Báo chí - Truyền thông có nhạy cảm giới

pdf 136 trang vanle 2930
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo chí - Truyền thông có nhạy cảm giới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_chi_truyen_thong_co_nhay_cam_gioi.pdf

Nội dung text: Báo chí - Truyền thông có nhạy cảm giới

  1. TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo tháng 6 2011
  2. TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI 1
  3. MỤC LỤC 3 LỜI NĨI ĐẦU 6 CHUYÊN ĐỀ 1: Nhạy cảm giới trong truyền thơng phịng chống bạo lực gia đình 18 CHUYÊN ĐỀ 2: Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 33 CHUYÊN ĐỀ 3: Gĩc nhìn giới trong tin, bài về thể thao 44 CHUYÊN ĐỀ 4: Cơng bằng giới khi truyền thơng về lao động việc làm 56 CHUYÊN ĐỀ 5: Giới và tình dục trên các phương tiện truyền thơng 68 CHUYÊN ĐỂ 6: Quan điểm giới trong việc phản ánh vấn đề phụ nữ lấy chồng ngoại quốc 81 CHUYÊN ĐỀ 7: Cách nhìn nhận trên báo chí về sự thành cơng hay thất bại của nam và nữ 96 CHUYÊN ĐỀ 8: Thơng tin trên báo chí về người nổi tiếng 111 CHUYÊN ĐỀ 9: Thơng điệp về giới qua hình ảnh và ngơn từ quảng cáo 125 NHỮNG TIÊU CHÍ VỀ NHẠY CẢM GIỚI TRONG TRUYỀN THƠNG 127 PHỤ LỤC 2 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  4. LỜI NĨI ĐẦU Gửi các nhà báo và các bạn cĩ mong muốn trở thành nhà báo! Là nhà báo, chúng tơi tin rằng, mơ ước của các bạn là cĩ được những bài viết ấn tượng mang đến sự thay đổi tích cực và tiến bộ cho xã hội. Đã cĩ rất nhiều kinh nghiệm được truyền đi từ các thế hệ đi trước về kỹ năng của người làm báo, ví dụ làm sao tiếp cận được những người nổi tiếng, làm sao “chớp” được những thơng tin thật đắt; giật tít thế nào để thu hút người đọc; ngơn từ diễn đạt ra sao để khiến người xem, người nghe phải xĩt thương đến rơi nước mắt hoặc căm tức cái ác, cái xấu đến độ phải nghĩ đến hành động gĩp phần vào thay đổi Nhưng chắc các bạn cũng đồng ý với chúng tơi rằng, dù tạo được ấn tượng thế nào đi nữa, bài báo chỉ cĩ giá trị khi nĩ gĩp phần thúc đẩy sự phát triển bằng những giá trị nhân văn và tuân thủ pháp luật. Dẫu cĩ sử dụng bao nhiêu thủ pháp, kỹ thuật cĩ độc đáo, nội dung mới lạ đến mấy, nhưng nếu bài báo thể hiện quan điểm lạc hậu, thậm chí sai kiến thức và phạm luật, thì chắc chắn đĩ khơng phải là một bài báo được dư luận đồng tình và khuyến khích. Nghề báo là cơng việc thú vị nhưng cũng luơn phải đối mặt với nhiều thách thức. Một trong các thách thức đĩ là người làm báo phải cĩ kiến thức đa ngành, đa lĩnh vực. Áp lực về thời gian, sức ép về tính hấp dẫn và sự chính xác của thơng tin đã khiến cho quyền lực song hành với hiểm nguy đã trở thành một đặc trưng trong nghề báo của LỜI NĨI ĐẦU 3
  5. các bạn. Chính vì tất cả những điều đĩ mà nhà báo luơn cần các cộng tác viên thân thiết, những người bạn, những người đồng hành để cung cấp tư liệu về những vấn đề mà họ chuyên sâu. Vấn đề giới khơng phải là quá mới ở Việt Nam trong một vài năm gần đây, nhưng thế nào là bình đẳng giới một cách thực chất thì vẫn cịn là vấn đề gây nhiều tranh luận. Truyền thơng cĩ sức mạnh đặc biệt, gĩp phần làm cho xã hội hiểu đúng hơn về bình đẳng giới. Do vậy, kiến thức và kỹ năng truyền thơng về giới của các nhà báo là điểm cốt lõi tạo nên sức mạnh này. Trong hơn 1 năm qua, Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về Giới – Gia đình - Phụ nữ & Vị thành niên (CSAGA) và Oxfam đã luơn đồng hành cùng các nhà báo qua những bản tin nhặt sạn về giới như một người thư ký trung thành và tận tuỵ. Những ý kiến được bàn bạc, trao đổi qua các bản tin đã mang lại những giá trị nhất định, mà trước hết là sự cảm nhận của chúng tơi về sự tâm huyết và mong muốn của các nhà báo gĩp phần thay đổi xã hội theo hướng bình đẳng và nhân văn hơn. Đáp ứng nguyện vọng của các đồng nghiệp, nhà báo và sinh viên báo chí trong việc củng cố kiến thức về giới, gĩp phần tháo gỡ phần nào những khĩ khăn trong việc truyền thơng tăng cường bình đẳng giới, chúng tơi biên soạn cuốn sách Truyền thơng cĩ nhạy cảm giới trên cơ sở 21 bản tin đã phát hành. Trong khuơn khổ hạn hẹp của tài liệu này (gồm 9 chuyên đề), chúng tơi khơng kì vọng đề cập một cách đầy đủ và sâu sắc các kiến thức và kĩ năng truyền thơng cĩ nhạy cảm giới, mà chỉ cĩ thể quan tâm tới một số khía cạnh cơ bản nhất. Chúng tơi hy vọng từ những thơng tin và những gợi ý ở đây, các nhà báo, phĩng viên cĩ thể tham khảo và vận dụng kiến thức về truyền thơng nhạy cảm giới một cách chủ động, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu tác nghiệp của mình. Để hồn thành cuốn tài liệu này, CSAGA đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tổ chức cá nhân cĩ cùng mối quan tâm. Nhân đây, chúng tơi trân trọng gửi lời cảm ơn đến tổ chức OXFAM đã hỗ trợ kinh phí 4 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  6. và đĩng gĩp ý kiến cho chúng tơi trong quá trình hồn thiện cuốn sách. Chúng tơi cũng xin chân thành cảm ơn bà Phạm Thu Hiền – Th.s. Giảng viên Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, người đã đồng hành cùng CSAGA trong vai trị cố vấn chuyên mơn về Giới, cùng tất cả các bạn đã cĩ những gợi ý, đĩng gĩp và khuyến khích chúng tơi trong cơng việc cịn nhiều bỡ ngỡ, khĩ khăn. Những khuyến khích ấy là động lực để chúng tơi tiếp tục làm cơng việc âm thầm và khơng phải lúc nào cũng nhận được sự ủng hộ. Chúng tơi mong muốn nhận được đĩng gĩp ý kiến của tất cả bạn đọc để cuốn sách được hồn thiện và trở nên hữu ích hơn. Vì tương lai tốt đẹp, các nhà báo hãy cùng nỗ lực hơn nữa để hướng tới một xã hội bình đẳng giới, khơng cịn bạo lực trên cơ sở giới. Chúc các bạn thành cơng! Thay mặt nhĩm biên soạn TS. Trịnh Thị Bích Liên LỜI NĨI ĐẦU 5
  7. CHUYÊN ĐỀ 1 Nhạy cảm giới trong truyền thông phòng chống bạo lực gia đình 6 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  8. Trên thế giới cũng như Việt Nam, Bạo lực gia đình (BLGĐ) được ghi nhận là hiện tượng khá phổ biến và nhận được sự quan tâm đặc biệt của nhiều cơ quan, tổ chức trong những năm gần đây. Thực tế này đặt ra tính cấp thiết của cơng tác truyền thơng nâng cao nhận thức cho cơng chúng nhằm từng bước đẩy lùi BLGĐ. Bạo lực gia đình là một trong những vấn đề nhạy cảm, phức tạp và khĩ nhận diện. Khơng ít người trong số chúng ta, trong đĩ cĩ người làm truyền thơng đã từng nhìn nhận sai lệch về bản chất của BLGĐ, coi BLGĐ là vấn đề “riêng tư” hay mâu thuẫn trong gia đình. Vì vậy, BLGĐ thường chỉ được xem xét, giải quyết dưới gĩc độ thương lượng và hịa giải mâu thuẫn. Theo cách giải quyết đĩ, người bị bạo lực thường ở thế buộc phải nhẫn nhịn, chịu đựng, chấp nhận hoặc bỏ qua những hành vi bạo lực. Người gây bạo lực khơng được tác động tích cực nên dễ dàng tiếp tục những hành vi bạo lực “leo thang”. Hệ quả kéo theo là BLGĐ tồn tại dai dẳng, khơng được giải quyết triệt để; người bị bạo lực khơng được xã hội bênh vực và người gây ra bạo lực khơng bị lên án. Trên thực tế, đứng trước một vụ BLGĐ, chúng ta cần xem xét tồn bộ các khía cạnh, bao gồm: Động cơ của người gây bạo lực? Những ai bị ảnh hưởng trong những sự việc đĩ? Ai là người chịu trách nhiệm trước hành vi của mình? Chúng ta cĩ thể loại bỏ Bạo lực gia đình bằng cách nào? Đối với các nhà báo, việc trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng truyền thơng về BLGĐ cĩ thể tạo nên sự khác biệt quan trọng trong việc giúp đỡ cộng đồng nhận thức đúng đắn về BLGĐ và khuyến khích cơng chúng tích cực chống lại những vấn nạn này. Từ những kinh nghiệm làm việc của tổ chức, chúng tơi xin chia sẻ với các bạn một số lưu ý về nhạy cảm giới trong việc truyền thơng phịng chống BLGĐ. CHUYÊN ĐỀ 1 | Nhạy cảm giới trong truyền thơng phịng chống bạo lực gia đình 7
  9. Nhìn nhận BLGĐ là hệ quả của mâu thuẫn hay cơn nĩng giận là cách nhìn phiến diện, 1. thiếu chính xác Một số nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân của BLGĐ nằm trong thái độ gia trưởng và niềm tin của người gây bạo lực rằng họ là chủ gia đình nên cĩ quyền áp đặt ý muốn và quyền hạn đối với mọi thành viên khác trong gia đình1. Hầu hết các vụ BLGĐ đều cĩ cả một quá trình lâu dài. Khi dùng cụm từ “xuất phát từ mâu thuẫn vợ chồng” hoặc “do nĩng giận” để mơ tả quan hệ bạo lực, vơ hình chung chúng ta đã quy trách nhiệm gây ra bạo lực thuộc cả hai phía, che khuất một thực tế là người gây ra bạo lực phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Mâu thuẫn nhiều khi chỉ là cái cớ làm thổi bùng bản chất sự việc vốn bị che đậy khá tinh vi mà khơng phải ai cũng nhận ra, do vậy, việc nhầm lẫn giữa cái cớ và nguyên nhân cĩ thể dẫn đến những thơng tin sai lệch cho bạn đọc. Chẳng hạn, một số tít bài như: “Giết vợ vì khơng cho tiền mua rượu”, “Mâu thuẫn sát hại vợ”, “Cãi nhau chồng sát hại vợ”, “Cãi nhau, dùng dao đâm chết vợ”, “Mâu thuẫn gia đình, bẫy điện giết vợ”, “Giết vợ vì khơng cho bán thĩc”, “Giết vợ vì từ chối yêu”, “Giết vợ vì hai lít bia và một câu nĩi” Đây là những tít bài ngắn gọn và gây được sự chú ý, tị mị đối với người đọc. Tuy nhiên, nhìn dưới gĩc độ giới, cách đặt tít bài theo lối “nguyên nhân - hệ quả” theo suy đốn của nhà báo, vơ tình chúng ta đã chuyển đến cho bạn đọc một thơng điệp: bạo lực do những yếu tố bên ngồi tác động, khơng liên quan đến niềm tin, mong muốn quyền lực của người gây bạo lực. Những thơng tin ngộ nhận này khiến cho người đọc cĩ thể chỉ biết 1. Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam được -Chính phủ Việt Nam và UNESCO-2010. 8 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  10. đến hiện tượng bên ngồi của vấn đề mà khơng hiểu được bản chất hay động cơ đằng sau những hành vi đĩ là gì. Dù các nhà báo khơng cố ý, những tít bài trên đây cĩ thể gieo vào người đọc ý nghĩ: Nếu như nạn nhân thỏa mãn được nhu cầu của người gây bạo lực thì điều đáng tiếc cĩ thể đã khơng xảy ra. Thực tế đã chứng minh bạo lực là “hành vi cố ý” nhằm vào người bị hại, do vậy, để đảm bảo an tồn cho tính mạng của mình hoặc con cái, tại thời điểm gay cấn, người bị bạo lực cĩ thể phải thỏa hiệp một số điều của người gây bạo lực. Song, nếu cam chịu, thỏa mãn mọi điều kiện của người gây bạo lực sẽ gĩp phần tiếp tay cho những hành vi sai trái và củng cố niềm tin cho người gây bạo lực rằng việc làm của họ là đúng. Với người làm báo, việc đặt tít cĩ ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Đơi khi người đọc khĩ cĩ thể nắm bắt hết nội dung của bài viết, nhưng câu từ sắc nét được thể hiện ở tít bài cĩ thể được ghi nhận và tác động sâu sắc đến nhận thức của người đọc về lâu dài. Vì lẽ đĩ, người viết càng nên cẩn trọng trong việc đặt tít bài, nhất là đối với các chủ đề nhạy cảm như BLGĐ. Ngồi ra, người viết cũng cần tránh lý giải BLGĐ là do sự thiếu khả năng kiểm sốt cơn nĩng giận của vợ/chồng, như: “Vào tuổi con cháu đề huề nhưng trong phút nĩng giận khơng làm chủ được bản thân, ơng Trần Văn Chiến đã gây ra án mạng. Bà Lê Thị Dậu, vợ ơng bị chết dưới những nhát búa oan nghiệt. Vụ án xảy ra gây bàng hồng với những người xung quanh vì nguyên nhân xuất phát từ mâu thuẫn vợ chồng khá nhỏ” (Báo ngoisao.net ngày 8/7/2009). Hay : “Do mâu thuẫn vợ chồng, Thuý đã chém nhiều nhát vào mặt, đầu vợ khiến chị chết tại chỗ” (báo www.cand.com.vn ngày 18/6/2009). Thực tế thì người gây ra bạo lực thường tỉnh táo, luơn luơn chủ động và kiểm sốt được tình thế chứ khơng phải “bị bỏ bùa mê thuốc lú” hay “con ma” điều khiển. Đưa ra cách lý giải như trên, nhà báo đang vơ tình làm giảm nhẹ hành vi phạm tội cũng như xem bạo lực nằm ngồi tầm kiểm sốt của người gây bạo lực. CHUYÊN ĐỀ 1 | Nhạy cảm giới trong truyền thơng phịng chống bạo lực gia đình 9
