Đề kháng Insulin trong tai biến mạch máu não
Bạn đang xem tài liệu "Đề kháng Insulin trong tai biến mạch máu não", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
de_khang_insulin_trong_tai_bien_mach_mau_nao.pdf
Nội dung text: Đề kháng Insulin trong tai biến mạch máu não
- ĐỀ KHÁNG INSULIN TRONG TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Hoàng Khánh, Trường Đại học Y Dược Huế Lê Thanh Hải, BV Đa khoa tỉnh Thừa Thiên Huế Hiện nay, ngoài những yếu tố nguy cơ (YTNC) cổ điển đã và đang nghiên cứu trên nhóm bệnh tai biến mạch máu não (TBMMN), thì việc nghiên cứu tình trạng kháng insulin trên bệnh TBMMN, sẽ bổ sung thêm một YTNC mới vào bức tranh tổng thể các YTNC của bệnh TBMMN nói riêng và bệnh lý mạch máu nói chung ở Việt nam. Vậy cơ chế bệnh sinh của đề kháng insulin trong bệnh lý mạch máu nói chung và trong TBMMN như thế nào? 1. Cơ chế sinh bệnh của kháng insulin Một câu hỏi được đặt ra là: Kháng insulin và cường insulin máu khi đói và/hoặc sau khi uống glucose là một dấu chỉ điểm đơn thuần hay là một yếu tố nguy cơ thật sự của bệnh lý mạch máu? Kháng insulin và cường insulin máu có thể có một tác dụng ảnh hưởng đến quá trình sinh xơ vữa, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp qua những bất thường chuyển hoá, tăng huyết áp và béo phì trung tâm. Trong thực nghiệm việc cho insulin và gây kháng insulin có thể thúc đẩy sự tiến triển của những tổn thương xơ vữa, ngăn chặn sự thoái triển, thậm chí ức chế tác dụng bảo vệ của estrogen Kháng insulin và cường insulin máu tác động trực tiếp lên thành động mạch Insulin có tác dụng kích thích sự tăng sinh của những tế bào thành động mạch. Tác dụng này có thể qua trung gian sự gia tăng sản xuất của IGF1. Ngoài ra, lượng insulin máu cao có thể làm giảm hoạt tính của của những thụ thể đặc hiệu trên các đại thực bào đối với những sản phẩm cuối của glycosyl hoá (advanced glycosylation end products) và thúc đẩy các tác dụng có hại của những sản phẩm này trên thành động mạch. Kháng insulin hiện diện trong hai nhóm bệnh nhồi máu não và xuất huyết não và IGF 1 huyết tương có thể chiếm một vai trò quan trọng trong KI ở bệnh nhân TBMMN cấp. Kháng Insulin là yếu tố nguy cơ mạnh nhất của dày lớp áo trong áo giữa của động mạch cảnh. Một vấn đề được coi là phát hiện quan trọng là hầu hết các thiếu máu cục bộ não có nguồn gốc từ các mạch lớn vùng cổ như động mạch cảnh, nơi ta có thể can thiệp dễ dàng bằng phẫu thuật để cắt bỏ lớp áo trong giúp dự phòng và điều trị thiếu máu cục bộ não [1],[4],[5]. Tác dụng gián tiếp của insulin qua trung gian các rối loạn lipid Sự gia tăng của VLDL (nhất là do tăng sản xuất ở gan) có tương quan thuận với mức độ kháng insulin và cường insulin. Ngoài ra, nồng độ HDL (đặc biệt là HDL2) lại có tương quan nghịch với cường insulin. Các rối loạn lipid khác cũng được quan sát thấy trong cường insulin: tích tụ các chất tồn lưu của VLDL dễ bị các đại thực bào bắt giữ và có đặc tính sinh xơ vữa mạnh, tăng LDL nhỏ đậm đặc sinh xơ vữa mạnh hơn, giảm hoạt tính các thụ thể đối với HDL [19]. Tác dụng