Giáo trình Điều dưỡng ngoại khoa

pdf 225 trang Phương Mai 02/04/2025 230
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Điều dưỡng ngoại khoa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_dieu_duong_ngoai_khoa.pdf

Nội dung text: Giáo trình Điều dưỡng ngoại khoa

  1. LỜI GIỚI THIỆU Thực hiện một số điều của Luật Giáo dục, Bộ Y tế đã ban hành chương trình khung đào tạo điều dưỡng trung cấp. Bộ Y tế tổ chức biên soạn tài liệu dạy – học các môn cơ sở và chuyên môn theo chương trình trên nhằm từng bước xây dựng bộ sách đạt chuẩn chuyên môn trong công tác đào tạo nhân lực y tế. Sách Điều dưỡng ngoại khoa được biên soạn dựa trên chương trình giáo dục Điều dưỡng trung cấp của Bộ Y tế và chương trình khung đã được phê duyệt. Sách được nhóm tác giả biên soạn theo phương châm: kiến thức cơ bản, hệ thống; nội dung chính xác, khoa học; cập nhật các tiến bộ khoa học, kỹ thuật hiện đại và thực tiễn Việt Nam. Sách Điều dưỡng ngoại khoa đã được Hội đồng chuyên môn thẩm định sách và tài liệu dạy – học trung cấp và dạy nghề của Bộ Y tế thẩm định vào năm 2008. Bộ Y tế quyết định ban hành tài liệu dạy – học đạt chuẩn chuyên môn của ngành trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian từ 3 đến 5 năm, sách phải được chỉnh lý, bổ sung và cập nhật. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, các bạn sinh viên và độc giả để lần xuất bản sau sách được hoàn thiện hơn. 1
  2. Bài 1 PHÒNG MỔ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI ĐIỀU DƯỠNG MỤC TIÊU 1. Trình bày được khái niệm tiệt khuẩn, vô khuẩn và yêu cầu của phòng mổ. 2. Nêu được nguyên tắc vô khuẩn ngoại khoa, nguyên tắc về sức khỏe, quần áo của nhân viên y tế trong phòng mổ và cách bảo đảm vô khuẩn phòng mổ. 3. Trình bày được chức năng, nhiệm vụ của điều dưỡng phòng mổ. 1. PHÒNG MỔ 1.1 Mở đầu Phòng mổ là phương tiện chính của quá trình điều trị ngoại khoa, người điều dưỡng khi tiếp xúc với phòng mổ cần biết cấu trúc phòng mổ. Tổ chức và xây dựng phòng mổ, khâu then chốt phải chú ý là vấn đề chống nhiễm trùng và tạo điều kiện phát huy kỹ thuật phẫu thuật được tốt nhất. 1.2. Phòng mổ 1.2.1. Khái niệm tiệt khuẩn và vô khuẩn 1.2.1.1. Tình trạng nhiễm khuẩn - Trước khi có phát minh của Pasteur tìm ra vi khuẩn và nguyên tắc vô khuẩn, tiệt khuẩn của Lister trong phòng mổ và nhất là phát minh ra kháng sinh, tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ là 30- 40%. - Trong thời gian gần đây tỷ lệ nhiễm trùng nói chung giảm xuống còn 1-5%. 1.2.1.2. Tiệt khuẩn Là tiêu diệt vi khuẩn bằng các biện pháp vật lý (nhiệt độ, áp suất, tia phóng xạ ) và các chất hoá học để biến một dụng cụ hoặc vật liệu có nhiễm khuẩn thành vô khuẩn. 