  11. Ý nghĩa khuyến cáo khơng đầy đủ nếu phản ánh BLGĐ trong phạm vi, tính chất 2. của một vụ án BLGĐ diễn ra trong một tiến trình và là hệ quả của sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình. Giết người hay gây thương tích cho nạn nhân là hành động cực điểm trong chuỗi hành động tội ác mà kẻ gây bạo lực sử dụng để thể hiện quyền lực và khống chế bạn đời hay người thân của mình từ trước đĩ. Việc chỉ dừng lại mơ tả hành vi BLGĐ tại thời điểm xảy ra thương tích hay cái chết của nạn nhân khiến người đọc nhìn nhận nĩ như một hành vi mang tính bột phát, nằm ngồi sự kiếm sốt của kẻ gây tội. Điều này “vơ tình” bao biện cho hành vi cố ý của người gây bạo lực cũng như giảm tính “nghiêm trọng” của vấn đề. Một số cách viết như thế này khơng thực sự phát huy hiệu quả cho những tin bài về BLGĐ: “Tối ngày 21-6, Thảo và vợ là Trần Thị Cư tranh cãi về chuyện Thảo nhậu nhẹt, bỏ bê cơng việc gia đình. Đến 21 giờ cùng ngày, sau khi đi nhậu về, Thảo dùng dao phát rẫy chặt vào chân trái của chị Cư rồi tiếp tục dùng gỗ đánh chị trọng thương phải cấp cứu bệnh viện Đa khoa huyện Núi thành. Hiện vụ việc đang được cơng an huyện Núi Thành điều tra xử lý” (báo tuoitreonline ngày 10/7/2007). “Chị Thuyên vừa khĩc vừa kể “ hai vợ chồng mới cưới được hai năm mà chồng tơi liên tục lừa dối, hành hạ, đánh đập tơi. Đêm 16/4 vừa qua chỉ vì bất hồ nhỏ mà anh đánh đập tơi dã man, cịn gào lên địi đánh cho chết. Mọi người vào can ngăn anh ấy cịn vung tay đánh tơi ngất xỉu ” quá thất vọng, vì chồng và gia đình 10 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  12. chồng, vừa qua chị Thuyên đã hồ 1,5 muỗng (cà phê) thuốc diệt chuột vào sữa cho bé Vy uống trước, cịn chị uống thuốc chuột tự tử gấp đơi con mình. Rất may hai mẹ con chị được phát hiện đưa đi súc dạ dày và uống thuốc giải độc kịp thời nên thốt chết” (báo tintuconline, tháng 4/2007). Những thơng tin trên đáp ứng tính nĩng hổi của sự việc, tuy nhiên người viết cần tìm hiểu tồn bộ tiến trình của chuỗi các hành vi bạo lực giúp người đọc cĩ thơng tin đầy đủ. Bởi BLGĐ cĩ tính chu kỳ và leo thang. Từ những hành vi tưởng chừng như đơn giản nhất như một cái tát cũng cĩ nguy cơ tiềm ẩn hàng loạt những hành vi bạo lực khác. Người viết cĩ thể đặt cho mình một số câu hỏi: Trước đĩ người chồng đối xử với vợ như thế nào? Các hành vi đĩ cĩ liên quan với nhau khơng? Nguyên nhân dẫn đến hành vi đĩ? Hãy tìm ra mối liên hệ giữa các hành vi bạo lực và cảnh báo với bạn đọc những nguy cơ tiềm ẩn từ những hành vi đơn giản nhất nhưng lại bộc lộ bản chất thể hiện quyền lực của người gây BLGĐ. BLGĐ là do sự bất bình đẳng giới, do sự chênh lệch giữa vị thế của nữ giới so với nam giới trong xã hội. Người viết cần lý giải nguyên nhân sâu xa đĩ cho bạn đọc. Đĩ cũng là một cơ hội truyền thơng hiệu quả về BLGĐ trong cộng đồng. Hơn nữa, BLGĐ là một hành vi nhằm thể hiện quyền lực của người này đối với người kia trong gia đình. Nĩ là một quá trình và cĩ tính chu kỳ. Nếu người gây ra bạo lực cĩ thể thực hiện hành vi bạo lực lần thứ nhất cĩ thể sẽ thực hiện những lần tiếp theo sau đĩ. Mức độ của hành vi cĩ thể tăng dần khi ham muốn khẳng định quyền lực của người gây bạo lực lớn dần. Vì thế, thay vì phán xét chủ quan, các nhà báo nên truyền tải đến bạn đọc những thơng tin đầy đủ và chính xác nhằm giúp người đọc hiểu đúng nguyên nhân sâu xa gây bạo lực. Nếu người bị bạo lực luơn cam chịu và người gây bạo lực khơng hiểu được hành vi vi phạm pháp luật, thì bạo lực sẽ luơn leo thang và đơi khi nạn nhân phải trả giá bằng tính mạng. Việc đưa tin quá ngắn gọn cũng khiến tính cảnh tỉnh của bài báo chưa cao và người đọc cũng khơng biết phải làm gì để thay đổi hiện trạng. Sẽ tốt hơn nhiều CHUYÊN ĐỀ 1 | Nhạy cảm giới trong truyền thơng phịng chống bạo lực gia đình 11
  13. nếu sau những tin ngắn, các trang báo cĩ thêm những bài viết mang tính phân tích, đánh giá để giúp cơng chúng hiểu hơn về bản chất của BLGĐ với những hành vi bạo lực nghiêm trọng và dai dẳng đã dồn người phụ nữ đến chân tường. Cĩ như thế, bài báo mới tạo nên những động cơ thay đổi tích cực cho người bị bạo lực và người gây bạo lực cũng như cộng đồng nĩi chung. Giai đoạn tích lũy căng thẳng bắt đầu với sự giận dữ, quát mắng và căng thẳng gia tăng. Người gây bạo lực trở nên cáu kỉnh, dễ bị kích thích, ích kỷ, khĩ tính và trở nên dễ phản ứng tiêu cực với bất kỳ các lỗi thơng thường nào. Giai đoạn bạo lực là sự Giai đoạn ngọt ngào bùng nổ bạo lực của người là giai đoạn ăn năn, hối gây bạo lực. hận và cảm thấy thương yêu trong vịng tuần hồn bạo lực. Tiếp theo sự bùng nổ bạo lực cĩ chủ ý, người gây bạo lực cầu xin tha thứ và hứa sẽ thay đổi. Người gây bạo lực thuyết phục nạn nhân và tự họ cũng thấy rằng lời hứa là chân thật. Ẩn chứa ở đây là niềm tin cho rằng họ đã được bào chữa cho hành động của mình. Nạn nhân thỉnh thoảng rút lại yêu cầu truy cứu vì họ đã hi vọng sai lầm rằng người gây bạo lực sẽ khơng làm thế nữa. Nguồn: Tập huấn cho cán bộ các cơ quan hành pháp và tư pháp chống Bạo lực gia đình. UNODC _ Cục Chính trị Cảnh sát- Bộ Cơng an _ Vụ Pháp luật HC& HS-BTP. Hà Nội 2009. 12 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  14. Ngơn ngữ chỉ trích, đổ lỗi cho người bị bạo lực 3. gĩp phần làm BLGĐ gia tăng Một trong những nguyên tắc quan trọng khi xem xét các trường hợp BLGĐ là người gây ra bạo lực phải chịu hồn tồn trách nhiệm về hành vi của mình. Cĩ thể nạn nhân mắc những sai lầm nhưng người gây bạo lực khơng cĩ quyền xâm phạm đến thân thể cũng như tước đi sự tự do của họ. Để tránh gây cho cơng chúng những ngộ nhận về BLGĐ, chúng ta cần tránh kiểu phân tích như sau: “Thực tế cũng cĩ những người vợ quá yếu kém. Chẳng hạn khi bước chân về nhà chồng chưa cĩ nghề nghiệp. Phải sống bám vào vào nhà chồng khơng cĩ kỹ năng nội trợ, khơng biết đối nhân xử thế và khơng biết pháp luật. Họ an phận như một cái bĩng bên chồng, cái bĩng ấy ngày càng mờ nhạt, buồn tẻ và yếu ớt Vì thế họ bị chồng chán và càng khinh nhờn, chồng xem như cái bị để anh ta trút giận khi cần”. (Hạnh phúc gia đình số 14/09 ngày 3/4/2009). Cách viết này của bài báo đã bênh vực người nam giới và quy trách nhiệm về phía người phụ nữ đối với hành vi bạo lực do chồng gây ra. Đọc bài này, rất cĩ thể người đọc sẽ hiểu muốn giải quyết vấn đề bạo lực cần phải tập trung cải tạo cách nĩi năng và cư xử của người phụ nữ. Và đương nhiên, nhận thức sai lầm như vậy sẽ tạo cơ sở cho những ngụy biện của người đàn ơng gây bạo lực và sự tự quy kết tội lỗi cho mình của người phụ nữ. Hệ quả là một mối quan hệ giới được nhìn nhận theo chiều hướng: lý đúng luơn thuộc về người đàn ơng. CHUYÊN ĐỀ 1 | Nhạy cảm giới trong truyền thơng phịng chống bạo lực gia đình 13
  15. Trên các báo hiện nay vẫn xuất hiện khơng ít cách diễn đạt theo kiểu quan hệ “nhân - quả” theo suy đốn của người viết như: Chồng giết vợ vì bị từ chối “yêu” hay “bị cáo Nguyễn Tấn Trung, đã bĩp cổ giết vợ mình là Cao Thị Nga, khiến đứa con 7 tuổi thành trẻ mồ cơi chỉ vì từ chối “quan hệ vợ chồng” Thực chất của sự việc ở đây là người vợ bị bạo lực tình dục (Theo Luật Phịng chống BLGĐ). Người vợ khơng đồng thuận với ý muốn quan hệ tình dục của chồng, song người đàn ơng đã dùng sức mạnh và quyền lực để thực hiện hành vi “cưỡng ép quan hệ tình dục”. Việc ơng ta bĩp cổ vợ đến chết khơng chỉ nhằm thoả mãn dục vọng mà cịn nhằm chứng tỏ một thứ quyền sở hữu tuyệt đối trong quan hệ hơn nhân và tình dục. Tuy nhiên, cách viết như trên đã khiến dư luận chú ý tới hành vi từ chối của người vợ hơn hành vi cưỡng ép tình dục của người chồng. Vì vậy, thay vì lên án mạnh mẽ đối với người gây bạo lực thì cơng chúng rất cĩ thể quay sang trách cứ nạn nhân. Để tránh duy trì những ngộ nhận sai lầm về BLGĐ, chúng ta cần chú ý trong việc lựa chọn câu từ, cũng như cẩn trọng trong cách nhìn nhận đánh giá vấn đề. Việc sử dụng những từ ngữ chỉ trích, đổ lỗi, khơng chỉ cĩ nguy cơ biện minh cho hành động của người gây bạo lực mà cịn cĩ nguy cơ làm mất niềm tin, triệt tiêu sức mạnh và mong muốn của nạn nhân BLGĐ trong những nỗ lực đấu tranh cho lẽ phải. 14 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  16. BLGĐ hồn tồn cĩ thể được 4. chung tay giải quyết Việc miêu tả các hành vi bạo lực đối với phụ nữ bằng những từ ngữ mang sắc thái u ám, khiến độc giả cảm thấy bế tắc và khơng tìm được lối thốt. Điều này cũng làm cho khơng ít người âm thầm chịu đựng những cảnh bạo lực do vợ/chồng gây nên. BLGĐ khơng phải là vấn đề nội bộ của một gia đình, đĩ là vấn đề của xã hội. Cộng đồng hồn tồn cĩ thể cĩ những động thái tích cực giúp người gây ra bạo lực được nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi. Vì thế, người làm báo cần cung cấp cho bạn đọc những cách thức, khả năng của từng cá nhân tham gia hỗ trợ nạn nhân BLGĐ, cũng như tham gia vào chiến dịch phịng chống BLGĐ. CHUYÊN ĐỀ 1 | Nhạy cảm giới trong truyền thơng phịng chống bạo lực gia đình 15
  17. Nhạy cảm giới Là việc nhận thức được các nhu cầu, vai trị, trách nhiệm khác nhau của nam giới và phụ nữ; hiểu được sự khác nhau đĩ do đâu mà cĩ và những điểm khác nhau này cĩ thể dẫn tới sự khác nhau về mức độ tham gia, cống hiến, hưởng thụ, phát triển của mỗi giới.1 Bạo lực gia đình Là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc cĩ khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục và kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.2 1. Một số thuật ngữ về giới và bình đẳng giới, Ban luật pháp chính sách – Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Cơng ty tư vấn đầu tư Y tế, 2009. 2. Luật Phịng chống Bạo lực gia đình, 2007. 16 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  18. Một số lưu ý khi thu thập và đưa tin các vụ án BLGĐ: 1. Gọi đúng thuật ngữ BLGĐ khi đưa tin các vụ án mạng giữa các cặp vợ - chồng, bạn tình. Hạn chế sử dụng những cách gọi vụ việc là: “mâu thuẫn gia đình”, “cuộc tranh cãi”, “mối bất hịa” hoặc “hậu quả của ghen tuơng” vì chúng làm nhẹ đi tính chất hung bạo, phạm pháp của hành vi. 2. Đánh giá, xem xét những tác động cụ thể của tất cả các yếu tố cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội trong từng trường hợp BLGĐ. Điều này vừa cĩ giá trị cảnh báo với người gây bạo lực vừa tạo nên niềm tin vững chắc đối với việc đẩy lùi BLGĐ. 3. Nhìn nhận BLGĐ trong một quá trình và theo các chu kỳ. Các vụ án mạng BLGĐ chỉ là một hành động sau cùng của hàng loạt các hành động khác. BLGĐ là kiểu hành vi leo thang, hãy cảnh báo với bạn đọc từ những hành vi đơn giản nhất của BLGĐ. Hãy nhấn mạnh những dấu hiệu cho thấy một ai đĩ đang bị BLGĐ và cĩ thể cĩ xu hướng gia tăng. 4. Tránh mơ tả BLGĐ chỉ là một “vấn đề mâu thuẫn, bất hồ” của mối quan hệ cá nhân trong gia đình. 5. Tránh đặt ra những câu hỏi, câu khẳng định cĩ hàm ý đổ lỗi cho nạn nhân. Hãy tập trung vào người gây bạo lực và trách nhiệm của họ về hành vi của mình. 6. Tránh miêu tả BLGĐ như một bi kịch khơng lối thốt, ngồi tầm kiểm sốt của cộng đồng. Người đọc sẽ cĩ cảm giác tuyệt vọng và cảm thấy bất lực trước hiện tượng xã hội đĩ. Trong khi đĩ, trên thực tế, mọi người cĩ thể cĩ đĩng gĩp quan trọng để giải quyết BLGĐ trong cộng đồng. 7. Hãy cung cấp những nguồn hỗ trợ tin cậy cho nạn nhân BLGĐ. CHUYÊN ĐỀ 1 | Nhạy cảm giới trong truyền thơng phịng chống bạo lực gia đình 17
  19. CHUYÊN ĐỀ 2 Mẫu hình văn hoá về giới trên các phương tiện truyền thông đại chúng 18 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  20. Những thay đổi về quan niệm sống, thang giá trị đạo đức và mẫu hình văn hố trong thời hiện đại là đề tài tốn nhiều giấy mực và khiến cho tất cả chúng ta - những người yêu văn hĩa Việt phải trăn trở. Đối với người làm báo, viết thế nào để phản ánh đúng bản chất những giá trị văn hố tốt đẹp, đồng thời lên án nhằm xố bỏ những quan niệm, suy nghĩ lạc hậu ẩn dưới nhãn mác của cái gọi là “giá trị văn hĩa” hay “truyền thống văn hĩa” làm cản trở quyền bình đẳng, tiến bộ của nam giới và phụ nữ là một yêu cầu đặt ra đối với người làm báo. Trong phần này chúng tơi hi vọng sẽ mang lại cho các bạn những gợi ý hữu ích, phục vụ trực tiếp cho những bài viết của các bạn về chủ đề này. Giới: Đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội1 Thuật ngữ giới hiện cĩ nhiều định nghĩa khác nhau. Bên cạnh định nghĩa trong Luật Bình đẳng giới nêu trên, một định nghĩa khác cũng được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu giảng dạy về giới là: “Giới là một thuật ngữ nĩi về vai trị, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ, bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích”.2 Nếu như giới tính là các đặc điểm sinh ra đã cĩ, các đặc điểm giới của nam và nữ được hình thành và phát triển trong quá trình lớn lên của mỗi cá nhân do sự tương tác của cá nhân với mơi trường văn hố, xã hội (gia đình, nhà trường, thơng tin đại chúng, ).3 1. Luật bình đẳng giới, ngày 29/11/2006. 2. Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ & UNDP, “Tài liệu tập huấn giảng viên về Phân tích giới và lập kế hoạch dưới gĩc độ giới” tháng 6 năm 1998. 3. Ban luật pháp chính sách – Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Cơng ty tư vấn đầu tư Y tế, “Một số thuật ngữ về giới và bình đẳng giới”, 2009. CHUYÊN ĐỀ 2 | Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 19