gián tiếp của insulin qua trung gian THA Mối liên quan giữa THA và kháng insulin cường insulin đã được nói đến trước đây, chỉ nhấn mạnh ở đây vai trò của insulin trên mạch máu như làm tăng nhạy cảm của mạch máu đối với các kích thích của các chất gây co mạch, giảm các prostaglandine dãn mạch và phì đại thành mạch qua trung gian IGF 1 [2],[3], [16]. Tác dụng sinh huyết khối do giảm quá trình huỷ fibrine Sự gia tăng của PAI 1 (chất ức chế hoạt hoá plasminogen 1) có vai trò sinh xơ vữa qua tác dụng làm giảm quá trình huỷ fibrin. Có sự tương quan độc lập giữa tăng PAI 1 và insulin 16
- máu khi đói ở người bình thường, béo phì, ĐTĐ hay có bệnh mạch vành. Ngược lại, các biện pháp làm giảm kháng insulin sẽ làm giảm song song insulin máu, PAI 1 và triglyceride. Có sự tương quan thuận giữ KI và một số yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh TBMMN như glucose, lipid, huyết áp, t PA (tissue type plasminogen activator), PAI 1(plasminogen activator inhibitor 1) [9], [11], [21]. Tuy nhiên, các giả thuyết này cần được kiểm chứng vì người ta nhận thấy PAI 1 lại không thay đổi khi cho insulin liều cao ở động vật thí nghiệm, khi sử dụng insulin tiêm dưới da trong điều trị ở bệnh nhân ĐTĐPTI, trong u tiết insulin (insulinome), và trong các tình trạng kháng insulin thứ phát do cường vỏ thượng thận (hypercorticisme) và bệnh to cực (acromegalie) [29]. Insulin làm giảm nồng độ calcium nội bào và giảm co thắt của các tế bào cơ trơn Sự dãn mạch do insulin bị suy giảm ở những người mà sự bắt giữ glucose kém do kháng insulin. Cho tế bào cơ trơn của động mạch đùi chó phân lập tiếp xúc với insulin ngắn hạn đã làm giảm luồng Ca ++ đi vào tế bào do serotonine và giảm Ca ++ nội bào (Kahn và cộng sự). Trong một nghiên cứu thực nghiệm khác tác giả cũng nhận thấy nồng độ insulin sinh lý sẽ làm giảm luồng Ca ++ đi vào tế bào dưới tác dụng của 5 hydroxytryptophane (5 HT) ở động mạch đùi của bò. Tuy vậy, luồng Ca ++ được tiết ra từ túi lưới nội bào thì không bị ảnh hưởng. Gernazich cùng cộng sự qua nghiên cứu đã làm sáng tỏ một cơ chế sinh lý bệnh mới liên quan đến sư thay đổi huyết động Ca++ trong các tiểu động mạch não mà có thể dẫn đến tai biến mạch máu não . Sự dãn mạch do insulin và sự bắt giữ glucose do insulin có liên hệ về mặt chức năng Chuyền insulin liều sinh lý vào trong động mạch sẽ làm dãn động mạch cánh tay, sự dãn mạch này được làm mạnh thêm khi chuyền cùng lúc D glucose. Hiện tượng này gợi ý một mối liên hệ có ý nghĩa về mặt chức năng giữa tác dụng chuyển hoá và mạch máu của insulin trên các tế bào nội mô (Cleland và cộng sự) [6], [7], [8], [20], [25]. Vai trò gây dãn mạch của insulin do tác động lên sự dịch chuyển ion Ca (2+) và bơm Na +/K + Tack đã chuyền Ouabain, một chất ức chế đặc hiệu bơm Na +/K + ATPase, vào động mạch cánh tay trước và trong khi làm nghiệm pháp kìm giữ đẳng đường máu trong lúc làm tăng insulin. Sự tăng tiết kali từ tế bào đã bị ức chế một phần bởi insulin. Kết quả này cho thấy insulin đã có tác dụng gây dãn mạch bằng cách kích thích bơm Na +/K + ATPase. Sự