Công nghệ Sinh học với sự phát triển bền vững

pdf 22 trang vanle 3030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Công nghệ Sinh học với sự phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcong_nghe_sinh_hoc_voi_su_phat_trien_ben_vung.pdf

Nội dung text: Công nghệ Sinh học với sự phát triển bền vững

  1. 209 CHSH với sự phát triển bền vững Trương Văn Lung Sự hợp tác nghiên cứu và phát triển giữa các nước công nghiệp hóa và các nước vùng Đông Nam Á hứa hẹn khả năng tiến đến những kĩ thuật tiên tiến nhất. Chẳng hạn, khi hiệp ước cứu trợ hai bên về nghiên cứu và phát triển trong ngành công nghệ cao cấp được kí giữa bộ Ngoại giao Hoa Kì và Thái Lan năm 1985, ngành CNSH được nêu lên như một lĩnh vực quan trọng nhất, với tiền đầu tư là 50 triệu USD (Yenchinski, 1987). Ở Singapore ngành CNSH về chẩn đoán bệnh, liên doanh đầu tư giữa các phòng thí nghiệm nghiên cứu Biotech (Marylan, USA) và các nhà đầu tư ở địa phương để nhận thông tin từ các công ti mẹ về miễn dịch học, hóa miễn dịch Hybrodome và kĩ thuật di truyền. Nó sẽ sản xuất và bán những mẫu thử nghiệm chẩn đoán virus HTLV và HIV (AIDS). Biotech Pte Ltd. của Singapore đã mua bản quyền vaccine chống viêm gan B theo kĩ thuật di truyền của công ti Mĩ Morck Co. Inc và bán cho các quốc gia châu Á, Hồng Kông, Brunei, Myanmar, cũng có kế hoạch phát triển những kít chẩn đoán bệnh kể cả AIDS. Đặc biệt dạng kết hợp của các tổ chức nghiên cứu và giáo dục đại học sẽ được khuyến khích, việc thành lập mạng lưới quốc tế CNSH theo sáng kiến của Pháp, việc hợp tác liên quan đến 3 lĩnh vực: sử dụng sinh khối thực vật, cố định N2 sinh học và năng lượng sinh học. Các nước đang phát triển ở châu Âu hợp tác về CNSH với tiêu đề “khoa học và công nghệ cho sự phát triển” chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp nhiệt đới và y tế. Ở châu Mĩ Latinh, phát triển liên hợp (UNDP) thành lập chương trình địa phương của ngành CNSH, hoạch định và bổ sung những kế hoạch nghiên cứu và phát triển ở địa phương, ở mức độ phòng thí nghiệm sản xuất thử và qui mô công nghiệp có liên quan đến những vấn đề đa quốc gia. UNESCO và UNIDO (Tổ chức Phát triển Kĩ nghệ Liên hiệp quốc) gồm các quốc gia Argentina, Chilé, Colombia, Costa Rica. Cuba, Guatemala. Mexico, Péru, Uruguay và Venezuela đã có chương trình “Phát triển công nghệ và ứng dụng công nghiệp CNSH”. Những dự án đã được thực hiện như chẩn đoán bệnh trypanosoma và leishmania trong những địa phương có bệnh khác nhau của châu Mĩ Latinh. Sự phát triển của những thử nghiệm chẩn đoán với bệnh virus thực vật, phân giải bằng enzyme các chế phẩm công nghiệp thực phẩm, sản xuất công nghiệp penicilline-amidase và sử dụng chúng để tổng hợp 6-amino-penicillanic acid (6-APA), phát triển hệ thống chẩn đoán kiểm mới có đánh dấu với bệnh sốt rét Mỗi dự án có Giám đốc điều hành và 3 đến 6 nước tham gia. Nhiều dự án có liên quan đến việc nhân giống trong ống nghiệm và kĩ thuật di truyền thực vật đã được chuẩn bị từ năm 1988.
  2. 210 CHSH với sự phát triển bền vững Trương Văn Lung Vào tháng 4 năm 1987, trung tâm CNSH Brazil-Argentina được thành lập. Lần đầu tiên ở châu Mĩ Latinh hai quốc gia cùng nhau thành lập trung tâm nhằm mục đích phát triển và cùng điều hành nghiên cứu khoa học và đầu tư vào lĩnh vực CNSH. Các nhà cầm quyền quốc gia cả hai nước nhấn mạnh rằng ngành CNSH không những được sự giúp đỡ của Brazil và Argentina mà còn có những quốc gia khác của lục địa cùng giải quyết những khó khăn do sự phụ thuộc vào các trung tâm lớn và đáp ứng với những thách thức gia tăng trong lĩnh vực cạnh tranh kinh tế quốc tế gay gắt này. Trung tâm hai quốc gia này tổ chức lại, có sự tham gia của tổ chức nhà nước, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu và các hội đồng của 2 nước tham gia vào việc tìm kiếm các giải pháp mới và phát triển những loại thuốc mới, thực phẩm và năng lượng. Hai bên thỏa thuận thành lập một trường CNSH nhằm đào tạo các chuyên gia trung và cao cấp. Tháng 8 năm 1987, trung tâm Brazil-Argentina nghiên cứu và phát triển thuộc các lĩnh vực sau: cải thiện và đổi mới các vaccine chống uốn ván, bạch hầu, ho gà; chẩn đoán và sản xuất vaccine viêm gan B, sản xuất kháng sinh bằng enzyme; cải thiện cây lương thực qua đường CNSH. Việc hợp tác giữa các quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển hầu như đã được chứng minh. Cả hai nhóm quốc gia đều quan tâm đến hai sắc thái chủ yếu của CNSH về tác động xã hội và sự tồn tại tính đa dạng di truyền. 2.2. Vai trò của các tổ chức chính phủ quốc tế Những thành công đã đạt được về thương mại và số vốn đầu tư khổng lồ trong các lĩnh vực khác nhau của công nghệ sinh học đã làm cho sức sống của cuộc “cách mạng CNSH” được tăng tiến và không thể đảo ngược. Chỉ riêng lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm doanh số các sản phẩm thu được do áp dụng CNSH mang lại có thể lên tới 50 đến 100 tỉ USD năm 2000. Ưu thế và lợi ích của cuộc cách mạng CNSH đã kéo theo các hậu quả xã hội và có ảnh hưởng không thể giống nhau đối với từng nước và từng nhóm tổ chức xã hội trong cùng một nước.Vì vậy, phải tìm ra hướng khắc phục các hậu quả không có lợi cho áp dụng CNSH và thiết kế chiến lược thích hợp để phân tích một cách công bằng các nguồn lợi mang lại dưới sự giúp đỡ của các tổ chức chính phủ. Nhận thức về sự cần thiết bảo vệ các giống cây trồng đã dẫn đến việc kí hiệp ước của Liên đoàn quốc tế bảo vệ giống mới (hiệp ước UPOV – International Union for the Protection of New Variteties of Plants) của Bỉ, Pháp, Italia, Hà Lan, và Cộng hòa Liên bang Đức dưới sự bảo trợ của Tổ chức Sở hữu Trí thức thế giới WIPO (World International Property Organization), một cơ quan
  3. 211 CHSH với sự phát triển bền vững Trương Văn Lung chuyên trách của Liên hợp quốc về sáng chế. Đây là kết quả của một số hội nghị quốc tế từ năm 1957 đến năm 1961. Hiệp ước này đã được sửa lại từ năm 1978 và được coi là bộ khung luật thích hợp để bảo vệ giống cây mà các thành viên có thể củng cố thêm thông qua pháp chế Từ năm 1978, quyền tham gia UPOV đã được mở rộng cho các nước không thuộc châu Âu. Đến năm 1987, đã có 17 nước thành viên là Bỉ, Đan Mạch, CHLB Đức, Pháp, Nam Phi, Tây Ban Nha,Thụy Điển, Thụy Sĩ, Hungarie, Irland, Israel, Italia, Nhật Bản, Hà Lan, New Zaeland, Mĩ và Anh. Mặt khác, do sự phụ thuộc lẫn nhau về khoa học, công nghệ, kinh tế và tài chính đang ngày càng tăng lên trên thế giới, nên khó có nước nào tự cô lập mình. Mặt khác sự bất bình đẳng về sức mua giữa các nước giàu và nước nghèo, giữa các nước đang phát triển và phát triển làm cho ngày càng khó đạt được các thỏa thuận công bằng có lợi cho cả hai bên. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ các sáng chế về CNSH là rất quan trọng và được tiếp cận bằng một phương pháp thực dụng. Hiện có hai hướng tiếp cận khác nhau về hệ thống quốc tế bảo vệ sáng chế công nghệ sinh học. Ngoài hiệp định của UPOV nói trên có ý kiến của tiểu ban chuyên gia về sáng chế CNSH và sở hữu công nghiệp của WIPO: bảo vệ các qui định hoặc sản phẩm bằng cách cấp bằng sáng chế. Các cây trồng, gia súc, vi sinh vật đã được biến nạp đều được bảo vệ thông qua bằng sáng chế. Vấn đề bảo vệ tài nguyên di truyền thực vật và tiếp cận nó đã trở thành vấn đề chính trị toàn câu. Khóa họp đầu tiên của Ủy ban liên chính phủ về tài nguyên di truyền thực vật đã họp vào tháng 3 năm 1985 tại trụ sở FAO ở Rhoma, việc tham gia khóa họp gồm 67 nước thành viên của FAO và 27 nước thành viên khác với tư cách quan sát viên (đa số trong đó là các nước công nghiệp) đã kéo theo 74 nước thành viên ủng hộ cam kết, trong đó 57 nước không bảo lưu và 17 nước có bảo lưu. Tháng 3 năm 1985, mạng lưới công tác giống được thành lập. Liên minh quốc tế về sự phát triển (ICDA) chiến dịch hạt giống. Ngoài ra, các tổ chức quốc tế đóng vai trò quan trọng trong dịch vụ tư vấn cho chính phủ nhằm hình thành các chính sách và các chương trình quốc gia trong ngành CNSH nhằm phát triển và sau đó, việc phối hợp các dự án nghiên cứu hoặc đầu tư giữa quốc gia đang phát triển và các quốc gia công nghiệp phát triển. Việc đẩy mạnh sự tham gia của các nhà nghiên cứu và các nhà kĩ thuật của các quốc gia trong việc đầu tư này đã củng cố năng lực của các quốc gia trong việc nghiên cứu, huấn luyện. Vì vậy, từ nhiều năm qua, các chương trình UNESCO, FAO và WHO đã phát triển và mở rộng hợp tác quốc tế về vi sinh vật ứng dụng và CNSH trong lĩnh vực y tế nông nghiệp và chăn nuôi.
