu sử dụng hơn cả. Như vậy, văn hoá xuất hiện đồng thời với loài người, nghĩa là khi con người biết chế tạo, sử dụng công cụ lao động, cũng là khi họ bắt đầu sáng tạo ra văn hoá. Trong quá trình phát triển, ngoài văn hoá vật chất, loài người cũng sáng tạo ra văn hoá tinh thần, bao gồm nghệ thuật, tôn giáo, tiếng nói, chữ viết Trên cơ sở văn hoá nguyên thuỷ, đến một giai đoạn nhất định, loài người mới bước vào giai đoạn văn minh, tức là thời kỳ văn hoá đạt đến trạng thái phát triển cao. Trạng thái phát triển cao đó có được từ khi nhà nước ra đời. * Theo nghĩa hẹp thì: “Văn hoá dùng để chỉ những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần”, ví cụ các hoạt động văn hoá như tổ 4
  5. chức, biểu diễn, triễn lãm in ấn, phát hành các sản phẩm về văn học và nghệ thuật “Văn hoá dùng để chỉ tri thức, kiến thức khoa học của cá nhân”, ví dụ ông A có trình độ văn hoá tốt nghiệp 12/12. “Văn hoá dùng để chỉ trình độ cao trong sinh hoạt xã hội”, là biểu hiện của văn minh, ví dụ làng văn hoá, văn hoá ứng xử . “Văn hoá dùng để chỉ nền văn hoá của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau”, ví dụ văn hoá Bắc Sơn, văn hoá Núi Đọ Việt Nam là quốc gia có điều kiện tự nhiên đặc biệt trải dài trên 1 địa hình khá dài. Đo đó điều kiện tự nhiên ở các vùng có sự khác nhau. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 tộc người, do đó lịch sử trình độ phát triển trong các tộc người không giống nhau nên sự vận động của văn hóa cũng không giống nhau nên sự vận động của văn hóa cũng không giống nhau do các yếu tố, địa hình môi sinh, dân tộc chi phối. 1.1.1. Khái niệm bản sắc văn hóa, bản lĩnh dân tộc * Bản sắc văn hóa Theo Từ điển tiếng Việt(1), thuật ngữ "bản sắc" dùng để chỉ tính chất, màu sắc riêng tạo thành phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng của sự vật đó. Trong thực tế, khi nói "bản sắc" thường là nói tới cái riêng, cái rất riêng của một sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác trong thế giới khách quan. Quan niệm này cũng gần với một phương pháp định nghĩa trong Lôgic học là định nghĩa "qua giống gần gũi để chỉ ra sự khác biệt về loài". Cách định nghĩa này có phần nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù, cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất sự vật. "Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp cận khác là phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. Cách tiếp cận thứ hai này có tính hợp lý hơn bởi khái niệm "bản sắc" được nhận thức trên cả 2 mặt: mặt bản chất bên trong và mặt 5
  6. biểu hiện bên ngoài và giữa hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, mặt bên trong phản ánh tính đồng nhất, bản chất của một lớp đối tượng sự vật nhất định và mặt bên ngoài phản ánh những dấu hiệu, những sắc thái riêng của sự vật để làm cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa sự vật này với sự vật khác. Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc. Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói đến dân tộc, bản sắc dân tộc. Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở đây thì khái niệm bản sắc văn hóa vẫn là một khái niệm vô định, vì nói tới văn hóa là nói tới con người và nói tới những dân tộc cụ thể đã sinh ra, duy trì và phát triển nó. Vì vậy, chỉ khi tiếp cận đến bản sắc văn hóa của dân tộc thì ý nghĩa của nó mới được thể hiện một cách trọn vẹn. Nếu tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử thì bản sắc văn hoá dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so với dân tộc khác. Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh hồn, cốt cách, bản lĩnh của một dân tộc. Đây được coi là “dấu hiệu khác biệt về chất” giữa dân tộc này với dân tộc khác. Tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp ở Venise, F.Mayor - nguyên Tổng giám đốc UNESCO đã đưa ra một định nghĩa khái niệm văn hóa trên cơ sở nhấn mạnh tính đặc thù của bản sắc văn hoá dân tộc: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động”(2). Trong quan hệ quốc tế, bản sắc văn hóa dân tộc được xem như cái “thẻ căn cước”, là cốt cách của mỗi dân tộc thể hiện trên mọi phương diện quan hệ ngoại giao về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. 6
  7. Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hoá là yếu tố mang sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc vượt qua những thử thách của lịch sử, bởi vì “bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển”(3). Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang được nhiều quốc gia dân tộc coi trọng và có những giải pháp cụ thể trong quá trình phát triển. * Bản lĩnh văn hóa Bản lĩnh của một nền văn hoá là tổng hợp toàn bộ những nhân tố thể hiện cốt cách, khí phách, tư chất và sức mạnh khẳng định bản sắc dân tộc trước tác động của các nền văn hoá khác trong giao lưu, hội nhập. Một nền văn hoá thiếu bản lĩnh thì dễ bị đánh mất bản sắc dân tộc. Bản sắc văn hoá là hồn dân tộc và do vậy, mất bản sắc văn hoá chẳng khác nào một người không còn thần sắc. Việt Nam có lịch sử phát triển văn hoá lâu đời. Lịch sử đó thống nhất với lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước. Với đặc thù tự nhiên, với vị trí địa lý là trung tâm giao lưu Bắc – Nam, Đông – Tây, Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp thu và đã tiếp thu được nhiều giá trị văn hoá bên ngoài để làm giàu văn hoá dân tộc. Có thể nói, “đầu vào” của văn hoá Việt Nam rất đa dạng, nhưng “đầu ra” lại rất đặc sắc Việt Nam. Nền văn hoá Việt Nam có nhiều dấu ấn, giá trị văn hoá đặc sắc của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, thậm chí cả của phương Tây. Điều đó là do sự tiếp thu có nguyên tắc - không đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam. Các giá trị văn hoá bên ngoài rất đa dạng, phong phú, nhưng khi vào Việt Nam đều được Việt Nam hoá. Chẳng hạn, từ bi của Phật giáo khi xâm nhập vào Việt Nam đã trở thành đại từ, đại bi của Việt Nam; cái hùng, cái nhân của Nho giáo đã trở thành cái đại hùng, đại nhân của Việt Nam (“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo” - Nguyễn Trãi). Cái đặc sắc và bản lĩnh văn hoá Việt Nam luôn dựa trên sự lựa chọn lối ứng xử “hài hoà” của chủ thể văn hoá. Hài hoà với thiên nhiên, hài hoà trong xã hội được 7
  8. biểu hiện ở tất cả các mặt, các lĩnh vực của cuộc sống và trên tất cả các cấp độ, từ cách đối nhân xử thế hàng ngày đến nếp sống, lối tư duy, quan niệm về đạo lý làm người. Do ứng xử hài hoà, văn hoá Việt Nam không cự tuyệt các giá trị văn hoá bên ngoài theo lối cực đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên tắc, không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ văn hoá Việt Nam có cơ hội tiếp thu những giá trị từ nhiều nền văn hoá, song cũng chứa đựng nhiều nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá như hiện nay. Để phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bản lĩnh văn hoá Việt Nam phải được củng cố vững vàng trong tình hình mới. Nội dung quan trọng nhất để xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam là tuân thủ quy luật đó một cách linh hoạt và sáng tạo. Do vậy, xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải có chiến lược phát triển văn hoá một cách khoa học, kết hợp được và thể hiện được sự thống nhất giữa tính nguyên tắc với tính linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng. Đây là hai mặt của một vấn đề. Nếu vận dụng một cách khoa học, chúng sẽ trở thành tiền đề, động lực phát triển cho nhau; còn nếu vận dụng một cách thiếu khoa học, chúng sẽ cản trở sự phát triển của nhau. Sự thống nhất giữa tính nguyên tắc và sự linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng đó còn phải được thẩm thấu vào tiềm thức của mỗi chủ thể ở các cấp độ khác nhau để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ từ trên xuống dưới, thậm chí ở mỗi con người cụ thể. Bản lĩnh của một nền văn hoá dựa trên sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài trong quá trình phát triển và trong quan hệ giao lưu, hội nhập. Trong lịch sử, văn hoá Việt Nam luôn có sức đề kháng to lớn. Nhờ đó, văn hoá Việt Nam đã tạo dựng được bản lĩnh vững vàng trong giữ gìn bản sắc dân tộc. Trước sức mạnh xâm nhập của các giá trị văn hoá bên ngoài, văn hoá Việt Nam đã không bị đồng hoá, không đánh mất bản sắc của mình. Sức đề kháng đó của văn hoá Việt Nam còn có cội nguồn từ tầng sâu của tâm hồn, trí tuệ, lòng tự tôn dân tộc, không chịu khuất phục trong mỗi con người Việt Nam. Cội nguồn sức đề kháng của văn hoá Việt Nam là như vậy, nên chính sách đồng hoá về văn hoá trong suốt thời gian đô hộ cả 8
  9. ngàn năm của phong kiến phương Bắc, thậm chí cả của chủ nghĩa thực dân cũ và mới hơn một trăm năm vẫn không làm phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc. Dân tộc ta, dù bị thất bại về quân sự nhiều lần, nhưng nhờ cội nguồn sức mạnh đó, cuối cùng vẫn vùng dậy đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập dân tộc. 1.1.2. Khái niệm sắc thái văn hóa dân tộc (tộc người) Trước hết, sắc thái là nét phân biệt tinh tế giữa những sự vật về cơ bản giống nhau Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn 1.1.3. Vùng văn hóa và phân vùng văn hóa Việt Nam - Vùng văn hóa là một không gian văn hóa nhất định, được tạo thành bởi các đơn vị dân cư trên một phạm vi địa lý của một hay nhiều tộc người, sáng tạo ra một hệ thống các dạng thức văn hóa mang đậm sắc thái tâm lý cộng đồng, thể hiện trong môi trường xã hội nhân văn thông qua các hình thức ứng xử của con người với tự nhiên, xã hội và ứng xử với nhau trên một tiến trình lịch sử phát triển lâu dài. - Có hai yếu tố tạo bản sắc văn hóa vùng: + Yếu tố về môi trường sinh thái - tự nhiên mà từ đó sinh ra/quy định cách thức cư trú, canh tác, đấu tranh sinh tồn và phát triển. + Yếu tố chứa đựng các hình thức biểu hiện văn hóa của con người, tạo ra cung cách nhận thức - hoạt động riêng, tạo ra nếp sống, phong tục tập quán, văn học nghệ thuật, ngôn ngữ và các quan hệ giao lưu kinh tế - văn hóa, giữa nội bộ cộng đồng hay với cư dân của các vùng đất/ địa phương khác. Khái niệm này đặc trưng cho bản sắc riêng của từng vùng dưới sự thống nhất do cùng cội nguồn tạo ra bản sắc chung. Nó làm nên tính đa dạng cho bức tranh văn hoá dân tộc. Vùng văn hoá do đó chỉ sự khác nhau của đặc trưng văn hoá tộc người theo không gian địa lí trên một lãnh thổ. Những nhóm tộc người khác nhau ở những chỗ khác nhau tạo nên sự phân hoá vùng văn hoá. Từ xa xưa, ông cha đã ý thức về việc phân biệt văn hoá vùng miền và ngày càng được chú trọng một cách ý 9