  21. Tránh ca ngợi phẩm chất hi sinh như một thuộc tính 1. dành riêng cho nữ giới Hi sinh, biết sống vì người khác là một giá trị, dành cho mọi giới, mọi lứa tuổi. Nhưng ca ngợi đức tính hi sinh đến mức xem nĩ như một thuộc tính dành cho nữ giới thì dường như chúng ta đang cổ suý cho sự bất bình đẳng. Khi chỉ cĩ sự hi sinh một chiều của người phụ nữ thì rõ ràng nhiều người trong số họ đã và đang phải “tự nguyện” từ bỏ những cơ hội phát triển, và cuộc đời của ai đĩ lại bắt đầu được xây dựng từ nền tảng sự hi sinh đĩ. Chúng ta cùng suy nghĩ về quan niệm sau đây về đức hi sinh của người phụ nữ Việt Nam: “Làm mẹ là thiên chức cao cả của người phụ nữ trong mọi thời đại, tuy nhiên, trong xã hội phong kiến Việt Nam, do điều kiện kinh tế, xã hội cĩ những ràng buộc nhất định, để thực hiện được thiên chức làm mẹ, người phụ nữ đã phải phấn đấu, hy sinh nhiều gấp bội. Trong gia đình, trong mối quan hệ họ hàng làng xĩm, người phụ nữ Việt Nam luơn hy sinh, nhường nhịn, nhận phần thua thiệt về bản thân mình. Chính những phẩm chất đảm đang, nhân hậu, nghĩa tình, thủy chung đã xây dựng nên những người mẹ hy sinh quên mình vì con cái (bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn), những người vợ hết mình vì chồng, vì gia đình” =17775&lang=VN Với cách diễn đạt của bài báo, người đọc cĩ thể hiểu: đã là phụ nữ, tức là phải biết hi sinh. Bất kể sự hi sinh đĩ cĩ thể khiến bạn bị tổn thương, thậm chí làm mất cơ hội phát triển bản thân. Khi chúng ta 20 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  22. khẳng định sự hi sinh một chiều của người phụ nữ cĩ nghĩa là chúng ta làm cho xã hội khơng chờ đợi sự hy sinh của nam giới – đĩ chính là lý do để khơng ít người đàn ơng bao biện cho hành vi “được quyền hưởng sự hy sinh” của người vợ. Khi cảm thấy chưa đạt được cảm giác “cĩ đặc quyền”, họ sẽ thể hiện quyền lực của mình bằng hành vi bạo lực. Điều này cĩ thể tạo nên những thĩi quen lâu dài và gây tổn thương đến khơng ít người phụ nữ. Thực tế cho chúng ta thấy, khơng ít phụ nữ đã tự nguyện hi sinh nhu cầu, mong muốn của bản thân cho những thành viên khác trong gia đình. Và cũng khơng ít trường hợp, phụ nữ bị rơi vào tình thế bắt buộc. Sự hy sinh của họ là do áp lực từ phía gia đình và xã hội. Trong tình thế đĩ người phụ nữ cần tới sức mạnh của cộng đồng, đặc biệt là sức mạnh của truyền thơng để cởi bỏ những định kiến, khuơn mẫu phi lý về giới. Thay vì ca ngợi một chiều đức tính hy sinh của phụ nữ, bài báo cần khơi dậy trách nhiệm của mọi thành viên trong gia đình, chúng ta mong muốn mọi người, cả phụ nữ và nam giới, đều cĩ cơ hội phát triển, cùng được sống trong sự chia sẻ và yêu thương. Quả thực cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp hơn biết bao nhiêu, nếu khơng ai trong số chúng ta phải hy sinh “hạnh phúc và khát vọng” của riêng mình. Chúng tơi tin truyền thơng cĩ đĩng gĩp quan trọng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc, tiến bộ và bình đẳng. Vai trò giới Các chức năng của nam và nữ theo quan niệm của xã hội. Vai trị giới cĩ thể thay đổi tuỳ thuộc vào từng điều kiện và hệ thống xã hội cụ thể, và việc thực hiện các vai trị này cũng thay đổi tuỳ điều kiện của từng cá nhân.1 1. Ban luật pháp chính sách – Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Cơng ty tư vấn đầu tư Y tế, “Một số thuật ngữ về giới và bình đẳng giới”, 2009. CHUYÊN ĐỀ 2 | Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 21
  23. Địi hỏi phụ nữ phải thụ động, yếu đuối và luơn biết thua kém 2. chồng là một sự bất cơng Trong chương trình Sức sống mới, ngày 6/11/07 về chủ đề Phụ nữ làm cơng tác khoa học, khi giới thiệu một gương phụ nữ giỏi cơng nghệ thơng tin, MC đã nêu những câu hỏi: “Khi sang Pháp chị đã từng làm nhiều việc dành cho nam giới chị cĩ thể kể về những việc đĩ khơng ạ?”; “Tham gia trong lĩnh vực của nam giới cĩ gặp được nhiều thành cơng hay khơng?” Sau đĩ là những lời bình: “Phụ nữ bao giờ cũng thế, nĩi khơng là cĩ, nĩi cĩ là khơng”; “phụ nữ bao giờ cũng dễ hồi hộp trước những quyết định quan trọng. Anh nghĩ gì trong các cuộc chơi trước người ở lại cuối cùng ít khi là phụ nữ” Thật khơng cơng bằng khi cho rằng lĩnh vực cơng nghệ thơng tin là lĩnh vực dành cho nam giới. Câu hỏi của MC đã mặc định sự phân biệt về khả năng của nam và nữ. Những lời bình sau đĩ đã bao hàm phụ nữ là những người yếu đuối, đáng thương và dễ dao động. Văn hĩa phong kiến đã từng giáo dục phụ nữ phải biết tỏ ra yếu đuối, nữ tính để cĩ một cuộc sống suơn sẻ. Thay vì việc thể hiện mình đủ năng lực, quyết đốn cĩ thể đảm nhiệm những vị trí xứng đáng, khơng ít người lại cư xử một cách gián tiếp – “dịu dàng nữ tính”, và bỏ qua các cơ hội dành cho mình. Họ khơng muốn mình bị đánh giá là kẻ tranh giành quyền lực với nam giới. Thực tế cho thấy đây chính là một trong những nguyên nhân cản trở cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp của nữ giới. Truyền thơng tiến bộ cần giúp cơng chúng hiểu rằng phụ nữ hơm nay hồn tồn cĩ thể chủ động vươn lên làm chủ cơng việc và cuộc sống của mình. 22 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  24. Việc diễn đạt hàm chứa định kiến giới, khuơn mẫu tiêu cực về giới cĩ nguy cơ mặc định những phẩm chất “yếu thế”, phụ thuộc của phụ nữ, hạ thấp vai trị, vị thế của phụ nữ trong gia đình cũng như xã hội. Cũng như vậy, trong một bài báo trên VnExpress ngày 24/9/2009, phĩng viên đã hỏi ca sĩ Hồng Ngọc: Thơng thường, phụ nữ hy sinh sự nghiệp để đứng sau đàn ơng, trong khi ở gia đình chị thì ngược lại. Chị nghĩ thế nào về điều này? Với cách đặt câu hỏi như vậy, tác giả đã tự mặc định rằng người nam giới hi sinh cho sự nghiệp phụ nữ là bất thường. Và để cĩ được hạnh phúc, người vợ luơn phải biết tìm cách hạ thấp mình đi. Thực tế thì sự thành cơng mà Hồng Ngọc cĩ được là do những nỗ lực khơng mệt mỏi của chị cùng với sự ủng hộ, yêu thương và chia sẻ của người chồng. Lẽ ra trong trường hợp này, phĩng viên nên tập trung ca ngợi tài năng, sự độc lập của chị bên cạnh sự ủng hộ nhiệt tình của người chồng. Như thế, tấm gương Hồng Ngọc vượt qua những khuơn mẫu truyền thống sẽ gĩp phần xây dựng hình mẫu văn hố mới về người phụ nữ và nam giới, cĩ tác dụng khích lệ những người khác dũng cảm hơn trong việc đấu tranh với những định kiến, khuơn mẫu tiêu cực về giới, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Hiện nay, cũng cịn khơng ít người cho rằng, phụ nữ tỏ ra thấp kém hơn chồng là một cách khiến người đàn ơng cảm thấy tự tin về bản thân và sẽ chung thuỷ với vợ mình hơn. Tuy nhiên, mỗi cá nhân cần hiểu rằng, tơn trọng bản thân cũng là cách để họ bộc lộ sự yêu thương với bản thân mình cũng như tạo nên sức hấp dẫn đối với người khác. Trong trường hợp của bài báo trên, người làm báo cĩ thể đề cập nhiều hơn đến thành cơng của Hồng Ngọc, những đĩng gĩp của cơ đối với cơng chúng cũng như khẳng định vai trị của người chồng trong mỗi bước đường của chị. Với cách thể hiện như vậy, chúng tơi tin rằng, bài báo khơng chỉ tơn vinh phụ nữ, mà cả nam giới, tơn vinh giá trị tạo nên niềm hạnh phúc của mỗi gia đình. CHUYÊN ĐỀ 2 | Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 23
  25. Chăm sĩc gia đình khơng phải 3. là sứ mệnh của riêng phụ nữ 24 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  26. Chúng ta hãy cùng suy ngẫm về quan điểm sau đây được đưa ra trong bài báo “Sứ mệnh vẫn ở trong nhà” (Tintuconline ngày 12/10/2009): “Khi người phụ nữ lo toan cho gia đình thì khơng phải chỉ gia đình ấy được lợi, mà là tồn xã hội được hưởng. Vậy mà nhiều phụ nữ bây giờ cho là khơng cần thiết, là cơng việc lao động cĩ thể đem“gia cơng” được, chuyển giao cho các dịch vụ, cho ơsin. Xã hội đã “chuyên nghiệp hố” vào tận phịng ngủ của con người. Sứ mạng phụ nữ khơng thay đổi, cho dù họ cĩ thay đổi đến mấy để đáp ứng thực tế. Vì vậy, nếu phụ nữ hiểu sâu sắc điều này thì tồn xã hội sẽ hưởng lợi to lớn từ những cơng việc tỉ mỉ lo toan vén khéo trong gia đình của họ.” Bài viết đã thể hiện một thơng điệp rõ ràng là sứ mạng của phụ nữ là chăm sĩc thành viên khác trong gia đình. Những cơng việc như nấu cơm, giặt giũ, tắm rửa cho con được xem là “thiên chức” khơng thể chối bỏ của người phụ nữ. Cách nghĩ này cũng tương tự khi mặc định đàn ơng cũng phải là người kiếm tiền chính trong gia đình. Trong trường hợp, người đàn ơng khơng thể kiếm tiền nhiều hơn vợ, nghĩa là anh ta khơng được tơn trọng. Chúng ta hiểu rằng, việc cởi bỏ những khuơn mẫu tiêu cực về giới trong xã hội là khơng dễ dàng và càng khơng thể diễn ra một sớm một chiều. Tuy nhiên, nếu cĩ nhạy cảm giới, các nhà báo hồn tồn cĩ thể tránh được việc đưa những quan điểm gĩp phần củng cố những định kiến sai lầm về giới như trong bài báo trên đây. Thực tế, phụ nữ hay nam giới đều cĩ những khả năng, cơ hội và trách nhiệm như nhau trong việc chăm sĩc gia đình cũng như kiếm tiền nuơi sống gia đình. Vì vậy, người làm báo cần phân tích sâu hơn, giúp độc giả hiểu rằng khi nam giới hay nữ giới bận rộn với cơng việc, họ cần sự chia sẻ cơng việc gia đình của người bạn đời. Họ cần được khuyến khích, động viên để khơng tuột khỏi những cơ hội phát triển mà họ cĩ thể phải trả giá đắt chỉ vì thiếu sự chung tay và san sẻ trách nhiệm của người bạn đời. Tương tự trong chương trình Hãy chọn giá đúng ngày 29/09/2010, MC đã động viên người chơi “Chị ở nhà thì nội trợ, anh ở nhà thì đi CHUYÊN ĐỀ 2 | Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 25
  27. làm nhưng anh lại đưa ra giá sản phẩm. Tơi nghĩ rằng anh đã giúp đỡ chị rất nhiều, khơng chỉ trong cơng việc nội trợ mà cịn việc đốn giá ngày hơm nay”. Cĩ thể MC khơng hồn tồn cĩ cái nhìn sai lệch về vai trị giới, song việc thiếu cẩn trọng trong lời dẫn, ngơn từ được sử dụng theo thĩi quen hoặc sự thuận miệng như trên đã vơ tình khắc sâu thêm khuơn mẫu giới. Khi bạn với tư cách là một nhà báo truyền hình, đứng trước ống quay, mọi lời nĩi của bạn đều cĩ thể tác động đến hàng ngàn người xem truyền hình. Đơi khi những nhận định chủ quan của bạn lại trở thành niềm tin của khơng ít khán giả trẻ. Việc lựa chọn ngơn từ khơng mang dấu ấn của khuơn mẫu giới là điều mà các nhà báo rất đáng quan tâm. 26 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  28. Khơng thể xem phụ nữ cĩ tội 4. khi họ giỏi hơn chồng Trong bài báo cĩ tiêu đề “Tội” giỏi hơn chồng (Chuyên san Hạnh phúc gia đình ngày 26/11/2010) tác giả kể về chuyện người vợ khơng được phân cơng phụ trách chiếc máy xay sát của gia đình. Tuy nhiên, vì chị cĩ những hiểu biết nhất định về máy mĩc, kỹ thuật nên khi thấy chiếc máy cĩ dấu hiệu trục trặc, chị đã nhắc chồng xem xét, người chồng khơng nghe nên chị tự gọi thợ tới sửa, và kết quả là cái máy khắc phục được sự cố, trở lại hoạt động tốt. Lẽ ra người chồng phải vui hoặc bằng lịng với cách làm của vợ, thì vì chuyện này mà anh lại quay ra tự ái, giận vợ bởi chị đã thể hiện sự “giỏi hơn” chồng Tồn bộ những chi tiết được sắp xếp như vậy cùng với từ “tội” đặt ở tiêu đề bài báo (được sử dụng theo nghĩa chuyển đổi sắc thái), khiến người đọc trong tâm thế chờ đợi từ bài báo một cái nhìn tiến bộ, bênh vực người phụ nữ, song chủ kiến của người viết được bộc lộ lại khơng theo hướng đĩ, mà dưới dạng những lời khuyên dành cho các chị em: “ Lẽ ra vợ khơng nên xơng vào giải quyết mà nên chờ chồng giải quyết phần việc của anh ấy, sốt ruột cũng phải chịu vậy, đừng giục giã, đừng xơng vào làm phần việc của người ta và cũng đừng bao giờ trách mĩc lại càng khơng bao giờ nhận cơng lao về mình, đỗ lỗi và phần kém về chồng mình” Một điều dễ nhận thấy là thơng điệp của bài báo muốn nhắc nhở chị em phụ nữ cần trau dồi, nâng cao hơn về kỹ năng ứng xử trong gia đình trong các tình huống. Kỹ năng ứng xử vơ cùng quan trọng, CHUYÊN ĐỀ 2 | Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 27
