Bài giảng Bảo trì và nâng cấp PC

doc 66 trang vanle 3311
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Bảo trì và nâng cấp PC", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_bao_tri_va_nang_cap_pc.doc

Nội dung text: Bài giảng Bảo trì và nâng cấp PC

  1. BÀI GIẢNG BẢO TRÌ VÀ NÂNG CẤP PC Trang 1
  2. MỤC LỤC Mở đầu. 4 Phần 1. Tổng quan về máy tính PC. 7 I. Lịch sử phát triển 7 II. Giới thiệu sơ đồ khối cấu trúc chung của máy tính 7 III. Các bộ phận cơ bản của máy tính 8 1. Bộ xử lý (CPU) 8 2. Bản mạch chính (Bo mạch chủ, Mainboard) 12 3.Ổ cứng (HDD) 17 4.Ổ CD và DVD 20 5. Bộ nhớ RAM và ROM 22 6. Bàn phím (keyboard) 25 7. Chuột (mouse) 26 8. Card màn hình (VGA Card) 27 9. Màn hình (Monitor) 29 10. Card mạng (Network adapter) và Modem 29 Phần 2: Bảo trì và nâng cấp máy tính 30 I. Bảo trì máy tính 30 Trang 2
  3. 1. Bảo trì phần cứng 30 2. Bảo trì phần mềm 39 II. Nâng cấp máy tính 49 1. Tổng quan về nâng cấp máy tính 49 2. Các thiết bị có thể nâng cấp 50 Phần 3: Một số lỗi thường gặp 57 I. Chuẩn đoán một số lỗi của máy tính: 57 1. Kiểm tra bộ nguồn 57 2. Chuẩn đoán lỗi của máy tính thông qua tiếng bíp 58 3. Những lỗi thường gặp trong hệ thống file NTFS. 61 4. Những nguy cơ đe dọa đến dữ liệu và cách phòng chống 62 Kết luận 64 Trang 3
  4. MỤC LỤC HÌNH Hình 1: Sơ đồ tổng quan hệ thống máy tính 8 Hình 2. Tổ chức máy tính theo hướng BUS đơn giản 9 Hình 3. Hình dáng bên ngoài CPU 10 Hình 4. Một số loại Socket 10 Hình 5. Mainboard microATX (bên trái) và ATX (bên phải) 14 Hình 6. CPU socket 14 Hình 7. AGP slot 15 Hình 8. PCI (màu trắng) và PCI Express x16 (màu đen) 15 Hình 9. Khe cắm IDE và SATA 16 Hình 10. Bên ngoài và bên trong HDD 18 Hình 11. Cấu tạo HDD 19 Hình 12. Slot để cắm RAM 23 Hình 13. Hình dáng bên ngoài một số loại RAM 23 Trang 4
  5. MỤC LỤC BẢNG Bảng 1. Các loại socket và CPU tương ứng 11 Bảng 2. Ví dụ các thông số cơ bản của HDD 20 Bảng 3. Quá trình phát triển thẻ điều hợp hiển thị 27 Bảng 4. Dung lượng bộ nhớ video và khả năng hiển thị màn hình 28 Bảng 5. So sánh các loại bộ nhớ dành cho bộ nhớ video 28 Trang 5
  6. Mở đầu Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật nói chung và công nghệ thông tin nói riêng đã làm cho máy tính hiện diện ở rất nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, máy tính đã trở nên phổ biến hơn trong các gia đình để phục vụ các nhu cầu về công việc và giải trí của con người. Cũng giống như các thiết bị sử dụng điện khác máy tính chịu ảnh hưởng rất nhiều từ môi trường hoạt động như: nhiệt độ, bụi, quá trình mài mòn và đặc biệt là khí hậu nóng ẩm của một quốc gia nhiệt đới gió mùa như Việt Nam. Do đó trong quá trình sử dụng máy tính cần được bảo trì định kì đế có thể có được khả năng hoạt động với hiệu suất tốt nhất. Bên cạnh vấn đề về phần cứng thì phần mềm máy tính và các dữ liệu được lưu trữ trên máy tính đã và đang rất được chú trong và phát triển mang đến cho người sử dụng môi trường sử dung máy tính an toàn và tiện lợi nhất. Tuy máy tính xuất hiện cách đây không lâu nhưng những thành tự trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã thổi bùng lên một cuộc chạy đua công nghệ nghiên cứu và phát triển về phần cứng máy tính. Những linh kiện máy tính ngày càng trở nên nhỏ hơn, thông minh hơn, tiết kiệm điện năng hơn Những chiếc máy tính cũ dần dần trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với những phần mềm, hệ điều hành, hay những ứng dụng giải trí có yêu cầu lớn từ phần cứng đẫn tới chúng bị loại bỏ, để tận dụng lại những phần cứng đó người ta cần phải nâng cấp hệ thống máy tính đó dựa trên cấu hình máy tính cũ và thay thế những linh kiện phần cứng mới phù tương thích với những linh kiện còn lại trong hệ thống nhằm cải thiện tốc độ, hiệu năng, khả năng lưu trữ của máy tính. Việc nâng cấp không chỉ dừng lại trên góc độ phần cứng mà còn nâng cấp cả về phần mềm nhằm cung cấp cho người sử dụng những tiện ích, môi trường làm việc tốt hơn. Trang 6
  7. Phần 1. Tổng quan về máy tính PC. I. Lịch sử phát triển Máy tính điện tử ra đời vào năm 1946 tại Hoa Kỳ từ đó đã phát triển rất mạnh và đến nay đã trải qua 5 thế hệ: Thế hệ 1 (thập niên năm 50): Dùng bóng điện tử chân không, tiệu thụ năng lượng rất lướn. Kích thước máy lớn khoảng (250 m2) nhưng tốc độ xử lý lại rất chậm chỉ đạt khoảng vài ngàn phép tính trên 1 giây. Giá cả cực kì đắt. Thế hệ 2 (thập niên 60): Các bóng điện tử đã được thay bằng các bóng làm bằng chất bán dẫn nên năng lượng tiêu thụ giảm, kích thước nhỏ hơn (50 m2), tốc độ xử lý đạt vài chục ngàn phép tính trên 1 giây. Thế hệ 3 (thập niên 70): Thời gian này đánh dấu một công nghệ mới làm nền tảng cho sự phát triển máy tính sau này, đó là công nghệ vi mạch tích hợp IC. Máy tính có kích thước nhỏ gọn hơn nhiều và tiêu thụ năng lượng ít hơn, tốc độ xử lý đạt vài trăm ngàn phép tính trên giây. Thế hệ 4 (thập niên 80): Cũng dùng vi mạch tích hợp nhưng nhỏ gọn hơn mà tốc độ tính toán lại cao hơn nhờ các công nghệ ép vi mạch tiên tiến. Có nhiều loại máy tính cùng tồn tại, để phục vụ cho nhiều mục đích, trong đó chia ra 3 loại chính là: - Siêu máy tính (Main Frame Computer): Kích thước rất lớn và có rất nhiều tính năng đặc biệt, thường được sử dụng trong chính phủ, quân đội hay viện nghiên cứu, chi phí cao. - Máy tính mini (Mini Computer): Kích thước khá to (cỡ hay ngăn tủ đựng hồ sơ) thường được sử dụng trong các công ty, các cơ quan hay trụ sở - Máy vi tính (Micro Computer): Ra đời vào năm 1982. Máy vi tính có rất nhiều ưu điểm như: giá rẻ, giảm giá rất nhanh, kích thước rất nhỏ gọn nên dễ dàng di chuyển, đặt để, tiêu thụ năng lượng ít và ít hư hỏng. Máy vi tính bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam vào năm 1987. Thế hệ thứ 5: Đó là thế hệ đang diễn ra hiện nay, tập trung phát triển về nhiều mặt cho máy tính nhằm nâng cao tốc độ xử lý và tạo nhiều tính năng hơn nữa cho máy tính. Các loại máy tính ngày nay có thể xử lý hàng chục tỷ phép tính trên một giây. II. Giới thiệu sơ đồ khối cấu trúc chung của máy tính. Trang 7