  10. thức trong giới nghiên cứu ngày nay. Tuy nhiên hiện còn nhiều ý kiến không đồng nhất theo từng khuynh hướng, từng tác giả. Trong số này, quan điểm phân chia vùng văn hoá của nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng có nhiều cơ sở rất hợp lí. *Phân vùng văn hóa Việt Nam - Vùng văn hoá Tây Bắc - Vùng văn hoá Việt Bắc và Đông Bắc Bộ - Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ - Vùng văn hoá Trung Bộ - Vùng văn hoá Trường Sơn – Tây Nguyên - Vùng văn hoá Nam Bộ 1.2. Các khái niệm về dân tộc, tộc người 1.2.1. Khái niệm dân tộc Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa: Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có kế thừa và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác của các thành viên trong cộng đồng đó. Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước. Như vậy, nếu theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là bộ phận của quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người, còn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là toàn 10
  11. bộ nhân dân một nước, là quốc gia dân tộc. Với nghĩa như vậy, khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ cũng ra đời trong một quốc gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi thường không tách rời với sự chín muồi của những nhân tố hình thành quốc gia. Đây là những nhân tố bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình phát triển. Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và thay thế vai trò của phương thức sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá đã làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau. Nền kinh tế tự cấp, tự túc bị xoá bỏ, thị trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép kín được mở rộng thành thị trường dân tộc. Cùng với quá trình đó, sự phát triển đến mức độ chín muồi của các nhân tố ý thức, văn hoá, ngôn ngữ, sự ổn định của lãnh thổ chung đã làm cho dân tộc xuất hiện. Chỉ đến lúc đó tất cả lãnh địa của các nước phương Tây mới thực sự hợp nhất lại, tức là chấm dứt tình trạng cát cứ phong kiến và dân tộc được hình thành. Ở một số nước phương Đông, do tác động của hoàn cảnh mang tính đặc thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc đã hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản được xác lập. Loại hình dân tộc tiền tư bản đó xuất hiện trên cơ sở một nền văn hoá, một tâm lý dân tộc đã phát triển đến độ tương đối chín muồi, nhưng lại dựa trên cơ sở một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ nhất định nhưng nhìn chung còn kém phát triển và còn ở trạng thái phân tán. 1.2.2. Khái niệm tộc người Thuật ngữ tộc người xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIX, ban đầu nó được dùng để chỉ các nhóm tộc người (groupe ethnie), hay đơn vị tộc người (unité Ethnie). Trong Dân tộc học, khi đó Ethnie tương ứng như ethnic, ethnos, ethikum, ethnea, Cho đến khoảng những năm Sáu mươi của thế kỷ XX, thuật ngữ Ethnie mới được sử dụng rộng rãi, kể cả ở Liên Xô (Hiến pháp Liên Xô 1977 dùng Ethnos thay cho bộ tộc, bộ lạc, ). Tuy vậy, trong thực tiễn cũng như khoa 11
  12. học Nation và Ethnie/Ethnic không thể là một, mà đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Trong khi Dân tộc (Nation) phải là một cộng đồng chính trị, bao gồm cư dân của một quốc gia có chung một nhà nước, một chính phủ, có luật pháp thống nhất, thì Tộc người (Ethnic/Ethnie) là cộng đồng mang tính tộc người, không nhất thiết phải cư trú trên một cùng lãnh thổ, có chung một nhà nước, dưới sự quản lý điều hành của một chính phủ với những đạo luật chung thống nhất. Mặc dù các trường phái Dân tộc học có nhiều quan điểm khác nhau về tộc người,xong tất cả đều thống nhất: Tộc người chỉ các cộng đồng mang tính tộc người bất kỳ, kể cả các cộng đồng tộc người chủ thể của các quốc gia, và các cộng đồng tộc người thiểu số trong các quốc gia, vùng miền, không phân biệt đó là cộng đồng tộc người tiến bộ, hay cộng đồng tộc người còn đang trong quá tình phát triển. Với nhận thức trên, trong thế giới hiện đại của chúng ta ngày nay, đang tồn tại các loại hình cộng đồng dân tộc và cộng đồng tộc người, (3). Trên thế giới, đa số các quốc gia đều là Quốc gia đa dân tộc, tức là cộng đồng cư dân ở đó gồm nhiều tộc người. Trong những trường hợp này, khái niệm dân tộc và tộc người trùng khớp nhau. Tuy vậy cũng có quốc gia chỉ có một tộc người (Triều Tiên, ), trong trường hợp này dân tộc được hiểu là tộc người cũng không sai. 1.2.3. Nhóm địa phương Mỗi dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau; song song và đồng hành bên cạnh dân tộc, là các loại hình cộng đồng người tiền dân tộc (bộ tộc, bộ lạc, ). Thường thì các loại hình tiền dân tộc này tồn tại ở các khu vực, các quốc gia có trình độ kinh tế – xã hội kém phát triển hơn. Trong các xã hội hiện đại, các cộng đồng dân tộc mới vẫn có thể đang trong quá trình hình thành. Đó là quá trình tộc người ở xã hội hiện đại. 12
  13. CHƯƠNG 2. MIỀN NÚI VIỆT NAM: THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI 4 TIẾT 2.1. Điều kiện địa lý tự nhiên Việt Nam 2.1.1. Vị trí địa lí – Việt Nam nằm ở rìa phía đông của bán đảo Đông Dương tiếp giáp Biển Đông gần trung tâm ĐNÁ, trên các đường hàng hải, đường bộ và đường hàng không quốc tế. 13
  14. – Việt Nam nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, khu vực có hoạt động kinh tế sôi động nhất thế giới. 2.1.2. Phạm vi lãnh thổ Lãnh thổ Việt Nam gồm 3 bộ phận : – Phần đất liền : Có diện tích 331.212 km2 (2006- số liệu của TCTK). Hệ toạ độ : 8º34’B – 23º23’B và 102º10’Đ – 109º24’Đ. Tiếp giáp với Trung Quốc ở phía bắc, Lào và Cam-pu-chia ở phía tây, phía đông và nam giáp Biển Đông và vịnh Thái Lan, nằm hoàn toàn trong múi giờ số 7 – Phần biển : Có diện tích trên 1 triệu km2 gồm 5 bộ phận : nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Nếu kể cả biển, lãnh thổ nước ta kéo dài xuống tận vĩ tuyến 6º50’B và ra tận kinh tuyến 117º20’Đ. – Vùng trời : Là khoảng không gian vô tận bao phủ lên trên lãnh thổ. 2.1.3. Ý nghĩa của vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ * Ý nghĩa tự nhiên + Vị trí địa lý đã quy định đặc điểm cơ bản của thiên nhiên nước ta mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. + Vị trí và lãnh thổ tạo nên sự phân hóa đa dạng về tự nhiên, sự phong phú về tài nguyên khoáng sản và tài nguyên sinh vật. + Vị trí địa lý nước ta nằm trong khu vực có nhiều thiên tai * Ý nghĩa kinh tế – xã hội và quốc phòng + Về kinh tế : Vị trí địa lý rất thuận lợi trong giao lưu với các nước và phát triển kinh tế. + Về văn hoá – xã hội: vị trí địa lý tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta chung sống hoà bình, hợp tác hữu nghị và cùng phát triển với các nước trong khu vực Đông Nam Á. + Về an ninh, quốc phòng: nước ta có một vị trí đặc biệt quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Biển Đông có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. 2.2. Các dân tộc (tộc người) thiểu số ở Việt Nam 14
  15. CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 5 TIẾT 3.1. Qúa trình hình thành dân tộc (quốc gia) Việt Nam (sinh viên tự nghiên cứu viết bài thuyết trình theo nhóm) 3.2. Văn hóa việt Nam là một nền văn hóa đa dạng mà thống nhất Thứ nhất, xét trong mối quan hệ giữa các nền văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc bao giờ cũng thể hiện tính hai mặt: tính thống nhất và tính đa dạng. Tính thống nhất phản ánh những nét chung của nền văn hoá xét ở các cấp độ khác nhau, như văn hóa vùng, văn hóa quốc gia, văn hoá khu vực hay văn hoá thế giới. Tính đa dạng phản ánh những sắc thái riêng, đặc thù, đặc sắc giàu bản sắc của mỗi 15
  16. nền văn hoá dân tộc. Nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc là tìm đến cái riêng, cái đặc thù của một dân tộc. Tuy nhiên, quan niệm thế nào là cái riêng, cái đặc thù? Nó là cái "độc đáo" hay là cái "dị biệt"? Mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù với cái chung như thế nào? Đó là những vấn đề không đơn giản. Trong thực tế, từ nhiều nền văn hóa của các cộng đồng dân tộc đã tạo nên những giá trị chung, như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu thiên nhiên Có ý kiến cho rằng, " chẳng phải chỉ ở Việt Nam mới có, mới biết tình cảm và ơn nghĩa, mới lo đạo và đời, có điều với hoàn cảnh đất nước và tập tính cộng đồng, những phẩm chất ấy trội nổi và bám rễ sâu xa, trở thành những giá trị đặc sắc không thể bỏ qua hoặc trộn lẫn trên gương mặt dân tộc"(4). Có nhà nghiên cứu lại nhấn mạnh, cùng những giá trị ấy nhưng các dân tộc có sự lựa chọn, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên khác nhau, hoặc mỗi dân tộc có sắc thái biểu hiện một cách khác nhau mà thôi. Vì thế, cần có thái độ đúng mực, trân trọng đối với các nền văn hóa trong cộng đồng các dân tộc trên mọi phương diện quốc gia (nation) hay quốc tế (international), tránh đề cao nền văn hóa dân tộc này mà xem nhẹ, coi thường nền văn hóa của dân tộc khác, cộng đồng dân tộc khác. Đó là sự thừa nhận cả tính thống nhất (cái chung) lẫn tính đa dạng, giàu bản sắc (cái riêng, cái đặc thù) trong bản sắc văn hóa dân tộc. Thừa nhận tính đa dạng của văn hóa là thừa nhận cái riêng, cái đặc thù trong quan hệ biện chứng với cái chung. Đó là sự đa dạng trong thống nhất, thống nhất mà đa dạng, nó được biểu hiện như một khuynh hướng chung. Nghiên cứu trong không gian và thời gian càng rộng thì bản sắc văn hoá dân tộc càng được bộc lộ rõ hơn. Hơn nữa, bản sắc văn hóa dân tộc chỉ được biểu hiện và có ý nghĩa khi đặt nó trong mối quan hệ với văn hoá các dân tộc khác. Chẳng hạn, bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam qua trang phục áo dài sẽ được nhận diện rõ hơn khi đặt bên cạnh trang phục của các dân tộc khác trên thế giới, như áo kimônô của Nhật Bản, áo hanbok của Hàn Quốc (4) Tôn trọng sự phong phú, đa dạng của các nền văn hóa trong sự thống nhất là một điều cần thiết. Nhận thức này giúp tránh được sự tuyệt đối hoá ranh giới giữa cái chung và cái riêng trong bản sắc văn hoá dân tộc, tách rời tuyệt đối những giá trị 16