  4. 212 CHSH với sự phát triển bền vững Trương Văn Lung Chẳng hạn, năm 1962, UNESCO tài trợ cho sự thành lập tổ chức nghiên cứu tế bào quốc tế (ICRO). Năm 1972, tiếp theo hội nghị Liên hiệp quốc tế về con người, môi trường (Stockholm) tháng 6 năm 1972, UNESCO phối hợp với ICRO và UNEP, chương trình môi trường giữ gìn bảo vệ tài sản di truyền gồm các nguồn vi sinh vật và làm cho các nước đang phát triển có thể tiếp cận được những công việc đó. Giai đoạn đầu tiên trong việc thành lập mạng lưới MIRCEN là sự thành lập trung tâm Tư liệu thế giới về các vi sinh vật ở Brisbane, Australia. Gần đây, trung tâm này đã chuyển sang Nhật Bản, cơ sơ MIRCEN khác đặt tại Bangkok (viện Nghiên cứu Khoa học và Kĩ thuật Thái Lan) cho vùng Đông Nam Á, tại Osaka (viện CNSH và Đại học Osaka) và Saitama, Nhật Bản (Rikagaku phòng Sinh học), ban Thông tin, Bambey, Senegal (trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc gia) và Nairobi, Kenya (bộ môn Thực vật Thổ nhưỡng , Đại học Nairobi) cho châu Phi, Porto Alegre, Brazil (Instituto de Pesquisas Agronomicas) Tucuman, Argentina (Plata Piloto de Prosesos Industriales Microbiologicos, PROIMI) cho Nam Mĩ, Cindad Guatemala cho Trung Mĩ và Cairo, Ai Cập (Đại học Ain Shams cho các nước A Rập). MIRCEN ở Hawaii (dự án NifTAL, khoa Nông nghiệp Nhiệt đới, Đại học Hawaii) dành hầu hết hoạt động của mình cho việc cố định N2 của các loại rau nhiệt đới. Mạng lưới MIRCEN còn được các trung tâm ở Đại học Maryland, Mĩ (bộ môn Vi sinh), các Đại học Waterloo và Guelph, Ontario, Canada, các Đại học Kent và Centerbury, nước Anh, viện Karoliska (Stokholm, Sweden) hỗ trợ và nâng đỡ, kể cả MIRCEN Pháp (Centre de transfort en Microbiolgie, Touluse) nơi có nhiều viện và phòng thí nghiệm tham gia. Năm 1981, cơ quan Phát triển Kĩ nghệ Liên hiệp quốc (UNION) thành lập trung tâm quốc tế Kĩ thuật di truyền và CNSH (ICGEB) ở Irieste và New Delhi với ngân sách 40,7 triệu USD. Nguồn quĩ quá hạn hẹp, song các tổ chức chính phủ quốc tế cũng đã đóng góp đáng kể để hỗ trợ cho các quốc gia đang phát triển trong lĩnh vực CNSH. 2.3. Việt Nam với hợp tác quốc tế và khu vực trong công nghệ sinh học Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trên bước đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cùng nằm trong bối cảnh chung của toàn khu vực. Cuộc cách mạng công nghệ sinh học sẽ là động lực góp phần to lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Thấy được tầm quan trọng đó, Chính phủ Việt Nam đã ra nghị quyết 18/CP ngày 11 tháng 3 năm 1994 về phương hướng phát triển khoa học và công nghệ nước ta. Trong đó, Nhà nước đã nhấn mạnh việc hợp tác quốc tế và khu vực trong khoa học và
  5. 213 CHSH với sự phát triển bền vững Trương Văn Lung công nghệ, đặc biệt là trong CNSH. Việt Nam là thành viên chính thức tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á về Khoa học và Công nghệ vào năm 1995. Tuần lễ Khoa học và Công nghệ ASEAN lần thứ V được tổ chức tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 15 tháng 10 năm 1998 với chủ đề “Khoa học và Công nghệ - nguồn động lực hướng tới phát triển bền vững của ASEAN”. Với sự tham gia của hàng trăm đại biểu và trên 500 nhà khoa học Việt Nam, các nước thành viên ASEAN khác cũng như các nước đối thoại của ASEAN mang đậm dấu ấn Việt Nam với tinh thần xây dựng ASEAN thành cộng đồng các quốc gia phát triển bền vững, hợp tác và đồng đều, được cộng đồng các nhà khoa học trong nước và quốc tế đánh giá cao. Một sự kiện được coi là hoạt động về khoa học và công nghệ có nhiều ý nghĩa và lớn nhất về qui mô từ trước đến nay. Việt Nam mở rộng hợp tác với Cuba trong lĩnh vực quản lí khoa học và công nghệ, môi trường, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và đào tạo cán bộ (tháng 9 năm 1998). Chúng ta cũng đã hợp tác với Liên bang Nga trong việc nghiên cứu khoa học thử nghiệm nhiệt đới, nghiên cứu hậu quả về sinh thái và y sinh học của chiến tranh hóa học do Hoa Kì tiến hành ở Việt Nam. Với Hàn Quốc, chúng ta hợp tác về kĩ thuật thành lập trung tâm hợp tác công nghệ Việt Nam-Hàn Quốc (ViKotech) với tổng số vốn là 2.880.000 USD, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Hàn Quốc, Việt Nam đóng 500.000 USD. Hợp tác với Hoa Kì: trao đổi về kĩ thuật và hợp tác trong lĩnh vực khoa học vật liệu, công nghệ thông tin và công nghệ sinh học vào tháng 1 năm 1998. Hợp tác với Thụy Điển: cử chuyên gia Thụy Điển vào Việt Nam để đào tạo cán bộ về công nghệ sinh học, cung cấp một số trang thiết bị cơ bản nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho vệ sinh dịch tễ học Hà Nội, xây dựng phòng thí nghiệm chuẩn thức quốc gia về vi khuẩn đường ruột, vaccine lị Shigella, cơ chế giám định tình hình kháng thuốc ở Việt Nam, cải thiện cây trồng rừng, kĩ thuật nuôi cấy mô và tế bào, kĩ thuật chuẩn đoán nhanh kí sinh trùng sốt rét. Việt Nam ngày càng chú trọng đến quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực để chuyển giao công nghệ, đào tạo đội ngũ nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực công nghệ sinh học, thu hút vốn đầu tư để phát triển khoa học và công nghệ góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự hợp tác công nghệ sinh học trong khu vực và quốc tế không những là biện pháp thúc đẩy chuyển giao công nghệ để phát triển khoa học và công nghệ trong mỗi quốc gia mà còn nhằm nghiên cứu những vấn đề
  6. 214 CHSH với sự phát triển bền vững Trương Văn Lung chung; tiến hành những dự án liên doanh nghiên cứu và đem lại hiệu quả có thể áp dụng chung cho các nước trong khu vực. Ngoài ra, hợp tác quốc tế và khu vực không làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giữa các nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, ngăn ngừa và giải quyết những hậu quả nguy hại cho sự phát triển của công nghệ sinh học như: các sản phẩm từ việc chuyển gene, vấn đề nhân bản, môi trường, đa dạng sinh học, vũ khí sinh học, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng khóa VII (tháng 7 năm 1994) của đảng ta cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của CNSH trong việc phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, công nghệ chế biến thực phẩm, dược phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái. Các chủ trương cụ thể là: “Thực hiện cơ cấu công nghệ kết hợp nhiều trình độ, các giải pháp về công nghệ phải lấy hiệu quả kinh tế-xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái làm tiêu chuẩn cao nhất. Hướng chính để đổi mới nhanh công nghệ và nhập công nghệ tiên tiến và hiện đại, đồng thời khuyến khích, cải tiến và sáng tạo công nghệ mới. Trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cần chú ý yếu tố chuyển giao công nghệ. Chú trọng các công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp, tranh thủ đổi mới các thiết bị, hiện đại hóa công nghệ trước hết ở một số khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là hàng xuất khẩu ở một số ngành có tác dụng trực tiếp với việc nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành khác và ở một số lĩnh vực và địa bàn đòi hỏi sớm vươn lên ngang trình độ với khu vực và quốc tế, ” TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Trần Bình, 1999. Hợp tác về công nghệ sinh học của các nước ASEA. Báo cáo khoa học Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc ngày 9-10 tháng 12 năm 1999. Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 52-56. 2. Trương Văn Lung, 1995. Chuyên đề công nghệ sinh học. Tủ sách Đại học Khoa học Huế 3. Nguyễn Văn Uyển, Nguyễn Tiến Thắng, 1996. Những kiến thức cơ bản về công nghệ sinh học, Nxb Giáo dục Hà Nội. 4. Tạp chí Hoạt động khoa học,Số 2, Số 21/1999. 5. Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng, khóa VII, trang 53-64. 6. Albert Sasson,1988. Biotechnologies and development Công nghệ sinh học và phát triển. Người dịch: Nguyễn Hữu Thước, Nguyển Lân Dũng và một số dịch giả khác. Nxb Khoa học & Kỹ thuật Hà Nội.