  29. nhưng với những gì được thể hiện trong đoạn trích trên đây, nhất là việc sử dụng những nhã ngữ hoặc động từ mạnh, bài báo khơng chỉ làm thơng tin chệch hướng, mà cịn khắc sâu thêm định kiến giới rằng phụ nữ khơng nên làm cơng việc kỹ thuật – được cho là “lĩnh vực” của nam giới. Thái độ của người chồng trong câu chuyện kể trên cĩ thể là hình ảnh mà chúng ta cĩ thể gặp trong cuộc sống đời thường, nhưng thay vì phê phán thái độ của người nam giới, bài viết lại quay sang trì chích phụ nữ. Đĩ là sự khơng cơng bằng. Cĩ lẽ cơng chúng và những ai quan tâm tới truyền thơng nâng cao bình đẳng giới, sẽ khơng khỏi băn khoăn về cái gọi là “giải pháp nhường đường” hoặc “chờ đợi để mọi người quen với bình đẳng giới” được nêu ra cho phái nữ ở đây. Cĩ thể trong xã hội hiện nay, vẫn cĩ những người đàn ơng bị rơi vào trạng thái tự ái, tức giận như người đàn ơng trong câu chuyện bởi họ quen nghĩ rằng vợ mình khơng được phép lấn sân, vượt mặt chồng. Song để tránh điều đĩ mà chúng ta chỉ địi hỏi phía phụ nữ phải nỗ lực “nhượng bộ chồng” thì liệu cĩ thay đổi được những định kiến giới cịn bám dai dẳng trong suy nghĩ của nhiều người hay khơng? Những người đàn ơng cĩ cách hành xử giống như nhân vật trong câu chuyện cần được giúp đỡ tích cực để họ sớm hiểu và cảm nhận rằng việc vợ chồng chia sẻ cơng việc là cần thiết. 28 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  30. Cần xố bỏ định kiến giới về 5. gia đình đơn thân Trong tháng 10/2009, một loạt báo Lao động, VN Express, Tintuconline đưa tin về việc nghệ sĩ hài Xuân Hương trả lại giải thưởng trong cuộc thi nấu ăn cho gia đình điểm 10 kèm theo hình ảnh nghệ sĩ đang khĩc nức nở. Trong số đĩ, khơng cĩ một bài báo nào cung cấp những thơng tin cho độc giả về sự sai lầm của Ban tổ chức. Các bài báo hầu hết đều cung cấp thơng tin nghệ sĩ Xuân Hương được mời tham gia cuộc thi, chị đã cùng con trai và em gái thực hiện bài thi nấu ăn rất xuất sắc. Nhưng đến khi trao giải, thì chị nhận được những lời nĩi mang tính xúc phạm rằng gia đình chị “khơng đầy đủ” và chị hiện “khơng cĩ chồng” nên khơng xứng đáng được nhận giải. Việc nhận thức của một số thành viên trong Ban tổ chức cĩ thành kiến sai lầm về gia đình là chuyện cĩ thật trong xã hội. Vấn đề là báo chí khơng nên chỉ cung cấp thơng tin về hiện tượng đĩ mà cần phải phân tích để dư luận phê phán và thay đổi những hành vi tương tự. Một người phụ nữ khơng may mắn trong đời sống lứa đơi nhưng vẫn thành cơng trong cơng việc, nuơi dạy con trai trưởng thành và biết chia sẻ cơng việc với mẹ, chị đáng được khen ngợi. Chị đã vượt qua những định kiến thơng thường để đến với một cuộc thi mang tính xã hội. Hình ảnh Xuân Hương tươi cười cùng con trai mặc tạp dề nấu ăn trong cuộc thi sẽ cĩ ý nghĩa khích lệ sự vươn lên của những người cùng cảnh ngộ. Sẽ tốt hơn nhiều nếu bài báo đưa ra những bình luận về nghị lực và sự tự tin của người phụ nữ này cũng như phê phán thái độ kỳ thị của CHUYÊN ĐỀ 2 | Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 29
  31. một số thành viên trong Ban tổ chức. Đồng thời các khái niệm mới về gia đình cũng nên được cung cấp cùng với những điều khoản của Luật Bình đẳng giới để chỉ ra những vi phạm cĩ thể xảy ra khi hành xử như vậy của Ban tổ chức. Bức ảnh nghệ sĩ nấu ăn cùng con trai trơng rạng rỡ sẽ cĩ ý nghĩa tích cực hơn là hình ảnh chị đang khĩc vì bị xúc phạm. Chúng ta đều mong muốn cĩ cuộc sống hạnh phúc, cĩ một gia đình trọn vẹn, nhưng vì lý do nào đĩ vẫn cĩ những gia đình thiếu bố hoặc mẹ. Chúng ta khơng nên nhìn vào bề ngồi của một gia đình để phán xét về đạo đức con người. Trong trường hợp này, bài báo cần phê phán cách làm của Ban giám khảo cuộc thi, đồng thời đưa ra những bình luận về nghị lực, sự tự tin cũng như những đĩng gĩp của nghệ sĩ đối với xã hội. 30 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  32. Khuôn mẫu giới Là những hình ảnh lý tưởng về nam tính hay nữ tính dùng để nhìn nhận một con người dựa trên sự tổng hợp đơn giản các thuộc tính của nhĩm, của giới mà người đĩ quy thuộc. Ví dụ: Về tính cách, nam giới phải mạnh mẽ, táo bạo, dũng cảm, đầy tham vọng, luơn ở thế tiến cơng và phải biết kiềm chế cảm xúc. Cịn nữ giới thì phải dịu dàng, tế nhị, dễ bộc lộ tình cảm, đảm đang, thụ động, phụ thuộc. Về năng lực, nam giới thường được tin là những người giỏi khoa học tự nhiên, làm việc thiên về kỹ thuật, cĩ đầu ĩc tư duy sáng tạo và họ thích hợp với vai trị làm chủ gia đình, xã hội. Cịn nữ giới được tin là những người thích hợp với cơng việc nhẹ nhàng, khéo léo, địi hỏi sự kiên nhẫn, tỉ mỉ, đặc biệt cĩ “thiên chức” nội trợ. Về vai trị xã hội, mỗi giới bị mặc định cho một vài cơng việc được coi là thích hợp cho giới đĩ. Chẳng hạn phụ nữ thích hợp làm y tá, nội trợ, thư ký, người trơng trẻ Cịn nam giới được tín nhiệm làm chủ gia đình, giám đốc, người kiếm tiền Khuơn mẫu giới là một trong những căn cứ để duy trì định kiến và phân biệt đối xử theo giới. Tuy nhiên khuơn mẫu giới và định kiến giới khơng phải là một. Khuơn mẫu giới thường liên quan đến quan niệm, niềm tin từ cuộc sống thường nhật; cịn định kiến giới liên quan đến thái độ, cảm xúc của cá nhân đối với những khuơn mẫu đĩ và thường mang hàm ý xấu, tiêu cực, một chiều.1 1. Trần Thị Minh Đức (chủ biên) - Định kiến và phân biệt đối xử theo giới – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. CHUYÊN ĐỀ 2 | Mẫu hình văn hố về giới trên các phương tiện truyền thơng đại chúng 31
  33. Để xây dựng mẫu hình văn hố tích cực về giới, người làm báo cần lưu ý: 1. Tránh mặc định một loại phẩm chất, đạo đức ví dụ như hi sinh, chịu đựng, mạnh mẽ, quyết đốn là thuộc tính riêng của một giới nào đĩ. 2. Khi viết về một nhân vật nào đĩ, nên tập trung nhiều hơn đến tư cách, đạo đức và sự đĩng gĩp của họ đối với cộng đồng; khơng nên áp đặt họ với những vai trị của ơng bố, bà mẹ trong gia đình. 3. Nên khuyến khích những mẫu hình văn hố thể hiện bình đẳng giới, phù hợp với sự phát triển tiến bộ , văn minh của xã hội. 4. Cần thể hiện rõ quan điểm gia đình hạnh phúc khơng nhất thiết phải là gia đình cĩ đầy đủ cả vợ lẫn chồng. 5. Tránh củng cố suy nghĩ khi vợ thành đạt, chồng sẽ thành người đàn ơng kém cỏi. 6. Khuyến khích sự chia sẻ của cả vợ và chồng trong cuộc sống gia đình và ủng hộ cho phát triển sự nghiệp. 7. Tránh việc tách biệt “lĩnh vực riêng” của mỗi giới, vì thực tế phụ nữ và nam giới đều cĩ thể tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách tốt nhất một khi họ được khuyến khích. 32 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  34. CHUYÊN ĐỀ 3 GÓC NHÌN GIỚI TRONG TIN, BÀI VỀ THỂ THAO CHUYÊN ĐỀ 3 | Gĩc nhìn giới trong tin, bài về thể thao 33
  35. Olympic cổ đại bắt nguồn từ năm 776 trước Cơng nguyên theo lệnh vua Iphitos của thành Elis. Theo tác giả Tony Perrottet trong quyển The naked Olympics (dẫn lại từ U.S. News & World Report 9-8-2004) Olympia thủa xa xưa chỉ dành cho những người đàn ơng danh giá của dịng dõi người Hi Lạp, khơng cĩ sự gĩp mặt của phụ nữ. Thậm chí thành phố Elis đưa ra luật rằng bất kỳ phu nhân nào bị phát hiện tại trận sẽ bị ném xuống vách đá. Khoảng năm 393 sau Cơng nguyên, hồng đế La Mã Theodosius I đã hủy bỏ thế vận hội này. Đến năm 1896, nam tước Pierre de Coubertin đã phục hồi Đại hội Olympia, khẳng định quyền tự do tham gia đối với tất cả mọi người, khuyến khích hoạt động thể thao trên phạm vi tồn thế giới. Nhưng Coubertin cũng phản đối sự tham gia thế vận hội của nữ giới. Phải bốn năm sau, 1900, lần đầu tiên phụ nữ được phép tham dự Thế vận hội. Gần 3000 năm phụ nữ mới được xuất hiện trong các cuộc thi đấu với vai trị của một vận động viên. Và cũng kể từ đĩ, con đường đấu tranh bình đẳng giới trong thể thao đã cĩ một chặng đường dài. Sau hơn 100 năm, nữ giới đã khẳng định năng lực của mình trong lĩnh vực thể thao, họ cĩ mặt ở hầu hết các bộ mơn thi đấu, từ những mơn từng là chốn “độc quyền” của nam giới cho đến những mơn thể thao vốn được mặc định dành cho nữ giới. 34 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  36. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, áp lực của chuẩn mực văn hố truyền thống ở nhiều quốc gia (nữ giới thường được mong đợi sẽ trở nên nữ tính, khéo léo, cịn nam giới cần mạnh mẽ, nam tính) đã khiến nữ giới khơng cĩ nhiều cơ hội trong việc lựa chọn mơn thể thao mà họ yêu thích. Khơng những vậy, trên các phương tiện truyền thơng, phần lớn những tin tức nĩng hổi về thể thao đều dành nĩi về các vận động viên nam và thành tích của họ. Điều đĩ khiến khơng ít người quan niệm thể thao là lĩnh vực độc quyền của nam giới. Truyền thơng đĩng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc thay đổi những nhận thức sai lệch này. Để giúp cơng chúng cảm nhận và tin rằng thể thao là “sân chơi” cho tất cả mọi người, dưới đây là một số gợi ý từ gĩc nhìn giới. CHUYÊN ĐỀ 3 | Gĩc nhìn giới trong tin, bài về thể thao 35
  37. Hãy cùng loại bỏ những 1. “hài hước” xúc phạm phụ nữ Với từ khố “Phụ nữ và thể thao” bạn cĩ thể tìm được hàng nghìn kết quả trên trang web tìm kiếm. Bạn cứ thử lần lượt mở khoảng 20 trang thì ít nhất cũng cĩ tới hàng chục trang đăng tải những truyện cười tục tĩu về phụ nữ và thể thao. Trong những câu chuyện ấy, phụ nữ thường được ví như những dụng cụ thể thao khác nhau theo từng lứa tuổi và nam giới là người chơi những dụng cụ này. Dường như trong mắt người kể chuyện, nữ giới và thể thao đều cĩ sức hút đối với nam giới và nam giới luơn là người chủ động chinh phục các cuộc chơi đĩ. Mặc dù kết quả này khơng phản ánh quan điểm của báo chí Việt Nam về thể thao và phụ nữ, song nĩ cho thấy một thực tế, vẫn cịn một số lượng lớn các tin tức được đăng tải trên mạng đã thể hiện sự thiếu nghiêm túc và quan điểm lệch lạc về thể thao từ gĩc nhìn giới. Cĩ thể một số bạn đọc sẽ cho rằng, đĩ chỉ là những câu chuyện cười, khơng cĩ hàm ý gì, nhưng giả sử nếu thay tồn bộ những từ ngữ chỉ nữ giới bằng những từ chỉ nam giới thì liệu câu chuyện cịn gây cười nữa khơng? Hay câu chuyện chỉ gây cười khi nĩ gợi người đọc liên tưởng tới những bộ phận thuộc hình thể của nữ giới? Tĩm lại, những câu chuyện cười dựa trên sự khác biệt về giới tính, đặc biệt là dựa trên những quan điểm tiêu cực về nữ giới luơn tiềm ẩn nguy cơ hạ thấp vị thế của người phụ nữ. Người làm báo, tồ soạn báo cĩ thể tỏ thái độ tích cực của mình bằng cách khơng đăng bài hoặc khơng ủng hộ những câu chuyện cười tương tự. 36 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  38. Định kiến giới Nhận thức, thái độ và sự đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ. Định kiến giới hiện nay thường theo xu hướng mang lại đặc quyền, đặc lợi cho nam giới và làm cho người phụ nữ bị yếu thế. Định kiến giới gây áp lực cho cả nữ lẫn nam và là nguyên nhân gốc rễ của bất bình đẳng nam nữ trong xã hội.1 1. Ban luật pháp chính sách – Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Cơng ty tư vấn đầu tư Y tế, “Một số thuật ngữ về giới và bình đẳng giới” 2009. CHUYÊN ĐỀ 3 | Gĩc nhìn giới trong tin, bài về thể thao 37
  39. Tránh lạm dụng hình ảnh nữ vận động viên trong 2. trang phục gợi cảm Vẫn với từ khĩa “phụ nữ” và “thể thao”, chúng ta cũng cĩ thể tìm được khá nhiều bài báo viết về thành cơng của các nữ vận động viên. Tuy nhiên, khơng ít trang báo sử dụng những bức hình nữ vận động viên trong những trang phục gợi cảm thái quá. Điều này khiến cho hình ảnh nữ giới được hiện diện như những biểu tượng mang chức năng gợi dục. So với nam vận động viên, nữ vận động viên thường được khai thác vẻ đẹp hình thể hơn là tính chuyên nghiệp của người làm nghề. Ví dụ tờ Thể thao của Sài gịn giải phĩng số 349 ra ngày 25/12/2009 cĩ 39 bài và chuyên mục thể thao, trong đĩ cĩ 01 bài viết về tiền thưởng của đội bĩng đá nữ (cỡ bài 15 x 7,5cm). Bên cạnh đĩ là hình ảnh nữ vận động viên quần vợt Anna Kournicova trong trang phục và tư thế gợi cảm với tiêu đề “gĩc ảnh đẹp”. Một số trang báo mạng khai thác khía cạnh gợi tình về hình thể của các nữ vận động viên nước ngồi theo kiểu “10 người đẹp nĩng bỏng nhất làng thể thao thập kỷ qua” với hầu hết các tư thế trên giường ngủ và trong trang phục bikini nhỏ nhất của các nữ vận động viên này. Cĩ thể thấy, một hiện tượng khá phổ biến (trong mối liên hệ giữa phụ nữ và thể thao), đĩ là truyền thơng cĩ xu hướng khai thác vẻ đẹp hình thể của nữ giới, “câu” lượng “truy cập” của người đọc/xem nhiều hơn là khắc họa nữ vận động viên với tư cách là một vận động viên chuyên nghiệp. 38 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  40. Cũng như nam giới, một vận động viên nữ chuyên nghiệp chắc chắn mong muốn được ca ngợi về kỹ thuật hay kỹ năng nghề nghiệp của họ, vì thế khi giới thiệu về nữ vận động viên, người làm báo nên tập trung vào những đĩng gĩp thành cơng hơn là tập trung sự chú ý vẻ đẹp gợi cảm của họ. Phân biệt đối xử về giới Là việc hạn chế, loại trừ, khơng cơng nhận hoặc khơng coi trọng vai trị, vị trí của nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.1 1. Ban luật pháp chính sách – Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Cơng ty tư vấn đầu tư Y tế, “Một số thuật ngữ về giới và bình đẳng giới” 2009. CHUYÊN ĐỀ 3 | Gĩc nhìn giới trong tin, bài về thể thao 39