  17. nhân văn mang tính nhân loại với những giá trị mang tính bản sắc văn hoá dân tộc, dẫn đến nhận thức lệch lạc: ca tụng nhiệt liệt mọi sự độc đáo của một cộng đồng dân tộc mà ít quan tâm đến giá trị chung mang tính nhân loại trong bản sắc văn hóa dân tộc hoặc ngược lại, đề cao cái nhân loại mà quên đi cái bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc. Cả hai quan điểm này đều dẫn đến cách ứng xử cực đoan: hoặc đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài, hoặc mở cửa một cách không kiểm soát trước những luồng gió văn hóa từ bên ngoài kể cả trong lành hay độc hại. Cả hai cách đó đều không có lợi cho sự phát triển của một dân tộc, bởi một dân tộc không thể phát triển khi đánh mất bản sắc, cốt cách riêng của dân tộc hoặc không kế thừa, tiếp thu biện chứng những giá trị tích cực của văn hóa nhân loại. Đã có thời kỳ chúng ta cho rằng kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản, là nền kinh tế không thể dung hợp với chủ nghĩa xã hội, nên đã không đánh giá đúng về nó như là sản phẩm của sự phát triển tất yếu của nhân loại. Nhưng từ khi kinh tế thị trường được chúng ta nhận thức đúng và tiếp nhận một cách sáng tạo, biện chứng, vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước - xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc, trở thành một nền kinh tế năng động, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. 3.3. Văn hóa các dân tộc Việt Nam có quá trình hình thanh và phát triển lâu đời Thời điểm phát minh ra "lửa" là dấu mốc quan trọng ban đầu cho sự ra đời và phát triển của văn hoá.Nóinhư vậy có nghĩa văn hoá là sản phẩm chỉ riêng có ở loài người, đi liền với sự phát triển của xã hội loài người._ Nhìn lại lịch sử: "Thềm trước" của nền văn minh lửa đốt là một bức tranh sinh hoạt mang tính sinh họcthuần tuý của động vật bậc thấp; Còn "sân sau" của nền văn minh lửa đốt là ánh sáng tư duy của động vật bậc cao. Văn hoá chính là thành quả đằng sau chuỗi tiến hoá lâu dài của loài người, gắn liền với phươngthức sống nhất định._ Khai mở như trên là nhằm chứng minh nguồn gốc của văn hoá từ trong lao động. Lao động vừa là điềukiện cho sự xuất hiện của văn hoá, nhưng đồng thời cũng là phương thức 17
  18. duy trì sự tồn tại và phát triển củavăn hoá. Cũng chính lao động là dấu hiệu để phân biệt loài người với loài vật, vì từ lao động là tiền đề vậtchất tiên quyết cho sự ra đời của tư duy-Cái chỉ có ở loài người (còn loài vật thì không có)._ Xét về mặt quan hệ: Tư duy là sản phẩm của tiến trình tiến hoá lâu dài bởi sự tác động của con người vàogiới tự nhiên. Nói một cách khác, "tư duy chính là thực tiễn được cải biến đi ở trong bộ óc con người".Song, tư duy không phải là một hiện tượng thụ động, bất biến. Nó mang "nội dung thực tiễn", vừa có chứcnăng lưu trữ tri thức, vừa có nhiệm vụ truyền tải tri thức. Cho nên, ngôn ngữ với bản chất là "cái võ vật chấtcủa tư duy" đã trở thành mắt xích quan trọng trong quá trình trao đổi thông tin, duy trì và phát triển các quanhệ giữa con người với con người trong quá trình cải biến tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người._ Sáng tạo là thuộc tính của tư duy nhưng sáng tạo cũng chỉ có thể được thể hiện thông qua những điều kiệnvật chất nhất định. Nhưng điều kiện vật chất đáp ứng sáng tạo phải thông qua lao động vì, "nếu phương diệnkinh tế của lao động là sự sản xuất ra của cải vật chất, thì phương diện văn hoá của lao động chính là sựsáng tạo-biểu hiện của các lực lượng bản chất người. Quá trình biểu hiện của các lực lượng bản chất ngườiấy chính là quá trình sức sáng tạo được vật thể hoá trong hoạt động chiếm lĩnh và cải tạo thế giới, trong đócó bản thân con người". Cũng chính sự sáng tạo văn hoá là động lực tiến bộ của loài người; Sự đa dạng củavăn hoá là kho tàng quý báu nhất của văn hoá nhân loại và là một yếu tố cần thiết của phát triển" *Như vậy, cùng với lao động, tư duy, sáng tạo và ngôn ngữ là cội nguồn là điều kiện nhưng cũng làphương thức tồn tại và phát triển của văn hoá.Từ thực tiễn vật chất và tinh thần của văn hoá cho thấy, văn hoá là một lĩnh vực có nội hàm và ngoại diênrất rộng lớn: Vô cùng đa dạng và phong phú nhưng cũng không kém phần phức tạp._ Cho đến nay đã tồn tại nhiều định nghĩa về văn hoá. Tuỳ theo quan điểm, góc độ tiếp cận khác nhau màcác nhà văn hoá đưa ra các định nghĩa khác nhau về văn hoá:Hồ Chí Minh-Một danh nhân văn hoá thế giới cho rằng "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộnhững sáng tạo và phát 18
  19. minh đó tức là văn hoá"_ Tổ chức văn hoá thế giới định nghĩa: "Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng thể những nét riêng biệttinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trongxã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người những khảnăng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lýtính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thứcđược bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bảnthân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới mẻ và tạo nênnhững công trình vượt trội lên bản thân"._ Từ lập trường duy vật biện chứng truy cứu về văn hoá thấy rằng: Xét theo nghĩa rộng, Văn hoá là "trìnhđộ phát triển lịch sử nhất định của một xã hội, sức sáng tạo và năng lực của con người trong xã hội, biểuhiện các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hoạt động, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần docon người tạo ra Văn hoá bao gồm những kết quả khách quan của hoạt động con người (sản xuất, máymóc, thiết bị, kết quả nhận thức, tác phẩm nghệ thuật, chuẩn tắc đạo đức và Pháp luật) cũng như của sứcsáng tạo và năng lực con người được thể hiện trong hoạt động (tri thức, kỷ năng, thói quen, trình độ trí tuệ, sự phát triển đạo đức và thẩm mỹ, thế giới quan, phương thức và hình thức giao tiếp giữa con người với nhau). Xét theo nghĩa hẹp, văn hoá là lĩnh vực đời sống tinh thần của con người" Tóm lại, văn hoá là một trong những căn cứ để phân biệt con người với loài vật. Nguồn gốc lao động củavăn hoá khẳng định một cách khách quan, duy vật về một hình hình thái ý thức xã hội. Từ trong văn hoá,chúng ta tìm thấy được những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội loài người qua các thời kỳ lịch sử khácnhau. Mỗi dân tộc đều có nền văn hoá riêng của mình. Văn hoá dân tộc là thành tựu của cả dân tộc đi cùnglịch sử của dân tộc đó.Dân tộc Việt Nam là một dân tộc bình đằng với tất cả các dân tộc trên thế giới, có chủ quyền, độc lập vàtoàn vẹn về lãnh thổ, có lịch sử dựng nước và giữ nước, do đó có nền văn hoá riêng, mang phong 19
  20. cách, bảnsắc độc đáo của khu vực Á-Đông.Văn hoá dân tộc Việt Nam là thành tựu của cả dân tộc Việt Nam, được hình thành trong quá trình đấu tranhvới thiên nhiên, chống xâm lược ngoại bang và thực tiễn lao động sản xuất._ Văn hoá Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc. Trước hết là nền văn hoá thời Tiền sử vớinhững thành tựu ban đầu của người nguyên thuỷ ở núi Đọ (Thanh Hoá) và sau đó là nền văn hoá Sơn Vi(hậu kỳ đá cũ). Đặc trưng của nền văn hoá này là săn bắt, hái lượm, dùng đá làm công cụ sản xuất. Theo dấutích khảo cổ học, thời kỳ này "người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa. Họ chôn người ngay nơi cư trú. Thức ănchủ yếu là nguyễn thể, những cây, quả, hạt và một số các loại động vật vừa và nhỏ". Từ thế giới quan triếthọc phải thừa nhận rằng, hành vi chôn người chết của người nguyên thuỷ biểu hiện một quan niệm duy tâm-tôn giáo. Chính việc chôn người chết kèm theo những vật dụng ngay nơi cư trú là thể hiện niềm tin về mộtthế giới khác sau khi lìa bỏ thế giới sống trần tục. Đây cũng được xem là một quan niệm nhân văn, nhân đạosâu sắc bước đầu của tổ tiên người Việt.Thời kỳ đá mới (cách đây hơn một vạn năm) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lối sống của conngười. Thời kỳ này con người đã nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu từ đá, đất sét,sừng, xương, tre, nứa, gỗ, để làm công cụ sản xuất. Đặc biệt hơn, họ đã biết làm gốm, thuần dưỡng độngvật, biết trồng cây, biết quy hoạch định cư thành từng nhóm, dân số theo đó cũng tăng lên, Chính phươngthức sống này đã đẩy văn hoá phát triển lên một tâm cao mới, tiêu biểu cho sự tiến bộ đó là những đặc trưngcủa nền văn hoá Hoà Bình.Văn hoá thời Sơ sử với ba trung tâm lớn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam:-Văn hoá Đông Sơn hình thành ở các lưu vực sông (Sông Hồng, Sông Cả, Sông Mã). Đặc trưng của phươngthức sống thời kỳ này vẫn là sự chuyển tải nội dung của nền văn hoá Hoà Bình nhưng ở một trình độ caohơn. Vào thời kỳ này, cư dân tiền Đông Sơn đã biết trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc làm thức ăn, làmphương tiện chuyên chở hàng hoá, Tuy nhiên việc tìm thấy vật liệu đồng thau đã gây ra sự tác động khôngnhỏ đến đời sống kinh tế- xã hội thời kỳ này. Chính nguyên vật liệu từ đồng đã thúc đẩy nghề đúc đồng pháttriển. Phần lớn những công cụ sản xuất, vũ khí được đúc bằng đồng với kỷ thuật tinh xảo. Đặc biệt nhữngchiếc trống đồng là sản phẩm đằng sau kỷ thuật đỉnh 20
  21. cao của nghệ nhân thời Đông Sơn đã trở thành biểutượng của văn hoá dân tộc.Từ các di chỉ khảo cổ cho thấy, thời kỳ Đông Sơn đã có sự phân khu, phân tầng văn hoá, đồng thời cũngdiễn ra sự giao lưu văn hoá giữa các bộ lạc bởi vì đã có hoạt động trao đổi kinh tế, tặng vật phẩm tín ngưỡngtôn giáo, Và cũng chính những hoạt động này là căn cứ thừa nhận tư duy sáng tạo trong đời sống tínngưỡng cũng như nghệ thuật của một nền văn hoá non trẻ. Trong lĩnh vực nghệ thuật, thời kỳ này, conngười đã biết trang trí với những hoạ tiết có tính đối xứng chặt chẽ. Cho nên, về mặt triết học phải thấy đượcrằng đó là "tư duy phân đôi", ít nhiều mang tính biện chứng của người Sơ sử.Văn hoá, nghệ thuật thời kỳ này cũng rất đa dạng và phong phú với những huyền thoại, thần thoại mang tínhsử thi ("Đẻ đất đẻ nước") cùng những nhạc cụ âm nhạc sinh động từ vật liệu thiên nhiên, đặc biệt là đồngvới những chiếc trống có âm thanh vang xa, vọng.Nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân Đông Sơn gắn liền với nghề trồng lúa nước. Vì vậy, thần Mặt trời là vị thầnchủ đạo được thờ phụng nhằm cầu may cho mùa màng tốt tươi để cư dân được no ấm, an bình, -Văn hoá Sa Huỳnh có không gian phân bố rộng lớn, từ Bình Trị Thiên kéo dài tới lưu vực sông Đồng Nai.Nếu văn hoá Đông Sơ với đặc trưng lớn nhất là những cộng cụ, vật dụng bằng đồng, phục vụ cho sản xuấtthì nền văn hoá Sa Huỳnh lấy sắt làm nguyên liệu chủ yếu để chế tạo ra những cộng cụ phụ vụ cho nền sảnxuất nông nghiệp lúa nước, cùng các loại cây ăn quả, củ khác. Cũng đặt trong so sánh, nếu cư dân Đông Sơnhãnh diện về kỷ thuật đúc đồng thì cư dân Sa Huỳnh cùng tự hào về kỷ thuật đúc sắt. Những công cụ sắt của cư dân Sa Huỳnh nhiều không kém công cụ bằng đồng của cư dân Đông Sơn, Thậm chí còn nhiềuhơn.Ngoài ra cư dân Sa Huỳnh còn nổi tiếng với truyền thống dệt vải, đúc đồ gốm, làm trang sức bằng nhiềuchất liệu từ thiên nhiên. Điều đó chứng tỏ tư duy của người Sa Huỳnh đã phát triển ở tâm cao, tạo ra mộtnền văn hoá tiến bộ, chủ động khai phá, cải biến tự nhiên. -Văn hoá Đồng Nai là nền văn hoá của cư dân vùng Nam Bộ. Đặc điểm của nền văn hoá này gắn liền điềukiện tự nhiên (sông nước miệt vườn). Vì vậy, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.Nếu cư dân Đông Sơn dùng nguyên liệu đồng, cư dân Sa Huỳnh dùng Sắt để chế tạo cộng cụ sản xuất là chủyếu, thì cư dân Đồng Nai sử dụng đá làm nguyên liệu chính thống chế tác ra 21