  7. 215 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung Chương XII: Những định hướng chính về sự phát triển CNSH hiện nay ở thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, việc nghiên cứu khoa học cần có những định hướng để không ngừng khám phá những điều mới lạ xẩy ra trong cơ thể sinh vật mà con người chúng ta cần biết nhằm không ngừng phục vụ cho đời sống kinh tế xã hội của con người hiện nay. Sau đây là một số định hướng chính về sự phát triển công nghệ sinh học hiện nay ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam. 1. Giải mã bộ gene của các sinh vật khác nhau và ngành genome học Với sự tiến bộ của máy móc và thiết bị kĩ thuật, từ chỗ đọc trình tự nucleotide của một đoạn DNA được tiến hành theo phương pháp thủ công mỗi tuần mỗi người chỉ thực hiện được một vài phản ứng với năng suất 300 bp/phản ứng, đến nay với hệ thống máy mao mạch có thể xác định tự động đồng thời 96 phản ứng với độ dài trên 1000 bp/phản ứng thì các đề án xác định toàn bộ trình tự nucleotide của bộ gene nhiều sinh vật được thực hiện, trong đó có đề án xác định trình tự genome người dài 3,3 tỷ nucleotide đã hoàn thành vào tháng 2 năm 2002, đúng 50 năm sau khi Watson và Crick phát minh ra mô hình cấu trúc xoắn kép của phân tử DNA tạo ra bước thay đổi cách mạng trong nghiên cứu sinh học phân tử. Đến nay đã có tới hàng chục đề án xác định trình tự nucleotide bộ gene của nhiều sinh vật đã được hoàn thành. Thành tựu về giải mã bộ gene người (99% genome người đã được đọc với độ chính xác 99,99% với 30.000 gene) và nhiều sinh vật khác như cây lúa nước (Oryza sativa L. là 50.000 gene), Escherichia coli, Saccharomyces cerevisiae, C. elegan, Drosophila melanogaster và bản nháp toàn bộ hệ gene của vài loài khác như C. briggsae, D. pseudoobscura, chuột. Ở Việt Nam cũng đã giải mã thành công virus gây dịch cúm gia cầm H1N5 Genome học đối với các nước đang phát triển như các nước trong khu vực ASEAN trong đó có Việt Nam định hướng vào việc xác định các đặc điểm của hệ gene các nhóm dân tộc đang sinh sống trên cùng lãnh thổ và cùng khu vực, phục vụ cho việc khám chữa bệnh và ứng dụng vào lĩnh vực xã hội học.
  8. 216 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung 2. Phân tích tổng thể các biến động của hệ protein tế bào và ngành protein học Một người trong cuộc đời phải trải qua một quá trình phát triển từ khi còn trẻ đến lúc về già, lúc ốm đau, khi khỏe mạnh. Trong quá trình đó bộ gene luôn luôn cố định, còn protein thì lại thay đổi tùy theo từng trạng thái, giai đoạn phát triển của con người. Nắm được protein có nghĩa là nắm được cơ chế điều khiển của một chu trình sống trong con người chúng ta. Bản đồ gene người mới chỉ là bước đi đầu tiên trong quá trình nghiên cứu. Bước tiếp theo, các nhà khoa học theo đuổi một công trình có thể kéo dài trong nhiều thập niên mang một cái tên còn rất lạ lẫm ngay trong giới khoa học: Proteomics- nghiên cứu bộ gene của con người. Khó khăn nhất của các khoa học gặp phải trong khi nghiên cứu protein là quá trình biến đổi phức tạp trong tế bào, chỉ một gene thôi có thể tương ứng với 20 protein khác nhau. GS. Angelika Goerg (trường Đại học Tổng hợp Munich-Đức), một trong những nhà khoa học đi tiên phong trong công cuộc nghiên cứu protein cho biết, trong khi bộ gene không thay đổi thì thành phần của các protein lại biến đổi theo tuổi tác, tác động của môi trường ngoại cảnh, thuốc men và bệnh tật. Mỗi loại tế bào trong tổng số 270 loại tế bào khác nhau của con người khi “dịch” bộ gene (gồm từ 30.000 đến 35.000 gene) luôn luôn giống nhau đều tạo nên những protein hoàn toàn khác nhau. Chúng ta có thể lấy những thực tế sau đây làm ví dụ cho tính biến đổi này: một con nhộng và một con bướm; một bàn tay con trẻ và một bàn tay người già hoặc một hạt giống và một bông hoa. Tất cả những cặp đó đều có cùng một bộ gene, nhưng lại mang những protein, hoặc nói chính xác hơn: những nhóm protein khác nhau. Cho đến nay, con người còn biết quá ít về hơn 400.000 protein của chúng ta Số lượng protein nhiều như vậy được hình thành khi mã di truyền được dịch ra theo những trật tự sắp xếp của các acid amin trong protein. Tuy nhiên, trật tự sắp xếp các acid amin được mô tả trong không gian một chiều hoàn toàn không nói lên điều gì về chức năng của protein cả. Yếu tố quyết định là sự sắp xếp của chúng trong không gian ba chiều.Các hình thức sắp xếp khác nhau của protein, hình xoắn, hình cuộn lại thành bó hoặc hình gấp nếp (cấu trúc bậc I, bậc II, bậc III, bậc IV) quyết định chức năng của nó. Một cấu tạo theo hình gấp nhưng bị sai lệch đi của protein có thể gây ra những hậu quả ghê gớm, ví dụ như bệnh bò điên. Mãi đến năm 1995, nhà khoa học người Anh Frederick Sanger lần đầu tiên mới tìm ra cấu tạo của protein trong insulin. GS. Sam Hanasch, một chuyên gia về ung thư của trường Đại học Tổng hợp Michigan (Mĩ) và đồng thời là chủ tịch Tổ chức Quốc tế Nghiên cứu protein của người (HUPO) được thành lập năm 2001 cho rằng, có lẽ
  9. 217 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung trong suốt cuộc đời mình, con người phải có đến hàng triệu protein khác nhau. Ông nhận xét: “Nhiều phòng thí nghiệm đã nghiên cứu protein từ nhiều năm nay, nhưng mãi gần đây mới nhận thấy rằng, giờ đây với sự phát triển của công nghệ thì thời đại của protein mới bắt đầu”. Hiện nay, các trung tâm nghiên cứu của các trường đại học và các tập đoàn kinh tế lớn, mỗi ngày, hàng ngàn protein được đem ra mổ xẻ để phân tích. Những thông số của chúng được so sánh với thông số của ngân hàng gene. Chúng ta cũng đã biết, trình tự nucleotide của bộ gene mới là sự khởi đầu trong quá trình nghiên cứu về bộ gene. Việc nghiên cứu toàn bộ hệ protein do các gene mã hóa và điều khiển sinh tổng hợp trong từng giai đoạn phát triển và trong từng trạng thái sinh lí, bệnh lí của sinh vật và đặc biệt là của con người đang là lĩnh vực thu hút sự đầu tư ở qui mô tới hàng trăm tỉ USD, nhất là trong nghiên cứu hệ protein của người. Với các kĩ thuật sắc kí, điện di trước đây, người ta chỉ nghiên cứu được từng loại protein riêng rẽ. Hiện nay, khi phối hợp sắc kí đa chiều và khối phổ, người ta có thể phân tích được 5.000 loại protein cùng một lần và kết quả cho phép chẩn đoán sớm những bệnh hiểm nghèo như ung thư máu, Mục tiêu lâu dài của những nghiên cứu proteomics là giải mã được chức năng sinh học của hệ gene. Song, trước mắt những biến đổi hoạt động của các nhóm gene trong điều kiện bệnh lí sẽ cung cấp thông tin cho việc chẩn đoán sớm, phòng trừ và điều trị nhiều loại bệnh. Bởi vì, 98% các loại bệnh tật là do protein điều khiển. Gene và sự sai lệch về gene chỉ gây ra khoảng 2% tổng số các loại bệnh tật mà thôi. Cho dù là viagra hay aspirine hiện có đến hơn 90% các loại thuốc tác dụng đến protein. Hiện nay, môt trong mục tiêu ứng dụng hàng đầu được đặt ra là dựa trên những hiểu biết mới nhất về protein tìm kiếm những loại biệt dược mới và được các công ty Dược chất chú trọng bảo vệ bí mật thông qua đăng kí phát minh sáng chế. GS. Patterson – Giám đốc công ty Celera nổi tiếng trong lĩnh vực gene cho biết, các nhà khoa học của ông đang một mặt muốn chẩn đoán được rất sớm bệnh ung thư hoặc co thắt cơ tim dựa trên việc phân tích protein trong nhóm máu, tìm kiếm những biệt dược hữu hiệu có khả năng đón bắt các protein gây bệnh, một mặt hợp tác với các chuyên gia máy tính của tập đoàn Compaq và chiếc máy tính Red Storm khổng lồ của họ đang ngày đêm tính toán để tìm hiểu những bí mật trong thế giới protein. 3. Cây trồng chuyển gene Như trên ở phần ba, chương VIII, mục 2.4. “Chế biến thực phẩm chuyển gene” chúng tôi đã có dịp đề cập đến vấn đề này. Ở đây, vì là sự định hướng chung của thế giới nên chúng tôi lại nhắc đến lần nữa.