  41. Cần đánh giá đúng mức đĩng gĩp của 3. vận động viên nữ Việc mất cân đối về tần suất đưa tin về hình ảnh nam giới và nữ giới trong thể thao đã thể hiện sự thiếu quan tâm của giới truyền thơng cùng với việc đánh giá chưa đúng về những đĩng gĩp của nữ giới cho nền thể thao nước nhà. Năm 2009, sau chiến thắng của đội tuyển bĩng đá nữ tại SEAGAMES 25, một sự kiện cĩ ý nghĩa đối với thể thao nước nhà, nhưng họ chưa nhận được sự quan tâm xứng đáng của giới truyền thơng. Trên Tạp chí Thể thao văn hố cuối tuần số 51/2009 cĩ tổng số 22 bài viết về thể thao, trong đĩ chỉ cĩ 1 bài về thể thao nữ, nhưng là bài viết về sự thua cuộc của đội nữ Thái Lan. Tạp chí Thể thao văn hố cuối tuần số 52/2009 với tổng số 24 bài viết thể thao nhưng chỉ cĩ một bài về hình ảnh đội bĩng đá nữ với nội dung về vấn đề tiền thưởng của thể thao nĩi chung. Độc giả dễ dàng nhận thấy hình ảnh chủ đạo là những quan chức nam đang trao giải thưởng cho đội bĩng đá nữ. Tương tự như vậy, đối với báo Thể thao và văn hố hàng ngày số 360/2009 với 27 bài và chuyên mục về tin tức thể thao chỉ cĩ 1 bài về chiến thắng của đội nữ, nhưng cũng chỉ nĩi đến chuyện tiền thưởng. Bài báo cũng cĩ một vị trí và kích thức khiêm tốn trong trang báo: 15 x 12,5cm trong khi bài về bĩng đá nam cỡ 28 x38cm. Mặc dù tiền thưởng cũng là vấn đề đáng được quan tâm để ghi nhận sự đĩng gĩp của các nữ động viên, song với số lượng đưa tin quá ít về các vận động viên nữ và sự đơn điệu về nội dung đưa tin, người đọc cảm nhận rất rõ sự thiên vị của giới truyền thơng đối với nam động viên. Cĩ thể đĩ là sự phản ánh thực tế của xã hội dành cho các vận động viên nam, song truyền thơng cần làm nhiều hơn thế, nhất là với vai trị định hướng dư luận xã hội, làm cho 40 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  42. cơng chúng cĩ cái nhìn đầy đủ và cơng bằng hơn về năng lực, đĩng gĩp của phụ nữ trong lĩnh vực thể thao. Trong các tờ báo nĩi trên, chúng tơi khơng tìm thấy bài viết nêu gương những cá nhân xuất sắc trong đội tuyển nữ, hay ngợi ca kỹ thuật, chiến thuật của đội bĩng đá nữ, mặc dù đội bĩng đã đem về vinh quang cho đất nước. Trong khi đĩ, bạn cĩ thể bắt gặp các gương mặt tuyển thủ nam trong nước và quốc tế tràn ngập trên các tờ báo. Những cống hiến của nữ giới trên lĩnh vực thể thao là khơng nhỏ so với nam giới. Nhưng những gì họ nhận được (tiền thưởng, chế độ bảo hiểm, sự ghi nhận, sự vinh danh của xã hội trên thực tế và được phản ánh qua truyền thơng, ) lại chưa thực sự xứng đáng với những cống hiến của họ. Sự cống hiến của họ cịn chứa đựng sự hy sinh mà họ cĩ thể phải trả giá cho niềm đam mê, cho vinh quang Tổ quốc, sau mỗi cuộc thi trở về với cuộc sống đời thường. Khơng chỉ báo in, trên các kênh truyền hình cũng vậy, thành cơng của phụ nữ trong thể thao hầu như chưa được quan tâm đúng mức, hoặc nếu cĩ quan tâm thì những thơng tin cốt lõi về giới lại bị bỏ qua một cách đáng tiếc. Đơn cử như trong chương trình Ai là triệu phú được phát sĩng đúng vào ngày 8/3/2010, MC đã đem lại hứng thú cho người xem khi đưa ra những câu hỏi cho người chơi là chị Đinh Phương Thanh - vận động viên Boxing: vì sao chị lại theo đuổi nghề Boxing, chi tập Boxing được bao nhiêu năm, đã chinh chiến nhiều trận chưa, danh hiệu cao nhất là gì? Sau khi người chơi chia sẻ về những thành tích chị đã đạt đươc, lẽ ra MC cĩ thể chớp lấy cơ hội tốt này để nhấn mạnh những nỗ lực vươn tới thành cơng của phụ nữ hơm nay như một sự thách thức những định kiến giới, song tiếc là MC lại bỏ qua. Báo chí truyền thơng hồn tồn cĩ thể khuyến khích phụ nữ phát huy vai trị của mình trong thể thao. Chúng tơi ghi nhận gần đây một số tờ báo cũng như một số chương trình trên sĩng phát thanh - truyền hình đã cĩ những chuyển biến tích cực, chẳng hạn, tờ Nhân dân Cuối tuần (23/8/2009), cĩ bài báo viết về một nữ vận động viên xuất sắc đã dành giải thưởng lớn trong nước và quốc tế. Bài báo này CHUYÊN ĐỀ 3 | Gĩc nhìn giới trong tin, bài về thể thao 41
  43. chiếm 1/3 mục thể thao cho thấy sự chú ý của Ban biên tập đối với những nỗ lực của người phụ nữ. Chương trình “Thể thao 360o”, vốn được coi là chương trình dành chủ yếu cho nam giới, nay cũng cĩ những đổi mới: Cặp dẫn chương trình luơn cĩ một nam và một nữ phát thanh viên; thời gian dẫn, nội dung dẫn ngang bằng nhau; trang phục và tư thế nghiêm túc. Việc lạm dụng cơ thể vẻ đẹp của phụ nữ khơng xảy ra, kể cả những hình ảnh trong các mục quảng cáo xen giữa các phần của chương trình Tuy nhiên, xét trên tổng thể hình ảnh người phụ nữ gắn với thể thao vẫn cịn hết sức mờ nhạt so với nam giới. Với trách nhiệm của người làm nghề, các nhà báo cĩ vai trị quan trọng trong việc thay đổi nhận thức của xã hội về hình ảnh phụ nữ với thể thao, ghi nhận và tơn vinh những đĩng gĩp của họ cho sự nghiệp phát triển thể thao của nước nhà. Chúng tơi mong muốn và tin rằng tới đây truyền thơng hồn tồn cĩ thể tạo nên một diện mạo mới về phụ nữ và thể thao. 42 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  44. Khi đưa tin về các nữ vận động viên, các sản phẩm truyền thơng cĩ thể tránh được định kiến giới nếu thơng qua sự tự kiểm chứng một số câu hỏi sau đây: 1. Trong tin bài đã cĩ sự cân đối vị thế giữa nam và nữ vận động viên chưa? 2. Bài báo đã đánh giá đúng cống hiến của nhân vật hay chưa? Liệu cĩ sự thiên lệch nào về thơng tin đối với nam giới hoặc phụ nữ? 3. Nhân vật trong bức ảnh cĩ giống một vận động viên khơng? Hay trơng giống một người mẫu gợi cảm? 4. Trang phục cơ ấy mặc trong bức ảnh cĩ phù hợp với một vận động viên chuyên nghiệp hay giống một biểu tượng của tình dục? 5. Ngơn ngữ sử dụng trong bài cĩ điểm nào thiếu nhạy cảm giới, hạ thấp giá trị của vận động viên? CHUYÊN ĐỀ 3 | Gĩc nhìn giới trong tin, bài về thể thao 43
  45. CHUYÊN ĐỀ 4 CÔNG BẰNG GIỚI KHI TRUYỀN THÔNG VỀ LAO ĐỘNG VIỆC LÀM 44 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  46. Trong đời sống hiện đại hơm nay, tình trạng thiếu cơng bằng giới vẫn xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đĩ lĩnh vực lao động việc làm là một trong những “điểm nĩng”. Với chuyên đề này, chúng tơi mong muốn được trao đổi về vấn đề cơng bằng giới và quyền phụ nữ trong các sản phẩm truyền thơng khi phản ánh về lao động xuất khẩu. Câu hỏi làm chúng tơi trăn trở là làm cách nào để gĩp phần xố bỏ định kiến giới, nâng cao nhận thức cho cơng chúng về quyền bình đẳng giới cũng như giảm thiểu những thơng tin thất thiệt cĩ thể mang lại những hậu quả xấu mà người lao động phải gánh chịu, nhất là người lao động nữ. Công bằng giới Là sự đối xử hợp lý với nam và nữ dựa trên việc thừa nhận các khác biệt giới tính nhằm đảm bảo cho nam và nữ cĩ cơ hội và điều kiện tham gia và hưởng lợi một cách bình đẳng. Trong pháp luật về lao động của Việt Nam, cơng bằng giới thể hiện ở chỗ nữ lao động được nghỉ 30 phút mỗi ngày trong kì kinh nguyệt trong khi nam giới khơng được hưởng điều luật này. Gọi đây là cơng bằng giới vì các nhà làm luật đã dựa trên sự khác biệt sinh học của nữ và nam để đưa ra quy định này với mục đích giúp cho lao động nữ cũng đạt được sự thoải mái khi lao động như nam kể cả trong thời kỳ kinh nguyệt.1 1. Ban luật pháp chính sách – Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Cơng ty tư vấn đầu tư Y tế, Một số thuật ngữ về giới và bình đẳng giới, 2009. CHUYÊN ĐỀ 4 | Cơng bằng giới khi truyền thơng về lao động việc làm 45
  47. Tránh thổi phồng nguy cơ đối với người phụ nữ đi 1. xuất khẩu lao động Trong cuộc hành trình tìm hiểu các thơng tin viết về lao động xuất khẩu, chúng tơi nhận thấy gần đây, nhiều bài báo tập trung vào việc cảnh báo những nguy cơ đối với gia đình khi cĩ vợ đi lao động xuất khẩu. Các tít bài như: Vợ xuất ngoại, chồng ngoại tình (Giadinh. net.vn, 28/12/2006); Vợ xuất khẩu lao động, chồng ở nhà ham của lạ (Vnexpress.net, 7/8/2008); Xuất khẩu lao động - hạnh phúc mong manh (Tạp chí VOV 14/03/2010) đã thể hiện một cái nhìn thiếu cơng bằng hay thiên lệch về một hiện tượng xã hội. “ Vợ đi xuất khẩu lao động bốn, năm năm mới về nên việc nhịn “chuyện ấy” với những đàn ơng ở cái xĩm nhỏ này trở nên thật khĩ. Trong làng, những ơng chồng vắng vợ tập hợp lại thành những câu lạc bộ xa vợ. Họ thường túm lăm, tụm ba, thỉnh thoảng lại nhậu nhẹt đến say sưa rồi rủ nhau đi Karaoke, matxa giải sầu ” (Chuyện về những ơng chồng ở xĩm “vợ đi tây”, songtre. vn, ngày 08/05/2009). “Đã cĩ những ơng chồng chán cảnh sống xa vợ nên cĩ những hành động khá kỳ quặc. Điển hình là ơng “gà trống” Nguyễn Ngọc Dũng, đã hai lần cạo trọc đầu địi đi tu vì nỗi nhớ vợ giày vị. Dù chị vợ đã gửi về cho mấy trăm triệu bạc xây nhà to tướng, nhưng sống cảnh “gà trống nuơi con”, lại khơng cĩ gan gia nhập mấy cái hội Đài Loan để tìm cách giải sầu nên lâm vào tình trạng khủng hoảng tâm sinh lý. Cao trào của nỗi nhớ thương đến đau khổ rụng rời là sau một lần uống rượu say, anh trèo lên mái nhà ngửa cổ lên trời hướng 46 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  48. đơng bắc mà chửi: “Tao khơng cần tiền, tao chỉ cần vợ”, rồi lao xuống ” (Hội những người đàn ơng cĩ vợ đi Đài, vietbao.com, ngày 22/08/2006). Đây là những hiện tượng hồn tồn cĩ thể xảy ra trong cuộc sống. Từ gĩc độ nhân văn, việc cảnh báo nguy cơ của những sự việc này là cần thiết. Tuy nhiên, nếu những nguy cơ ấy được nhìn nhận từ sự thiếu vắng người phụ nữ trong gia đình thì thực sự khơng thoả đáng. Việc giải thích những nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình do sự thốt ly của người phụ nữ, vơ tình chúng ta cĩ thể đặt thêm một áp lực khác lên đơi vai của họ. Người phụ nữ cảm thấy mình chưa làm trịn vai trị của mình - thứ vai trị lâu nay được xã hội mặc định, đĩ là: nội trợ, chăm sĩc gia đình, nuơi dạy con cái Điều này khiến khơng ít phụ nữ cảm thấy khĩ khăn với quyết định xuất ngoại kiếm tiền. Đơi khi chính người thân trong gia đình cũng khơng dễ gì đồng cảm và đồng lịng với quyết định của người phụ nữ. Trên thực tế, khơng phải gia đình nào cĩ người đi lao động xuất khẩu cũng lâm vào bi kịch. Càng khơng phải vì phụ nữ tham gia xuất khẩu lao động mà hạnh phúc gia đình lung lay. Một số tờ báo đã cập nhật khá chi tiết những thơng tin tích cực này. Chẳng hạn: Xã Châu Sơn vốn là một địa phương thuần nơng, thuộc vùng xa của xã Ba Vì (nhất là so với Thủ đơ Hà Nội). Cách đây 10 năm, kinh tế xã rất nghèo, người dân chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng nên phần lớn các gia đình đều rơi vào tình trạng thiếu đĩi Từ ngày cĩ phong trào đi xuất khẩu lao động, mỗi gia đình ở nhà cũng nhận được từ 4 đến 7 triệu đồng một tháng từ người thân bên nước ngồi. Vì thế mà kinh tế khá lên trơng thấy. Trái với hình ảnh cách đây 10 năm nghèo đĩi, xã Châu Sơn ngày nay hiện lên với nhiều nhà tầng khang trang, hiện đại mà khĩ cĩ thể thấy ở các vùng nơng thơn khác. Chị Hải Yến (43 tuổi) từng đi Đài Loan 6 năm, mỗi tháng chị gửi về cho gia đình 7 triệu đồng. Ở nhà, anh Xuân chồng chị chăm sĩc 3 đứa con nhỏ. Đến năm 2006, cuộc sống gia đình đã cải thiện được CHUYÊN ĐỀ 4 | Cơng bằng giới khi truyền thơng về lao động việc làm 47
  49. nhiều, chị về hẳn. Bây giờ, vợ chồng anh chị đã cĩ cơ ngơi khang trang và cuộc sống ổn định. (Xuất khẩu lao động vẫn là hướng làm giàu cho nơng dân, HNMO, 27/02/2011). Cĩ thể thấy, cơ hội hay thách thức của loại đặc thù cơng việc này được đặt ra đối với cả hai giới, khơng riêng phụ nữ. Những khác biệt về giới mang lại những lợi thế cũng như những khĩ khăn riêng đối với cả nam và nữ trong từng cơng việc, lĩnh vực cụ thể. Việc đi làm ăn xa, xa gia đình, xa mơi trường sống thân thuộc khiến người lao động chịu nhiều áp lực. Việc đưa tin một chiều, quy trách nhiệm cho người phụ nữ khiến họ khĩ khăn cởi bỏ những định kiến bất lợi: Nam giới cảm thấy thiếu tin tưởng người vợ của mình, phụ nữ cảm thấy áp lực thêm gấp bội. Vì vậy khi đưa tin về xuất khẩu lao động nĩi riêng, cơ hội việc làm nĩi chung, các nhà báo cần cĩ sự nhạy cảm giới. Bên cạnh những thơng tin mang tính cảnh báo, chúng ta nên hướng tới khuyến khích các gia đình tìm cách tháo gỡ khĩ khăn, vượt qua các trở ngại về giới, đồng thời gĩp thêm tiếng nĩi vận động chính sách hỗ trợ từ nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia xuất khẩu lao động. Điều này thiết thực và hữu ích hơn và cũng là một yếu tố giúp chúng ta thể hiện sự tơn trọng đối với bạn đọc. 48 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  50. Loại bỏ quan niệm - phụ nữ là người duy nhất giữ lửa cho 2. gia đình Quan niệm truyền thống về phụ nữ là người giữ lửa cho gia đình đã dẫn đến suy nghĩ rằng việc phụ nữ “vắng nhà” khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh “tắt lửa”. Cĩ nghĩa là theo quan niệm này, sự vắng mặt của người phụ nữ được xem như nguyên nhân chính của đổ vỡ hơn nhân, gia đình tan nát, con hư hỏng, chồng ngoại tình Vì sao chúng ta khơng lật lại vấn đề là cĩ những gia đình cĩ vợ vắng nhà nhưng khơng cĩ đỗ vỡ và bất hạnh? Lẽ ra báo chí cần cĩ cách thơng tin để hiệu chỉnh những suy nghĩ cực đoan, song rất tiếc là chúng ta vẫn bắt gặp những bài viết cĩ chiều hướng dồn gánh nặng cho người phụ nữ. CHUYÊN ĐỀ 4 | Cơng bằng giới khi truyền thơng về lao động việc làm 49