  8. Máy tính là một hệ thống gồm nhiều thiết bị được liên kết với nhau thông qua một bo mạch chủ, sự liên kết này được điều khiển bởi CPU và hệ thống phần mềm hướng dẫn, mỗi thiết bị trong hệ thống có một chức năng riêng biệt trong đó có ba thiết bị quan trọng nhất là CPU, Mainboard và bộ nhớ RAM. Hình 1: Sơ đồ tổng quan hệ thống máy tính III. Các bộ phận cơ bản của máy tính 1. Bộ xử lý (CPU) Bộ vi xử lý CPU (Central Processing Unit) là cốt lõi của một máy vi tính. Những bộ vi xử lý tương thích của các hãng như AMD và Cyrix có cách phân bố chân vi mạch và hoạt động tương thích với xử lý của Intel, vì thế chúng ta sẽ chỉ nói đến vi xử lý của Intel, hãng chiếm thị phần lớn nhất thế giới về CPU. Nhiệm vụ chính của CPU là xử lý các chương trình vi tính và dữ kiện Nguyên lý hoạt động của CPU: CPU hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào các mã lệnh, mã lệnh là tín hiệu số dạng 0 và 1, được dịch ra từ các câu lệnh lập trình, như vậy CPU sẽ không làm gì cả nếu không có các câu lệnh hướng dẫn. Khi chúng ta chạy một chương trình thì các chỉ lệ nh của chương trình đó được nạp lên bộ nhớ Ram, các chỉ lệ nh này đã được dịch thành ngôn ngữ máy và thường trú Trang 8
  9. trên các ngăn nhớ của Ram ở dạng 0 và 1. CPU sẽ đọc và làm theo các chỉ lệnh một cách lần lượt. Trong quá trình đọc và thực hiện các chỉ lệnh, các bộ giải mã sẽ giải mã các chỉ lệnh này thành các tín hiệu điều khiển. Trong hình 2 minh họa tổ chức máy tính theo hướng BUS đơn giản. CPU là bộ não của máy tính, nó đóng vai trò thi hành chương trình lưu trong bộ nhớ chính bằng cách nạp lệnh, kiểm tra chúng rồi thi hành lần lượt từng lệnh. Bộ điều khiển (control block) chịu trách nhiệm tìm nạp lệnh từ bộ nhớ chính và định loại. CPU chứa bộ nhớ nhỏ có tốc độ cao, dùng để lưu trữ kết quả tạm thời và thông tin điều khiển. Bộ nhớ này gồm các thanh ghi (register), mỗi thanh ghi có một chức năng cụ thể. Thanh ghi quan trọng nhất là bộ đếm chương trình (PC-program counter) chỉ đến lệnh sẽ thi hành tiếp theo. ALU-bộ xử lý logic-số học, thực hiện các phép tính số học như phép cộng (+) và các luận lý logic như logic AND, OR. Hình 2. Tổ chức máy tính theo hướng BUS đơn giản Phụ thuộc vào số bit trong các thanh ghi mà ta có CPU 8 bit, 16 bit, 32 bit, 64 bit. Các máy tính hiện đại ngày nay là loại CPU 64 bit. Một thông số quan trong khi lựa chọn mua CPU là tốc độ đựơc đo bằng MOPS (Millions of Operations Per Second) hay ngày nay hay dùng là TFOPS (Tera Floating Point Operations Per Second), tuy nhiên trong thực tế chúng ta lại hay dựa Trang 9
  10. vào tần số ghi kèm để nói đến tốc độ tương đối của CPU. Hình dáng bên ngoài của các CPU hiện đại ngày nay đều có dạng như hình 3. Hình 3. Hình dáng bên ngoài CPU 1.1. Hãng sản xuất và model (Processor make and model) Trên thị trường máy tính cá nhân hiện nay chủ yếu có 2 hãng sản xuất CPU chiếm hầu hết thị phần là AMD và Intel. Tuy các CPU của 2 hãng này có những đặc tính và tốc độ gần như nhau, nhưng không thể cài đặt một AMD-CPU vào một bo mạch chính (Motherboard) dùng cho Intel-CPU và ngược lại. 1.2. Dạng Socket (Socket type) Tính chất này xác định số lượng, hình dạng, cũng như cách sắp xếp các chân và như vậy mỗi loại CPU phải được gắn vào bo mạch chính có socket loại đó hay nói cách khác là loại khe cắm của CPU. Trong bảng 1 cho thấy các loại CPU nào dùng với loại Socket nào và loại nào có thể nâng cấp (upgrade) được, còn hình 4 cho thấy một số bộ vi xử lý với các dạng Socket khác nhau. Hình 4. Một số loại Socket Trang 10