  10. 218 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung Giữa những năm 1990, công nghệ gene bắt đầu đưa vào hơn 50 sản phẩm mới được ứng dụng ở 13 nước với diện tích 52,6 triệu ha năm 2001, tăng 50 lần so với năm 1996. Trong đó nhiều nhất là đậu tương 34,9 triệu ha, bằng 64% diện tích đậu tương thế giới, ngô 6,1 triệu ha và 3,3 triệu ha cây cải dầu. Người ta đã ra được hơn 10 giống cây trồng mang gene mới. Đến năm 2003, sau chưa đầy 15 năm, số diện tích trồng cây chuyển gene đã lên đến 67,7 triệu ha.Trong năm 2004, diện tích cây trồng chuyển gene đã tăng 20% so với 15% năm 2003 và đạt 81 triệu ha. Dự tính vào năm 2010, diện tích cây trồng công nghệ sinh học trên thế giới sẽ tăng lên đến 150 triệu ha với koảng 15 triệu người trồng tại 30 nước trên thế giới (năm 2004 có 8,25 triệu nông dân tại 17 nước trồng cây chuyển gene). Những gene gì được đưa vào cây trồng? Đó là những loại gene tăng cường khả năng kháng sâu bệnh như gene kháng sâu nhóm cry/VIP, gene kháng virus nhóm CP/Nbi, gene kháng thuốc diệt cỏ nhóm bar. Đến nay người ta đang tìm cách đưa gene sản xuất vaccine, gene sản xuất dược chất vào cây trồng để từ cây lương thực thực phẩm thành cây sản xuất dược liệu có giá trị kinh tế cao hơn. Trong số hơn 50 loài cây trồng mang gene chuyển đang được thử nghiệm thì cây bông vải kháng sâu, cây đậu tương, cây ngô kháng sâu, kháng chất diệt cỏ chiếm tổng số trên 90% diện tích gieo trồng nói trên. Ở nước ta, những nghiên cứu tạo bông kháng sâu, chịu hạn, tạo lúa gạo giàu β-caroten đang được tập trung giải quyết. Cùng với tiến bộ trong nghiên cứu, công tác chuẩn bị văn bản pháp lí cho việc nghiên cứu và sử dụng các sinh vật chuyển gene cũng đang được chuẩn bị rất thận trọng, phù hợp với tình hình trong và ngoài nước. 4. Sản xuất và ứng dụng chíp DNA Affymetrix là công ty hàng đầu thế giới trong việc sản xuất các loại chíp DNA là một mảnh màng liên kết có kích thước 20×40 mm được in trên đó bằng các đoạn DNA ở dạng những điểm chấm vuông cực nhỏ, ví dụ chíp genome người được in 20.000-25.000 gene Vì có hình dáng giống như một con chíp với những chấm DNA thay cho chấm điện tử gắn trên một lát thủy tinh cực nhỏ nên được gọi là chíp DNA. Ta biết rằng, trật tự sắp xếp base của một sợi DNA sẽ tiết lộ cấu trúc sợi DNA kết hợp với nó. Nhà khoa học trẻ Stephen Fodor tin rằng có thể giải mã DNA bằng cách cho nó liên kết với DNA biết trước cấu trúc gắn trên chíp, nhờ đó đột biến về trình tự sắp xếp các base sẽ được phát hiện và biết bệnh gì hay cách điều trị. Một con chíp có thể đọc hàng ngàn gene cùng lúc. Năm 1993, Fodor và 9 người khác của Affymax thành lập công ty Affymetrix (California, Mĩ) để thực hiện ý tưởng này. Không chỉ ở Affymetrix các con chíp mới ra đời mà ở Đại học Stanford, phòng thí nghiệm Palo Alto và Sunnyvaie (bang California)
  11. 219 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung cũng nghiên cứu chế tạo loại chíp này. Một robot đen sọc vàng đang chấm hàng ngàn đốm DNA lên một lát cắt thủy tinh cực nhỏ, các nhà nghiên cứu đánh màu xanh dạ quang cho phân tử RNA (RNA giữ nhiệm vụ truyền thông tin di truyền của DNA đến nơi sản xuất protein) của tế bào ung thư, còn RNA của tế bào thường được đánh màu đỏ dạ quang. Khi được trải lên con chíp, các phân tử RNA này bám vào các đoạn gene tương thích với chúng; gene hoạt động mạnh hơn trong tế bào ung thư sẽ chớp xanh, gene hoạt động trong tế bào lành lặn chớp đỏ.Chính những biến đổi hoạt động của gene trong tế bào ung thư sẽ là mục tiêu cho những loại dược phẩm mới trị ung thư. Hoạt động của gene cũng cung cấp về trạng thái của bệnh ung thư đang di căn nhanh, cần điều trị ngay hay bệnh đang thoái triển chỉ cần theo dõi kĩ. Như vậy, khi lai mảnh màng chíp này với sản phẩm phiên mã của genome cơ thể cần nghiên cứu các chấm DNA sẽ đổi màu tương ứng với mức độ hoạt động của những gene trong cơ thể.Ở trạng thái và thời điểm nghiên cứu cho phép kết luận về tình trạng bệnh lí của đối tượng nghiên cứu. Bác sĩ có thể dùng một con chíp DNA để chẩn đoán xem gene của bệnh nhân có mang “mầm mống” của bệnh tim hay bệnh alzhemer không. Hoặc giả bệnh nhân đã mắc bệnh ung thư thì con chíp sẽ cho biết mức độ nghiêm trọng của bệnh và đề xuất loại thuốc hiệu quả nhất. Bệnh nhân có thể rời phòng mạch bác sĩ với danh sách bệnh có thể xẩy đến cho mình trong vài năm tới, kèm theo là các thay đổi về lối sống, chế độ ăn uống và một số toa thuốc ngừa bệnh. Lúc đó con người có thể kiểm soát phần nào “định mệnh” của mình đã hằn sẵn trong gene. Kinh ngạc hơn nữa là con chíp có thể dự đoán về sự khéo léo hay trí thông minh của một hài nhi mới chào đời. Ngày nay sự nghiên cứu các con chíp sinh học đang được tiến hành ráo riết để biến những ứng dụng trên thành sự thật.Các kĩ sư chíp sinh học tại Affymetrix đang “thi đua” với các đồng nghiệp bên ngành bán dẫn “nhồi nhét” đến 400.000 chuỗi DNA khác nhau lên một con chíp để có thể giải mã cho đoạn DNA dài 100.000 đơn vị. Với đà tiến bộ đó, người ta hi vọng một thế hệ chíp mới sẽ giải mã di truyền của một người chỉ sau một đêm. Ngoài việc đọc gene người, con chíp của công ty Nanogene ở San Diego (Mi) còn tìm kiếm dấu hiệu nhiễm khuẩn trong máu trong vòng 15 phút. Kĩ thuật này cũng dùng phát hiện mọi loại vi khuẩn đã được y học biết đến và có thể ứng dụng rộng rãi cho mô, dịch nhầy cũng như trong ngành tìm chất nhiễm bẩn ở nước và thực phẩm. Chíp DNA cũng đang dần dần trở thành công cụ chẩn đoán trong công nghiệp lên men vi sinh vật, trong y học dự phòng, trong kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm, trong theo dõi mức độ ô