1.2.1.3. Vô khuẩn - Một vật được gọi là vô khuẩn khi trên bất kỳ điểm nào của vật đó cho dù vật đó ở thể đặc, thể lỏng hay thể khí đều không có vi khuẩn. - Cần phòng ngừa nhiễm trùng bằng cách không để cho các dụng cụ, vật liệu, môi trường không khí xung quanh có vi khuẩn xâm nhập vào vùng mổ. - Hai khái niệm vô khuẩn và tiệt khuẩn gắn bó chặt chẽ với nhau, muốn có vô khuẩn thì cần phải làm tốt công tác tiệt khuẩn. 1.2.2. Một số nguyên tắc chung của phòng mổ - Hiện nay chưa có mô hình chuẩn về phòng mổ cho tất cả các nước, bởi vì xây và tổ chức một khu mổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như yêu cầu của việc điều trị, trình độ kỹ thuật trang thiết bị được cung cấp , đặc biệt là vấn đề tài chính. Trong y tế, việc đầu tư cho ngoại khoa là một trong những đầu tư rất tốn kém. 2
  3. - Tuy nhiên, người ta đã thống nhất được một số nguyên tắc chung cho dù khu mổ xây dựng to hay nhỏ, hiện đại hay thô sơ. Các nguyên tắc chung đó là: + Phòng mổ phải xa nơi nhiễm khuẩn. + Phòng mổ phải được thông gió một cách thuận lợi, dễ dàng và đầy đủ, đồng thời thuận lợi cho việc cọ rửa trần và sàn nhà. + Phòng mổ phải có hệ thống thông gió, nhiệt độ, độ ẩm tốt và thích hợp. + Phòng mổ phải được cung cấp đầy đủ ánh sáng tự nhiên và ánh sáng nhân tạo tốt. 1.2.3. Các yêu cầu cụ thể 1.2.3.1.Vị trí - Phòng mổ xây ở nơi cao ráo, thoáng khí, có ánh sáng tự nhiên, xa các buồng bệnh và nguồn ô nhiễm khác. Nếu do quy mô nhỏ phải xây dựng cùng một khối nhà thì cửa phòng mổ không hướng về phía buồng điều trị để tránh các luồng khí từ phía buồng điều trị tràn vào. - Thể tích buồng mổ là 100m3 (dài 6m, rộng 5m, cao 3,5m), tường và sàn nhà lát bằng gạch men, góc tường cần xây tròn hoặc tù để tiện cho vệ sinh. Cần có hai lần cửa để ngăn luồng khí từ ngoài tràn vào phòng mổ, việc khép mở tự động là tốt nhất để ngăn bụi. - Đường ra vào phòng mổ tốt nhất là một chiều. - Khu nhà mổ phải cách biệt với khu điều trị, đảm bảo yên lặng, tránh các lối đi lại nhiều, đem bụi và vi khuẩn vào phòng mổ. - Khu nhà mổ nên ở trung tâm của bệnh viện (nếu là bệnh viện ngoại khoa), hoặc ở trung tâm của khoa ngoại (nếu là bệnh viện đa khoa) và được nối với các khoa phòng bằng các hành lang để tiện việc di chuyển người bệnh. 1.2.3.2. Số lượng buồng mổ - Tuỳ thuộc vào quy mô của khu mổ: khu mổ phục vụ cho một bệnh viện chuyên khoa ngoại, hoặc chỉ là một khoa ngoại của một bệnh viện đa khoa hoặc chỉ là các chuyên khoa hẹp. + Một khu mổ nhỏ nhất cũng cần phải xây dựng 2 phòng mổ là phòng mổ vô trùng và phòng mổ hữu trùng. + Phòng mổ cho các bệnh viện ngoại khoa cần có các phòng mổ chuyên biệt theo từng chuyên khoa như phòng mổ tim, phòng mổ gan mật + Phòng để học sinh thực tập và người xem mổ qua vô tuyến hoặc xem qua lồng kính ở phía trên bàn mổ để hạn chế số người vào xem mổ trực tiếp. - Các phòng khác của khu mổ gồm có: phòng rửa tay trước khi mổ, phòng lau chùi các dụng cụ sau mổ, phòng tiệt khuẩn các dụng cụ kim loại hoặc đồ vải, phòng chuẩn bị cho gây mê (phòng tiền mê), phòng thường trực cho cấp cứu, phòng riêng cho điều dưỡng nam và nữ, phòng bác sĩ, kho để dự trữ các vật liệu tiêu hao hằng ngày hoặc bảo quản các dụng cụ kim loại dự trữ chưa dùng hoặc bị hỏng chuẩn bị trả lại cho bệnh viện. 3