  51. “ Tục ngữ cĩ câu “Vắng đàn ơng quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp”. Với những gia đình cĩ người đi xuất khẩu lao động là phụ nữ, sự thiếu vắng bàn tay người mẹ, người vợ trong gia đình là sự thiệt thịi đối với những thành viên ở lại ” (Chuyện về những ơng chồng ở xĩm “vợ đi tây” (Songtre.vn, ngày 08/05/2009). “ chị Hồng, anh Trung ở xã Văn An, đã cĩ với nhau hai mặt con, khi nghèo khĩ thì thương yêu tha thiết, đi xuất khẩu lao động, cĩ tiền thì “đơi lứa chia ly”. Nguyên nhân, bởi mỗi tháng cĩ tiền triệu từ người vợ đi làm oshin ở Đài Loan gửi về, anh Trung đâm sa ngã. Anh quên khuấy những lời vợ dặn trước lúc đi xa, mà triền miên lao vào những cuộc nhậu nhẹt, chơi bời. Bên xứ Đài, biết chuyện, dù rất đau buồn nhưng chị Hồng vẫn cố làm lụng, vẫn đều đặn gửi tiền về cùng những lá thư khuyên nhủ chồng. Thế nhưng, anh Trung vẫn chứng nào tật ấy. Hết hạn, chị Hồng về nước và từ nhà mẹ đẻ, chị đến thẳng tịa. (Hệ lụy buồn từ xuất khẩu lao động, Vietbao.vn, ngày 25/07/2006). Việc đưa những thơng tin cụ thể như trên đây là cần thiết để giúp cơng chúng nhìn thẳng vào sự thật, từ đĩ họ sẽ chủ động hơn trong việc đối mặt với cái xấu, cái tiêu cực và cố gắng tìm ra phương cách thay đổi, cải thiện thực trạng theo hướng tích cực. Tuy nhiên sẽ tốt hơn nếu từ các thơng tin như vậy, các báo đi sâu phân tích nguyên nhân sâu xa của sự việc, cung cấp cho bạn đọc những kiến thức, kĩ năng cần thiết để ứng dụng giải quyết những tình huống tương tự. Việc suy diễn nguyên nhân tan vỡ gia đình từ sự thiếu vắng người phụ nữ ở đây vừa duy trì quan niệm sai lầm về vai trị giới, vừa cĩ nguy cơ cĩ thể tạo cho nam giới những căn cứ để ngụy biện, để chối bỏ trách nhiệm chăm sĩc gia đình. Một vấn đề khác là khơng phải cĩ phụ nữ ở nhà thì mọi chuyện trong gia đình đều ổn thoả. Lí do dẫn đến việc những ơng chồng sa ngã, hơn nhân đổ bể cũng khơng phải chỉ vì vợ đi xa hay vì trong tay người đàn ơng cĩ quá nhiều tiền. Vấn đề là ở nhận thức của mỗi người về vai trị, trách nhiệm, nghĩa vụ đối với bản thân, gia đình và xã hội. Nếu người đàn ơng trong bài báo đừng quá quen với nếp nghĩ rằng mình 50 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  52. được quyền hưởng thụ sự ngăn nắp, yên ấm, cịn việc sắp xếp, vun vén gia đình thuộc về vai trị của người vợ, thì việc hành xử sẽ khác. Tìm kiếm việc làm phù hợp là mong muốn của cả phụ nữ và nam giới. Khi lựa chọn bất cứ cơng việc nào, mơi trường nào cũng cĩ những thuận lợi và hạn chế nhất định. Người làm báo cĩ thể cảnh báo về những nguy cơ tiềm ẩn đối với cả nam và nữ, mà tránh đưa thơng tin và suy diễn về những bi kịch đau đớn, thua thiệt là do sự thiếu vắng người phụ nữ. Người đọc sẽ cảm thấy “nhẹ lịng” hơn, khi bài báo đem lại những tin hy vọng, đưa ra những giải pháp tháo gỡ thay vì chỉ phán ánh thực trạng mà khơng cĩ định hướng rõ ràng; cũng như hướng người đọc nâng cao hiểu biết về giới và quyền bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực gia đình. Bình đẳng giới Là việc nam, nữ cĩ vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đĩ. Các khía cạnh bình đẳng giới Các cơ hội: Nam và nữ được tiếp cận và hưởng lợi như nhau từ các cơ hội về học hành, cơng việc và các nguồn lợi khác. Các quyền: Nam và nữ đều cĩ quyền như nhau về các quyền con người cũng như quyền lao động khác. Trách nhiệm: Nam và nữ bình đẳng về trách nhiệm trong cơng việc xã hội cũng như trong gia đình. Vị thế: Phụ nữ cĩ vị thế bình đẳng và khơng lệ thuộc vào nam giới. Ý kiến của hai giới đều được tơn trọng. Các lĩnh vực Bình đẳng giới cần phải được thể hiện đầy đủ trong tám lĩnh vực, theo như luật Bình đẳng giới đã quy định.1 1. Tổng hợp từ Luật Bình đẳng giới (Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về Bình đẳng giới và Luật Phịng, chống BLGĐ, nhà xuất bản Thời đại, năm 2011). CHUYÊN ĐỀ 4 | Cơng bằng giới khi truyền thơng về lao động việc làm 51
  53. Cần đảm bảo lợi ích giới khi khuyến cáo về lao động 3. xuất khẩu Trước tình hình cịn nhiều bất ổn trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, báo chí truyền thơng đĩng vai trị hết sức quan trọng nhằm tăng cường thúc đẩy các chính sách về giới và đảm bảo quyền cho người người lao động. Tuy nhiên, đa phần các bài báo về chủ đề này mới chỉ dừng lại ở việc nêu thực trạng hoặc đưa ra những khuyến cáo chung chung, khơng đúng hướng: Ngay ở phần mở đầu bài báo Hội những người đàn ơng cĩ vợ đi Đài Loan (bài đã dẫn), độc giả đã bắt gặp những số liệu thống kê, kèm theo sự phân tích khơng thể khơng giật mình: Theo thống kê của Cơng an xã Vũ Hội thì mỗi năm đều cĩ 20 đến 30 vụ phạm pháp hình sự xảy ra trong xã, nổi bật nhất là năm 2004 với 33 vụ. Hầu hết đều liên quan đến cờ bạc, trộm cắp, ma túy và đa số cĩ yếu tố liên quan đến chuyện vợ đi xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, vấn đề bức xúc nhất hiện nay ở xã Vũ Hội là số vụ ly hơn tăng đột biến trong những gia đình cĩ vợ đi Đài Loan. Từ năm 2003 trở về trước, thời hạn mà chị em đi lao động Đài Loan chưa về, tình trạng ly hơn xảy ra rất hãn hữu, cĩ khi cả năm khơng cĩ vụ ly hơn nào. Từ khi chị em về nước nhiều do hết hạn hợp đồng lao động thì các ban ngành trong xã rất vất vả với cơng tác hịa giải. Kỷ lục là năm 2004, cả xã cĩ tới 15 vụ ly hơn. Đến nay, số vụ ly hơn trong xã ở những gia đình cĩ chị em đi Đài Loan đã là 29 vụ”. 52 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  54. Tương tự như vậy, trên tạp chí VOV cũng đăng tải thơng tin để khuyến cáo rằng: “Hiện cĩ gần 450.000 người Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đĩ phụ nữ chiếm khoảng 25- 30% tổng số lao động di cư. Mỗi năm trung bình Việt Nam đưa được 80.000 lao động đi làm việc ở nước ngồi, phụ nữ cũng chiếm 25-30% con số này. Hiệu quả về kinh tế là điều khơng cịn phải bàn cãi, thế nhưng ở nhiều khía cạnh khác, nhất là về mặt tác động đến gia đình lại là vấn đề đáng quan tâm. Ở nhiều địa phương hiện nay XKLĐ đang trở thành nguyên nhân trực tiếp khiến nhiều tổ ấm “đổ bể”, nhiều đứa trẻ rơi vào cảnh cha mẹ chia lìa “(Xuất khẩu lao động - hạnh phúc mong manh, Tạp chí VOV 14/03/2010). Về gĩc độ nghiên cứu định lượng, cĩ thể những con số này đảm bảo độ xác thực rất cao, nhưng để khẳng định căn nguyên của những tệ nạn như cờ bạc, trộm cắp, ma túy và tình trạng li hơn tăng đột biến đa số cĩ yếu tố liên quan đến chuyện vợ đi xuất khẩu lao động chưa cĩ sức thuyết phục độc giả, và cơng chúng cĩ quyền hồ nghi về sự suy diễn như vậy. Giả thiết rằng cĩ mối liên quan giữa việc phụ nữ đi xuất khẩu lao động và các vấn đề tiêu cực trong đời sống gia đình và xã hội như tác giả đề cập, bài báo cũng nên phân tích từ nhiều gĩc độ khác nhau để tìm ra các nguyên nhân, các yếu tố tác động, từ đĩ đưa ra những giải pháp hay khuyến cáo một cách đúng đắn cho người dân. Việc liệt kê đơn thuần các số liệu và nhận định theo lối quy kết võ đốn như vậy sẽ gây cho người đọc sự hoang mang khơng cần thiết. Vẫn biết rằng báo chí cĩ nhiệm vụ cảnh báo về những vấn đề tiêu cực, về những diễn biến phức tạp của thực trạng đời sống, tuy nhiên cảnh báo bằng những suy luận thiếu căn cứ như vậy chỉ gĩp phần khuyếch đại sự lo lắng, bất an trong dư luận xã hội, khiến các nhà hoạch định chính sách cũng thêm khĩ khăn, lúng túng trong việc giải quyết những vấn đề giới trong lao động việc làm. Với cách thể hiện như vậy, người đọc cĩ thể tiếp nhận thơng tin từ bài báo là phụ nữ khơng nên tham gia lao động xuất khẩu, và như vậy, chính truyền thơng lại tác động gián tiếp làm giảm cơ hội việc làm của phụ nữ. CHUYÊN ĐỀ 4 | Cơng bằng giới khi truyền thơng về lao động việc làm 53
  55. Trên thực tế, sự tan vỡ gia đình hay sự bất ổn trong đời sống gia đình của các gia đình cĩ vợ hoặc chồng đi xuất khẩu lao động được củng cố bởi định kiến giới về vai trị của người phụ nữ trong gia đình, bởi quan niệm về sự chung thủy, đức tính hay bản chất của nam và nữ. Đồng thời sự thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng xử lý tình huống hay trong điều kiện sống mới đã làm cho phụ nữ, nam giới gặp nhiều khĩ khăn trong việc đối mặt với thách thức. Vì vậy, trên cơ sở phản ánh và phân tích những bất lợi cho phụ nữ và nam giới khi họ đi làm ăn xa, các báo nên khuyến nghị cho Nhà nước cần phải cĩ chính sách phù hợp, cĩ sự trang bị kiến thức, kĩ năng cho người lao động trước khi xa nhà làm việc ở một mơi trường mới. Bản thân những gia đình cĩ người đi lao động xuất khẩu cũng cần được chuẩn bị trước về tâm thế, hiểu biết những khĩ khăn của người đi người ở lại để sẵn sàng chủ động trong nếp sinh hoạt của cuộc sống gia đình thiếu vắng phụ nữ hoặc nam giới. Cĩ như vậy họ mới cĩ thể thích ứng một cách tích cực, tránh được những tác động xấu từ đời sống xã hội. Với những hình thức chuyển tải thơng tin đa dạng và tiện ích trên các loại hình báo chí như hiện nay, chúng tơi tin rằng các báo hồn tồn cĩ thể thực hiện được theo hướng như vậy. Trách nhiệm giới Là việc nhận thức được các vấn đề bất bình đẳng giới và nguyên nhân gây nên bất bình đẳng giới để cĩ biện pháp, hành động thường xuyên, tích cực và nhất quán trong cơng việc thường ngày, gĩp phần giải quyết các nguyên nhân gây nên bất bình đẳng giới.1 1. Lê Thị Ngân Giang - Một số thuật ngữ về Giới và bình đẳng giới, Nxb Phụ nữ 2007. 54 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  56. Một số lưu ý khi truyền thơng về xuất khẩu lao động nĩi riêng, cơ hội việc làm nĩi chung: 1. Nhìn nhận cơng bằng về cơ hội việc làm đối với cả nam giới và nữ giới. 2. Tơn trọng giá trị giới, tránh mặc định từng loại nghề nghiệp đối với từng giới. 3. Tránh thổi phồng những nguy cơ dựa trên những quan niệm sai lầm về vai trị của nam và nữ. 4. Cần xố bỏ những định kiến giới cản trở cơ hội xuất khẩu lao động cho cả nam và nữ. CHUYÊN ĐỀ 4 | Cơng bằng giới khi truyền thơng về lao động việc làm 55
  57. CHUYÊN ĐỀ 5 GIỚI VÀ TÌNH DỤC TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG 56 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  58. Xưa nay, tình dục vốn được coi là vấn đề nhạy cảm, và vì nhạy cảm nên mỗi khi được hiển lộ trên các kênh thơng tin, nĩ thường thu hút sự quan tâm hay tị mị của độc giả. Tính chất nhạy cảm của vấn đề làm cho thơng tin cĩ thể cĩ tác động mạnh và cĩ sức lan tỏa đến các tầng lớp cơng chúng khác nhau trong xã hội, bao gồm cả những tác động tiêu cực. Do vậy, chúng tơi thiết nghĩ sự nhạy cảm giới trong việc xử lý, chuyển tải những thơng tin liên quan tới tình dục giúp các nhà báo tránh được những tác động khơng mong muốn cũng như khơng làm sâu sắc thêm các định kiến giới trong quan niệm và hành vi về tình dục vốn đã ăn sâu trong tiềm thức của nhiều thế hệ. Định kiến giới trong tình dục mà chúng tơi muốn chia sẻ ở đây là sự lý giải về cơ chế tình dục của nam giới và nữ giới. Tình dục của nam giới thường được cho là khĩ kiểm sốt bởi “nhu cầu bản năng”, trong khi đối với phụ nữ, cơ chế tình dục được xem là sự “lệ thuộc” vào nam giới. Điều này cĩ mối liên hệ đến quan niệm cũng như hành vi trên thực tế là nữ giới cần phải biết làm đẹp để trở nên hấp dẫn và “chiều lịng” các đức ơng chồng, nếu khơng muốn chồng mình ngoại tình? Hiện tượng nữ giới bị biến thành biểu tượng của tình dục cĩ liên quan gì đến thực tế là nhiều người tự cho mình cĩ quyền sở hữu vợ, sở hữu nhu cầu tình dục của vợ? Những vụ án xâm hại tình dục vẫn diễn ra hàng ngày trên thế giới, trong đĩ cĩ Việt Nam, cĩ lý do bắt nguồn từ những định kiến giới? Vậy, truyền thơng cần làm gì, để định hướng nhận thức cho cơng chúng giúp họ nhận diện được bản chất của vấn đề? CHUYÊN ĐỀ 5 | Giới và tình dục trên các phương tiện truyền thơng 57