  12. 220 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung nhiễm môi trường, với tính năng nhanh nhạy và tự động hóa cao. Hiện tại thì giá thành của một con chíp còn cao, nhưng khi nhu cầu sử dụng càng phát triển thì giá cả sẽ giảm dần. 5. Sinh tin học (bioinformatics) Công nghệ thông tin là ngành khoa học nghiên cứu việc ứng dụng máy tính điện tử và kĩ thuật thống kê vào việc quản lí và xử lí các thông tin sinh học. Trong đề án genome công nghệ sinh tin học (CNSTH) bao gồm cả việc xây dựng phát triển các phương pháp tìm kiếm khai thác nhanh ngân hàng dữ liệu, phân tích trình tự và cấu trúc của DNA và protein. STH cũng bao gồm việc thu thập số liệu, phân tích, quản lí tệp số liệu và tìm kiếm khi cần. STH đang cải tiến phương pháp xử lí phân tích số liệu, cải thiện khả năng dự đoán vùng hoạt động, vùng ngưng nghỉ của bộ gene, cải tiến khả năng phỏng đoán phản ứng tế bào đối với tác nhân ngoại sinh, thiết lập nên các cấu trúc phân tử protein có hoạt lực cao và định hướng phân hóa tế bào một cách hiệu quả Hiện tại ba ngân hàng dữ liệu gene lớn nhất thế giới là World Gene Bank (Mĩ), EMBL (Châu Âu) và JDDB (Nhật Bản) lưu trữ trên 9 tỉ dữ liệu về gene. Ngoài ra còn có ngân hàng dữ liệu về protein của Thụy Sĩ (Swiss Protein Database) còn lưu giữ ngoài thông tin về trình tự acid amin, các tính chất và chức năng sinh học còn có cả phần mô hình cấu trúc phân tử của các loại protein nữa. Các ngân hàng trên đều thuộc loại công cộng, mọi người đều có thể sử dụng miễn phí. Ngành nghề trong STH bao gồm chuyên gia sinh tin học, chuyên gia lập trình STH và khai thác ngân hàng dữ liệu, cuối cùng là chuyên gia quản lí CNTTSTH. Một số thành tựu nổi bật của STH có thể là: chương trình NMR đa chiều để thiết lập cấu trúc không gian protein; chương trình FASTA so sánh trình tự gene và protein ra đời trước năm 1990 cho phép so sánh tự động, miễn phí trình tự một đoạn gene dài khoảng 1.000 bp với 9 tỉ trình tự đã công bố trong vòng vài chục phút; chương trình BLAST, trung tâm NCGR, chíp DNA thiết lập trước năm 2000 và gần đây là đề án IBM Blue Gene được bắt đầu, hệ thống chương trình trọn gói EMBOSS được bán, chíp DNA bộ gene người được đưa ra thị trường. Đến thời điểm này có trên 60 công ty lớn chuyên dịch vụ và kinh doanh trên lĩnh vực STH đang hoạt động, trong đó phải kể đến Celera Discovery System tham gia vào đề án xác định trình tự genome người. DNAStar hoặc GCG là hai trong những công ty thành công nhất trong lĩnh vực cung ứng phần mềm phân tích gene; InforMax hoạt động trong tập đoàn Invitrogene. 6. Nhân bản động vật Nhân bàn vô tính là kĩ thuật nhân sử dụng một cá thể, một mảnh mô hay một tế bào duy nhất để tạo ra hàng loạt cá thể hoàn toàn đồng nhất
  13. 221 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung về di truyền mà không thông qua quá trình thụ tinh hữu tính. Cơ sở khoa học của việc nhân dòng là tính toàn năng của tế bào (totipotency). Khái niệm nhân dòng ở thực vật đã trở thành thông dụng trong nghề trồng trọt các loại cây ăn quả, các loài hoa, cây cảnh, các loại cây công nghiệp bằng con đường nhân dòng vi phẫu (micropropagation). Nhân dòng động vật mặc dù kĩ thuật nuôi cấy mô tế bào động vật ra đời trước cả nuôi cấy mô thực vật, nhưng kết quả lại chỉ mới hạn chế ở việc duy trì các dòng tế bào có khả năng phân chia liên tục và sản xuất ra những loại thuốc chữa bệnh quí hiếm. Mãi đến năm 1997, Jan Winmut bằng cách cấy nhân tế bào tuyến vú vào trứng cừu thụ tinh bị loại bỏ nhân đã thu được phôi và cấy phôi để được con cừu Dolly. Việc đổi nhân của tế bào trứng cừu bằng nhân của tế bào tuyến vú và việc nuôi cho tế bào thay nhân đó thành một cụm tế bào phôi bình thường là một bước tiến rất xa của khoa học. Thành tựu này một lần nữa minh chứng cho sự đúng đắn của học thuyết về tính toàn năng của tế bào. Bộ máy di truyền của mọi tế bào của cơ thể đều giống nhau. Bí quyết của sự thành công ở đây là người ta đã chọn ra điều kiện thích hợp cho các nhân tế bào bình thường phân chia và làm nhiệm vụ của nhân tế bào trứng, tức là tạo ra một khối tế bào phôi. Điều kiện đó chính là phần chất nguyên sinh còn lại của tế bào trứng khi bỏ mất nhân. Thực ra, PGS.TS. Nguyễn Mộng Hùng (cán bộ giảng dạy trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội) từ phòng thí nghiệm của trường Đại học Tổng hợp Lomonosov ở Moskva cũng đã tạo dòng vô tính thành công trên đối tượng con cá chạch, cách 20 năm trước khi con cừu Dolly ra đời Thành công trong việc nhân dòng một loài động vật là sự kết hợp tài tình của 4 kĩ thuật: (1) nuôi cấy tế bào riêng rẽ tách từ các bộ phận khác nhau ví dụ tuyến vú, tủy xương, biểu bì, (2) vi phẫu tế bào loại bỏ nhân của tế bào trứng, thay vào đó là nhân của tế bào nuôi cấy. (3) nuôi cấy phôi bắt đầu từ trạng thái tế bào trứng tới phôi đa bào (4) cấy chuyền phôi vào dạ con của động vật mang, phôi phát triển thành thai và đẻ ra con vật non. Kết quả nhân dòng này thu được một con vật giống mẹ, nhưng không phải giống hoàn toàn vì DNA của tế bào cũng có trong ti thể còn lại trong phần tế bào chất của trứng sau khi loại bỏ nhân. Đến nay tuy rằng con cừu Dolly đã qua đời nhưng đã có hàng chục loài động vật đã nhân bản vô tính như bò, lợn, chó, mèo, thỏ, ngựa và đặc biệt là chuột chuyển gene, chủ yếu định hướng phục vụ y học và các nghiên cứu vai trò của gene. Trên quan điểm kinh tế thì kĩ thuật nhân dòng hàng loạt một số giống cây trồng hay vật nuôi siêu sản đều mang lại hiệu quả rất lớn, nhưng xét theo khía cạnh an toàn sinh học thì tiềm ẩn mối hiểm họa làm giảm sự đa dạng kiểu gene sẽ bị đơn điệu hóa và thiếu mất sự phong phú đa dạng về tính chống
  14. 222 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung chịu. Nhưng cái lợi vẫn đang thắng thế. Bởi lẽ, nhiều động vật hoang dã đang có nguy cơ diệt chủng và những động vật đã diệt chủng cần có cách để phục hồi lại như ý tưởng của các nhà khoa học Trung Quốc cắt lấy một mẫu da và ngâm vào azote lỏng ở nhiệt độ -196oC, mẫu vật lưu giữ được toàn bộ hệ di truyền. Người ta cho rằng, cách tốt nhất là đông lạnh tinh dịch con đực và trứng con cái để tiến hành việc tạo thành phôi thai. Phôi được ngâm trong azote lỏng chờ “bà mẹ” mang thai hộ (“bà mẹ” phải thuộc loài tương cận). (xem thêm trong chương XI: Bảo tồn và phát triển nguồn gene quí hiếm, mục 2, đoạn: về động vật trang 205). 7. Nuôi cấy tế bào gốc (stem cells) Những năm gần đây, các nhà khoa học đã bắt đầu khám phá những gene, protein và cách thức dẫn đến khả năng tái sinh tự nhiên các bộ phận của động vật. Alejandro Sanchez Alvarado ở Đại học Salt Lake City (bang Utah-Mĩ) nhận xét: “Con người có đủ những gene mà loài giun dẹp sử dụng để tái tạo não, cơ bắp, đầu bị hủy hoại”. David Stoam ở ĐH Purdue (bang Indiana-Mĩ) nghiên cứu Nòng nọc loài cóc Xenopus laevis và cũng nhận xét giống như Sanchez Alvarado. Các loài động vật có khả năng có thể dự trữ suốt đời một ít tế bào gốc để mang ra sử dụng khi cần (giun dẹp, thủy tức, cua, ).Trong cơ thể, tế bào đã trưởng thành có trong mô ít có khả năng biến hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau tạo nên hình dạng các cơ quan mà chỉ có tế bào gốc mới làm được việc này. Năm 2000, Thomas Holstein (Đại học Công nghệ Darmstadt, Đức) đã nhận dạng một loài thủy tức tiết ra protein Wnt vốn là các phân tử của động vật có xương sống và nhận thấy chỉ cần khoảng 10 tế bào cũng đủ tạo thành một các đầu mới.