  4. Ngoài ra còn có phòng hồi sức tập trung sau mổ để hồi sức những trường hợp người bệnh nặng hoặc để hồi sức người bệnh trong 24 giờ đầu. Phòng hồi sức có từ 6 đến 12 giường. 1.2.3.3. Thông khí - Việc thay đổi không khí trong phòng mổ là rất quan trọng vì không khí bẩn là nguồn ô nhiễm nhất. Nếu đặt một đĩa có môi trường nuôi vi khuẩn thì sau 45 phút có 14 khuẩn lạc mọc trên đĩa là không khí buồng mổ không được lọc nếu không khí buồng mổ được lọc thì sau 63 phút chỉ có 7 khuẩn lạc mọc trên đĩa. - Qua nghiên cứu cho thấy, muốn giải quyết tốt vô khuẩn không khí trong buồng mổ phải tạo một áp lực mạnh đi từ trần nhà xuống sàn nhà để ngăn không cho không khí bẩn từ sàn nhà bay ngược lên bàn mổ. - Muốn cho không khí phòng mổ được vô khuẩn thì ngoài các biện pháp thông khí cần phải hạn chế tới mức tối đa người ra vào và hạn chế tới mức tối thiểu việc mở cửa phòng mổ, vì việc ra vào và mở cửa có tác dụng lay động làm cho luồng khí từ ngoài tràn vào phòng mổ. - Sau buổi mổ, khi làm vệ sinh xong còn phải bật đèn cực tím di khắp phòng, để lâu đèn cực tím ở nơi nghi nhiễm khuẩn nhiều như bàn mổ, nền nhà quanh bàn mổ 1.2.3.4. Nguồn ánh sáng - Cần cung cấp đủ nguồn sáng cho kíp mổ làm việc, ngoài ánh sáng tự nhiên qua các cửa kính, buồng mổ cần ánh sáng nhân tạo. Ánh sáng nhân tạo gồm: + Ánh sáng khuếch tán qua các bóng đèn có vỏ quả cầu mờ hoặc các đèn neon. + Tập trung đèn trần hoặc đèn chiếu lưu động chiếu vào chính giữa vùng mổ. Các đèn được cấu trúc để ánh sáng tụ lại và không tạo thành bóng mờ, cần nắm chắc các nút để điều chỉnh cho thích hợp. Tốt nhất là dùng các đèn treo trên trần nhà, các phẫu thuật viên có thể tự điều chỉnh theo yêu cầu của phẫu thuật qua các tay nắm đã được khử khuẩn. 1.2.3.5. Nhiệt độ và độ ẩm Nhiệt độ và độ ẩm trong buồng mổ có ảnh hưởng nhiều đến không những người bệnh mà cả kíp mổ. Buồng mổ cần nhiệt độ từ 18 - 200, và độ ẩm 60 - 65%, tốt nhất là trang bị máy điều hoà nhiệt độ cho cả mùa nóng cũng như mùa lạnh để giữ nhiệt độ hằng định như trên. 1.2.3.6. Nước rửa tay trước khi mổ Dùng nước đun sôi để nguội, hoặc dùng nước máy qua màng lọc 0,2 micro được tiệt trùng là giải pháp tốt nhất. Khi lọc tiệt trùng thì phải thường xuyên bảo dưỡng các hệ thống lọc, nếu không sẽ mất tác dụng lọc tiệt trùng. 1.2.3.7. Trang bị trong phòng mổ - Hạn chế tối thiểu các đồ dùng để trong phòng mổ, vật gì cần thiết mới đặt trong phòng mổ; phòng mổ càng trống rỗng càng vô khuẩn tốt. - Những đồ đặt trong phòng mổ là: 4