  22. những công cụ sản xuất vàthậm chí cả những hàng trang sức để phụ vụ đời sống tinh thần._ Đời sống tín ngưỡng của cư dân vùng này còn dừng lại ở cấp độ "Bái vật giáo", song họ vẫn tin có một thếgiới khác ngoài thế giới hiện thực của con người người sống.Nhìn chung, cư dân Đông Nai sống ven cửa sông, rạc, biển nên từ lâu đời đã có truyền thống "ăn to nói lớn", khoáng đảng, bổ bả, ít suy tư trầm lắng như người vùng ngoài.Văn hoá Bắc thuộc là nền văn hoá phụ thuộc vào sự thống trị của Phong kiến Trung Hoa ở phương Bắc.Thời kỳ này đã đặt văn hoá Việt Nam vào thế cam go phải đấu tranh với sự đô hộ của phong kiến xâm lượcchống lại sự đồng hoá dân tộc._ Văn hóa Việt Nam vốn dĩ độc lập trong sự cởi mở, rộng lượng của truyền thống người Việt cổ sau quátrình tiếp biến thiên nhiên và cuộc sống lâu dài nay có nguy cơ bị Hán hóa, biến thành một tiểu khu của Trung Hoa đại lục.Phong kiến phương Bắc đưa chân đến đất Nam không chỉ chuyên chở ý đồ chính trị mà còn kéo theo văn hoá bản địa. Hành trang chủ yếu của văn hoá bản địa là đạo Nho, Lão-Trang với những nội dung phục vụ cho mục đích đồng hoá.Không chịu khuất phục trước sức mạnh về số lượng, dân tộc ViệtNam trương cao ngọn cờ: Đấu tranh để bảo vệ bản sắc, bảo vệ dân tộc, chống đồng hóa, tiếp tục phát huy giá trị văn hóa dân tộc, giải phóng đất nước.Tuy nhiên, từ giác độ xã hội học phải thừa nhận rằng: Những nội dung máng đậm tính nhân văn của đạoNho Trung Quốc (nhân-lễ-nghĩa-chính danh) rất gần gũi trong nếp ăn, thói ở của người Việt. Cho nên,Phong kiến Trung Hoa đã biết lợi dụng điều đó mà khuyếch trương, truyền giáo. Nếu có thể đặt ra ngoài vấn đề chính trị mà nhìn sâu vào đời sống tinh thần thì có thể thấu rõ được một sự thực là: Bản thân những giá trị nhân văn, nhân bản của Nho giáo đã tồn tại trong lòng truyền thống tốt đẹp của dân tộc.Cùng với những chuẩn giá trị đạo đức của các tôn giáo Trung Hoa, mà chủ yếu là đạo Nho. Phật Giáo (mộttrong ba tôn giáo lớn trên thế giới) cũng có mặt ở Việt Nam. Những kỷ cương, luân lý của đạo Phật đã gópphần không nhỏ xiết chặt lối sống buông thả của con người trần tục. Xét về mặt ý nghĩa, nó phù hợp với tâmcan hướng thiện của người Việt. Cho nên văn hoá Việt Nam tiếp biến đạo Phật là góp thêm phần đa dạng,phong phú và nhân đạo của một truyền thống lâu đời.Trước khi bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, văn hoá Việt Nam ghi nhận dấu ấn 22
  23. của nền văn hoá champa vàÓc Eo.Với sự thống trị của các triều đình phong kiến Việt Nam (đặc biệt là triều đình nhà Nguyễn), vào thế kỷ thứXVI một tôn giáo có nguồn gốc từ Phương tây đã xâm nhập vào văn hoá Việt Nam. Đó là Thiên Chúa Giáo-tôn giáo làm nên văn minh phương Tây.Nội dung của Thiên Chúa giáo tập trung chủ yếu ở phúc âm. Giáo lý dạy: Con người là một sinh linh vôcùng nhỏ bé, khi sinh ra đã mang nặng tội tổ tông. Vì vậy, sống kiếp làm người phải ăn năn, xám hối, chuộclỗi với Chúa, cầu mong Chúa cứu rỗi, ban ơn, Sự nghiệp trần thế của con chiên là phụng dưỡng ý đồ cứuđộ của Thiên Chúa để khi chết không bị đầy xuống tuyền đài mà được trở về với Thiên đường sống hạnhphúc bên Thiên Chúa vô vàn tôn kính._ Lý tưởng của Kinh Thánh sớm ăn nhập vào tâm tri của một bộ phận không nhỏ dân chúng có cuộc sốngkhổ đau, bần hàn. Nó đã được dân tộc việt Nam tiếp biến, cải biên phần nào cho phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc. Từ đây, văn hoá Việt Nam được bổ một nội dung văn hoá tôn giáo mới, tăng thêm phân đadạng và sâu sắc.Nửa sau thế kỷ XIX, văn hoá Việt Nam đặt dưới sự thống trị của thực dân. Dưới sự chèo lái của triều đình nhà Nguyễn,"dân tộc Việt Nam đã đánh mất hành động độc lập trong lịch sử”, làm cho con thuyền văn hoá dân tộc chỉu nặng ý đồ chính trị thực dân Phương tây. Lúc này, văn hoá Việt Nam mang hai nội dung chủyếu là: “Tiếp xúc và giao thoa văn hóa Việt Pháp; và giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đôngtây”._ Đặc biệt lĩnh vực văn hoá vật chất được thực dân Pháp phát triển ồ ạt trên lãnh thổ Việt Nam, làm phainhạt tính đậm đà, bản sắc của văn hoá dân tộc và thay vào đó bằng văn hoá ngoại lai, xa lạ với cư dân nông nghiệp lúa nước.Vì vậy, trước khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1943 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xây dựng bản Đề cương văn hoá, vạch ra tình trạng "Văn hoá Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiềntư bản. Chiến tranh và xu trào văn hoá hiện nay: Ảnh hưởng của văn hoá Phát xít làm cho tính chất, nô dịch trong văn hoá Việt Nam mạnh lên, những đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hoá tân dân chủ, xu trào văn hoá mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nẩy nở". Xuất phát từ thực trạng văn hoá này, đảng ta đã đề ra nhiệm vu xây dựng nền văn hoá mang nội dung: Dân tộc, Khoa học và Đại chúng.Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân 23
  24. chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một mốc sonvĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bức vào kỷ nguyên của độc lập, tự chủ, xây dựng nền văn hoá mớixã hội chủ nghĩa. Từ đây, những nội dung của bản Đề cương văn hoá dân dần được bổ sung, phát triển theotỉnh hình cách mạng của dân tộc._ Sau năm 1955, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền: Miền bắc xây dựng, phát triển kinh tế-chính trị, vănhoá-xã hội xã hội chủ nghĩa; Miền nam còn chịu ách thống trị của thực dân-đế quốc Mỹ, do đó văn hoáMiền nam bị ảnh hưởng nhiều bởi lối sống của văn hoá Phương tây.Năm 1975, Miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập, giang sơn thu về một mối, văn hoá Việt Namthống nhất phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam._ Trải qua một thời kỳ văn hoá bao cấp, năm 1986 Đẳng ta đổi mới tư duy phát triển nền kinh tế thị trườngtheo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống mới. Từ đây, cùng với các lĩnh vực khác, văn hoáđược Đảng ta trú trọng quan tâm bằng những quyết sách cụ thể._ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIchỉ rõ: "Công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt động văn hoá, vănnghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giácngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh củacác tầng lớp xã hội và các lứa tuổi"._ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIIvạch ra nhiệm vụ của cách mạng văn hoá Việt Nam là: "Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoáViệt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhânloại. Vận động toàn dân thực hiện lối sống cần, kiệm, văn minh, lịch sự. Phổ biến rộng rãi trong nhân dânnhững kiến thức văn hoá cần thiết cho sản xuất và đời sống. Thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ nhânphẩm phụ nữ. Phát động phong trào quần chúng bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác"._ Đại Hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mụctiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đàotạo, các hoạt động văn hoá, văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phúđời sống tinh thần con 24
  25. người Việt Nam. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải đượcthấm đậm không chỉ trong công tác văn hoá-văn nghệ, mà cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vậtchất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng tacó cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam". Do đó, "Mọi hoạt động vănhoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng conngười Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnhcho sự phát triển xã hội". Đồng thời, "kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các disản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc".Tiếp tục đường hướng nói trên, năm 1998 Đảng ta tổ chức Hội Nghị TW V, chuyên bàn về vấn đề văn hoá.Xác định xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn phát triển mới._ Nền văn hoá tiên tiến không có nghĩa là xoá bỏ truyền thống mà nó là nền văn hoá mang những đặc trưngcụ thể như: Yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-lênin,tư tưởng Hồ Chí minh; nhân văn; phong phú cả về nội dung và hình thức._ Tính chất tiên tiến phải đảm bảo được nội dung nhân văn, nhân đạo sâu sắc, nhưng đồng thời phải thể hiệnsự đa dạng và phong phú về hình thức.Tính chất đậm đà của nền văn hoá dân tộc đảm bảo giữ gìn và phát huy những giá trị mang bản sắc dân tộcnhư lòng yêu nước, tinh thần nhân ái, sự bao dung, độ lượng, quý trọng nghĩa tình, đạo lý, dũng cảm và đặcbiệt giữ gìn tinh thần đoàn kết dân tộc.Để xây dựng nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà, Hội Nghị TW V đã xác định:-Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xãhộ;-Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;-Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; -Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; -Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng._ Nhìn lại 20 năm đất nước đổi mới, văn hoá Việt Nam đang "thăng hoa", tiến bước cùng sự 25