  11. 1.3. Tốc độ đồng hồ xung (Clock Speed - CS) Tốc độ đồng hồ xung của CPU thường được tính bằng megahertz (MHz) hoặc gigahertz (GHz). Chúng ta thường dùng thông số này để nói đến tốc độ xử lý của CPU. Tuy nhiên, không phải lúc nào CS của CPU nào lớn hơn thì CPU đó cũng mạnh hơn. Ví dụ, một 3.0 GHz Celeron CPU sẽ chậm hơn 2.6 GHz Pentium 4, bởi vì Celeron có bộ nhớ đệm cache L2 nhỏ hơn và tốc độ của kênh truyền chủ (host- bus) thấp hơn. Đặc biệt là giữa AMD và Intel có sự khác biệt lớn, AMD- CPU chạy với CS thấp hơn Intel, nhưng làm khoảng 50% công việc nhiều hơn Intel trong một xung đồng hồ (clock tick). Do đó một AMD Athlon 64 chạy ở 2.0 GHz sẽ tương đương với Intel P4 chạy ở 3.0 GHz. Chính vì CS của AMD-CPU luôn thấp hơn của intel, nên AMD mới có các ký hiệu model như 3000+ để chỉ ra rằng tốc độ của nó tương đương với 3.0 GHz của Intel. Bảng 1. Các loại socket và CPU tương ứng Trang 11
  12. 1.4. Tốc độ đường truyền chủ (host-bus speed) Hay còn gọi là front-side bus (FSB) speed, hay FSB speed, hay chỉ đơn giản là FSB để chỉ ra tốc độ truyền dữ liệu giữa CPU và các vi mạch (chipset). Tốc độ FSB giúp tăng hiệu suất của CPU ngay cả khi CPU có cùng một CS. AMD và intel thực hiện truyền dữ liệu giữa bộ nhớ và cache khác nhau, nhưng bản chất đều là số lượng lớn nhất của một gói dữ liệu có thể được truyền trong một giây. Theo cách tính này thì một máy tính với FSB là 100 MHz, nhưng trong một chu kỳ xung đồng hồ lại truyền được 4 lần thì tương đương với một máy tính cùng CPU nhưng FSB họat động ở FSB là 400 MHz. 1.5. Kính thước bộ nhớ đệm (Cache size) Cache là một loại bộ nhớ có tốc độ cao hơn rất nhiều so với bộ nhớ chính (main memory). Các CPU dùng hai loại bộ nhớ cache L1 (Level 1) và L2 (Level 2) để tăng hiệu suất của CPU bằng cách tạm thời lưu trữ các dữ liệu cần truyền giữa CPU và bộ nhớ chính vào trong cache. Cache L1 là cache nằm trong CPU và nó không thể thay đổi nếu không thiết kế lại CPU. Cache L2 là cache nằm ngoài nhân CPU, có nghĩa là có thể chế tạo CPU với kích thước L2 khác nhau. Như vậy cache càng lớn thì càng tốt, càng giúp cho tốc độ xử lý chung của máy tính nhanh hơn. 2. Bản mạch chính (Bo mạch chủ, Mainboard) Mainboard là trung tâm điều khiển mọi hoạt động của một máy tình và đóng vai trò là trung gian giao tiếp giữa CPU và các thiết bị khác của máy tính. Bản mạch chính là nơi để chứa đựng (cắm) những linh kiện điện tử và những chi tiết quan trọng nhất của một máy tính cá nhân như: bộ vi xử lý CPU (central processing unit), các thành phần của CPU, hệ thống bus, bộ nhớ, các thiết bị lưu trữ (đĩa cứng, ổ CD, ), các card cắm (card màn hình, card mạng, card âm thanh) và các vi mạch hỗ trợ. Do các vai trò của nó như vậy nên bản mạch chính cần thoả mãn nhiều điều kiện về cấu trúc và đặc tính điện khắt khe như: gọn, nhỏ và ổn định với nhiễu từ bên ngoài. Trang 12