  5. + Bàn mổ vạn năng, dùng dễ dàng cho tất cả các phẫu thuật ngoại khoa. + Bàn con để dụng cụ mổ: 2 – 3 chiếc. + Máy gây mê. + Tủ thuốc cấp cứu thiết yếu dùng gây mê hồi sức. + Bàn con để dụng cụ gây mê hồi sức. + Giá để các hộp hấp dụng cụ vô khuẩn. + Ghế tròn có xoáy ốc. + Cột treo chai dung dịch để truyền. + Đèn chiếu di động có bánh xe. + Có thể có hệ thống oxy trung tâm, máy hút gắn ngầm trong tường. + Toàn bộ hệ thống điện nằm ngầm trong tường. - Một số dụng cụ để ngoài phòng mổ, khi cần mới mang vào như bình oxy, tủ thuốc, máy hút dịch, dao điện, máy đốt điện. 1.2.3.8. Những nguyên tắc về sức khỏe và quần áo trong buồng mổ đối với nhân viên y tế - Sức khỏe là vấn đề cốt yếu đối với mọi người trong phòng mổ. Cảm lạnh, đau họng và nhiễm khuẩn ngón tay là những nguồn vi sinh vật lây bệnh. Một loạt nhiễm khuẩn vết thương ở người bệnh sau mổ được phát hiện là do một trường hợp viêm họng nhẹ của y tá phòng mổ, do vậy khi ốm nhẹ cần phải được báo cáo ngay. - Quần áo đi ngoài đường không được mặc trong phòng mổ, quần áo của phòng mổ không được mặc khi đi ra ngoài phòng mổ. Quần áo phải được thay ở buồng quần áo trước khi đi vào và rời phòng mổ. Quần phải có gấu chun để tránh vi khuẩn từ tầng sinh môn rơi xuống. Quần áo thay ra phải cho vào bao và chuyển xuống nhà giặt. - Khẩu trang: Trong phòng mổ phải luôn đeo khẩu trang nhằm mục đích giảm sự ô nhiễm cho không khí. Những giọt nhỏ chứa vi sinh vật từ miệng, mũi họng phải được giữ lại và lọc, vì vậy khẩu trang phải che kín mũi, miệng. Khẩu trang mất hiệu lực khi ẩm, cần phải thay. Khi bỏ khẩu trang ra chỉ cầm vào dây khẩu trang, đề phòng ô nhiễm tay. - Bịt đầu phải che hoàn toàn tóc (đầu và cổ, kể cả râu) nhằm ngăn cho sợi tóc, gầu và bụi không rơi vào những nơi vô khuẩn. - Giày được bọc bằng bốt làm bằng vải bạt hay loại dùng một lần, hoặc khi vào phòng mổ phải thay guốc dép và khi ra thì phải để lại. 1.2.3.9. Bảo đảm vô khuẩn phòng mổ - Mục đích: nhằm đảm bảo cho phòng mổ luôn sạch, tránh nhiễm trùng sau mổ cho người bệnh. - Trước và trong mổ: + Kíp mổ phải làm đúng và đầy đủ các thao tác trước mổ: rửa tay, mặc áo và mang găng vô khuẩn. + Chỉ được sử dụng các dụng cụ, vật liệu mới tiệt khuẩn. 5
  6. + Không nói chuyện, cười đùa trong lúc tiến hành mổ. + Tuân thủ các thì sạch, thì bẩn trong khi mổ. + Số người bao gồm cả kíp mổ trong một buồng mổ không quá 10 người. + Hạn chế tối thiểu việc đi lại trong phòng mổ. - Sau mổ: + Cọ rửa tường, sàn bằng nước. + Lau chùi bàn mổ, đèn mổ, máy gây mê bằng khăn ướt có hoặc không có thuốc sát khuẩn nhẹ. + Chuyển toàn bộ ra ngoài trừ bàn mổ, máy gây mê. + Khử khuẩn không khí bằng hơi focmon, hoặc đèn cực tím, khí ozon. + Điều chỉnh máy điều hòa nhiệt độ và hệ thống khí. + Đóng kín