  26. phát triển củalịch sử dân tộc. Bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển về giáo dục, văn hoá nghệ thuật đã gặthái được nhiều thành tựu góp phần đưa đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, thì đại ngày này được xem là thời đại vũ bảo, guồng máy phát triển của thế giới được bôi trơnbởi nền tri thức vượt bậc của nhân loại. Xu hướng toàn cầu hoá đã cuốn hút tất cả các nền văn hoá dân tộctrên thế giới vào quỷ đạo chúng. Chính quá trình này đã diễn ra sự "đụng độ" giữa các nền văn minh, và văn hoá của các dân tộc có cơ hội được "cọ sát". Toàn cầu hoá là cơ hội để Việt Nam tham gia vào sân "chơi trí tuệ" của thế giới, từ đó học hỏi, thu nhận có chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại. Nhưng toàn cầu hoá cũng là một thách thức không nhỏ, bởi vìnếu không vững lập trường sẽ rất dễ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, phải xác định: "Hoà nhập nhưng không hoà tan". Văn hoá là tấm thẻ căn cước để tham gia vào quá trình hội nhập, nhưng bằng mọi giá phải giữ cho được tấm thẻ đó, nếu mất nó là đánh mất quyền lợi trong "cuộc chơi" và cũng đồng nghĩa vớiviệc đánh mất mình. Tóm lại, văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần của con người được hình thành sau lịch sử đấu tranh mạnh mẽ với thiên nhiên, với xã hội. Mỗi một dân tộc đều có lịch sử văn hoá của riêng mình biểu hiện tính cách, bản sắc độc đáo không lặp lại hay đồng nhất với bất kỳ văn hoá của dân tộc nào trên thế giới. Vì vậy,"giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá" không chỉ là sự lựa chọn mà còn là nhiệm vụ, là mục tiêu của cả dântộc Việt nam trong thời đại mới. 3.4. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông-Nam Châu Á nên Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam. Cư dân Việt Nam chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với tự nhiên, do nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, đơm hoa, kết trái và thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định, cho rằng” An cư lạc nghiệp” . Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp có ý thức 26
  27. tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra là nói “ nhờ trời”, “lạy trời” Các tín ngưỡng và lễ hội sung bái tự nhiên rất phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng đât nước. Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu, “ trông trời, trông đất, trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm ” nên về mặt nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen Người làm nông quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm Về mặt tổ chức cộng đồng, người Việt có lỗi sống cố định lâu dài nên tạo ra những mối quan hệ tình cảm thân thiết, gắn bó, hình thành nên lối sống Trọng tình Nhưng cũng từ đây hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội. Lỗi sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Trong ngôi nhà của người Việt rất coi trọng gian bếp, thể hiện sự coi trọng phụ nữ. Người Việt coi: Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà Người phụ nữ cũng được xem là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu; Con dại cái mang Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa: Lá lành đùm lá rách; Bầu ơi thương lấy bí cùng ; các quan hệ ứng xử thường đặt lý cao hơn tình: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đên lối sống linh hoạt, luôn thay đổi để thích hợp với từng hoàn cảnh: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy; Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi “ cửa sau” để giải quyết công việc( Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế). 27
  28. Vì sống theo tình cảm nên mọi người phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lý coi trọng cộng đồng, coi trọng tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể sau lưng. Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp vfa phong cách linh hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những không có chiến tranh tôn giáo mà mọi tôn giáo đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong cách tố chức đời sống, phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt truyền thống. 3.5. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là nền văn hóa với tư duy kỹ thuật thủ công mang phong cách tộc người đậm đà - Các loại hình kinh tế văn hóa chúng ta có được cho đến thời điểm hiện nay đó là loại hình kinh tế văn hóa thời kỳ tiền công nghiệp/nặng nông nghiệp. - Là: khi làm nhà, thuyền thì yếu tố kỹ thuật việc làm nhà, đắp đường dựa vào cơ bắp, không dựa nhiều vào đầu óc - Đơn giản, kỹ thuật đúc, chạm, khắc còn thô sơ, chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên. - Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt rất đơn giản. - Công cụ lao động làm nên thành phẩm hết sức đơn giản, không mấy thay đổi theo thời gian như dệt thổ cẩm. - Sản xuất chưa nghĩ đến yếu tố hàng hóa, nền kinh tế tự cung, tự cấp, khép kín. 3.6. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là sự biểu hiện của nền văn hóa dân gian đa dạng phong phú và độc đáo - dân tộc với trình độ phát triển chưa cao, đây là mảnh đất màu mỡ cho văn hóa dân gian phát triển. - Sự đa dạng, phong phú, độc đáo của văn hóa dân gian: nhiều thể loại, nội dung phong phú, nghệ thuật thể hiện, cách thức thể hiện. - Mức độ đậm đặc của các loại hình nghệ thuật truyền thống dân tộc đang tồn tại lưu giữ mà chúng ta chưa thể tìm thấy hết. - Tiếp nối dòng chảy từ ngàn đời. 28
  29. 3.7. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là sự phản ánh quá trình tiếp xúc và biến đổi văn hóa tộc người - Các dân tộc Việt Nam ở trên đất nước ta trong lịch sử dân tộc không bao giờ là ốc đảo điều đó chứng tỏ qua các quan hệ nhiều chiều từ xa xưa trong lịch sử - Tiếp xúc giữa rất nhiều các tộc người với nhau * BÀI ư TẬP 1 3 TIẾT + Phân biệt các khái niệm văn hóa, vùng văn hóa, bản sắc văn hóa, bản lĩnh dân tộc, sắc thái văn hóa, tộc người, dân tộc. Tài liệu: Ngô Đức Thịnh (2001), Văn hóa và phân vùng văn hoá Việt Nam, NXB Trẻ, TP Hồ chí Minh + Làm rõ quá trình hình thành dân tộc Việt 29
  30. CHƯƠNG 4. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 12 TIẾT 4.1. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Tây Bắc Là 1 vùng xứ sở hoa Ban của người Thái. Về địa hình đây là vùng núi cao rất hiểm trở chạy theo hướng đó. Đây Hoành Liên Sơn dài 150km, rộng 80km, cao trung bình 1.500km. Có đỉnh cao nhất là Phan xi păng 1432m. Vùng này gồm các tỉnh: 1 Lai Châu; 2 - Sơn La; 3 - Tây Hoàng Liên Sơn; 4 - Hoà Bình; 5 - vùng núi Thanh Nghệ tĩnh. Cảnh quan tự nhiên có nhiều nét tương đồng như các núi cao bị chia tách bằng những nét đứt gãy của kiểu tạo địa chất thành những thung lũng sông, suối. Khí hậu: Mang tính chất lục địa tương đối rõ gió mùa nhưng không rõ như Việt Bắc và Bắc Bộ. Tuy thuộc vùng nhiệt đới gió mùa nhưng ở độ cao nên đã ngã sang Á nhiệt đới và ôn đới. Đo dó nó có nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau. Thiên nhiên cũng đa dạng, thổ nhưỡng đa dạng, mật độ dân số thấp năm 1973 mật độ là 53 người/1km2. Cư dân chủ nhân xa xưa đều làm nông nghiệp theo 2 loại hình ruộng lúa nước thung lũng làm rẫy. Hệ động thực vật thuộc cận nhiệt đới và có phần ôn đới. Có 2 chủ thể chính trong sáng tạo văn hoá là người Thái và người Mường, ngoài ra còn có tộc người khác. Người Thái là tộc đa số họ sống ở các thung lũng làm ruộng lúa nước , bên cạnh làm rẫy cũng góp phần vào đời sống của họ. Khoảng trước và sau có một bộ phận cư dân phía Bắc di cư tới cộng cư với dân bản địa. Đến cuối TNK đầu TNK I trước công nguyên, cư dân chủ yếu là người Thái. Những thế kỷ gần đây tiếp nhận thêm nhiều tộc người khác đến định cư như người Dao, H'Mông, Kinh nhưng người Thái, Mường vẫn đông vai trò chính ở 30
  31. vùng này. Các tộc người đến sau thường sống du canh du cư làm nương rẫy. Người Thái, Mường vẫn đóng vai trò quyết tâm tạo nên sắc thái đặc trưng của vùng này. Cơ cấu xã hội: Phụ thuộc vào cơ cấu xã hội người Thái, các tộc người đến sau sống xen vào góp phần tạo nên hình thành đặc trưng văn hoá. Tuy nhiên mỗi tộc người đều có sắc thái văn hoá riêng được họ bảo lưu. Theo các nhà khoa học thì người Thái và Mường và một só tộc người đã định cư ở đây từ thời Đông Sơn. Nhà sàn của người Thái có đặc trưng riêng là: Ném có hình khum khum mai rùa, 2 đầu hồi có sừng cuộn. Địa bàn định cư sinh sống chủ yếu nằm trong vùng ven đồi, ven núi, nhìn ra sông bao giờ cũng có sông suối dựa vào đó tạo nên hệ thống mương phát và độc dốc để đưa nước tưới ruộng. Do chủ động được nguồn nước nên họ nuôi cá sau khi gặt, họ tháo nước để bắt cá, làm cơm cá cúng thần linh. Có ý kiến cho rằng cá có tác dụng làm tốt ruộng nhờ nó sục bùn. Các dòng suối đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Thái. Suối âm, núi dương, suối là nơi trú ngụ của thần nước, nên người Thái hay cúng thần nước, nương rẫy là hình thức sản xuất không thể thiếu. Với nương rẫy người Thái trồng lúa khô, bầu bí, rau đậu, đu đủ, vừng, kê, họ còn có nghề dệt vải. Đặc điểm đáng chú ý: Người Thái rất có ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ sinh thái, về phương diện phi vật thể, người Thái sống hoà thuận, giản dị, chân thật với người trong cũng như ngoài cộng đồng. Họ không bao giờ đánh mắng trẻ con. Khi gặp khó khăn, trong thiếu đến kém thì họ thường nhường cơm xẻ áo 1 cách chân thật. Việc giúp đỡ nhau vô tư từ người Thái ảnh hưởng đến các tộc người sống trong vùng. Các tộc người ở đây đều thờ vật tổ. Họ có tín ngưỡng vạn vật hữu linh cho rằng: mọi vật đều có linh hồn, có 80 loại hồn, các bộ phận của cơ thể đều có hồn, họ cũng quan niệm khi chết người ta không mất đi mà về sống với tổ tiên nên đối với người chết họ làm lễ tiễn đưa. Về văn hoá nghệ thuật: Có những nét độc đáo, múa xoè của người Thái, văn hoá bạc học chưa xuất hiện. Trong các tộc người ở đây thì người Mường có sử thi (xoè của người Thái có tới 32 điệu khác nhau). Người H'Mông thì có điệu múa khèn, người Khơ mú có điệu múa lắc mông. 31