  15. 223 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung Peter Schultz (viện Nghiên cứu Scripps ở San Diego – bang California, Mĩ) đã tìm cách tổng hợp được một số lượng lớn chất purine (gồm nhiều loại phân từ nhỏ thường liên kết với các protein để tác động vào quá trình phát triển của tế bào). Họ tìm những purine nào đã làm đảo lộn quá trình phân chia ống cơ của chuột và chọn lọc ra một loại purine gọi là hợp chất myoseuerine có chức năng chia tách tế bào để tế bào bắt đầu phân chia. Trong khi đó, Mark Keating (Đại học Y khoa Harwar bang Massachusette, Mĩ) lại quan tâm đến một gene gọi tên là msx1 vốn có chức năng sản xuất một protein kiểm soát hoạt động của các gene khác trong cơ bắp. Khi sa giông bị cắt một đầu chân, chính gene này đã kích thích cho đầu chân mọc lại như cũ. Gene msx1 cũng giữ vai trò tạo thành các chi của phôi thai chuột. Có lẽ một protein nào đó nơi bộ phận bị cụt của sa giông đã có chức năng gợi lại các mạch tín hiệu đã ngủ yên. Nếu nhận dạng được protein này, chắc chắn các nhà khoa học có thể tạo ra tế bào gốc bất kì lúc nào và bất kì ở nơi nào trong cơ thể khi cần thiết. TÕ bµ o g è c -T sẾt BeÀOm GỐC- c e lSTEl sM CELLS Hình XII. Tế bào gốc
  16. 224 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung Như vậy là, trong thế kỉ XXI, y học sẽ có được một công cụ chữa bệnh mới, hữu hiệu cho nhân loại, đó là liệu pháp tế bào. .Khi phôi còn ở giai đoạn rất sớm mới có 8 tế bào thì một tế bào đều có khả năng phát triển thành một phôi hoàn chỉnh hoặc phân hóa thành bất kì loại tế bào nào của cơ thể sau này. Những tế bào này, như ta đã biết được gọi là tế bào gốc nguyên phát. Ở nhau thai một số tế bào cũng còn duy trì được khả năng phân hóa toàn năng và có thể nuôi cấy thành dòng tế bào gốc thứ phát. Tế bào gốc được dùng thành công trong việc tạo ra giác mạc mắt đang dùng trong việc điều trị ghép giác mạc, có thể nuôi thành tế bào cơ tim dùng trong điều trị vết thương tim sau tai biến, có thể thay tế bào tủy xương trong điều trị ung thư máu và hi vọng trong tương lai không xa có thể giúp phục hồi được các mạch máu thần kinh bị hư hại trong điều trị bại liệt hoặc bệnh alzheimer. Người ta hi vọng có thể nuôi tế bào gốc thành các loại cơ quan như gan thận phục vụ việc cấy ghép thay thế cơ quan. Ngân hàng tế bào gốc đầu tiên của nhân loại đã ra đời ở Anh với mục đích là thúc đẩy thật nhanh quá trình nghiên cứu loại tế bào thần kì này. Ngân hàng này đang là niềm hi vọng cho rất nhiều nhà nghiên cứu và người bệnh. Tế bào gốc có khả năng cho phép tạo ra một cơ quan hoàn chỉnh. Đó là tế bào ES mà ngân hàng ở Anh đang có từ những bào thai 6 ngày tuổi. Bằng những kĩ thuật tiên tiến nhất, ngân hàng này sẽ trích được ES, sau đó nhân chúng lên nhờ kĩ thuật ghép hay sinh sản vô tính.(Theo Lê Văn: “Ngân hàng tế bào gốc đầu tiên trên thế giới”), Tạp chí thế giới mới, số 595, tr: 56-59, ra ngày 26/7/2004. Theo tin tức từ Seoul, Hàn Quốc (12/2/2004), các nhà khoa học Hàn Quốc đã nghiên cứu thành công việc nhân bản vô tính phôi người. Từ 245 trứng đã nhân thành 30 phôi. Phôi phát triển từ tế bào gốc và có khả năng phân chia thành tế bào cơ thể. Theo bác sĩ Moon, các nhà khoa học Hàn Quốc không có ý định nhân bản vô tính để hoàn chỉnh một con người mà trong quá trình phân chia phôi thành các cơ quan, các nhà khoa học dùng nó trong việc chữa trị một số bệnh hiểm nghèo. Họ đang thử nghiệm thay thế thần kinh cột sống cho một người đã bị hư hỏng thần kinh cột sống. Triển vọng người này có thể đi lại bình thường mà bao nhiêu năm họ đã nằm nguyên tại chỗ. 8. Điều tra hoạt chất sinh học (bioprospecting) Điều tra thăm dò hoạt chất sinh học trong sinh vật sống có thể mang lại lợi ích to lớn về y dược học và thương mại. Đương nhiên đây là lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, có thể thất bại và cũng có thể thu lợi nhuận rất lớn. Vì thế, các quốc gia đang phát triển thường không đủ tiềm lực về tài chính, về trang thiết bị và đặc biệt về chuyên gia để triển khai công việc này, mặc dù tài nguyên thiên nhiên và tính đa dạng sinh học của các nước
  17. 225 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung này hết sức phong phú và to lớn. Doanh thu lĩnh vực này ở qui mô toàn cầu lên đến 14 tỉ USD hàng năm. Hoạt động điều tra thăm dò hoạt chất đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh nghiệm cổ truyền trong việc sử dụng các động vật, thực vật, nấm và vi sinh vật làm thuốc cũng như những trang thiết bị hiện đại của phân tích hóa học và sinh học. Công việc thường bắt đầu với những nhóm cây con được y học cổ truyền sử dụng, sau đó mở rộng một cách có hệ thống đến các khu vực vườn Quốc gia, tiếp đến là các hệ vi sinh vật sống trong các hệ sinh thái đặc biệt như rừng ngập mặn, kí sinh trên cây dược liệu, trên rong, tảo biển, Về phương pháp tiến hành trước tiên là điều tra tìm hiểu kinh nghiệm sử dụng thuốc của người dân, sau đó tách chiết, thường là các loại dịch chiết, được đưa về phòng thí nghiệm để tiến hành sàng lọc qua các phép thử đặc trưng cho các nhóm thuốc như kháng khuẩn, kháng virus, chữa sốt rét, chữa rối loạn thần kinh, chữa bệnh lao, ức chế sinh trưởng của tế bào ung thư. Rất có thể phải phối hợp nhiều phòng thí nghiệm để tổ chức sàng lọc một cách có hệ thống và có hiệu quả. Những mẫu dương tính sẽ được phân tích hóa học như sắc kí cao áp, điện di, khối phổ để cuối cùng đi đến hoạt chất. Ví dụ, gần đây người ta tìm thấy chất chống HIV gọi là conocurvone trong rễ cây Cotinus coggygria. Rất nhiều quốc gia phát triển hoặc đã công nghiệp hóa (NICs) và các công ti hóa dược chất muốn đầu tư cho loại công việc này. Vì thế, nhiều tổ chức quốc tế đã cho ra đời những văn bản nêu nguyên tắc chung về bioprospecting. 9. Công nghệ nano sinh học (bionanotechnology) Năm 1981, cùng với hai nhà khoa học khác, giáo sư Gerd Binnig (Đức) được trao giải thưởng Nobel Vật lí vì phát minh ra loại kính hiển vi mới không hoạt động bằng nguyên tắc quang học, mà có thể tiếp xúc trực tiếp với các nguyên tử bằng một đầu kim nhỏ xíu. Với phát minh này, GS Binnig đã mở ra cánh cửa dẫn loài người đến một công nghệ siêu nhỏ, còn gọi là công nghệ nano, mà sản phẩm của nó được đo bằng nanometer (phần triệu mm). Ngày nay kính hiển vi không “nhìn“ nguyên tử nữa mà dùng đầu kim nhỏ li ti tiếp xúc trực tiếp và điều khiển các nguyên tử, di chuyển lắp ráp chúng với nhau và như vậy có thể tạo nên bất kì một cấu trúc nào. Mục tiêu lâu dài của các nhà khoa học đặt ra cho công nghệ nano là làm ra các sản phẩm theo cách các sinh vật được tự nhiên sản sinh ra. Trong khi nền công nghiệp hiện nay của chúng ta làm ra các sản phẩm bằng cách cưa, đục, đẽo, phay tiện, thì trong tự nhiên các sinh vật được hình thành theo chu trình nguyên tử-phân tử-protein-tế bào-cơ thể sinh vật. Trong vòng 50 năm nữa công nghệ siêu nhỏ nano sẽ đem lại cho loài người nhiều thay đổi hơn tất cả những thay đổi con người đã từng trải qua