cửa. - Hằng tuần dành ngày cuối tuần không mổ để tổng vệ sinh toàn bộ từ trần, sàn, tường và tất cả các thiết bị hiện có. Sau mỗi lần mổ có nhiễm trùng cũng phải làm vệ sinh toàn bộ phòng mổ, lau chùi bên ngoài các hộp hấp ẩm, hấp khô và khử khuẩn không khí bằng hơi foocmol hoặc đèn tia cực tím. - Chế độ kiểm tra: + Kiểm tra vi khuẩn định kỳ: không khí buồng mổ, các dụng cụ hấp ẩm và hấp khô, dụng cụ gây mê. + Kiểm tra vi khuẩn ở nhân viên: tay, họng và mũi. + Kết hợp với phòng điều trị để đánh giá mức độ và tỷ lệ nhiễm khuẩn. Nếu tỷ lệ nhiễm khuẩn cao cần kiểm tra lại tất cả các khâu, có thể phải ngừng mổ để ứng phó kịp thời chống nhiễm khuẩn. 1.2.4. Những nguyên tắc cơ bản của vô khuẩn ngoại khoa 1.2.4.1. Nguyên tắc chung - Những tiếp xúc không vô khuẩn ở bất kỳ điểm nào làm cho diện vô khuẩn bị ô nhiễm. - Nếu có bất kỳ nghi ngờ nào về sự vô khuẩn của một đồ dùng hoặc bề mặt nào đó thì coi đó là không vô khuẩn. - Tất cả đồ dùng vô khuẩn cho một người bệnh (một khay hoặc bàn vô khuẩn để mở với những thứ vô khuẩn) chỉ có thể dùng cho một người bệnh đó, những đồ dùng vô khuẩn không dùng đến phải bỏ hoặc tiệt khuẩn lại nếu để dùng nữa. 1.2.4.2. Nhân viên - Những người đã làm các động tác vô khuẩn phải ở trong khu vực mổ, nếu rời phòng thì tình trạng vô khuẩn của người đó đã mất; để quay lại khu vực mổ người này phải làm lại quy trình cọ rửa tay, mặc áo, đi găng. - Người đã cọ rửa một phần nhỏ thân thể được coi là vô khuẩn: từ vùng ngực đến vai, cánh tay và găng. Vì vậy, tay đi găng phải giữ trước và phần trên thắt lưng. 6
  7. - Ở một số bệnh viện người ta dùng loại áo quấn xung quanh, như vậy khu vực vô khuẩn được rộng hơn. - Những y tá cơ động và nhân viên không cọ rửa ở xung quanh khu vực mổ phải đứng ở khoảng cách an toàn để không làm ô nhiễm nơi vô khuẩn. 1.2.4.3. Trải săng - Trong khi trải săng lên bàn hay lên người bệnh, săng phải giơ cao hơn bề mặt định che phủ và đặt xuống từ gần đến xa. - Chỉ có săng trên người bệnh và trên bàn được coi là vô khuẩn, những săng thõng xung quanh mép bàn không được coi là vô khuẩn. - Những săng vô khuẩn được cố định bằng cặp hoặc băng dính, săng không được di chuyển trong khi mổ. Săng thủng hoặc rách để lộ những diện tích ở dưới làm cho khu vực đó không vô khuẩn, săng như vậy phải trải lại. 1.2.4.4. Phân phát dụng cụ vô khuẩn - Mép của các gói vô khuẩn hoặc mép ngoài của các chai lọ chứa các dung dịch vô khuẩn không được coi là vô khuẩn. - Tay không vô khuẩn của y tá cơ động không được đưa ra phía trên của khu vực vô khuẩn. Những đồ dùng phải thả xuống từ một khoảng cách thích hợp từ mép của khu vực vô khuẩn. 