  59. Thơng điệp “chiều chồng” cổ vũ cho định kiến giới trong 1. tình dục Với hai chữ “chiều chồng”, bạn cĩ thể tìm thấy vơ vàn kết quả trên trang web tìm kiếm. Truy cập vào trong các bài của báo lớn chính thống, bạn cũng sẽ vơ cùng kinh ngạc khi thấy những lời khuyên với các bà vợ. Xin đơn cử một vài ví dụ: “Nếu bạn cĩ thể học cách xoa bĩp cho đức lang quân như một chuyên viên thực thụ, anh ấy chắc chắn sẽ khơng đánh đổi vợ yêu lấy bất cứ thứ gì ” ( voi_thuat_massage-7-21344238.html). “Với tuyệt đại đa số nam giới, tình yêu phải được thể hiện qua chuyện gối chăn. Vạn bất đắc dĩ bạn mới nên cự tuyệt “địi hỏi” của chàng ” ( chong-7-21292174.html). “Khơng yên tâm để các em ‘chân dài’ ở spa phục vụ ơng xã “từ A đến Z”, chị Hà quyết tâm đi học lớp nghệ thuật massage ở Nhà văn hĩa phụ nữ thành phố để tự tay phục vụ anh tại nhà ” ( sage-7-21344238.html). Cách lý giải phổ biến được nhiều bài báo đưa ra là: nếu khơng muốn đức ơng chồng ngoại tình, bạn cần phải học cách “làm tình”. Người vợ cần phục vụ chồng như phục vụ một ơng chủ khĩ tính, luơn xét nét đánh giá. Trong một bài báo khác, với tiêu đề Vợ giỏi thua gái nhà hàng (trên tapchilamdep.com), bài báo kể lại câu chuyện một nữ 58 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  60. giám đốc thành đạt, chăm sĩc chồng con và gia đình nhà chồng rất chu đáo. Nhưng chỉ vì khơng biết làm theo những tư thế tình dục mà các cơ gái nhà hàng rất thành thạo, chị mất chồng vào tay một cơ gái làng chơi. Cuối bài, tác giả đưa ý kiến của chuyên gia tâm lý với tiêu đề một khuyến cáo cho các bà vợ: “Đừng lơ là với chuyện tình dục”. Nội dung mà chuyên gia này đưa ra là: Rất nhiều người vợ quan niệm rằng yếu tố để giữ hạnh phúc gia đình là sự chăm sĩc chồng con chu đáo, đối nhân xử thế với nhà chồng phải đạo, xinh đẹp, giỏi giang, thành đạt Chuyện chăn gối được xem là một yếu tố rất nhỏ trong cỗ máy hơn nhân. Do đĩ, một số người vợ đã bỏ qua việc làm mới đời sống tình dục mà khơng hề biết sự nhàm chán đĩ là một mối họa khơng hề nhỏ. Đây cũng chính là nguyên nhân mà rất nhiều chị em bị chồng phản bội đã ngơ ngác khơng hiểu vì sao tình địch thua mình gấp vạn lần vẫn khiến cho chồng mê mệt, thậm chí sẵn sàng đánh đổi cả cuộc hơn nhân hạnh phúc. Thật ra, vấn đề cũng khơng quá khĩ hiểu. Bởi những người đàn ơng ngoại tình đều thú nhận rằng họ tìm đến với tình nhân chủ yếu là tình dục chứ khơng vì tình yêu. Người vợ cĩ thể xinh đẹp, giỏi giang, thành đạt nhưng lại thiếu kỹ năng chăn gối. Trong khi đĩ đời sống tình dục lại là một nhu cầu thiết yếu hàng ngày của đàn ơng. Cĩ thể với phụ nữ chuyện học hỏi, áp dụng kỹ năng để đời sống chăn gối phong phú là một việc khá tế nhị và cịn xa lạ thì đàn ơng lại luơn thích thú với sự đổi mới ấy. Đây cũng là điều mà chị em cần quan tâm đến để cuộc hơn nhân của mình khơng gặp “tai nạn” đáng tiếc. Kết luận của chuyên gia thể hiện quan điểm của người viết: nếu khơng muốn chồng ngoại tình, hãy học các kỹ năng tình dục cho tốt. Thật đáng tiếc khi ngay cả chuyên gia cũng nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng đổ lỗi cho người phụ nữ. Chúng tơi hồn tồn đồng ý rằng, để cho đời sống tình dục cĩ thể đạt được những mong muốn hay khát vọng chính đáng của các cặp vợ chồng thì việc học những kỹ năng là điều cần thiết. Vấn đề là ở chỗ, điều đĩ phải đến từ cả CHUYÊN ĐỀ 5 | Giới và tình dục trên các phương tiện truyền thơng 59
  61. hai phía. Trong tình huống trên đây, các sản phẩm truyền thơng cần phân tích theo hướng nếu người chồng thẳng thẳn chia sẻ với người vợ những điều thầm kín nhất, để cả hai cùng vượt qua những trở ngại, và cùng hướng tới cái đích chung là làm cho nhau cũng hạnh phúc và mãn nguyện, thì sẽ cĩ tác động tích cực hơn đối với nhìn nhận của cơng chúng. Những ơng chồng ngoại tình, cịn được “bênh vực” bằng những lý lẽ hết sức thuyết phục khác như nam giới ngoại tình là vì bản năng và vì lẽ tự nhiên. “Với đàn ơng ham thích của lạ”, hình như tạo hố cài đặt trong gen của họ. Trong hồn cảnh sống hạnh phúc với vợ con, họ cĩ thể là người cha, người chồng mẫu mực. Nhưng trong điều kiện nào đấy được “thả lỏng” là máu mạo hiểm lại nổi lên, họ rất dễ tặc lưỡi thưởng thức “của ngon vật lạ”, Đất cho ngoại tình – www. dantri.com.vn ngày 28/10/2008. “Trải qua quá trình tiến hĩa lâu dài, “thĩi vơ đạo đức” đĩ dần dần trở thành bản chất của người đàn ơng.” (Vì sao người đàn ơng dễ ngoại tình - Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh). Trên thực tế, những yếu tố sinh học luơn cĩ mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố xã hội làm nên đặc trưng bản chất con người. Sự khác biệt trong hành vi tình dục của con người chính là yếu tố xã hội, tính nhân văn và trách nhiệm. Nếu coi ngoại tình của người đàn ơng là bản tính hay do gen thì tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương gắn bĩ sẽ chẳng cĩ ý nghĩa gì trong cuộc sống vợ chồng và “Chẳng thể nào đạt đến bình đẳng giới vì gen đã quy định tất cả rồi” (Tình dục - chuyện dễ đùa khĩ nĩi - Khuất Thu Hồng). Cách lý giải về hành vi tình dục của nam và nữ theo kiểu như trên là sự hạ thấp và coi thường phụ nữ thay vì xem phụ nữ là một “đối tác” bình đẳng với nam giới. Cả hai cần được nhìn nhận là cĩ nhu cầu, khát vọng và trách nhiệm như nhau để hướng tới tình dục an tồn, và hạnh phúc. Sự thiếu cơng bằng trong việc nhìn nhận khả năng, 60 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  62. vai trị, và vị thế của phụ nữ trong tình dục chính là thể hiện sự biện minh, tiếp tay cho những hành vi bạo lực tình dục và xâm hại tình dục đang trở thành vấn đề bức xúc hiện nay. Trong thực chất, các nhà nghiên cứu theo thuyết kiến tạo xã hội (social constructionits) cho rằng tình dục được kiến tạo trong các quá trình xã hội chứ khơng phải được định trước bởi các yếu tố sinh học. Vì thế các hooc mơn và các đặc điểm sinh lý được coi là các điều kiện chứ khơng phải là các yếu tố quyết định các phản ứng tình dục. Trái lại, các chuẩn mực, giá trị, thái độ, niềm tin - vốn là các sản phẩm xã hội - mới chính là các yếu tố căn bản tạo nên phản ứng tình dục.1 Vợ phải học MASSGE để giữ chồng TỔNG BIÊN TẬP 1. “Tình dục - Chuyện dễ đùa, khĩ nĩi” của nhĩm tác giả Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội. CHUYÊN ĐỀ 5 | Giới và tình dục trên các phương tiện truyền thơng 61
  63. Cần nhìn nhận đúng bản chất của các vụ án xâm hại 2. tình dục Bạn đọc cĩ thể hàng ngày, hàng giờ đọc được những vụ án hiếp dâm, lạm dụng tình dục được đăng tải trên các phương tiện thơng tin. Sự “nĩng” của vấn đề đã thu hút số lượng lớn độc giả, nhất là các bạn trẻ qua truy cập mạng. Đối với các nhà báo, câu hỏi luơn được đặt ra là: làm thế nào để phản ánh đúng bản chất của vụ án và nhìn nhận đúng đắn về thủ phạm, bảo vệ quyền của nạn nhân? Đĩ khơng chỉ là yêu cầu về kỹ năng/ tác nghiệp, mà cịn là đạo đức nghề nghiệp. Các bạn là những người hiểu rõ hơn ai hết rằng, việc cĩ phản ánh đúng bản chất của sự việc hay khơng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng điều mà chúng tơi muốn chia sẻ ở đây là định kiến giới hay thiếu nhạy cảm giới của người viết cĩ thể làm cho việc diễn giải hiện tượng bị bĩp méo, làm lệch lạc bản chất của vấn đề. Từ đĩ dẫn đến sự thiếu cơng bằng trong việc xét đốn các nhân vật cĩ liên quan. Theo cách đĩ, sự nhạy cảm giới khơng chỉ giúp bài báo bảo vệ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục, phần lớn là phụ nữ, mà cịn giúp cho các bài báo phản ánh và định hướng dư luận tốt hơn. Ví dụ: Trong bài Những tình tiết khơng ngờ trong vụ hiếp dâm hai bé gái (dantri.com, 08/08/2005), sau khi liệt kê những việc làm dại dột, thiếu hiểu biết của người bị xâm hại tình dục, bài báo kết lại: “ Cả hai cơ tiểu thư tuổi trăng non đến cơng an phường Ơ Chợ Dừa với giấy chứng thương thể hiện “màng trinh rách cũ”. Khơng biết với cách sống buơng thả, thiếu giữ gìn của mình như thế, các cơ bé đã tự đặt mình vào hồn cảnh trớ trêu bao nhiêu lần?” 62 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  64. Trong vỏn vẹn hai câu, người viết sử dụng đến bốn từ mang hàm ý đánh giá, trách cứ người bị xâm hại. Liệu những ai bị lạm dụng, bị cưỡng hiếp tình dục sau khi đọc bài báo này cĩ dám tố cáo thủ phạm và đương đầu với sự kỳ thị của cộng đồng hay khơng? Dù trong bất cứ hồn cảnh nào, việc thoả mãn tình dục của bản thân bằng cách xâm hại đến đối tượng khác đều đáng bị lên án và xử lý theo pháp luật. Khơng thể vì bất cứ lý do nào để biện minh cho hành vi thú tính đĩ. Càng khơng thể dùng những ngơn từ buộc tội cho nạn nhân. Xâm hại tình dục xảy ra khi một người lớn tuổi hơn, khỏe mạnh hơn sử dụng quyền lực và sức mạnh, cĩ thể là tiền bạc, vật chất của mình, lợi dụng sự ngây thơ, lịng tin và sự tơn trọng của trẻ em để ép buộc các em tham gia vào hành vi tình dục. Kẻ xâm hại cĩ thể sử dụng nhiều cách lừa gạt, dụ dỗ, mua chuộc, bắt cĩc, đe dọa hay trấn áp về tinh thần hoặc thể chất đối với trẻ để thực hiện hành vi xấu xa của mình.1 Tội hiếp dâm trẻ em là trường hợp người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của trẻ em hoặc thủ đoạn khác giao cấu với trẻ em trái với ý muốn của họ. Tội hiếp dâm trẻ em là tội phạm địi hỏi chủ thể đặc biệt. Chủ thể của tội phạm là nam giới. Nữ giới cĩ thể phạm tội này trong trường hợp đồng phạm với vai trị tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức. 2 1. Trích trong “Phịng tránh xâm hại tình dục trẻ em” của Ủy ban bảo vệ và chăm sĩc trẻ em Việt Nam, UNICEF. 2. CHUYÊN ĐỀ 5 | Giới và tình dục trên các phương tiện truyền thơng 63
  65. Khơng chỉ tránh những ngơn từ thể hiện thái độ phán xét, đổ lỗi cho người bị xâm hại mà chúng ta cũng khơng nên sử dụng những từ ngữ thiếu chính xác, lấp lửng. Chẳng hạn: Trên báo ngoisao.net ngày 24/3/2010 cĩ tựa đề “Vợ tố chồng “ yêu” con gái”, nội dung bài báo kể về người phụ nữ đã tố cáo chồng khi chị phát hiện ra con gái bị chồng bắt quan hệ tình dục nhiều lần. Người chồng sau đĩ đã tự tử chết. Cả tiêu đề và nội dung bài báo khi đề cập đến hành động của người chồng đều dùng chữ “yêu”. Mặc dù từ này đã để trong ngoặc kép nhằm thay đổi nguyên nghĩa của từ, nhưng nĩ đã khơng đủ mạnh để bày tỏ thái độ tố cáo đối với một tội ác. Ở đây người cha đã phạm một lúc hai tội: loạn luân và xâm hại tình dục trẻ em. Lẽ ra, bài báo cần nhấn mạnh vào cả hai tội này cùng với việc chỉ ra những vi phạm cả đạo đức và pháp luật mà người cha đã phạm phải. Trong trường hợp này, từ “yêu” dù dùng dưới hình thức nào cũng làm nhẹ tội ác và cĩ thể gây hiểu lầm. Do vậy trong các bài báo về chủ đề hiếp dâm, lạm dụng tình dục hay bạo lực tình dục, người viết cần hết sức lưu ý sử dụng từ ngữ để chỉ đích danh hành vi của thủ phạm. Ngồi ra, với phản ứng tích cực của người vợ (dám đưa câu chuyện ra ánh sáng) ở đây, lẽ ra cần được nhìn nhận theo hướng đồng tình, khuyến khích vì khơng dễ gì người phụ nữ làm được trong hồn cảnh như vậy, nhưng bài báo lại dùng từ “tố” hàm chứa sắc thái khơng mấy thiện cảm, như thể người phụ nữ đã sai, đã làm mất danh dự của chồng và đẩy chồng tới bước phải chọn lối thốt tiêu cực. Đặt trong tương quan với từ “yêu” (để biện hộ cho hành động vi phạm pháp luật, vơ đạo đức của người chồng), rõ ràng từ “tố” được dùng chỉ hành động của người vợ đã thể hiện thái độ thiếu cơng bằng về giới. Việc sử dụng ngơn ngữ một cách chính xác trong trường hợp này sẽ giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về mức độ của vụ án, cĩ thái độ rõ ràng với loại tội phạm này. Trên báo tintuconline vào ngày 4/12/2010, thầy giáo hiếp dâm học sinh vì lâu ngày khơng được gần gũi vợ, trong bài báo, tác giả cịn đưa ra chi tiết vợ thủ phạm bị ung thư cổ tử cung phải đi chữa bệnh, và thủ phạm lâu ngày khơng được quan hệ tình dục như một lời bào chữa vơ tình cho hành vi của kẻ phạm tội. Cách giật tít như thế cĩ thể củng cố quan niệm rằng, đàn ơng luơn khơng làm chủ được bản 64 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  66. năng của mình, và mọi hành vi xâm phạm, bạo lực với phụ nữ được giảm nhẹ đi rất nhiều. Tai hại hơn, nĩ cịn củng cố quan niệm, coi phụ nữ như cơng cụ thoả mãn tình dục của đàn ơng, thiếu người này thì thay bằng người khác, bất chấp sự tổn thương nghiêm trọng với họ. Trên thực tế, khơng phải ai rơi vào tình cảnh “thiếu thốn” tình dục đều cĩ nguy cơ trở thành kẻ hiếp dâm. Chỉ cĩ những kẻ khơng cĩ đạo đức, coi thường pháp luật mới hành xử như vậy. Chúng tơi tin rằng, khi người viết cĩ nhạy cảm giới, thì những tít bài kiểu này sẽ khơng cịn nữa. Ngồi ra khi viết về những vụ án xâm hại tình dục, chúng ta cũng cần tránh những từ ngữ biểu thị sự thái quá, thổi phồng sự thật. Ví dụ: Các tít bài: Gia tăng xâm hại tình dục (tienphongonline.com.vn ngày 24/8/2008), Xâm hại tình dục trẻ em - báo động (báo vinguoingheo. vn ra ngày 24/11/2009, đăng lại bài của Báo Yên Bái). Hàng loạt những từ ngữ như: “báo động”, “gia tăng”, “nghiêm trọng”, “đáng sợ”, “nguy hiểm” xuất hiện quá nhiều trong các bài viết về xâm hại tình dục đã khiến cơng chúng khơng thể khơng hoang mang trước một bức tranh xám xịt về tình trạng này (đặc biệt đối với trẻ em). Các bài báo cũng khẳng định rằng việc xâm hại tình dục là do ảnh hưởng của phim sex, do kẻ phạm tội ăn chơi, đua địi, tư cách phát triển lệch lạc, bệnh hoạn Đồng thời các bài báo cảnh cáo trẻ em cĩ thể bị xâm hại mọi lúc, mọi nơi, các bậc cha mẹ khơng nên tin tưởng ai kể cả người thân, hàng xĩm, cơ dì chú bác. Việc gia tăng các hiện tượng này cĩ thể là thật, nhưng việc đưa tin và nhấn mạnh quá nhiều sẽ cĩ thể cĩ tác động ngược lại. Một mặt làm nhiều cha mẹ bất an, lo lắng và trở nên cảnh giác một cách thái quá, nhìn nhận lệch lạc về hành vi, hạn chế, ngăn cấm trẻ giao tiếp. Mặt khác, thật nguy hiểm khi trẻ em hàng ngày được tiếp cận các thơng tin về lạm dụng tình dục, cĩ thể thấy những hành vi này là “bình thường”. Sẽ hữu ích hơn nếu các bài báo thay vì qui chụp, thổi phồng những cảnh báo, hãy lên án mạnh mẽ các định kiến và chỉ ra các giải pháp để nạn nhân cĩ thể vượt qua sự tổn thương về thể xác lẫn tinh thần. CHUYÊN ĐỀ 5 | Giới và tình dục trên các phương tiện truyền thơng 65