  13. Cũng như nhiều loại máy điện, điện tử khác, mainboard và vỏ máy phải tuân thủ theo các quy định chung về an toàn điện, an toàn nhiễu điện từ (đặc biệt do tần số làm việc của máy vi tính nằm trong giải tần sóng viba nên rất dễ gây nhiễu cho các máy móc khác xung quanh). Bo mạch chủ được sản xuất bằng công nghệ mạch in PCB (Printed Circuit Board). Do số chân nối của vi mạch ngày càng nhiều (Core 2 Duo 775 chân) nên số lượng dây dẫn trên bản mạch ngày càng nhiều khiến diện tích bản mạch cũng tăng theo nếu không thay đổi công nghệ. Số chân nối và độ phức tạp gia tăng khiến việc thiết kế bản mạch thêm rắc rối. Để giải quyết vấn đề này, người ta dùng mạch in nhiều lớp (multi layer PCB) cho máy vi tính hiện đại. Bản mạch chính được sản xuất theo lối xếp chồng (sandwich) tương tự công nghệ chế tạo vi mạch và ngày nay có từ 4 đến 8 lớp. Một công nghệ nữa góp phần thu nhỏ kích thước bản mạch chính là công nghệ gián chi tiết SMT (surface mounted technology). Công nghệ này cho phép dán trực tiếp vi mạch lên bản mạch chính, giảm bớt công nghệ khoan bản mạch và giảm đáng kể kích thước vỏ vi mạch. 2.1. Form factor Đặc tính này qui định kích thước của mainboard cũng như cách bố trí nó trong thân máy tính (case). Chuẩn thống trị hiện nay trên máy tính để bàn nói chung chính là ATX (Advanced Technology Extended) 12V, được thiết kế bởi Intel vào năm 1995 và đã nhanh chóng thay thế chuẩn AT cũ bởi nhiều ưu điểm vượt trội. Nếu như với nguồn AT, việc kích hoạt chế độ bật được thực hiện qua công tắc có bốn điểm tiếp xúc điện thì với bộ nguồn ATX bạn có thể bật tắt bằng phần mềm hay chỉ cần nối mạch hai chân cắm kích nguồn (dây xanh lá cây và một trong các dây Ground đen). Các nguồn ATX chuẩn luôn có công tắc tổng để có thể ngắt hoàn toàn dòng điện ra khỏi máy tính. Ngoài ra còn có microATX có kích thước nhỏ hơn ATX. Hình 5 cho thấy một dạng của 2 loại mainboard này. Trang 13
  14. Hình 5. Mainboard microATX (bên trái) và ATX (bên phải) BTX - Vào năm 2004, Intel bắt đầu sản xuất loại mainboard BTX (Balanced Technology eXtended). BTX và thùng máy mới sẽ sử dụng ít quạt hơn nên máy tính chạy êm hơn và có khả năng nhiệt độ cũng thấp hơn những hệ thống dùng chuẩn ATX (Advanced Technology Extended) hiện nay. Do vậy, bo mạch BTX có nhiều thay đổi đáng kể trong cách bố trí các thành phần và thiết kế tản nhiệt. 2.2. Giao tiếp với CPU Để gắn CPU lên trên bo mạch chủ ta dùng hai dạng cơ bản là dạng khe cắm (slot) hoặc chân cắm (socket). Dạng khe cắm là một rãnh dài nằm ở khu vực giữa mainboard dùng cho các máy tính đời cũ như PII, PIII. Hiện nay hầu như người ta không sử dụng dạng khe cắm này nữa. Dạng chân cắm (socket) là một khối hình vuông gồm nhiều chân (hình 6). Hiên nay đang sử dụng socket 478, 775 cho dòng CPU Intel và 939, 940, AM2 cho dòng CPU của hãng AMD. Con số chỉ ra trong socket tương ứng với số chân của CPU. Hình 6. CPU socket 2.3. Khe cắm card màn hình AGP (Array Graphic Adapter) Tuy nhiên các máy tính hiện đại ngày nay có xu hướng không dùng khe cắm AGP cho card đồ họa nữa mà thay vào đó là loại khe cắm PCI Express 16x với băng thông lớn hơn rất nhiều lần. Trang 14