hoạt hoá bơm này có thể xảy ra ở các tế bào nội mô hơn là tế bào cơ trơn thành mạch, và do đó đã góp phần vào sự dãn mạch phụ thuộc nội mô khi đáp ứng với insulin. Insulin là một hoóc môn mạch máu, ngoài khả năng ảnh hưởng lên chuyển hoá trung gian, nó còn đóng vai trò quan trọng trong điều hoà tim mạch và sinh lý bệnh của bệnh tim mạch như THA nguyên phát, suy tim sung huyết và xơ vữa động mạch. Insulin gây ra tăng áp qua cơ chế tăng hoạt giao cảm, ứ muối và tăng sinh cơ trơn thành mạch. Trái lại, một số bằng chứng cho rằng insulin làm giảm sức đề kháng thành mạch và làm tăng dòng chảy của mạch đặc biệt là ở cơ vân, chứng tỏ insulin là một chất dãn mạch. Một số cơ chế gây dãn mạch do insulin đã được đưa ra. Insulin làm tăng sự đi ra của Ca++ từ tế bào cơ trơn mạch máu qua hoạt hoá Ca(2+) ATPase màng huyết tương và làm tăng phân cực qua kích thích Na(+), K(+) ATPase và bơm Natri/Kali. Insulin cũng kích thích tổng hợp NO (Nitric Oxide) và tăng giải phóng NO từ tế bào nội mạc mạch máu làm dãn mạch. Tăng AMP vòng do insulin gây ra. THA liên quan với kháng insulin và tăng insulin máu. Kháng insulin gây ra tăng huyết áp qua tăng hoạt giao cảm, rối loạn chức năng nội mạc và làm giảm hoạt tính dãn mạch của insulin. Vì vậy, insulin được xem như là một peptide hoạt mạch, cần có nhiều nghiên cứu hơn để làm sáng tỏ vai trò ảnh hưởng lên huyết động của nó [13]. Tương tự, Johnstone và cộng sự nhận thấy sự dãn mạch phụ thuộc nội mô bất thường trong ĐTĐ thực nghiệm. Đáp ứng của luồng máu cánh tay đối với nitroprussiate và 17
- verapamil, và đáp ứng co mạch đối với phenylephrine là giống nhau giữa người bình thường và ĐTĐ. Ở người ĐTĐ, sự dãn mạch phụ thuộc nội mô tương quan nghịch với nồng độ insulin huyết thanh nhưng không tương quan với đường máu, GHb (glycated hemoglobine), hay thời gian mắc bệnh. Điều này giả thích tần suất cao của bệnh mạch máu ở các bệnh nhân ĐTĐ phụ thuộc insulin [22 ], [23], [27], [28]. Kháng insulin tác dụng làm rối loạn chức năng kênh K(+) qua nghiên cứu thực nghiệm Kháng insulin làm tăng nguy cơ TBMMN ở người, một yếu tố chính gây bệnh là làm thay đổi chức năng mạch máu não kết quả từ thay đổi chức năng kênh K(+). Trong nghiên cứu này tác giả xem xét khả năng dãn mạch qua trung gian kênh K(+) ở những động mạch bị kháng insulin ở não. Nghiên cứu được thực hiện trên những động mạch não giữa đơn độc tăng áp của những con chuột có tình trạng kháng insulin do ăn chế độ ăn giàu fructose. Kết quả nghiên cứu cho thấy tình trạng kháng insulin gây ra rối loạn chức năng kênh K(+) qua trung gian dạng oxygen phản ứng. Sự thay đổi đáp ứng mạch phụ thuộc kênh K+ và Ca++ có thể làm tăng nguy cơ cao những biến cố mạch não trong tình trạng sẵn có kháng insulin. Điều trị trước với superoxide dismutase kết hợp với catalase làm cải thiện được đáp ứng dãn mạch ở những động mạch não có tình trạng kháng insulin [26] Tác dụng dãn mạch vành của insulin và IGF 1 trong nghiên cứu thực nghiệm Hasdai đã khảo sát vai trò điều hoà trương lực mạch vành trên các động mạch vành ở thượng tâm mạc