Giáo trình Dược học cổ truyền (Cao đẳng Dược)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Dược học cổ truyền (Cao đẳng Dược)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
giao_trinh_duoc_hoc_co_truyen_cao_dang_duoc.pdf
Nội dung text: Giáo trình Dược học cổ truyền (Cao đẳng Dược)
- GIỚI THIỆU HỌC PHẦN DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN Đối tượng: Cao đẳng Dược - Số tín chỉ: 3 (2/1) - Số giờ tín chỉ: + Lý thuyết: 30 giờ + Thực hành: 30 giờ + Tự học: 75 giờ - Thời điểm thực hiện: Học kỳ V MỤC TIÊU HỌC PHẦN 1. Hiểu được những lý luận cơ bản của y học cổ truyền và vận dụng được các lý luận đó vào chế biến sử dụng thuốc cổ truyền. 2. Trình bày được các khái niệm cơ bản của thuốc cổ truyền và các phương pháp chế biến bào chế thuốc cổ truyền. 3. Trình bày được công năng chủ trị 60 - 70 vị thuốc hay dùng 4. Phân tích được các cấu trúc cơ bản của bài thuốc Đông y (quân, thần, tá, sứ) và cách xét tác dụng của bài thuốc Đông y. 5. Thực hiện một số kỹ năng chế biến thuốc cổ truyền theo một số phương pháp chế biến cơ bản 6. Hướng dẫn sơ bộ cấu trúc, nội dung, cách xét tác dụng đơn thuốc 7. Nhận thức đúng 70 vị thuốc chín 8. Sinh viên yêu thích và hứng thú với môn học, có thái độ nghiêm túc, cầu tiến trong quá trình học tập và nghiên cứu. 9. Hình thành thói quen vận dụng lý thuyết vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn NỘI DUNG HỌC PHẦN STT Tên bài Trang PHẦN LÝ THUYẾT 1 Học thuyết âm dương 3 2 Học thuyết ngũ hành 16 3 Học thuyết tạng tượng 26 4 Nội dung của phương thuốc cổ truyền 47 5 Chế biến thuốc theo phương pháp cổ truyền 60 6 Đại cương về thuốc cổ truyền 85 7 Thuốc giải biểu 97 8 Thuốc khứ hàn 114 9 Thuốc thanh nhiệt 122 10 Thuốc trừ thấp 154 11 Thuốc hóa đàm, chỉ khái 176 12 Thuốc về khí, huyết 192 1
- 13 Thuốc bổ âm dương 233 PHẦN THỰC HÀNH 1 Chế thuốc phiến 247 2 Sao thuốc 248 3 Sao thuốc qua chất trung gian 249 4 Nhận thức thuốc giải biểu, khứ hàn. 250 5 Chích thuốc với các phụ liệu 259 6 Giới thiệu một số sản phẩm nguồn gốc Đông y và giới thiệu 260 cách xét tác dụng của bài thuốc. 7 Nhận thức thuốc hóa đờm, chỉ khái, thanh nhiệt. 266 8 Giới thiệu cấu trúc bài thuốc Đông y và Nhận thức thuốc trừ 277 thấp 9 Phân tích một số bài thuốc Đông y 285 10 Nhận thức thuốc về khí, huyết, thuốc bổ âm dương. 288 Tổng số 298 2
- Phần 1. ĐẠI CƯƠNG Y HỌC CỔ TRUYỀN Chương 1: HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG MỤC TIÊU 1. Trình bày được nội dung cơ bản của học thuyết âm dương 2. Vận dụng được thuyết âm dương trong chuẩn đoán Y học cổ truyền. 