2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CÁC ĐIỀU DƯỠNG PHÒNG MỔ 2.1. Chức năng điều dưỡng trưởng - Phân công cho các điều dưỡng phụ gây mê, tiếp dụng cụ, chạy ngoài trực tiếp tham gia mổ phiên theo lịch. - Phân công cho các điều dưỡng đảm bảo mổ cấp cứu. - Phân công cho các điều dưỡng quản lý và bảo quản các dụng cụ vật liệu trong từng phòng mổ. - Kiểm tra đôn đốc điều dưỡng thực hiện đúng nguyên tắc vô khuẩn, trình tự các thao tác đã quy định. - Nhắc nhở và đôn đốc mọi người thực hiện các nội quy ra vào phòng mổ một cách nghiêm ngặt. - Quản lý lao động, vật tư và các vật liệu dự trữ. - Định kỳ phối hợp với khoa vi sinh vật kiểm tra vô khuẩn dụng cụ phẫu thuật, không khí nhà mổ, nhân viên nhà mổ, bàn tay phẫu thuật viên. Phát hiện và đề xuất các biện pháp vô trùng. - Liên hệ với kho và các phòng về trang bị, sửa chữa trang thiết bị cho phòng mổ. - Chịu trách nhiệm tổng quát về mọi công tác giấy tờ, sổ sách, báo cáo, thống kê lưu trữ trong khu mổ. 7
  8. - Thường xuyên liên hệ với phòng y tá điều dưỡng của bệnh viện và các khoa phòng khác trong bệnh viện để trao đổi những công việc cần thiết phục vụ người bệnh. - Hướng dẫn và huấn luyện cho mọi nhân viên biết và thành thạo các kỹ thuật chăm sóc người bệnh trong khu mổ. - Hướng dẫn công việc, giải thích nhiệm vụ và giám sát, đánh giá các nhân viên mới về khu mổ. - Giúp đỡ phương tiện và tạo điều kiện cho học sinh thực tập. 2.2. Nhiệm vụ điều dưỡng tiếp dụng cụ 2.2.1. Nhiệm vụ trước phẫu thuật - Theo phân công, chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ như kim loại, đồ vải, bông gạc, các loại chỉ cho từng loại phẫu thuật vào ngày hôm trước. - Khi chuẩn bị nếu có gì khó khăn cần phải báo cáo cho chính phẫu thuật viên để tìm cách thay thế hoặc các biện pháp giải quyết từ hôm trước. - Tiến hành đúng và đầy đủ các thao tác vô khuẩn trước mổ: rửa tay, mặc áo, đi găng vô khuẩn. 2.2.2. Nhiệm vụ trong phẫu thuật - Biết cách xếp dụng cụ trên bàn tiếp dụng cụ và cách tiếp dụng cụ. - Trải vải che bàn tiếp dụng cụ gồm 2 lớp vải, 1 lớp nilon ở giữa. - Sau khi đi găng vô khuẩn mới được xếp dụng cụ trên bàn tiếp dụng cụ. - Nửa trước của bàn tiếp dụng cụ từ trái sang phải theo trình tự dao mổ, kéo mổ, kẹp phẫu tích, các kẹp cầm máu, các loại chỉ, kim khâu, kìm mang kim - Nửa sau của bàn tiếp dụng cụ từ trái sang phải theo trình tự là vải che mổ, các loại gạc, găng mổ, các dụng cụ kim loại (các loại van mở rộng vết mổ ) và ống hút. - Với một số phẫu thuật lớn có thể xếp thêm một bàn dụng cụ thứ hai. - Điều dưỡng giúp phẫu thuật viên, phụ mổ mang găng vô khuẩn. - Vị trí của người tiếp dụng cụ thường đứng đối diện với phẫu thuật viên, tiện cho việc tiếp dụng cụ. - Nắm chắc các thì mổ của ca mổ đang tiến hành để tiếp dụng cụ cho đúng và thích hợp. Nắm chắc các thì thao tác đưa dụng cụ cho phẫu thuật viên: dao mổ, kẹp cầm máu làm sao cho không có động tác thừa. - Trong khi mổ nắm chắc thì sạch và thì bẩn để đưa đúng các dụng cụ (sạch hoặc bẩn). - Nếu mổ các khoang cơ thể như: ổ bụng, lồng ngực, trước khi đóng khoang cơ thể phải kiểm tra lại các loại gạc, dụng cụ (tránh để sót). 2.2.3. Nhiệm vụ sau phẫu thuật - Kiểm tra các dụng cụ kim loại, rửa dụng cụ và tiệt khuẩn như đã quy định trong phần bảo quản dụng cụ. - Chuẩn bị dụng cụ, áo mổ, găng, gạc, kim chỉ cho ca mổ sau. 8