  18. 226 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung từ thời trung cổ đến nay. Trong tương lai công nghệ nano sẽ cho phép chúng ta nạp lên một diện tích rộng bằng một chiếc móng tay lượng thông tin 10.000 gigabyte tương đương với khoảng 15.000 đĩa CD‘. Ngày nay, các chi tiết siêu nhỏ đã có mặt trong rất nhiều các sản phẩm công nghệ cao, trong đó trước tiên phải kể đến các chíp điện tử tí hon. Chúng ta có thể tìm thấy các sản phẩm của công nghệ siêu nhỏ, ví dụ như trong hệ thống phun nhỏ xíu trong máy in phun, được điều khiển bằng điện tử phun ra những giọt mực li ti dạng bụi lên giấy, hệ thống quang học còn gọi là “mắt thần” đọc thông tin trong máy CD, bộ phận cơ tinh xảo trong chiếc đồng hồ siêu mỏng của Thụy Sĩ hoặc đầu đọc siêu nhỏ trong ổ cứng của một máy vi tính. Công nghệ nano sinh học là một lĩnh vực trong công nghệ nano - lĩnh vực đa ngành trong khai thác vật liệu, thiết bị hoặc sản xuất các chất ở phạm vi kích thước tới hạn nằm giữa chiều dài phân tử và bước sóng ánh sáng khả kiến từ 0,1 đến 500 nm. Công nghệ nano sinh học là phương hướng mới cho phép thu nhận những thông tin về hệ thống sinh học ở mức chấm lượng tử, đầu dò kích thước nano tới kích thước một phân tử riêng rẽ dùng trong chẩn đoán bệnh, là phương pháp in stitu mới để cung cấp thông tin tốt hơn về chức năng tế bào, là công nghệ thao tác cải biến 2 chiều và 3 chiều đối với mô và tế bào và vận chuyển, phân phối thuốc hoặc gene vào mô và tế bào thông qua khống chế kích thước hạt, hoạt hóa và giải phóng hoạt chất thuốc thông qua cơ chế và thiết bị như bơm kích thước nano, van tế bào và cơ quan nhân tạo. Trong y học, người ta hi vọng phẫu thuật gene, phẫu thuật tế bào, điều trị tế bào, điều trị gene, tổng hợp gene, chẩn đoán tại tế bào, các hệ thống cơ khí điện tử nano y học còn gọi là “các công cụ nano thông minh”, robot mổ kích thước nano sẽ được đưa ra thực hành trong vòng 20 năm sắp tới. Tuy nhiên, hiện nay cũng đã có một số ứng dụng của công nghệ siêu nhỏ nano trong y học. Ví dụ như: * Một chiếc “máy bào”nhỏ xíu bằng đầu một que diêm được đưa vào cơ thể người, luồn lách trong mạch máu và “nạo vét” lớp cặn bám trên thành mạch. Chiếc máy bào này chuyển động nhờ một động cơ chạy bằng tuốc binh nước có đường kính 2,5 mm. Tất cả chiếc máy kì diệu này được đặt gọn trên đầu một ống sợi tim mạch chuyên phục vụ cho các ca mổ nội soi. * Kéo phẫu thuật từ sợi hợp kim titan và nickel mỏng 0,63 mm, được sử dụng trong ca phẫu thuật thần kinh. Khi thao tác, bác sĩ phẫu thuật không điều khiển kéo trực tiếp bằng tay mà thông qua một hệ thống các nút cảm ứng.
  19. 227 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung * Một “chíp điện tử sinh học” trên một lớp silic rộng chừng vài mm2 có thể chứa đựng được hàng chục vạn phân tử mang những thông tin về gene. Chíp sinh học là một dụng cụ tối ưu phân tích nhanh các mẫu máu và mô để nhanh chóng chẩn đoán các khối u ác tính ngay từ khi trong giai đoạn sớm nhất. * Videocamera siêu nhỏ kích thước 11×30 mm. “Viên thuốc camera” này được bệnh nhân nuốt vào bụng và sẽ cung cấp cho bác sĩ những hình ảnh cụ thể và chính xác về tình trạng bộ máy tiêu hóa của bệnh nhân. * Bằng công nghệ siêu nhỏ nano, các nhà khoa học có thể chế tạo các robot nano chuyên truy tìm các tế bào ung thư tiềm ẩn trong cơ thể người để tiêu diệt chúng. Công nghệ nano sinh học tập trung cho các nghiên cứu sử dụng phân từ DNA dạng chíp làm phương tiện lưu giữ thông tin, tạo khung đỡ 2-3 chiều hỗ trợ sinh trưởng và liền sẹo của mô và tế bào cấy ghép, cung cấp thuốc đến tận điểm mô và tế bào trong điều trị ung thư. Công cụ nano khử chất độc ô nhiễm công nghiệp trong đất, vật liệu composit nano nối xương, dây dẫn bằng protein hay DNA trong động cơ nano. Công tắc DNA điều khiển mạch nano, bản nano trong nghiên cứu hậu giải mã bộ gene, xưởng nano chế tạo phân tử protein. Trong lĩnh vực môi trường các loại hạt nano vừa có thể làm đầu dò vừa xử lí ô nhiễm nguồn nước, theo dõi và báo động về vũ khí hóa học và sinh học một cách lí tưởng và hiệu quả. Đối với Việt Nam, trong điều kiện thực tế về đội ngũ và cơ sở vật chất của mình, chúng ta không thể tiến hành được tất cả những định hướng chung của thế giới. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể của từng vùng, đặc biệt là thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, tùy theo nhu cầu thực tế của địa phương mình có những hướng nghiên cứu cụ thể để phục vụ cho nhu cầu kinh tế xã hội của khu vực và của cả nước. Nhiều nơi cũng có thể nghiên cứu ứng dụng một số mặt sau: * Công nghệ gene: nghiên cứu sự thay đổi genome của người và các sinh vật khác dưới tác động của môi trường, của chiến tranh hóa học. Nghiên cứu đặc điểm genome của các tộc người Việt Nam, trước mắt là các genome ti thể, NST giới tính, góp phần vào việc nghiên cứu y tế dự phòng và điều trị bằng liệu pháp gene. Mở rộng sự hợp tác giữa ngành sinh học và các ngành khác để góp phần hiện đại hóa những nghiên cứu về phân loại và đánh giá tài nguyên sinh vật. Đưa công nghệ gene vào việc nghiên cứu sản xuất vaccine thế hệ mới và sản xuất các kít chẩn đoán bệnh