3. Trình bày được sự vận dụng thuyết âm dương vào đông dược. NỘI DUNG 1. Xuất xứ Thuyết âm dương trong YHCT có nguồn gốc từ học thuyết triết học duy vật cổ đại phương Đông, nó thể hiện quá trình nhận thức và nắm vững quy luật phát triển của sự vật, được cổ nhân vận dụng từ 3000 năm nay. Thuyết âm dương được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như thiên văn học, nông học, toán học, hóa học, y học cổ truyền. Trong đó y học cổ truyền (YHCT) vận dụng thuyết âm dương một cách nhuần nhuyễn và phong phú. Thuyết được hình thành và phát triển rộng rãi ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (Trung Quốc). Nó đã trở thành lý luận cơ bản giải thích những quy luật giữa con người với vũ trụ. Coi con người là một vũ trụ thu nhỏ; đồng thời trên cơ sở học thuyết này có thể giải thích sự phát sinh phát triển của bệnh tật và các phương pháp chẩn trị lâm sàng. 2. Nội dung Nội dung cơ bản của thuyết âm dương chỉ ra trong mỗi vật thể, mỗi sự việc bao giờ cũng tồn tại khách quan hai mặt vừa đối lập lại vừa thống nhất, vừa hòa hợp lại vừa tương phản. Âm dương mang tính chất hỗ căn nghĩa là nương tựa vào nhau, âm lấy dương làm gốc và ngược lại dương lấy âm làm nền tảng. Điều đó có nghĩa là không có dương thì âm không thể tồn tại và không có âm thì dương không thể thay đổi. Nói một cách khác là cả hai mặt đều là quá trình tích cực của sự vật. Âm dương tuy trừu tượng về mặt khái niệm nhưng lại có cơ sở vật chất của nó, nó bao quát tất cả, phổ cập tất cả. Âm dương nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại xen kẽ vào trong sự phát triển của sự vật, chúng không thể đơn độc phát sinh, phát triển được. 3
- Âm dương còn thể hiện ở sự tiêu trưởng, sự vận động không ngừng và chuyển hóa lẫn nhau, qua đó để giữ cho mọi hoạt động của sự việc cân bằng. Nếu không mặt này thái quá thì mặt kia sẽ suy yếu và ngược lại. Chính vì vậy hai mặt âm dương của sự vật luôn biến động không ngừng. Và chính sự biến động đó đã lập lại thế cân bằng tương đối cho sự vật hay cho con người và được biểu hiện ra sự "bình hành âm dương". Trong sách Tố Vấn âm dương ứng đại luận có viết: "Âm dương giả, thiên địa chi đạo giã, vạn vật chi cương kỷ, biến hóa chi phụ mẫu, sinh sát chi bản thủy". Có nghĩa là âm dương là quy luật của vạn vật, cha mẹ của sự biến hóa, nguồn gốc của sự sinh sát, trưởng thành, diệt vong. Khái niệm âm dương được hình tượng hóa bằng một vòng tròn khép kín (hình 1). Đường cong hình chữ S ngược chia hình tròn ra hai phần, trong mỗi phần có một vòng tròn nhỏ. Ở đây vòng tròn lớn mang ý nghĩa sự thống nhất của một sự vật, hình cong S ngược cho phép liên hệ sự tương đối và chuyển hóa âm dương; hai vòng tròn nhỏ biểu thị hai thái cực âm và dương (đó là thiếu âm và thiếu dương). Thiếu âm Thái âm Thái dương Thiếu dương Hình 1.1: Biểu tượng âm dương Qua nội dung trên ta thấy nổi bật lên hai thuộc tính cơ bản của âm dương đó là: - Tồn tại khách quan (âm dương có sẵn trong mọi vật) - Âm dương mang tính tương đối, và tính tương đối đó được thể hiện ngay trong từng vật thể và trong từng sự việc, thể hiện ở sự vận động của âm dương và sự vận động tới mức nào đó sẽ chuyển hóa sang nhau "Dương cực sinh âm, âm cực sinh dương". Ví dụ chính ngọ (giữa trưa) là dương tới cực thì cũng là lúc bắt đầu của âm sinh ra (giờ mùi). Âm dương hỗ căn, tiêu tưởng. 