  67. Điều 112. Tội hiếp dâm trẻ em1 1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: c) Phạm tội nhiều lần; d) Đối với nhiều người; 1. Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009. 66 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  68. Để nhạy cảm giới hơn khi thơng tin về các vấn đề liên quan tới tình dục: 1. Cần nhìn nhận cơng bằng đối với nam và nữ trong mọi vấn đề tình dục. 2. Hạn chế sử dụng những hình ảnh thiếu nhạy cảm giới gây ảnh hưởng xấu tới vị thế của nam giới hay phụ nữ. 3. Khi đưa tin các vụ án xâm hại tình dục, cần đảm bảo an tồn các thơng tin cá nhân của người bị xâm hại. 4. Khơng nên miêu tả người bị xâm hại như những con người yếu đuối và khơng cĩ khả năng phản kháng. 5. Tránh những từ ngữ đổ lỗi cho nạn nhân của bạo lực tình dục/ xâm hại tình dục. 6. Tránh mơ tả quá chi tiết trong những vụ án tình dục: Điều này cĩ nguy cơ tạo tâm lý tị mị hơn thái độ nghiêm túc nhìn nhận vấn đề của người đọc. 7. Tránh sử dụng ngơn ngữ lấp lửng, khơng rõ nghĩa trong những vụ án tình dục: Cần chỉ rõ những tội ác mà kẻ tội phạm đã gây ra. 8. Tránh những từ ngữ thổi phồng các nguy cơ, việc này sẽ khiến người đọc cảm thấy lo lắng và cảnh giác thái quá. CHUYÊN ĐỀ 5 | Giới và tình dục trên các phương tiện truyền thơng 67
  69. CHUYÊN ĐỀ 6 QUAN ĐIỂM GIỚI TRONG VIỆC PHẢN ÁNH VẤN ĐỀ PHỤ NỮ LẤY CHỒNG NGOẠI QUỐC 68 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  70. Hơn nhân tự nguyện là một nguyên tắc được quy định trong pháp luật Việt Nam. Phụ nữ và nam giới đều cĩ quyền được lựa chọn người bạn đời của mình, và vì vậy, việc lấy chồng ngoại quốc cũng là sự lựa chọn hạnh phúc của nhiều phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề hơn nhân cĩ yếu tố nước ngồi cịn nhiều bất cập từ nhiều phía, tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh những vấn đề tiêu cực, gây hoang mang cho chính người trong cuộc cũng như xã hội. Khơng ít phụ nữ, do thiếu hiểu biết đã trở thành nạn nhân của những phi vụ mại dâm, buơn bán người ngụy trang dưới tên gọi “cuộc nhân duyên với người ngoại quốc”. Tất nhiên, hậu quả là người phụ nữ phải gánh chịu những mất mát khĩ bù đắp. Thêm vào đĩ, họ cịn chịu những áp lực từ sự thiên kiến giới của dư luận. Để giúp cơng chúng cĩ nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về việc cơ dâu Việt lấy chồng ngoại, đồng thời gĩp phần khắc phục những định kiến phi lí với người phụ nữ trong đời sống hơn nhân, chúng ta cĩ thể lưu ý một số khía cạnh mang tính nhạy cảm giới trong lĩnh vực này như sau: CHUYÊN ĐỀ 6 | Quan điểm giới trong việc phản ánh vấn đề phụ nữ lấy chồng ngoại quốc 69
  71. Vấn đề Cơ dâu Việt lấy chồng ngoại quốc cần được 1. nhìn nhận từ gĩc độ giới Thời gian gần đây, cĩ thể thấy, ưu điểm nổi bật của các báo khi thơng tin về vấn đề phụ nữ lấy chồng ngoại quốc là đã tập trung phản ánh tương đối đầy đủ, rõ nét một số khía cạnh nổi cộm của thực trạng, qua đĩ cảnh tỉnh người dân trước diễn biến phức tạp của chuyện hơn nhân với người ngoại quốc. Chẳng hạn: Cuộc sống của những cơ dâu Việt tại Hàn Quốc (Tin247.com, 26/11/2010); Bi kịch của những cơ dâu lấy chồng ngoại quốc (tin 247.com, 3/8/2007); 2 người Hàn xem mặt 60 cơ gái trẻ để chọn vợ (tin 247.com, 28/9/2007), Hàn Quốc: Một cơ dâu Việt bị giết ngay tại nhà chồng (tin 247. com,10/07/2010), Trong một chừng mực nhất định, các bài báo này đã cố gắng nhìn nhận vào chiều sâu của sự việc để cảm thơng, chia sẻ với những hồn cảnh, những sự cố khơng mong muốn khi phụ nữ Việt đi lấy chồng nước ngồi. Phần nào các bài viết đã quan tâm tới người phụ nữ, cung cấp những thơng tin cần thiết giúp họ cĩ thêm hiểu biết, cẩn trọng hơn khi quyết định lựa chọn bạn đời là người xứ lạ. Ví dụ cách đưa tin: “Hơm nay, khi ập vào kiểm tra một căn hộ kín đáo, cơ quan cơng an phát hiện 12 cơ gái đang được nuơi “lậu”, chờ đợi ngày được xuất ngoại sang Hàn Quốc. Trước đĩ, các cơ đã “đậu” trong cuộc thi tuyển vợ ” (Phát hiện cả chục cơ gái chờ theo chồng qua Hàn Quốc, vietbao.vn, 26/9/2007). Hoặc những cảnh báo: Trong thời gian qua, lợi dụng tình trạng cĩ nhiều người Hàn Quốc khơng lấy được vợ trong nước, nhiều cơng ty mơi giới hơn nhân đã lao vào lĩnh vực đi tìm vợ ở các nước 70 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  72. châu Á lân cận cho số người này. Vì hám lợi, các cơng ty này sẵn sàng che giấu tình trạng sức khỏe của những người Hàn Quốc muốn lấy vợ ngoại quốc, và đánh lừa các cơ dâu tương lai thường đến từ những nước nghèo hơn như Trung Quốc, Campuchia hay Việt Nam. (Hàn Quốc ngăn chặn tình trạng cơ dâu ngoại quốc bị chồng bức hại”, Dân trí.com, 14/7/2010). Qua việc phản ánh những thực trạng đáng báo động từ các cuộc hơn nhân qua mơi giới bất hợp pháp, những bài báo này đã phần nào khuyến cáo các cơ quan chức năng, các nhà quản lí trong lĩnh vực này nhận diện được những khía cạnh liên quan tới yếu tố giới và kịp thời tìm biện pháp điều chỉnh thích hợp: “ Lấy chồng ngoại khơng phải là điều đáng chê trách, nhưng những cơ gái trước khi đi đến quyết định kết hơn với người nước ngồi phải cân nhắc thật kỹ. Bởi mỗi đất nước cĩ một ngơn ngữ, một phong tục tập quán, lối sống khác nhau. Bất đồng ngơn ngữ sẽ dẫn đến những mâu thuẫn trong cuộc sống hàng ngày và khơng hịa hợp về tập tục lối sống thì càng khĩ lịng mà xây dựng được hạnh phúc gia đình. (Lấy chồng Tây, giadinh.net. vn,18/10/2008). Với những chị em gặp rủi ro trong hơn nhân với người nước ngồi, họ cũng sẽ vững tâm hơn khi được cung cấp những thơng tin về những phương thức hỗ trợ của địa phương - nơi họ trở về: “Tại đây, các chị em được giao lưu với những người đồng cảnh ngộ, được giới thiệu tới các chuyên gia tâm lý để tháo gỡ các rào cản giúp chị em tự tin vươn lên trong cuộc sống, được hội tạo điều kiện cho vay vốn về phát triển kinh tế Một số chị em đã là những tuyên truyền viên nhiệt tình như chị T ở Phả Lễ, chị H ở Lập Lễ (Thủy Nguyên), chị N ở Đồn Xá (Kiến Thụy). Ngồi CLB nĩi trên, tại một số địa phương cịn thành lập các CLB phịng chống nhiễm HIV tại Lập Lễ và Đại Hợp, CLB giảm thiểu tiêu cực vấn đề kết hơn cĩ yếu tố nước ngồi, CLB tiền hơn nhân ở Đồn Xá (Kiến Thụy). (Phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngồi: Những mảnh màu sáng tối - hoaphuongdo.vn/nevvs/12 2009). CHUYÊN ĐỀ 6 | Quan điểm giới trong việc phản ánh vấn đề phụ nữ lấy chồng ngoại quốc 71
  73. Rõ ràng với gĩc nhìn từ các yếu tố liên quan đến giới như vậy, các bài báo sẽ cĩ tác động tích cực tới những chính sách hỗ trợ của nhà nước cũng như các địa phương nhằm giảm thiểu những tổn thất, bi kịch trong cuộc sống của người phụ nữ lấy chồng ngoại quốc. Đây là một trong những cách truyền thơng về giới phù hợp, hiệu quả và rất đáng khích lệ. Đặc biệt, một số bài đã bước đầu đề cập vấn đề bảo vệ quyền cho những phụ nữ Việt lấy chồng ngoại quốc. Tuy chưa thực sự sâu sắc và mạnh mẽ song những thơng tin được đăng tải theo dịng sự kiện như bài viết dưới đây vẫn hết sức cần thiết. Chẳng hạn : “Bộ Tư pháp Hàn Quốc tuyên bố sẽ tiến hành các biện pháp ngăn chặn xảy ra thảm cảnh cơ dâu ngoại bị chồng Hàn Quốc sát hại, sau khi xảy ra vụ một cơ dâu Việt bị chồng đâm chết ngay sau khi đặt chân đến nước này Trước mắt, bộ yêu cầu những nam giới Hàn Quốc tìm vợ nước ngồi phải tham gia một lớp học tại Cơ quan Nhập cư Hàn Quốc trước khi rời khỏi đất nước. Những ai lấy vợ nước ngồi mà khơng tham gia lớp học này trước sẽ khơng được nhận thị thực cho cả hai vợ chồng. Đây là khĩa học về quyền con người cũng như phong tục tập quán và văn hĩa của nước mà nam giới Hàn Quốc sẽ làm rể Tuy nhiên, theo nhiều nhà phân tích, để cải thiện tình hình, các biện pháp tại Hàn Quốc chưa đủ, mà các nước cĩ cơng dân lấy chồng Hàn cũng phải cĩ quyết tâm tương tự.” (Hàn Quốc ngăn chặn tình trạng cơ dâu ngoại quốc bị chồng bức hại” - Dân trí. com 14/7/2010). Những cách thơng tin nghiêm túc và thể hiện tinh thần trách nhiệm của báo chí trước những vấn đề phát sinh từ thực tế liên quan đến giới như vậy, rất cần phát huy. 72 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo
  74. Cần vượt lên “hiện tượng” 2. để lý giải cĩ chiều sâu hơn Đối với bất kì vấn đề nào, việc báo chí thơng tin đúng và đầy đủ về thực trạng cũng đều cần thiết, nhất là việc đưa ra những thực trạng mang tính cảnh báo. Tuy nhiên, để đáp ứng được những mục tiêu truyền thơng về bình đẳng giới mà chúng ta đã đang đặt ra, việc cảnh báo về nguy cơ của vấn đề phụ nữ Việt lấy chồng nước ngồi cần được dựa trên những quan điểm đúng đắn về quyền và lợi ích giới. Trên một số tờ báo mà chúng tơi bao quát được vẫn cịn hiện tượng đăng tải các thơng tin chưa thực sự thoả mãn nhu cầu tiếp nhận của cơng chúng. Đơn cử bài viết dưới nhan đề Lấy chồng ngoại quốc nên hay khơng? của VN Express được một độc giả post lên hanoicorner.com 13/7/2004, sau tiêu mục Thảm cảnh của những cơ gái Việt lấy chồng Đài Loan là hàng loạt những thơng tin gây sốc cả người trong cuộc lẫn ngồi cuộc: “ Hàng chục nghìn cơ gái làm dâu xứ người đang bị hành hạ, ngược đãi ngày đêm. Khơng ít cơ bị chồng trĩi dán miệng, khiêng bán cho tú bà; bị chồng dùng kim đâm vào 10 đầu ngĩn tay rồi nhúng vào nước muối, lấy ná thun bắn vào mi mắt và lấy dao cứa chằng chịt vào lưng khơng loại trừ trường hợp các cơ gái bị chính chồng mình mang đi bán. Điều này khơng cĩ gì ngạc nhiên, vì truyền hình Đài Bắc cĩ hẳn một chương trình quảng cáo cơ dâu Việt Nam, như một dạng rao bán hàng hĩa của các cơng ty mơi giới. Hiện hai tội phạm đang bị giam giữ để chờ điều tra và xét xử”. CHUYÊN ĐỀ 6 | Quan điểm giới trong việc phản ánh vấn đề phụ nữ lấy chồng ngoại quốc 73
  75. Mặc dù sau khi nhận định như vậy, tác giả bài viết cĩ đưa ra những bằng cứ thực tế về sự việc 2 cơ dâu Việt Nam bị hành hạ tại Đài Loan cùng những con số thống kê từ phía nhà chức trách địa phương, tuy nhiên cụm từ phỏng định, ước chừng về số cơ gái làm dâu xứ người đang bị hành hạ, ngược đãi ngày đêm vẫn khiến độc giả khơng khỏi lo sợ về một thực trạng quá đen tối. Vẫn biết rằng việc cung cấp những thơng tin sự thật trên đây sẽ giúp cơng chúng, đặc biệt là những phụ nữ cĩ ý định kết hơn với người nước ngồi cẩn trọng hơn để tránh nguy cơ, hiểm hoạ cho bản thân và gia đình, song sẽ tốt hơn nhiều nếu bài báo tập trung phân tích, lí giải vào chiều sâu của thực trạng: Tìm hiểu căn nguyên các cơ dâu Việt bị hành hạ ở Đài Loan. Tại sao những người chồng hoặc gia đình họ cĩ thể ngang nhiên gây bạo lực với các cơ dâu Việt? Cĩ những trường hợp về cơ dâu Việt cĩ gia đình hạnh phúc khơng? Vì sao cuộc sống của họ hạnh phúc? Cĩ cách gì để giảm thiểu những tác động tiêu cực của hơn nhân cĩ yếu tố nước ngồi? Mỗi cá nhân, cộng đồng cần làm gì? Cơng cụ pháp lý, quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực này cần thay đổi như thế nào để đảm bảo quyền của các cơ dâu Việt? Với những thơng tin này, chúng tơi tin là truyền thơng đang giúp cơng chúng cĩ nhận thức đầy đủ hơn vấn đề này cũng như đem lại sự lạc quan hơn thay vì chỉ một màu xám xịt. Trước tình hình phụ nữ Việt lấy chồng nước ngồi cịn gặp nhiều vấn đề bất trắc như hiện nay, báo chí truyền thơng cần phát huy hơn nữa vai trị của mình trong việc định hướng thơng tin nhằm thúc đẩy các chính sách về giới và đảm bảo quyền cho người phụ nữ. Rất tiếc, hiện nay cịn khơng ít những bài báo về chủ đề này chỉ dừng lại ở việc phản ánh theo kiểu của bài viết trên đây, chưa đưa ra được những khuyến cáo đúng hướng. Ví dụ: “ Chồng cơ khơng đủ tiền để cưới vợ Hàn, ơng đã bay qua Việt Nam, thơng qua hoạt động mơi giới, ơng đã bỏ ra hàng nghìn đơ la để cưới Thanh, một cơ gái miền Tây về làm vợ. Và sau khi “xài chán”, ơng đánh đập, hành hạ vợ hết sức dã man, làm nơ lệ tình dục, ơng ta đẩy cơ vào ổ chứa. 74 TRUYỀN THƠNG CĨ NHẠY CẢM GIỚI | Một số gợi ý dành cho phĩng viên và người làm báo