  20. 228 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung ở người, động vật và thực vật. Từng bước đưa kĩ thuật DNA array vào nghiên cứu và ứng dụng. * Công nghệ enzyme protein: ứng dụng enzyme công nghiệp vào việc chế biến sản phẩm nông lâm ngư nghiệp và làm thuốc chữa bệnh. Đồng thời, nhanh chóng việc nghiên cứu proteomics thành công cụ đắc lực cho việc đánh giá chức năng gene và tìm kiếm những protein có giá trị dược phẩm cao, sản xuất protein tái tổ hợp và chẩn đoán bệnh ở người và gia súc. Miễn dịch học phân tử là một nội dung nghiên cứu sẽ mang lại hiệu quả ứng dụng cao trong sản xuất vaccine và kít chẩn đoán, kháng sinh, vitamin từ công nghệ lên men vi sinh vật và vi sinh vật tái tổ hợp. * Công nghệ vi sinh: - Nghiên cứu tài nguyên vi sinh vật để đánh giá tính đa dạng của chúng ở các hệ sinh thái. Xây dựng bảo tàng vi sinh vật cấp quốc gia như một đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập trong giao dịch và quản lí các chủng giống vi sinh vật. - Đánh giá và khai thác tài nguyên vi sinh vật thông qua profiling các hoạt chất, xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên vi sinh vật. Nghiên cứu lân lập và tuyển chọn các giống có hoạt tính và sản luợng cao. - Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghiệp lên men vi sinh vật thành một ngành sản xuất các loại sản phẩm như nguyên liệu làm thuốc, kháng sinh, vitamin, acid amin, các phụ gia, các chất màu thực phẩm, mĩ phẩm. * Công nghệ tế bào động vật: nghiên cứu công nghệ sinh sản cloning; công nghệ tế bào gốc và cơ sở khoa học của phương pháp trị liệu tế bào; lập bản đồ gene và các tính trạng tốt ở vật nuôi; chuyển gene ở động vật. * Công nghệ tế bào thực vật: nghiên cứu hoàn thiện qui mô công nghiệp và chuyển giao công nghệ nhân giống vô tính cây trồng nông lâm nghiệp (cây ăn quả đặc sản, cây công nghiệp, cây hoa, cây cảnh và cây lâm nghiệp bản địa và cây lai cao sản); từng bước triển khai sử dụng chỉ thị phân tử và lập bản đồ gene vào công tác chọn giống trên cơ sở công nghệ truyền thống và công nghệ tế bào; đưa công nghệ tạo cây chuyển gene vào thực tiễn sản xuất; cải tiến giống cây trồng vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu sinh học, kít chẩn đoán bệnh ở cây trồng và vật nuôi, bảo quản và chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp để tăng giá trị sử dụng và thương mại. * Công nghệ sinh học y dược, sản phẩm của chúng có hàm lượng CNSH cao, chất lượng tốt (nghệ đen, nhân sâm Ngọc Linh, v.v.), những chất có hoạt tính sinh học mạnh ở động vật, thực vật và vi sinh vật. Các vaccine thế hệ mới bao gồm vaccine tế bào, vaccine tái tổ hợp, vaccine
  21. 229 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung DNA. Các loại thuốc điều trị có nguồn gốc protein tái tổ hợp như kháng thể đa dòng và đặc biệt là kháng thể đơn dòng, các loại hormone dạng protein, các protein đặc trị. Các liệu pháp công nghệ cao như liệu pháp gene, liệu pháp tế bào dùng chữa những bệnh hiểm nghèo. Trong thời gian tới CNSH sẽ chú trọng vào việc phục vụ lĩnh vực y dược và an ninh quốc phòng. Cần hợp tác giữa các trường đại học và các viện nghiên cứu để nghiên cứu vaccine tái tổ hợp, di truyền phân tử ở người và kít chẩn đoán bệnh truyền nhiễm và bệnh hiểm nghèo. Trong thời gian tới cần phối hợp với bộ Quốc phòng và bộ Công an để xác định hài cốt liệt sĩ . * Công nghệ sinh học phục vụ môi trường là nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong làm sạch nước thải, khử nitrogen, làm sạch ô nhiễm dầu và kim loại nặng, các phương pháp tẩy các chất độc hóa học, xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị, đào tạo nhân lực nhằm triển khai các nghiên cứu chất lượng cao phục vụ an ninh quốc phòng và dân sinh. * Công nghiệp sinh học (bioindustry). Những lĩnh vực sản xuất chính là:Công nghiệp sinh học y dược (biomidicine) có các nhóm sản phẩm như hormone, thuốc chống ung thư, kháng sinh, thuốc sinh trưởng, thuốc miễn dịch (vaccine) . Công nghệ sinh học hóa chất (biochemicals) có các loại polymer sinh học, acid amin, acid hữu cơ, enzyme công nghiệp, chất màu, hoạt chất bề mặt. Công nghiệp sinh học môi trường (bioenvironmental) bao gồm chế phẩm vi sinh vật dùng làm sạch môi trường, khử sulphate, khí thải, khử trùng và chất kết dính. Công nghiệp sinh học thực phẩm (biofood). Công nghiệp sinh học năng lượng và tài nguyên (bioenergy and resources) bao gồm khí methan sinh học, đông lạnh nhờ CO2, sinh khối quang hợp, khí sinh học, bột giặt vi sinh. Công nghiệp sinh học nông nghiệp và thủy sản (bioagriculture and ocean) tập trung cho giống lai, vaccine thú y, sinh phẩm chẩn đoán, phân bón vi sinh, tài nguyên sinh học biển, nhà máy thức ăn chăn nuôi. Công nghiệp sinh học chế biến (bioprocessing) và kĩ nghệ sinh học (bioengineering) bao gồm qui trình công nghệ lên men, kĩ thuật nuôi cấy tế bào động vật, kĩ thuật nuôi cấy tế bào thực vật nhằm tăng hệ số nhân giống những cây đặc sản, bản địa, những cây có giá trị kinh tế cao, phục vụ cho sản xuất và đời sống. Công nghệ sinh học kiểm định (bioevaluation and verification systems) bao gồm công nghệ đánh giá hiệu quả và độ bền vững, biosensor, biochip, công nghệ chẩn đoán, thiết bị kiểm định sinh học. Rõ ràng, CNSH là cái chìa khóa mở đường cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nói chung và cuộc cách mạng CNSH nói riêng đã thu hút nhiều người trên trái đất này tham gia vào sự nghiệp cao cả đó.
  22. 230 CNSH với việc phát triển bền vững Trương Văn Lung TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Trần Bình, 2003. Định hướng nghiên cứu và triển khai của viện Công nghệ sinh học. Báo cáo khoa học Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 16-17 tháng 12 năm 2003. Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 48-51 2. Lê Trần Bình, 2004. Những thành tựu nổi bật trong nghiên cứu cơ bản của khoa học sự sống trong 10 năm qua. Báo cáo khoa học Hội nghị toàn quốc Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 17-22. 3. Phạm Hữu Giục, 1999. Định hướng phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến 2010. Báo cáo khoa học Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 9-10 tháng 12 năm 1999. Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 37-46. 4. Phạm Hữu Giục, Lê Minh Sắt, 2003. Các chính sách và định hướng phát triển công nghệ sinh học thời gian tới ở Việt Nam. Báo cáo khoa học Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 16-17 tháng 12 năm 2003. Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 44-47. 5. Nguyễn Ngọc Kính, 1999. Chương trình kĩ thuật – kinh tế về công nghệ sinh học đến năm 2010.Báo cáo khoa học Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 9-10 tháng 12 năm 1999. Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 47-51. 6. Trần Duy Quí, 2003. Chương trình nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học: thành tựu và thách thức. Báo cáo khoa học Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 16-17 tháng 12 năm 2003. Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 39-43. 7. Lê Văn, 2004. Ngân hàng tế bào gốc đầu tiên trên thế giới, Tạp chí Thế giới mới, số 595, tr: 56-59. 8. Đỗ Năng Vịnh, 1999. Một số thành tựu và hướng phát triển của công nghệ tế bào thực vật có triển vọng ứng dụng ỏ nước ta. Báo cáo khoa học Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 9-10 tháng 12 năm 1999. Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tr: 62-70.