3. Những biểu hiện về âm dương 3.1. Về trạng thái Thuộc dương: trạng thái động, hưng phấn, nhiệt, sáng Thuộc âm: trạng thái tĩnh, hàn, ức chế, tối 4
- 3.2. Về không gian Trời thuộc dương, đất thuộc âm: Mặt trời thuộc dương, mặt trăng thuộc âm. Trong một không gian cụ thể: phía trên là dương, phía dưới là âm, phía ngoài là dương, phía trong là âm (hình 2). Phía trên Phía trong (-) (-) Phía trong Phía ngoài Phía ngoài (+) ( -) (+) Phía dưới Ghi chú: Âm bằng dấu (-), Dương bằng dấu (+) Hình 1.2: Âm dương của không gian 3.3. Về thời gian Ngày thuộc dương, đêm thuộc âm. Trong một ngày đêm thì từ 6 giờ đến 12 giờ là dương ở trong dương, 12 giờ đến 18 giờ là âm ở trong dương, 18 giờ đến 24 giờ là âm ở trong âm, 24 giờ đến 6 giờ là dương ở trong âm. Và âm dương chuyển hóa liên tục như vậy, đó cũng là biểu hiện tính tương đối của âm dương (hình 3). Dương trong dương 12 giờ Âm trong dương Ngày (+) 6 giờ 18 giờ Đêm (-) 24 giờ Dương trong âm Âm trong âm Hình 1.3: Tính tương đối về thời gian theo âm dương. 3.4. Về phương hướng Phía Đông, phía Nam thuộc dương Phía Bắc, phía Tây thuộc âm (hình 4). 5
- Phương Nam Phương Đông Phương trung ương Phương Tây Phương Bắc Hình 1.4: Quy định cách thể hiện phương hướng của thời cổ Trung Quốc (quy định này ngược với quy định phương vị hiện nay) 3.5. Về thời tiết Mùa xuân thuộc dương, tăng trưởng tới mùa hạ (cực dương). Mùa thu thuộc âm, tăng dần tới mùa đông (cực âm) và cứ luân hồi âm dương như vậy. Tuy nhiên trong mỗi một chu kỳ như vậy cũng có những dao động song không thoát khỏi quy luật của âm dương (Xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàng). Đó cũng là biểu hiện quy luật của thiên nhiên. Sức khỏe và bệnh tật của con người cũng bị phụ thuộc vào quy luật đó. Vì âm dương trong bốn mùa là nguồn gốc của muôn vật, cái căn bản của vạn vật đều quy tụ ở đó. 4. Sự vận dụng thuyết âm dương trong YHCT Mặc dù thuyết âm dương ra đời khá lâu, cách chúng ta 30 thế kỷ, song cho đến nay nó vẫn không ngừng được vận dụng và phát huy trong lĩnh vực YHCT. Vì nó đã nêu ra được những quy luật có tính tiên đề. Những quy luật đó đã được các nhà y học cổ vận dụng vào lĩnh vực của mình, càng ngày càng làm cho nó sâu sắc thêm, phong phú thêm, nó trở thành phương tiện chỉ đạo cho mọi hoạt động của YHCT, về phòng và trị bệnh, trong đó kể cả phần Y lẫn phần Dược. 4.1. Về tổ chức học cơ thể - Ngũ tạng: (Tâm, can ,tỳ, phế, thận) thuộc âm - Lục phủ: (Vị, đởm, tiểu tràng, đại tràng, bàng quang, tam tiêu) thuộc dương. Trong mỗi tạng phủ, đều có phần âm phần dương. Can có can âm, can dương; tâm có tâm âm, tâm dương; tỳ có tỳ âm, tỳ dương; thận có thận âm, thận dương Tính chất tương đối của âm dương được thể hiện ở tạng như tâm là tạng thuộc âm 6