của heo. Cả insulin và IGF 1 đều có tác dụng làm giảm trương lực của động mạch vành ở thượng tâm mạc sau khi co thắt dưới kích thích của endothelin 1. Việc lấy bỏ lớp nội mô mạch máu đã không làm thay đổi đáp ứng này. Như vậy, cả insulin và IGF 1 đều gây dãn mạch vành không phụ thuộc nội mô, có thể qua cơ chế hoạt hoá kênh kali [24 ]. Insulin tác dụng lên sự dãn mạch qua trung gian acetylcholine Taddei và cộng sự ở Ý đã so sánh tác dụng của insulin khi tiêm vào động mạch cánh tay lên những thay đổi của luồng máu gây ra bởi acetylcholine (một chất dãn mạch phụ thuộc nội mô) hoặc Sodium Nitroprussiate (chất dãn mạch không phụ thuộc nội mô) ở người bình thường và bệnh nhân THA nhẹ và trung bình. Ở cả 2 nhóm tác giả nhận thấy: Bản thân insulin không ảnh hưởng đến luồng máu ở cánh tay. Insulin đẩy mạnh tác dụng dãn mạch của acetylcholine, hiệu quả này giảm đi khi ức chế sự tổng hợp oxide nitric của tế bào nội mô ở người bình thường, hoặc tiêm ouabain vào động mạch cánh tay ở người THA (chất ức chế Na +/K + ATPase). Insulin không có ảnh hưởng lên sự dãn mạch do tác dụng của Sodium Nitroprussiate. 2. Kháng insulin là yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch Nội mô có một số chức năng khác nhau để duy trì trương lực mạch máu về phương diện chức năng và cấu trúc. Hai chất gây dãn mạch chính, NO (nitric oxide) và prostacyclin, duy trì hoạt động mạch máu, ức chế kết tập tiểu cầu và chống tạo huyết khối. Những nghiên cứu gần đây cho thấy chúng còn có khả năng chống viêm và như thế có khả năng chống sinh xơ vữa. Gần đây người ta chú ý thấy insulin kích thích giải phóng NO bởi nội bào. Insulin là một chất dãn mạch , có hoạt tính chống kết tập tiểu cầu và chống viêm. Hoạt tính chống viêm tương tự như thiazolidinediones (TZDs), troglitazone và rosiglitazone, gợi ý khả năng tiềm tàng chống xơ vữa của chúng. Khả năng chống sinh xơ vữa của insulin và TZDs là quan trọng do hai tình trạng kháng insulin chính, béo phì và đái đường týp 2, có liên quan làm gia tăng rõ BMV và TBMMN do xơ vữa. Những quan sát gần đây cho thấy có sự dính líu rõ vai trò bệnh sinh gây xơ vữa của tình trạng kháng insulin và giúp xây dựng hướng điều trị toàn diện giúp phòng sinh xơ vữa động mạch và những biến chứng của chúng [18], [22]. 18
- Các kết quả nghiên cứu đã nêu trên cho thấy kháng insulin, cùng với những yếu tố nguy cơ khác như THA, rối loạn lipid và không dung nạp glucose, sẽ làm cho tần suất BMV tăng cao. Từ đó, Suzuki và cộng sự (Nhật Bản) đã nghiên cứu sự liên quan giữa xơ vữa động mạch xuất hiện sớm và không có triệu chứng và những yếu tố nguy cơ nói trên ở 72 người THA không có ĐTĐ qua đánh giá độ dày lớp áo trong áo giữa của động mạch cảnh và sự tạo thành mãng vữa bằng siêu âm. Kết quả cho thấy kháng insulin là yếu tố nguy cơ mạnh nhất của dày lớp áo trong áo giữa của động mạch cảnh [16]. Do đó, để dự phòng các tổn thương xơ vữa sớm ở bệnh nhân THA tiên phát thì việc duy trì sự nhạy cảm insulin bình thường là rất cần thiết và quan trọng hơn là làm tăng tiết insulin [26]. RL chuyểnhoá YTNC bệnhmạch Bệnhlý Biếncố nguyênphát trunggian nộimạch lâmsàng Tăng huy t áp YTNCkhông thay đ i Di truy n R i lo n lipid máu Tu i Tăng đư ng máu XƠ V A Đ NG M CH .Não M ch máu l n Tăng insulin máu BBBỆBỆỆỆN HNHH KKHÁ HKHH ÁÁÁNGNG I NSULI N M ch máu bé TI M .