  15. Hình 7. AGP slot 2.4. Khe cắm PCI Express Hầu hết các máy tính cao cấp hiện nay đều được trang bị khe cắm mở rộng PCI Express (PCIe) cùng với các khe cắm PCI tiêu chuẩn. Khe cắm chuẩn PCI Express hỗ trợ băng thông cao hơn 30 lần so với chuẩn PCI và thực sự có khả năng thay thế hoàn toàn khe cắm PCI lẫn AGP. Khe cắm PCI Express có nhiều độ dài khác nhau, tùy thuộc vào dung lượng dữ liệu có thể hỗ trợ. Khe cắm PCI Express x1 thay cho khe PCI tiêu chuẩn, có chiều dài khoảng 1" (hay 26mm) và có khả năng hỗ trợ đến 250 MBps dữ liệu vào/ra tại cùng thời điểm. Khe cắm PCI Express x16, giống như khe PCI thông thường, có khả năng thay cho khe cắm card đồ họa AGP có chiều dài 90 mm (khoảng 3,5"). Một khe PCI Express x16 có thể truyền dữ liệu nhanh hơn 16 lần so với khe x1, khoảng 4 GBps dữ liệu vào/ra cùng lúc. Trên hình 8 cho thấy hai loại khe cắm PCI và PCI Express x16. Hình 8. PCI (màu trắng) và PCI Express x16 (màu đen) 2.5. Giao diện cắm ổ cứng Trang 15
  16. Để nối ổ cứng với mainboard thường dùng các loại chuẩn IDE, SCSI, ATA, SATA. Mỗi loại có giao diện riêng và không thể cắm ổ cứng loại dùng SATA vào mainboard chỉ có loại IDE. ♦ IDE (Intergrated Drive Electronics) Đầu cắm có 40 chân dạng đinh trên mainboard để cắm các loại ổ cứng, CD, DVD (hình 9). Mỗi mainboard thường có 2 IDE và thường dùng chân cắm chính IDE1, để cắm dây cáp nối với ổ cứng chính, còn chân cắm phụ IDE2 để cắm dây cáp nối với ổ cứng thứ 2 hoặc các ổ CD, DVD ♦ Serial ATA (SATA): Thay thế cho chuẩn ATA song song có tốc độ chậm hơn (hay còn gọi là PATA hoặc EIDE), được sử dụng từ trước đến nay để nối đĩa cứng và ổ quang với Mainboard. Cổng SATA xuất hiện lần đầu trên các Mainboard cách đây vài năm và nhiều Mainboard hiện nay hỗ trợ đồng thời SATA và PATA. Đầu nối SATA có kích thước nhỏ hơn so với đầu nối PATA và chỉ hỗ trợ một ổ đĩa. Do vậy, ta không cần quan tâm đến các jumper để thiết lập đĩa master hoặc slave như trong trường hợp sử dụng chuẩn PATA. Cáp SATA nhỏ hơn nên ít gây lộn xộn bên trong thùng máy như khi dùng cáp PATA và quan trọng nhất là cáp nhỏ hơn giảm thiểu nguy cơ gây ra tình trạng "quá nóng" bên trong thùng máy (cáp PATA to hơn nên có thể cản trở dòng không khí lưu thông trong thùng máy). Hơn thế nữa, đầu nối SATA dễ dàng kéo dài ra ngoài thùng máy để sử dụng với các đĩa cứng và ổ quang gắn ngoài. Ổ đĩa SATA yêu cầu phải có đầu nối cấp điện đặc biệt thay cho đầu nối 5V tiêu chuẩn vẫn dùng cho ổ đĩa IDE. Nhiều máy tính mới có kèm theo một đầu nối điện SATA nhưng thường không có ở những máy đời cũ. Hình 9. Khe cắm IDE và SATA Trang 16