- trong dương (tâm nằm ở ngực thuộc phần dương); can tạng âm trong âm (can âm nằm ở trung tiêu-phần bụng-thuộc dương). - Lưng thuộc dương; bụng thuộc âm; phần bụng dưới thuộc âm trong âm, phần ngực thuộc dương trong dương. - Cũng theo khái niệm âm dương như vậy, các đường kinh dương trên cơ thể được phân bố ở phía sau lưng, mé ngoài của chân, tay và mạng sườn. Còn các đường kính âm được phân bố ở phía bụng, phía trong cánh tay và chân - Khí, trạng thái năng lượng của cơ thể đưa lại công năng của cơ nhục, hoạt động của tạng phủ thuộc dương; huyết, tinh, tân dịch, thuộc âm; da lông thuộc dương; xương tủy thuộc âm. 4.2. Về sinh lý học Khi phần âm và phần dương trong cơ thể cân bằng thì cơ thể khỏe mạnh. Bản thân cơ thể luôn có sự điều chỉnh để âm dương cân bằng. Sự mất thăng bằng giữa hai mặt âm dương là cơ sở cho sự phát sinh ra bệnh tật. Ví dụ: Âm thắng thì dương bệnh và ngược lại dương thắng thì âm bệnh, chẳng hạn âm thắng (âm thịnh) dẫn đến nội bàn (bụng đầy, tiết tả-phủ đại tràng (dương) sẽ bị bệnh). Hoặc âm hư dẫn đến nội nhiệt. Chân âm trong cơ thể (tinh huyết, tân dịch) thiếu kém, phần dương hỏa lấn át làm cho cơ thể phát nhiệt, nóng sốt, triều nhiệt Hoặc phần dương của cơ thể bị hư (đó là tâm dương hư hoặc thận dương hư) sẽ dẫn đến ngoại hàn, chân tay giá lạnh, đau lưng, mỏi gối, người có cảm giác sợ lạnh, sợ gió, bụng hay sôi, tiết tả, nặng thì mắc chứng ngũ canh tả. Bởi vậy về nguyên tắc để giữ gìn sức khỏe thì phải luôn giữ cho âm dương trong cơ thể được cân bằng. Một khi cơ thể không tự điều chỉnh được, con người phải chủ động điều tiết để giữ cho "âm bình dương bế". Để giữ cho cơ thể âm dương cân bằng, Ông cha ta đã chỉ ra phương châm rèn luyện sức khỏe như sau: "Bế tinh dưỡng khí tồn thần Thanh tâm quả dục thủ chân, luyện hình" Có thể tóm tắt sự thay đổi các trạng thái qua sự biểu hiện của âm dương ở bảng 1. Âm dương Trạng thái Biểu hiện của cơ thể Âm dương Cân bằng Cơ thể khỏe mạnh Âm dương Thay đổi Cơ thể mắc bệnh Âm Thắng Dương bệnh 7
- Âm Thắng Nội hàn (lạnh trong tạng phủ: tiết tả ) Âm Hư Nội nhiệt (nóng trong tạng phủ ) Dương Thắng Âm bệnh Dương Thắng Ngoại nhiệt (nóng ngoài da cơ) Dương Hư Ngoại hàn (lạnh ngoài da, đau lưng, liệt dương ) Bảng 1.1: Sự biểu hiện của âm dương 4.3. Về bệnh lý Một khi phần âm dương trong cơ thể không tự điều chỉnh được, dẫn đến sự rối loạn và mất thăng bằng về hoạt động của tạng phủ. Ví dụ can khí phạm vị; khí của can đã ảnh hưởng tới vị (dạ dày) gây chứng vị quản thống (đau dạ dày). Can đởm thấp nhiệt gây ra các bệnh hoàng đản (âm hoàng hoặc dương