  32. Nhạc cụ phổ biến là bộ hơi: khèn có lưỡi gà bằng đồng, bạc, tre, bằng lá. Họ thích trang trí trang phục, trên quần áo trang phục luôn trang trí đường nét hoa văn màu nóng, thích màu đó, vàng rơm, tím, da cam, ít thích màu xanh. Đi lại do núi cao hiểm trở nên đi lại chủ yếu là bằng ngựa hoặc đi bộ. Vùng này có thể phân thành các tiểu vùng: + Tiểu vùng văn hoá Tày bao gồm: Lai Châu - Bắc Sơn La và Tây Hoàng Liên Sơn Tiểu vùng này đã diễn ra quá trình đồng hoá mạnh mẽ các tộc người. + Tiểu vùng miền núi Thanh - Nghệ Tĩnh vẫn là văn hoá Thái có nguồn gốc xa xưa ở Tây Bắc di cư vào và hình thành nên. Ở đây không chỉ có văn hoá Thái mà còn ảnh hưởng của văn hoá Môn Khơ me, Dao và cả Lào. + Tiểu vùng hỗn cư Mường Thái thuộc địa phận Hoà Bình, Nam Sơn La, Bắc Thanh Hoá là vùng dân tộc Thái. Văn hoá có sự giao lưu ảnh hưởng sâu sắc. Nơi trung tâm cư trú của người Mường, ảnh hưởng văn hoá Mường và ngược lại văn hoá Thái vẫn đóng vai trò chủ đạo. Ngoài ra còn có những vùng trung gian nhưng không có đặc trưng vùng. 4.2. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Việt Bắc Có những nét khác Tây Bắc nằm ở phía Đông dãy Hoàng Liên Sơn chịu sự chi phối của khí hậu gió mùa, gồm các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Cạn và đồng Hoàng Liên Sơn. Tuy là vùng núi nhưng đồi núi ở đây thấp, địa hình ít bị chia cắt, giao thông đi lại thuận lợi hơn. Khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa nên ít mang tính lục địa. Khí hậu từ cận nhiệt đới sang ôn đới. Do nằm ở địa đầu đất nước nên là nơi chịu ảnh hưởng lớn nhất của gió mùa đông bắc mang tính lục địa. Quần thể động thực vật mang tính cận nhiệt đới, ôn đới rét nhất Việt Nam. Các cánh cung tụ lại ở Tam Đảo mở ra ở phía Bắc và Đông Bắc lồi hứng ra biển. Toàn vùng có 5 hệ thống sông chính. Sông Thao, sông Lô, sô Cầu, sông Thương, , sông Lục Nam. Đặc trưng chung của sông ở dây là độ dốc lớn thường hay gây ra lũ lụt, dòng chảy mạnh về mùa mưa. Sinh thái ở vùng này có nhiều hồ, nỗi tiếng là hồ Ba Bể. Dân cư chủ yếu là người Tày, Nùng có chung nguồn gốc lịch sử thuộc khối Bách Việt 32
  33. xưa. Từ Nùng mới xuất hiện khoảng đầu thập niên kỷ I trước công nguyên. Thời vua Hùng liên mionh Lạc Việt - Tây Âu khá chặt chẽ. Đây cũng là vùng giao lưu văn hoá văn nghệ với văn hoá Hán nên để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử, đặc biệt là thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc năm 544 cư dân tham gia khởi nghĩa Ly Bôn, trước đó T/3 tích cực khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Thời kỳ tự chủ họ có vai trò to lớn trong 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên (nội dung có đóng góp ) - Thời chống Minh ở đây có Ải Chi Lăng. Vùng này xuất hiện nhiều anh hùng như: Nông Vạn Lạch, Hoàng Khiêm Hữu, Nguyễn Văn Hách, Dương Thế Chân. Nhà Mạc khi thất bại lên Cao Bằng xây dựng thành luỹ chống Trịnh thì một số thủ lĩnh Tày, Nùng đứng về phía nhà Lê chống Mạc. Thời Quang Trung họ T/3 chống Mãn Thanh. Thời chống Pháp trước đây là căn cứ địa, cái nôi của cách mạng. Trong chống Mỹ cư dân ở đây cũng có đóng góp lớn. Trong 2 tộc người tiêu biểu của vùng là Tày và Nùng, người Tày ảnh hưởng người Hán hơn người Nùng. Người Nùng lại ảnh hưởng văn hoá của người Kinh. + Tính chất xã hội: Cư dân ở đây chịu ảnh hưởng văn hoá Hàn Việt nên có tính chất khá chặt chẽ. Bản là đơn vị cơ sở giống làng của người Kinh nhưng bản không phải là một đơn vị sản xuất mà là một đơn vị xã hội, đơn vị sản xuất của người Tày, Nùng là gia đình phụ hộ, người chồng, người cha đóng vai trò gia trưởng, quyết định mọi việc lớn nhỏ, quyết định tài sản. Đối nội đối ngoại, ý thực trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử thể hiện rõ trong việc phân chia vị trí trong ngôi nhà. Nhà ngoài dành cho đàn ông, phụ nữ không bao giờ được ở nhà ngoài. Đặc điểm: Người Tày, Nùng có 2 loại nhà: + Nhà Sàn + Nhà đất - Nhà sàn có 2 loại: Sàn 2 mái, 4 mái, loại hình chữ nhật 4 mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn 2 mái chính cửa ở mặt trước hoặc đầu hồi nhà đất, ngày càng nhiều và có nhiều thay đổi. Một số vùng có nhà nữa sàn, nữa đất là loại đặc biệt vừa có tính chất nhà đất vừa có tính chất nhà sàn. 33
  34. - Mặt: Người Tày, Nùng có trang phục khá thống nhất được phân biệt theo giới tính địa vị xã hội, lứa tuổi và nhóm địa phương. Nói chung chịu ảnh hưởng của phương Bắc, Y phục nam người Tày áo cánh 4 thân, 5 thân. Y phục của phụ nữ Tày Nùng có vòng cổ tay, chân xà tích bàng bạc Khăn của người Tày là khăn vuông, khi lễ hỏi buộc chỉ đỏ xanh, thắt núi phái nam. Răng phụ nữ bịt đồng. Phụ nữ Nùng chỉ dùng áo, nam châm áo lót trong màu chàm, áo lót trong màu trắng, áo cánh chèn năm thân. Phụ nữ thích các trang sức như vòng cổ tay, vòng cổ chân bằng bạc, hoa tai. Ăn: Tuỳ theo tộc ngwoif mà có cách chế biến và hương vị riêng. Có lẽ dỡ ảnh hưởng của xứ lạnh nên người Tày phổ biến các món xào rán. Ngô được chế biến làm bánh hoặc từ gạo nếp bánh rất ngon, tết có món cốm. Xôi người Tày, Nùng là xôi có màu, bữa ăn của cư dân Tày, Nùng bình đẳng các thành viên trong gia đình được ăn một năm. Khách đến được ưu tiên. Tri thức của người Tày Nùng xuất hiện sớm, do đó đã xác định được chữ viết riêng theo mẫu tự La Tinh. Tín ngưỡng: Tin vào thầm bản mệnh có nhiều loại thần. Ý thức về gia đình, dòng tộc được chú ý hơn vùng Tây Bắc. Mỗi gia đình có vị trí đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà bên cạnh có bàn thờ vua bếp. Văn hoá có nét khác Tây Bắc, phổ biến là không giáo, đạo giáo, có nhiều chùa thờ phật: Chùa Tam Thanh, Diên Khánh. * Văn hoá dân gian: Đa dạng, phong phú, về thể loại, thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, hát vĩ, hát đồng dao, dân ca, hát giao duyên, hát lượm, hát cọi. + Lễ hội của người Tày - Nùng tiêu biểu là hội lòng tòng (xuống đồng lễ hội gồm 2 phần (phần lễ và phần hội). + Lễ rước các thần ra nơi tổ chức ngoài đồng cúng rồi có bữa ăn ngoài đồng. * Phần hội: Tính chất các trò chơi - Vùng này còn có văn hoá chợ: chợ không chỉ là nơi buôn bán hàng hoá mà còn là nơi nam nữ tỏ tình trao duyên. Tóm lại: Vùng văn hoá Việt Bắc có nhiều đặc thù với chủ thể Tày - Nùng tạo cho nó những đặc trưng văn hoá khá nỗi bật. Tuy nhiên nó như những bông hoa tô điểm thêm cho văn hoá dân tộc. Vùng này được chia ta nhiều tiểu vùng. 34
  35. + Tiểu vùng đông Bắc - Quang Minh gồm phía đông Hoàng Liên Sơn gắn với các đối ven biển và các đảo. Từ xa xưa các tộc người Hoa, Dao, Việt, Sám Dìu đã sinh sống ở đây. Họ có sự giao thoa ảnh hưởng văn hoá với nhau. Hoạt động kinh tế nỗi bật là canh tác nông nghiệp, đánh bắt cá biển, nghề thủ công. Đầu thế kỷ XX ở đây phát triển công nghiệp khai mỏ nên đô thị xuất hiện phát triển thành phố Hạ Long. + Tiểu vùng rẽo cao: Nằm dọc biên giới gồm Bắc Hà, Đồng Văn, Mèo Vạc đây là nơi sinh sống của các tộc người H'Mông, Dao cũng tạo nên các sắc thái riêng được coi là tiểu vùng rẻo cao. 4.3. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa châu thổ Bắc bộ * Đặc điểm môi trường tài nguyên và xã hội Nó là toàn bộ không gian lãnh thổ đồng bằng và một phần trung du Bắc Bộ bao gồm cả vùng lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Sự hình thành Đông Sơn có ý kiến cho rằng là kết quả của cư dân Nghệ Tĩnh tuần du ta hợp với phía Bắc xuống. Gồm các tỉnh Hà Tây, Hà Nội, Hà Nam, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, đồng bằng Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh gồm nhiều tiểu vùng mang những sắc thái văn hoá đa dạng mà đặc sắc ĐK NTN: Châu thổ Bắc Bộ là tiêu điểm của con đường giao lưu Tây Đông và Bắc Nam. Vị trí này làm cho nó trở thành triều đồn tiếp nhãm văn hoá và lan toả sang các khu vực khác của Đông Nam Á. Do đó nó luôn là mục tiêu của phong kiến phương Bắc để tiến xuống Đông Nam Á và mục tiêu Pháp. Vị trí đó cũng tạo điều kiện giao lưu văn hoá với cả đông lẫn Tây. Đặc điểm địa hình: Núi xen kẻ đồng bằng núi núi sót còn cơ bản là đồng bằng, dốc thoai nghiêng dấn từ Tây Bắc sang Đông Nam, độ cao lệch 10-150 ra đến biển. Toàn cùng thì địa hình không đều chỗ cao chỗ trũng kết quả là do quá trình cải tạo của các thế hệ ông cha từ trước. Để sản xuất nông nghiệp tạo bờ vùng bờ thửa từng ô. Khí hậu vùng này khác các vùng trên đây là vùng mùa đông 3 tháng duy nhất, dạng khí hậu 4 mùa khá rõ. Trong đó xuân ngắn hè dài hơn. Do đó 1 năm chỉ làm được 2 vụ lúa và 1 vụ càng ngắn ngày. Khí hạu thất thường đỏng đảnh ảnh hưởng 35
  36. đến thời tiết gió mùa lạnh và ẩm. Nước ở các kênh rạch sông ngòi khá dày đặc, các sông bao gồm: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam. Gió mùa và mưa tác động tạo nên sông Hồng về thuỷ chế cùng 2 mùa. Mùa nước cạn 2 bên sông có thể trồng ngô, mùa nước lớn, nhiều phù sa nước đỏ. Nhờ phù sa làm cho đồng bằng phì nhiêu và được mở rộng hàng năm khoảng 50m2 thuỷ triều biển cạn, ít thuỷ hải sản so với phía Nam và miền Trung do thuỷ hải sản 17 nên cư dân ở đây ít chú ý khai thác mà chủ yếu là làm nông nghiệp lúa nước. + Về xã hội: Cư dân vùng này là cư dân nông dân trồng lúa nước thuần tuý. Họ là những người gắn bó với đồng bằng châu thổ, bên cạnh nghề nông còn chài lướt đánh cá nước ngọt sông hồ cùng với nghề nông là chính thì nghề thủ công được phát triển có hàng trăm nghề thủ công, có những làng thủ công phát triển với trình độ cao, là cư dân nông nghiệp nên sóm công cư với nhau thành cộng đồng làng xã từ công xã nông thôn phát triển lên do đó bảo lưu tình tự và nhiều yếu tố dân chủ kiên công xã nông thôn. Quan hệ sinh hoạt trong cộng đồng không chỉ gắn bó với vác vật thể đình làng, chùa mà còn gắn bó về quan hệ tâm linh, chuẩn mực và đạo đức khoa học. Đảm bảo cho mối quan hệ này là cái hương ước, khoán ước của làng xã nó là những quy định khá chặt chẽ về đất đai, bảo vệ môi trường về ý thức cộng đồng và cũng do tính cộng đồng chi phối mà vai trò cá nhân ở đây không được đề cao con người ở đây là con người dòng tộc. 2. Những sắc thái văn hoá đặc trưng: Đây là vùng có nền văn hoá cổ nhất nước ta, là cái nôi của văn hoá dân tộc với các nền văn hoá văn minh Đông Sơn - Văn Lang - Âu Lạc, Văn hoá văm minh Đại Việt, văn hoá văn minh hiện đại làm kim khí ở vùng Hà Nội đã có các cộng đồng dân cư nói ngôn ngữ môn khơ me. Họ đã có sự giao tiếp với các cư dân nói ngôn ngữ Tày Thái Nam Á từ Trung Quốc xuống. Nhò có sự giao lưu đó mà hình thành nên phố triệu người Việt Cổ (Lạc Việt họ là chủ nhân của văn hoá tiền Đông Sơn (Phùng nguyên - Gò Mun - Đông Sơn). Đông Sơn ở Đông Bắc tiến tới văn hóa Đông Sơn theo con đường khác văn hóa Hạ Long - Thanh Hóa. Đông Sơn. Đến thế kỷ VII trước công nguyên các vùng đều tiến đến văn hóa Đông Sơn.Dù đi theo đường nào thì đến khoảng TK VII TCN đều đạt đến văn hóa Đông Sơn. Tuy nhiên cũng có những sắc thái bảo lưu 36