Đ ng m ch ch MMMỆM ỆỆỆCHCHCH .M ch vành Viê m TĂNG ĐÔNG MÁU YTNC thay đ i Ch đ ăn ↑ Huy t kh i Béo phì ↓ Tiêu fibrin Ít v n đ ng Thu c R i lo n ch c năng n i m c (Thi t k d a theo ngu n: K ernan W .N. “Ins ulin R esistance and ris k for str oke”. N eur ology 2002; 59:809 815) Sơ đồ 1. Đề kháng insulin và biến cố tim mạch 3.Nghiên cứu về tần suất mắc bệnh yếu tố nguy cơ gây tai biến mạch máu não Mặc dù đã có nhiều YTNC được nghiên cứu trên nhóm bệnh TBMMN song vẫn chưa giải thích một cách đầy đủ sự khác biệt về tần suất mắc bệnh TBMMN ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Phải chăng sự khác biệt này là do tần suất phân bố của các YTNC khác nhau giữa các sắc tộc? Do sự hiện diện một số YTNC có tính đặc thù riêng cho từng sắc tộc khác nhau trên thế giới? Đây là một câu hỏi lớn được đặt ra cho các nhà nghiên cứu bệnh tim mạch. Riêng ở Châu Á đây cũng là một vấn đề đang được quan tâm, những năm gần đây qua các công trình nghiên cứu dịch tễ học bệnh tim mạch ở Châu Á cho thấy tần suất mắc bệnh tim mạch trong đó có bệnh TBMMN gia tăng nhanh so với Châu lục khác trên thế giới, trong khi đó các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy có một số YTNC có tần suất cao ở phương Tây như béo phì, rối loạn lipid máu thì không phải là YTNC nổi trội ở cộng đồng cư dân Châu Á. Phải chăng đã có sự xuất hiện một số YTNC mang tính đặc thù riêng trong cộng đồng cư dân Châu Á so với Châu lục khác? Để làm rõ vấn đề này, chúng ta trở lại tìm hiểu một số công trình nghiên cứu phân bố của các YTNC bệnh tim mạch trên thế giới. Công trình nghiên cứu của Charturvedi (International Centre for Circulatory Health and Department of Epidemiology and Public Health London) là một trong những công trình đi sâu vào vấn đề này. Điểm thuận lợi của 19
- công trình nghiên cứu này là có thể so sánh được tần suất các YTNC ở các sắc tộc khác nhau trong một không gian địa lý ở một nước, do ở Anh là một quốc gia thuộc Châu Âu nhưng lại có đến 7% người định cư không phải gốc Châu Âu. Hầu hết những người này là cư dân Nam Á (đa số đến từ Ấn Độ) hay người Châu Phi da đen (đến từ vùng Ca ri bê và Tây Phi) [24]. Đứng ở góc độ bệnh tim thiếu máu cục bộ, nghiên cứu cho thấy người Nam Á có nguy cơ mắc bệnh và tử vong cao hơn. Ở Anh, tỷ lệ tử vong do bệnh tim thiếu máu cục bộ ở người Nam Á ở cả 2 giới cao gấp 1,5 lần so với các cộng đồng cư dân khác. Sự khác khau về sắc tộc này thể hiện rõ nhất ở nhóm người trẻ tuổi. Những sự khác biệt về sắc tộc đã được nghiên cứu một cách rộng rãi, trong khi những YTNC cổ điển như hút thuốc lá, THA, béo phì và cholesterol máu thay đổi về căn bản giữa các nhóm người Nam Á, nhưng tần suất những YTNC này cho thấy tương đương hay thấp hơn so với người Châu Âu. Còn các yếu tố như rối loạn dung nạp glucose, béo phì trung