hoàng), các bệnh viêm gan, vàng da Hoặc các yếu tố "Lục dâm" gây ra từ lục khí (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa) thâm nhập vào cơ thể gây ra mất thăng bằng âm dương mà gây ra bệnh tật. Ví dụ phong hàn phạm biểu gây ra chứng cảm mạo phong hàn hoặc phong nhiệt phạm biểu gây ra chứng cảm mạo phong nhiệt Như vậy tùy theo tác nhân gây bệnh như thế nào sẽ đưa lại những chứng bệnh tương ứng cho cơ thể, những tác nhân đó có khi là một như: hàn, nhiệt, phong; cũng có khi phối hợp lại như cả phong lẫn hàn, cả phong lẫn thấp cũng tùy theo tác nhân gây bệnh ở bộ phận nào mà có những chứng bệnh tương ứng. Ví dụ thấp ở thượng tiêu, thấp hạ tiêu, hàn nhập phế, nhập tỳ vị Tóm lại, về bệnh lý học theo âm dương cũng rất phức tạp. Mặc dù vậy cũng cần phải phân biệt thật rõ âm và dương trong từng trường hợp cụ thể. Đồng thời phải không ngừng theo dõi sự chuyển biến của nó. Ví dụ bệnh đang ở trạng thái hàn (bệnh nhân sốt lạnh, rét run do sốt cao) đột ngột chuyển sang trạng thái phong co giật (nhiệt cực sinh phong). Thêm vào đó do bệnh lý diễn biến không ngừng (sự chuyển hóa của âm dương) cho nên cần căn cứ vào các dấu hiệu lâm sàng đó của bệnh nhân để điều chỉnh phương pháp cũng như phương dược cho kịp thời, phù hợp với phương châm của "Biện chứng luận trị". Trên cơ sở diễn biến của bệnh, việc chế biến thuốc cũng phải phù hợp. Việc sử dụng các vị thuốc cũng phải gia giảm về số lượng và khối lượng cho phù hợp với bệnh lý đó. 4.4. Chẩn đoán Triệu trứng cũng chia ra âm và dương: 8
- - Hội chứng dương: Có thể có thân nhiệt lớn hơn 37°c hoặc sốt cao, hoặc không sốt nhưng hoạt động của các tạng phủ nhiệt (tâm huyết nhiệt, can nhiệt ) hoặc thể hiện ra ngoài mặt đỏ, mắt đỏ, vàng người có cảm giác nóng bừng, háo khát thích uống nước mát, thích ăn đồ mát, môi khô nứt nẻ, bụng trướng đau sợ ấn, táo kết đại tràng, nước tiểu vàng đỏ, lượng ít, rêu lưỡi vàng khô, chất lưỡi đỏ, nếu ho thì đờm đặc mùi hôi, mạch thuộc loại hồng, sác hay huyền, phù, thực - Hội chứng âm: Cơ thể thường biểu hiện lạnh, chân tay lạnh, sợ rét, da xanh, nhợt nhạt, mắt trắng môi nhợt, thích uống nước nóng, bụng đau sôi, tiết tả, nước tiểu trong, dài; rêu lưỡi trắng mỏng, lưỡi nhợt nhạt, tiếng nói trầm khàn yếu ớt, nằm co sợ ánh sáng nên quay phía trong, nếu ho thì đờm loãng trắng, mạch trầm, phục, trì, vi, nhược Hai hội chứng âm dương rất quan trọng trong việc chuẩn đoán. Vì đó là những căn cứ để người thầy thuốc đưa ra những phương pháp điều trị thích hợp, phương dược thích hợp cho người bệnh. 4.5. Điều trị Thuyết âm dương được vận dụng trong điều trị hết sức phong phú. Nó được tuân theo một nguyên tắc cơ bản sau đây: Nếu bệnh thuộc chứng dương thì dùng âm dược và ngược lại nếu bệnh thuộc chứng âm thì dùng dương dược. Phương pháp đối nghịch đó được YHCT