  37. yếu tố truyền thống của cư dân, từng tiểu vùng trên nếu mẫu số chung là văn hóa Đông Sơn. Tuy nhiên cũng có những sắc thái riêng bảo lưu yếu tố truyền thống của cư dân từng tiểu vùng trên nên mẫu số chung là văn hoá Đông Sơn. Ở vùng đồng bằng Bắc bộ (Vinh - Hà Nội) trong thế kỷ Bắc thuộc đã diễn ra quá trình giao tiếp của văn hoá Đông Sơn với văn minh Trung Hoa, lúc bấy giờ cư dân ở đây vừa đồng hoá vừa chống đồng hoà những kẻ đi đô hộ. Từ đó đã xây dựng nên cho mình những sắc thái văn hoá riêng mang tính độc đáo. Thực ra quá trình hỗn giao hỗn duy văn hoá Hoa với Việt là một quá trình rất lâu dài. Đây là cái nôi hình thành nên văn hoá dân tộc nên đồng bằng Châu Thổ Bắc Bộ , nơi hình thành nên các nền văn hoá trải dài từ thời Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh là văn hoá Đông Sơn, văn hoá Đại Việt và văn hoá Việt Nam mà tiêu biểu cho nền văn hoá ấy là các trung tâm: Đông Sơn, Cổ Loa, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Trong văn hoá Đại Việt, thời lý Trần Thăng Long - Đông Đô là trung tâm thời Lê Thăng Long. Đến thế kỷ XIX trung tâm là Phú nhưng Thăng Long vẫn là một trung tâm. Từ cái nôi dân tộc, từ quê hương của nền văn hoá, trong quá trình Nam tiến mở mang bờ cõi dọc theo biển đông văn hoá Việt Nam từ cái nôi ban đầu đó lđã dần dần đón nhận những yếu tố mới từ văn hoá Chăm, Khơ me và cùng thích ứng với môi trường văn hoá, của Đồng bằng Nam Bộ, Trường Sơn - Tây Nguyên để tạo nên sự phong phú đa dạng của văn hoá Việt Nam. Từ thuở mang gươm đi mở nước) Tuy nhiên trong các phong thái của người dân Việt bao giờ cũng không nguông hướng về đất tổ, cội nguồn và trung tâm văn hoá của đất nước. Cư dân đồng bằng Bắc Bộ đã định hình nên đời sống văn hoá vật thể: ăn , mặc, ở, đời sống tinh thần phi vật thể: là những tri thức về TNXH, ảnh hưởng văn hoá bên ngoài của con người ĐBBB. Trải qua thời gian lịch sử truyền thông văn hoá ở đây thể hiện bản lĩnh của nó. Do mang trong mình tập tục lâu đời bền chặt như vậy nên nó vừa bảo lưu được tư tưởng vừa thích ứng nhanh với những biến động của lịch sử, mỗi bước đi của nó luôn đồng hành cho văn hoá cả nước đi theo. Sắc thái văn hoá nỗi trội nhất của vùng này vì có nhiều sông ngòi, hồ ao và chưa tích phủ mặt nước lớn nên cư dân ĐBBB có tư tưởng ưu tiến sử dụng đạm thuỷ sản, bên cạnh trồng lúa thì khai thác thuỷ sản trên ruộng lúa. 37
  38. Về SH văn hoá: Nghề buôn bán cũng phát triển khá sớm nhất là buôn bán đường biển, đường sông. Các nghề TC nghề phát triển nhất là dệt, đồ gốm, luyện kim. Nghề gốm có lịch sử phát triển hàng nghìn năm cho đến nay sản phẩm có những thứ rất độc đáo, gốm sứ nước ta có những thời đạt và vượt gốm sứ toàn quốc. Gốm sứ thời Trần, Lê không chỉ có giá trị sáng mà còn có giá trị nghệ thuật, các làng gốm nổi tiếng nằm ở vùng này như Bát Tràng, Phú Hà, Thương Canh Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển nên nghề dệt vải lụa, thêu thùa cũng rất phát triển. + Nghề luyện kim rất nổi tiếng đặc biệt là nghề rèn sắt phát triển như ở Xuân Thao, Đón Đồng. - Nguồn bán tạo nên hàng loạt chợ quê theo thống kê cứ mỗi huyện có từ 14- 20 chợ, cứ 4 làng có 1 chợ chung. Các chợ này thường nằm ở đầu mối giao thông gần đình nêu có tên gọi là chợ Đình đàng là chợ lên làng (chợ vùng) với thủ công và chợ làng đó nên đô thị Việt Nam thời phong kiến không thoát lên được vì nó hoà tan vào làng TC và hệ thống chợ quê. - Tổ chức xã hội: Là các làng xã cổ truyền nó bảo lưu nhiều tàn dư của công xã nông thôn thời nguyên thuỷ, hầu hết các làng có những họ gốc, họ lớn đại diện cho các cư dân ở trong làng đó thậm chí có làng chỉ có 1 cư dân vùng này có nét độc đáo khác, các vùng khác hướng về cội nguồn cung thành hoàng, người khai canh, khai khẩn, từ đó mở rộng rải, phóng đại lên thờ phụng cội nguồn như thờ vua Hùng, tư tưởng đó được lưu giữ và phát triển thành thờ các anh hùng dân tộc cho đến ngày nay. Hội làng là sự phô diễn các sinh hoạt văn hoá phong phú từ múa hát, sân khấu dân gian đến các trò chơi, hôi vật, đua thuyền, chọi gà, ném cù, còn thì nấu cơm, gói bánh chưng qua các trò chơi tài năng, sự khéo léo, rèn luyện sức khoẻ. Ở hội làng mọi người đều tham gia vừa là diễn viên vừa là người thưởng thức, là môi trường để hội nhập và trao truyền văn hoá trong các thế hệ. Nó còn giữ gìn sự thống nhất văn hoá cộng đồng người già và lớp trẻ, cảm nhận kế thừa phát huy và lại trao truyền cho thế hệ kế tiếp, khi nói VBBB thì có câu truyền 38
  39. miệng nói lên nét khác biệt trong đời sống văn hoá của đồng bằng này qua câu nói dân gian. "Nhà không chái, đái không ngồi, nói không quai" + Về mặc: Người Bắc bộ mặc bình dị màu sắc nền nã. Đi làm thì quần lá toa, áo cánh , nón lá. Mặc này là đặc trưng của VHVN truyền thống Trong lễ hội: nữ mặc mớ 3, nam mặc áo the, đầu đội khăn đen. Nói đến vùng này là nói đến học hành, truyền thống thi cử có từ 1000 năm (tầng lớp tri thức, đông đảo thường gọi là "tri thức Bắc Hà" (Quốc trị giám thành lập sớm (1070) là nơi trung tâm của đất nước. Do ảnh hưởng đó mà ở đây hoàn thành nên truyền thống ăn học. Đội ngũ tri thức rất đông đảo. Thời phong kiến có 56 trạng nguyên thì vùng này chiếm tới 52, trí thức Bắc Hà chiếm 85%. Đây cũng là trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học hiện nay. Qua tổng điều tra dân số mới đây chơ biết Bắc Bộ có số lượng trí thức chiếm 56% số trí thức cả nước. Nhà truyền thông học hành và đội ngũ tri thức đông đảo nên giáo dục lâu đời nên vùng này chiếm tới 52, trí thức Bắc Hà chiếm 85%. Đây cũng là trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học hiện nay. Qua tổng điều tra dân số mới đây, cho biết Bắc Bộ có số lượng trí thức chiếm 56%, số trí thức cả nước. Nhà truyền thống học hành và đội ngũ trí thức đông đảo nên giáo dục lâu đời nên vùng này là nơi hoàn thành ngôn ngữ dân tộc, làm giàu cho vốn văn hoá, khoa học, chính trị thông qua sự tiếp thu ảnh hưởng, văn hoá bên ngoài đã thúc đẩy sự ra đời của chữ viết là chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Đội ngũ trí thức dựa trên cơ sở tiếp thu văn hoá dân gian để sáng tạo nên văn hoá văn học, cung đình. Khi dòng mới hình thành thì nó ảnh hưởng trở lại văn hoá truyền thông của cả vùng. Đội ngũ trí thức là cầu nối văn hoá dân tộc với bên ngoài, có sự giao lưu ảnh hưởng đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Chính những khuynh hướng đó đã làm cho vùng VHBB luôn giữ được vai trò hướng đạo cho văn hoá cả nước. * Tín ngưỡng văn hoá dân gian: Là một đặc trưng có tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, lễ nông nghiệp, bảo vệ dòng họ. 39
  40. Cái hay của TNDG là hướng về đời sống thực của con người, trong đời sống xã hội của cộng đồng làng xã. Ngoài tín ngưỡng nhân dân thì ở đây sớm tiếp thu các tôn giáo lớn từ Trung Hoa, Ấn Độ, Phương Tây, Nho giáo, Phật, Ấn Độ, giáo . Các tôn giáo này đến đây đều được Việt hoá cả phương thcs hành lễ, lễ hội là một sắc thái văn hoá độc đáo của vùng này, đây cũng là sắc thái dộc đáo của vùng này. Sắc thái văn hoá được các nhà nghiên cứu phân loại ra. Lễ hội thờ cúng anh hùng dân tộc, thờ các thần linh. Ở đây cũng có lễ hội độc đáo, nhưng bắt chạch ở trong chum , lễ hội nõ nường, tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực đàn ông và đàn bà của làng Đông Ky (Hà Bắc). Ở làng La rước một lúc 18 bô sinh thực khí, khí tổ chức lễ hội chọn người tối trời, tan hội vào lúc trời tối, tổ chức việc cướp sinh thực khí, những người yêu nhau được phép tìm nhau. Có một số lễ hội gắn liền với các nhân vật lịch sử/ . Nó vượt ra khỏi phạm vi vùng trở thành lễ hội của như: Lễ hội Đền Hùng, hội Gióng, hội Đền Hai Bà Trưng Lễ hội thường diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu, lúc nông nhàn. Lễ hội còn diễn ra dưới các hình thức văn hoá nghệ thuật, trang trí Sơ với các vùng khác trong cả nước thì đây là vùng có tri thức văn hoá đậm đà, bền vững nhất trên nền văn hoá dân gian Truyền thuyết, cổ tích đã sớm hình thành nên các tác phẩm văn học. Vì Đông Đô là tập trung của cả nước nên đã quy tụ về đây tinh hoa của đất nước và cũng từ đây nó tán đi mọi vùng. Đồng bằng Bắc Bộ là quê hương của những loại hình dân ca. Dân ca quan họ hát Xoan, hát ví, hát dặm, Nghệ Tĩnh, các hình thức vấn khăn cổ truyền như tuồng chèo, rối nước và các loại hình sân khấu đại. Tóm lại ĐBBB mang sắc thái văn hoá độc đáo của vườn hoa nhiều hương sắc của dân tộc. Đây là vùng văn hoá lịch sử lâu đời, nơi khai sinh văn hoá dân tộc Việt Nam. Xã hội của cư dân ĐBBB là cộng đồng làng xã cổ truyền mà ở đó xã hội chưa phá vỡ được lối sống dân chủ, tâm lý bình quân, cao bằng, cộng cảm trên cơ sở của tôn giáo, văn hoá tâm linh và những nét chung về văn hoá của vùng đất mang 40
  41. nhiều sắc thái văn hoá vật thể và phi vật thể có sức hút những tinh hoa muôn đời và toả đi muôn nơi thành những giá trị của văn hoá văn nghệ. 3. Các tiểu vùng: Là vùng rộng, có địa hình, sinh thái không giống nhau nên xuất hiện các sắc thái tiểu vùng. a. Tiểu vùng văn hoá xứ Đoài: Phú Thọ, Vĩnh Phúc - Đất tổ b. Tiểu vùng văn hoá Kinh Bắc c. Tiểu vùng văn hoá Thăng Long - Hà Nội d. Tiểu vùng duyên hải xứ Đông e. Vùng trũng Hà Nam Ninh f. Tiểu vùng Hưng Yên, Hải Hưng h. Duyên Hải - Tiểu hải Thái Bình Nam Hà i. Tiểu vùng sông Lam (xứ Nghệ) Ngoài ra trong chúng còn có văn hoá (giao thoa trong các tiểu vùng) 4.4. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa trung bộ Dưới tính chất bắt đầu từ Hoành Sơn trở vào đến Ninh Thuận. a. Đặc điểm tự nhiên: Địa hình hẹp theo chiều Ngang Đông - Tây, dài dằng dặc theo chiều Bắc - Nam. Do chiều ngang hẹp nên bị núi chia cắt ta nhiều tiểu vùng bởi nhiều đèo, dưới chân đèo là các sông suối nhỏ chảy theo chiều Tây - Đông đa số ngắn, nhỏ, ít phù sa -> tạo nên các đồng bằng hẹp, các cảng và xa xa ngoài biển là hệ thống đảo khá nhiều. Biển có đặc điểm là đường bở biển ưỡn lồi ra, biển nên chịu các luồng gió bảo đầu tiên, gần dòng hải lưu, có các luống sân nhiều tôm cá. Khí hậu lệch pha Bắc - Nam, lại có gió Tây Nam khô nóng từ Lào thổi qua. b. Về văn hoá - Lịch sử: Có nhiều di chỉ vật tiền sử như di chỉ Bàu Tró, di chỉ của văn hoá Sơn vĩ (ở Quảng Trị), di chỉ văn hoá trên Sa Huỳnh, Sa Huỳnh (Chàm cổ) là vùng phân bố chủ yếu. Có 2 yếu tố khác là văn hoá Ấn Độ và văn hoá khu vực. Trước VHXH và Văn hoá Cham Pa. Năm 1069 từ Bắc Quảng Trị trở ra thuộc về Văn hoá Đại Việt. 41