  9. 2.2.4. Quản lý - Các dụng cụ kim loại đang dùng. - Định kỳ lau chùi, bảo quản dụng cụ kim loại dự trữ. - Định kỳ lau chùi, bảo quản các hộp hấp, nhất là các hộp hấp ẩm. 2.3. Nhiệm vụ điều dưỡng chạy ngoài Là điều dưỡng trợ giúp toàn bộ kíp mổ, lấy thêm dụng cụ, theo dõi mạch, huyết áp và tất cả những gì mà kíp mổ cần. - Nội dung trợ giúp: + Trước khi mổ: . Chỉnh và kiểm tra đèn mổ, máy hút, dao điện, bàn mổ, buồng mổ. . Kiểm tra lại tên, tuổi người bệnh, chẩn đoán bệnh. . Trợ giúp người bệnh lên bàn mổ. . Giúp tiếp dụng cụ mở các hộp hấp, lấy chỉ. + Trong khi mổ: . Lấy thêm dụng cụ cho tiếp dụng cụ. . Giúp truyền máu cho người bệnh (nếu có). . Đo mạch, huyết áp giúp cho gây mê. . Giúp kíp mổ lấy thuốc hoặc các dụng cụ máy móc để xử trí các trường hợp biến chứng có thể xảy ra trong khi mổ, đếm gạc trước khi phẫu thuật viên đóng khoang cơ thể. + Sau mổ: . Băng vết mổ. . Cùng điều dưỡng gây mê hoặc phụ gây mê, chuyển người bệnh về phòng. . Vệ sinh máy hút, bàn mổ, thu dọn cọc truyền huyết thanh. 2.4. Nhiệm vụ của điều dưỡng gây mê hồi sức Tuỳ theo phân công trực tiếp gây mê hoặc phụ gây mê đều có các nhiệm vụ: - Lắp máy gây mê: - Kiểm tra và lắp đồng hồ oxy. Chuẩn bị đèn nội khí quản đảm bảo đủ ánh sáng khi đặt ống nội khí quản, ba ống nội khí quản các cỡ (ước lượng ống nội khí quản bằng gốc ngón tay út của người bệnh là vừa với khí quản người bệnh, cần lấy thêm 2 ống có cỡ ống to hơn và nhỏ hơn ống nội khí quản định đặt một số). 9
  10. - Chuẩn bị gạc chèn ống nội khí quản, băng dính cố định ống nội khí quản, ống hút dạ dày, máy hút, dao điện. - Pha thuốc mê tĩnh mạch, thuốc giãn cơ, thuốc tiền mê và thuốc hồi sức. - Trực tiếp gây mê hoặc phụ gây mê, theo dõi, lắp bóng bóp gây mê hồi sức. - Sau mổ, cùng điều dưỡng chạy ngoài đưa người bệnh về buồng bệnh. - Thu dọn và vệ sinh máy móc, dụng cụ gây mê, bơm kim tiêm. - Kiểm tra oxy, lĩnh bù các thuốc đã dùng để sẵn sàng chuẩn bị cho ca gây mê tiếp theo. - Nếu được phân công trực tiếp gây mê khi gặp khó khăn phải mời bác sĩ chuyên khoa gây mê hồi sức hoặc báo phẫu thuật viên để giải quyết. - Quản lý máy gây mê và các phương tiện gây mê như quy định. KẾT LUẬN - Phẫu thuật là sự hiệp đồng giữa các thành viên trong kíp mổ một cách trực tiếp và chặt chẽ. - Mỗi điều dưỡng theo phân công phải nắm vững và thành thạo công việc của mình để phối hợp nhịp nhàng trong khi mổ, giúp cho mổ thuận lợi, nhanh gọn và an toàn. 10