mô tả là phương thuốc chính trị (sẽ giới thiệu kỹ ở phần phép tắc điều trị). Như vậy về nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là chiều hướng tác dụng của thuốc luôn đối nghịch với chiều của bệnh (hình 5). Chiều hướng của bệnh Chiều hướng của bệnh Chiều hướng tác dụng của thuốc Chiều hướng tác dụng của thuốc Hình 1.5: Chiều hướng của bệnh và thuốc. Ví dụ: Chứng cảm mạo phong hàn, bệnh thể hiện sốt cao, rét run, đau đầu, ho phải dùng thuốc tân ôn giải biểu. Bệnh cảm mạo phong nhiệt sốt cao, đau đầu phải dùng 9
- thuốc tân lương giải biểu. Hoặc các bệnh ho hen khí suyễn phải dùng thuốc chống ho, hạ khí bình suyễn. Bệnh nôn và buồn nôn do vị khí thượng nghịch phải dùng thuốc giáng khí chỉ nôn , bệnh sốt cao mê sảng do nhiệt tà đã nhập vào phần dinh, phần huyết, phần tâm bào thì phải dùng thuốc thanh nhiệt tả hỏa, thanh nhiệt lương huyết... Trên thực tế lâm sàng, nếu không nắm vững nguyên tắc này sẽ làm cho bệnh nặng lên, hoặc bệnh trở thành mãn tính. Ví dụ bệnh cảm mạo phong hàn lại dùng thuốc tân lương, bệnh sốt cao vật vã lại dùng thuốc ôn trung thì kết quả sẽ ngược lại, đôi khi nguy hiểm đến tính mệnh của người bệnh. Do vậy, cần phải hiểu ý nghĩa của vấn đề, chiều hướng bệnh và chiều hướng của thuốc để tránh gặp phải điều đáng tiếc "Hàn ngộ hàn tắc tử" "Nhiệt ngộ nhiệt tắc cưồng". Điều đó có nghĩa là bệnh hàn gặp thuốc hàn sẽ chết, bệnh nhiệt mà dùng thuốc nhiệt sẽ làm cho bệnh nhân phát cuồng. Để ghi nhớ điều này, cần được nhắc nhở một câu mà cổ nhân đã dạy: "Phúc thống phục nhân sâm tắc tử", tức là đau bụng (thể hàn, tiết tả) uống nhân sâm sẽ chết. 4.6. Phòng bệnh Mùa đông, khí hậu thường lạnh, thuộc âm, cơ thể dễ nhiễm bệnh cảm mạo phong hàn, bệnh hàn thấp. Cần phòng bệnh bằng cách mặc ấm, ăn các thức ăn có vị cay nóng, hoặc uống các thuốc có vị tân ôn như sinh khương, đinh hương, quế nhục. Mùa hè, khí hậu thường nóng nực, thuộc dương cơ thể dễ nhiễm bệnh chúng thử hoặc cảm nhiệt, cần phòng bệnh bằng cách ăn mặc quần áo thoáng mát, ăn uống thức ăn mát. Uống các thuốc có tính mát để phòng mụn nhọt, ngứa lở như kim ngân, sải đất; hoặc uống nước rau má để phòng say nắng. 4.7. Đông dược 4.7.1. Tính vị Trong đông dược tính vị được coi là vấn đề coi trọng hàng đầu, vị thuộc phạm trù hữu hình, khí (tính) thuộc phạm trù công năng. Điều đó có nghĩa là có vị rồi mới có tính của thuốc. Vị của thuốc thuộc âm, khí của thuốc thuộc dương. Trong vị lại có âm dương, vị cay ngọt thuộc dương, vị đắng mặn thuộc âm, vị chua mang tính chất lưỡng tính. Với lượng ít làm cho cơ thể mát mẻ lúc đó thiên về âm, lượng lớn dùng lâu sẽ thiên về nhiệt, tuy nhiên vị chua nói chung mang tính âm. Khí của thuốc cũng có âm và dương, khí hàn lương thuộc âm, khí ôn nhiệt thuộc dương; điều đó phản ánh tính tương đối về âm dương của thuốc. 10