  42. 1558 Nguyễn Hoàng vào trận thủ Thuận Hoá. Từ đó có những nét văn hoá khác. Giáo sư Đinh Gia Khánh cho rằng: Tiếp đến 200 năm chiến tranh phân chia Đằng Trong, Đằng Ngoài. Miền Trung được chúa Nguyễn xây dựng thành những căn cứ để đối kháng với Họ Trịnh. Kinh đô Huế dần dần hình thành. Năm 1788 Quang Trung lên ngôi lấy Huế làm kinh độ. Năm 1802 Gia Long chiến thắng Tây Sơn, cho xây dựng một vùng miền mới. Đất nước TN từ Bắc chí Nam từ 1802-1945 Huế được xây dựng thành kinh đô. Miền Trung trở thành trung tâm văn hoá lịch sử chiến tranh của đất nước. Đặc điểm văn hoá: Đây là kho báu hưởng được nhiều di tích văn hoá Chăm Pa với nhiều loại hình khác nhau. Tháp Chàm Tương và nhiều di sản văn hoá phi vật thể khác. Khi người Việt vào cư trú đã tiếp thu văn hoá Chăm do đó văn hoá người Việt ở miền Trung có báo hơn, kế thừa các truyền thống, phù hợp với môi trường tự nhiên. Sự khác biệt văn hoá thể hiện ở nhiều mặt: Ấn, mặt tín ngưỡng có tiếp thu cả tà TN Văn hoá của người Chăm và còn tiếp thu cả văn hoá của vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Miền Trung được phân thành các tiểu vùng. a. Tiểu vùng văn hoá Bình Trị Thiên, mà Huế là trung tâm đặc trung cho vùng và tiểu vùng này có những thời kỳ lịch sử độc đáo, Huế là vùng biên trên hai nước Việt - Chăm rời kinh đô, đây còn là giao thoa văn hoá Chăm - Việt. b. Tiểu vùng văn hoá xứ Quảng (Tiểu vùng Thu Bồn - Trà Khúc) Bao gồm Quảng Nam - Quảng Ngãi, Đà Nẵng và một phần Bình Định Từ đời Hồng Đức (1471) là xứ Thừa Truyên: Đặc điểm quan trọng thì đây từng là kinh đô của Chăm Pa và là nơi tiếp xúc của Văn hoá Việt - Chăm sơm và cũng là nơi giao lưu tiếp xúc với văn hoá Trung Quốc, Nhật Bản, Phương Tây. Ngoài nghề nông thì thủ công và đánh cá cũng phát triển rất sớm. Có vẫn được biết tới tận ngày nay: làm đường mía, thuốc lá Cẩm Lệ, lụa tơ tằm Duy Xuyên, nước mắm Nam Ô, Yến Sào. Cù Lao Chàm, Quế Trà Mi, Đậu xanh Sơn Tịnh, Mạch Nha ở Tuỳ Phố, điều kiện tự nhiên cũng tạo cho xứ Quảng có tính cách 42
  43. riêng, ngay thẳng, văn hoá xứ Quảng phong phú đa dạng với những chuyển cổ dân gian về khai hoá vùng đất mới, như sự tích Ngũ Hành Sơn, Gò Nối, Sông Hà, sấu, Chùa Bồng Lai. Hệ thống Tháp Chàm, ca dao tục ngữ, truyện cười đặc biệt phát, lý, hát bài chòi, hát đối đáp. Văn hoá ở đây không tinh tế như xứ Huế không traon chuất -> sắc thái riêng cả văn hoá vật thể lẫn phi vật thể. Có nhiều món ăn đặc biệt: Mỳ Quảng, bánh đa kẹp thịt, bánh tố, bánh bưng lửa. Về phương diện lịch sử: đây là cái nôi hình thành phát triển nd Tây Sơn là đất thượng võ, có lò vôi nỗi tiếng, có nhiều di tích văn hoá Chăm, Thành địa Trà Liên, Mĩ Sơn, đá Vọng phu Bình Đính. Tên sông núi gắn với con người, người gắn với đời sống văn hoá của cư dân vùng này. Đầm Thị Nại, đèo Cù Mông, Truôn Ba Vò. Văn hoá nghệ thuật có nhiều hình thức đặc sắc: Hát bội, , TT Tây Sơn, hát bãi chòi, tuồng là hình thức sân khấu độc đáo, truyện cổ, truyền thuyết lịch sử, ca dao tục ngữ rất phong phú. c. Tiểu vùng văn hoá Khánh Hoà - Ninh Thuận - Bình Thuận suốt vùng Phú Yên. Đây là địa bàn người Việt chung sống với người Chăm. Quan hệ hai dân tộc, người này không phải là quán khứ mà diễn ra sống động hằng ngày. Ở đây diễn ra có vẽ như nghịch lý của lịch sử. Người Việt làm nông từ Bắc vào lại tiếp thu kinh nghiệm đi biển của người Chăm nên ngược lại từ vào làm nông. 4.5. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên Đây từ lâu là địa bàn sinh tụ của 20 tộc người nói 2 ngữ hệ khác nhau là Môn - Khơ me và Nam đảo. Có những tộc lớn như Bana, Mnông Mạ, Khơ me nói ngôn ngữ Môn Khơ me. Các tộc người Ê đê, Gia rai nói ngôn ngữ Nam Đảo. Các tộc người này là cư dân bản địa lâu đời họ có mối quan hệ với người của Lào và quan hệ với người Kinh của Đại Việt. Từ thế kỷ XVII, XVIII vùng này có nhiều gắn bó với người Việt. Từ thế kỷ XX người Việt đến sống ở đây ngày càng nhiều và hoà nhập mạnh. Hầu như không 43
  44. có vùng văn hoá nào mà trong thành phần tộc người lại đa dạng phức tạp nhưng văn hoá lại thống nhất đặc trưng như ở đây. Đặc trưng cho chung nỗi bật là làm nương rẫy buôn bán trao đổi. Tuy thế kinh tế hàng hoá chưa phát triển buôn bán trao đổi vẫn mang tính chất tự cung tự cấp, tự sản tiêu. Đời sống văn hoá kinh tế còn thấp, thô sơ, thiếu thốn. Về ở họ vẫn thường sống trong các nhà sàn. Nhà sàn ở đây cho nhiều thế hệ chung sống, kiến trúc nhiễm sắc thể chung sống, khác với vùng Tây Bắc, Việt Bắc. Ở Tây Nguyên mỗi buôn làng đều có nhà sinh hoạt chung gọi là nbhaf Gơn hay nhà Rồng. + Về trang phục: Cư dân vùng này trang phục tương đối thống nhất về loại hình, khác nhau chủ yếu là về sắc thái đặc trưng đó là các loại: Váy mảnh, khố, áo chui đầu. + Trang sức: Cà răng căng tai, xăm mình + Đi lại: Vận chuyển dùng gùi đeo qua vai, dùng voi để chuyên chở. Ở những nơi gần sông suối thì dùng thuyền độc mộc. + Xã hội: Từ lâu không phát triển độc lập, cơ cấu xã hội là buôn làng. Đây là hình thức công xã láng giềng, gia đình đang trong thời kỳ chuyển biến từ mẫu hệ sang phụ hệ. Gia đình lớn vẫn tôn tạo trong ngôi dài ở Trường Sơn bản Tây Nguyên. + Truyền thống văn hoá phong phú và rất độc đáo. Thần thoại, cổ tích, sử thi anh hùng, các hình thức nói vần là bước chuyển từ văn xuôi qua thơ ca dân gian. + Nhạc cụ: Cồng chiêng, bên cạnh còn có đàn tơ rưng, khèn, đầm bầu, các nghi lễ chôn cất người chết: Lễ bỏ ma, tục đâm trâu. Thể hiện gia tục trang trí nhà mồ. Bức tranh văn hoá vùng Trường Sơn - Tây Nguyên ngày nay vẫn còn mang đậm nhiều yếu tố của văn hoá Đông Sơn. Vùng này được chia làm 3 tiểu vùng. - Tiểu vùng văn hoá Trường Sơn - Tiểu vùng bãi Tây Nguyên - Tiểu vùng Trung và Tây Nguyên a. Tiểu vùng văn hoá Trường Sơn 44
  45. Bao gồm vùng núi Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng. Đây là nơi cư trú của các tộc người thuộc ngữ hộ môn - Khơ me như: Cơ tu, Vân Kiều, Tà ôi. Là những tộc giữ, vai trò trung gian trong các tộc người nói ngôn ngữ Môn Khơ me. Ở Bắc và Nam Đông Dương. Những tộc người này có quan hệ với cư dân vùng Chăm Muôn - Lào. Sa Van Na Khẹt. b. Tiểu vùng văn hoá Bắc Tây Nguyên Là địa bàn các tỉnh Bình Định, Tây Quảng Ngãi. Tiểu vùng này là địa bàn cư trú của nhóm Ba na bắc họ nói ngôn ngữ Môn Khơ me: Có các tộc người như Ba na, Xờ Đăng, Giơ triêng, B rân. Đặc trưng văn hoá và đang từ xã hội mẫu hệ sang phụ hệ hay song hệ. Họ thường sinh hoạt trong cộng đồng trong các nhà rông, kiến trúc trang trí nhà mồ rất độc đáo, lề bỏ mà, âm nhạn cồng chiêng, múa sinh hoạt, múa nghi lễ phát triển với nhiều phong cách khác nhau, có nhiều điệu múa đặc sắc. c. Trên vùng văn hoá Trung và Nam Tây Nguyên Là địa bàn các tỉnh vùng núi của Khánh Hoà, 1 bộ phận phía Nam của GiaLai, Kontum. Là tộc những người nói ngôn ngữ Nam đảo: Giarai, Ê đê. Tổ chức xã hội theo kiểu mẫu hệ gia đình lớn, sống trong các ngôi nhà dài. Trong xã hội rất chặt chẽ vào luật tục. + Về hình thức sinh hoạt văn hoá: Âm nhạc dân gian phát triển, có nhiều nhạc cụ độc đáo, tiêu biểu nhất là cồng chiêng các loại hình dân ca phát triển. Quan niệm tín ngưỡng và mọi nghi lễ. + Tiểu vũng Nam Tây Nguyên: Thuộc các tỉnh Lâm Đồng và các vùng kế cận, là nơi cư trú của các tộc nói ngôn ngữ Môn - Khơ me phía Nam như Mnông, Mạ Xã hội đang chuyển dần từ kiểu mẫu hệ sang phụ hệ, ở nhà dài, vẫn còn nhưng phổ biến ở phía Bắc Tây Nguyên. + Âm nhạc nỗi bật là cồng chiêng có âm điệu quy cách sử dụng riêng. Văn hoá dân gian, các loại hình như gia phả dân dân, dòng họ mang tính thần thoại, sử thi. 45
  46. 4.6. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Nam bộ Đây là vùng mới nhất, trẻ nhất so với các vùng văn hoá khác ở Việt Nam gồm các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ, nó hình thành trên châu thổ của hai hệ thống rộng. Đồng Nai và Sông Cửu Long. Ranh giới tương đối lấy thành phố Hồ Chí Minh làm chuẩn. * Tiểu vùng Đông Nam Bộ Là vùng đất được khai thác thuần chủng khá sớm cách đây 4-500 năm (văn hoá Độc Thừa Đồng Nai) song lịch sử phát triển không liên tục. Vùng này càng tiến về phía Nam thì càng nhiều lầy, thuỷ triều ăn sâu vào đất nhiễm phèn chua nặng. Biển thì có 2 biển: Biển Đông và Biển Tây. Trên lưu vực Sông Cửu Long, cư dân sông trên các vùng đất cao là người Việt và người Chăm (các giồng) Từ lâu con người đã biết sông hoà hợp với tự nhiên, khai thác sản phẩm tự nhiên, có tinh thần đoàn kết nương tựa vào nhau trong các tộc người, không có chiến tranh trong các tộc người. Có lẽ là họ phải đoàn kết để chống với những gì khắc nghiệt của tự nhiên. + Tiểu vùng Tây Nam Bộ: gắn với sông Đồng Nai, địa hình bán sơn, gồm cư dân người Việt chung sống với người Striêng, Cờ Ho, Khơ me. Ở hạ lưu sông Đồng Nai có những nét tương tựu đồng bằng Sông Cửu Long ở đây vào đầu công nguyên hình thành nên trung tâm văn hoá Ốc eo, có hải cảng lớn, đến thế kỷ XII thì biến mất. Đến thế kỷ VIII thì chỉ còn lại trên sách vở, nhưng ngày nay tài liệu cũng không nhiều. - Cư dân ở đây là cư dân sống xen lẫn Việt, Chăm, Hoa, Kh me. Nơi đây đã và đang diễn ra quá trình giao lưu khá sống động, các yếu tố Việt, Hoa, Chăm, Kh me tạo nên sắc thái văn hoá vật thể lẫn phi vật thể qua nhà cửa, ăn mặc, đi lại, giải trí, lễ hội. Hoàn cảnh tự nhiên và lịch sử khai phá của vùng này đã tôi luyện tạo nên tính cách của người Nam Bộ dũng cảm hiên ngang, hào hiệp, trong nghĩa khinh tài, mến khách, bôn trực, nhạy cảm với cái mới. 46
  47. Vùng văn hoá Nam Bộ được phân làm 3 tiểu vùng: a. Tiểu vùng văn hoá đồng bằng sông Cửu Long b. Tiểu vùng văn hoá đồng bằng sông Đồng Nai c. Tiểu vùng văn hoá giữa TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn - Gia Định) + Tiểu vùng đồng bằng Sông Cửu Long là nơi cư trú của người Việt, Kh me, Chăm. Đây là nơi bảo lưu được nhiều nơi như U Minh, Thương Hạ, Đồng Tháp Mười còn sông lầy, đất đai nhiễm phèn nhiễm mặn. Nhiều nơi cư dân thưa thớt, môi trường tự nhiên nhiều nơi phần nào còn hoang sơ, con người lưu lạc đến khai thác được phản ánh trong các truyền thuyết ca dao, dân ca của cư dân. Tính cách của cư dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long trên cho cả vùng Nam Bộ. + Tiểu vùng đồng bằng châu thổ sông Đồng Nai: Là vùng được khai phá sớm hơn cả, làng xóm khá trù phú, ngoài làm ruộng còn làm rẫy, làm vườn, trồng các cây đặc sản. Đô thị hình thành dọc các trục lộ giao thông. Sinh hoạt văn hoá thể hiện sự quá độ trong người Việt ở Miền Trung và miền Nam. + Tiểu vùng văn hoá Gia Định - Sài Gòn: Là trung tâm văn hoá của Nam Bộ và cũng là đặc thù của văn hoá đô thị cho nên có có đặc trưng khác với 2 tiểu vùng Đông Tây. Cùng với chất văn hoá đô thị là văn hoá bác học, đây vừa là thủ phú của Nam Bộ và ở thời kỳ chế độ văn hoá chủ nghĩa là thủ đô là nơi giao lưu văn hoá Việt - Pháp, Việt - Mĩ. BÀI TẬP 2 3 TIẾT + Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc + Làm rõ chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta. Tài liệu: Lê Sỹ Giáo (1997), Giáo trình Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục, HN.a 47