tâm (xác định bằng cách đo vòng bụng và vòng mông), triglyceride lúc đói và nồng độ insulin cho thấy cao hơn người Châu Âu, những yếu tố này là biểu hiện chính của hội chứng kháng insulin, một nhóm các rối loạn chuyển hoá bao gồm tăng insulin máu, tăng glucose máu, ĐTĐ và rối loạn lipid máu với đặc trưng tăng triglyceride máu và giảm HDL. Vai trò tiềm tàng của kháng insulin trong nguyên nhân bệnh sinh bệnh mạch vành ở người Nam Á đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu đi sâu vào khám phá đầu mối này như là một cơ chế chính xác của mối liên quan giữa bệnh tim thiếu máu cục bộ và kháng insulin. Tâm điểm của nghiên cứu cũng đã xoáy vào yếu tố gây viêm, nhiễm khuẩn, các yếu tố huyết động và rối loạn chức năng nội mạc mạch máu. Nồng độ CRP (C reactive protein) cũng cho thấy tăng ở người Nam Á, CRP có tương quan mạnh với insulin lúc đói và sau khi kích thích bằng glucose và có giá trị tiên đoán độc lập nguy cơ bệnh tim thiếu máu cục bộ. Lipoprotein(a), PAI 1 và homocysteine máu cũng gia tăng ở người Nam Á và chức năng nội mạc suy yếu cũng là những YTNC dự phần mang tính đặc thù sắc tộc. Ngoài việc chỉ ra sự khác biệt tần suất khác nhau của các YTNC trong các sắc tộc trong bệnh lý tim thiếu máu cục bộ, nghiên cứu này đã đề cập đến sự khác biệt trong tần suất các YTNC và đã chỉ ra một số YTNC có tính đặc thù ở cư dân Châu Á trong bệnh TBMMN. Nghiên cứu đã đi đến kết luận người Nam Á có nguy cơ mắc bệnh TBMMN cao gấp 1,5 lần khi so sánh với người Châu Âu sống ở Anh. THA là YTNC được xác lập, ngoài ra nghiên cứu đã chỉ ra mặt trái của tình trạng kháng insulin có thể đóng một vai trò trong bệnh sinh bệnh TBMMN ở cộng đồng cư dân Nam Á, đây là một vấn đề cần nghiên cứu để làm sáng tỏ thêm [10]. Trái với tần suất mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ thấp hơn ở cộng đồng người Ca ri bê gốc Phi so với các cộng đồng cư dân khác, thì sắc tộc này lại có nguy cơ cao mắc bệnh TBMMN gấp 1,5 2,5 lần so với cộng đồng chung. Đa số nguyên nhân TBMMN là do thuyên tắc mạch máu. Tuy nhiên, khả năng sống sót sau TBMMN cao hơn ở người Ca ri bê gốc Phi. Những YTNC bệnh TBMMN ở nữ cao hơn nam, sự khác biệt về sắc tộc được phản ánh qua số đo huyết áp, với trị số huyết áp trung bình lúc nghỉ ở giới nam và nữ người Ca ri bê gốc Phi là cao hơn 6 mmHg và 17mmHg so với người Châu Âu. Thêm nữa, có bằng chứng cho rằng mức độ thương tổn cơ quan đích, dày thất trái, giai đoạn cuối của bệnh thận và bệnh tổ chức lưới cao hơn có thể đóng vai trò trong khác biệt sắc tộc Có thể tổng kết các điểm chính trong sự khác biệt sắc tộc của bệnh lý tim mạch trong đó có bệnh TBMMN của nghiên cứu trên như sau: Người Nam Á có nguy cơ cao bệnh tim mạch trong đó có TBMMN so với người Châu Âu có lẽ do tăng tình trạng kháng insulin và các yếu tố liên quan như viêm và rối loạn chức năng nội mạc mạch máu Người Ca ri bê gốc Phi có nguy cơ thấp bệnh tim mạch so với người Châu Âu, mặc dù cũng có tình trạng kháng insulin tăng, chính sự khác biệt về lipid và lipoprotein giải thích cho sự khác biệt này 20