  17. 2.6. Khe cắm cho RAM (Ram slot) Trên mainboard thường có hai hoặc 4 khe để cắm các thanh RAM và mainboard. Trên mỗi khe cắm RAM luôn có cần gạt ở 2 đầu để kẹp chặt thanh RAM lên mainboard và giữ cho các mối nối bền vững hơn. Tùy vào loại RAM (SDRAM, DDRAM, RDRAM) mà giao diện khe cắm sẽ khác nhau, cho nên khi cần thay RAM hoặc gắn thêm RAM mới cần để ý tới điểm này. Các máy tính cũ thường dùng SDRAM có 168 chân và có hai khe cắt ở phần chân cắm, do đó khe cắm RAM trên mainboard sẽ là mộ khe cắm được chia thành ba phần. Trong khi DDRAM có 184 chân và chỉ có một khe cắt ở giữa phần chân cắm, tương ứng với khe cắm trên mainboard chia thành hai phần. DDRAM2 cũng chia làm hai phần nhưng không dùng được loại khe cắm cho DDRAM. Một loại RAM đời mới nữa là RDRAM mà khe cắm cho nó cũng được chia làm 3 phần như SDRAM, nhưng cách chia khác nhau và chúng không dùng chung của nhau được 3.Ổ cứng (HDD) Trang 17
  18. Hình 10. Bên ngoài và bên trong HDD Đĩa cứng được làm từ vật liệu nền cứng như nhôm, thủy tinh hay gốm. Lớp vật liệu nền được phủ một lớp tiếp xúc bám (nickel) phía trên lớp tiếp xúc bám là màng từ lưu trữ dữ liệu (Cobalt). Bề mặt trên cùng được phủ một lớp chống ma sát (graphit hay saphia ). Do cấu tạo cơ học bền, đĩa cứng có thể quay với tốc độ lớn (7200 vòng/phút), nhanh gấp 20 lần đĩa mềm. Một ổ đĩa cứng thường có hai hay nhiều đĩa. Tốc độ máy nhập đĩa cứngnhanh hơn nhiều lần so với đĩa mềm, thời gian truy nhập được phân loại như sau: - Chậm: t > 40ms, - Trung bình: 28ms < t < 40ms. - Nhanh: 18ms < t < 28ms. - Cực nhanh: t < 18ms. Mật độ lưu trữ trên đĩa cứng rất lớn (10000 bit/inch), vì thế vật liệu từ như ôxyt sắt không dùng được cho đĩa cứng và được thay thế bởi một lớp kim loại từ như cobalt hay Nicken. Các ổ đĩa cứng hiện đại ngày nay có mật độ thông tin vào khoảng 100 đến 300 Mbit trong một inch vuông. Hai yếu tố quan trọng quyết định đến mật độ lưu trữ cao là: - Cấu trúc hạt của vật liệu từ thật nhỏ, - Bề mặt đĩa thật phẳng để giữ khoảng cách giữa đầu đọc và mặt đĩa tại giá trị tối thiểu. Khác với đĩa mềm, do tốc độ quay nhanh, đầu đọc/ghi không được tiếp xúc với bề mặt đĩa cứng. Đầu đọc được giữ cách xa mặt đĩa qua một lớp đệm không khí. Lớp đệm không khí này được hình thành khi dĩa quay với tốc độ cao. Trang 18
  19. Khoảng cách giữa đầu từ và mặt đĩa chỉ vào khoảng vài micrômét, nhỏ hơn rất nhiều một hạt bụi khói trung bình. Vì thế phía bên trong ổ đĩa cứng cần được giữ thật sạch. Người sử dụng không được phép mở ổ đĩa trong môi trường bình thường. Để sản xuất hoặc sửa chữa đĩa cứng người ta cần đến môi trường siêu sạch như thường gặp trong công nghiệp vi điện tử. HDD đựơc làm từ một hay nhiều đĩa nhôm (platter) với một lớp từ (hình 11). Ban đầu nó có kích thước 50cm, còn bây giờ từ 3 đến 12 cm, còn ở máy sách tay thì nhỏ hơn 3cm, kích thước này vẫn ngày càng được thu nhỏ. Mỗi platter được chia thành từng rãnh (track), mỗi rãnh lại được chia thành từng sector. Hình 11. Cấu tạo HDD Khi mua đĩa cứng ta cần xem xét các thông số chính: - Tốc độ quay: hiện nay thông dụng loại 7200 vòng/1 phút (loại chậm hơn - 5400 vòng hoặc 3600 vòng). - Dung lượng: Đối với máy tính để bàn thì thông dụng loại 80-160 GB, tuy nhiên nếu muốn lưu trữ thông tin nhiều thì có thể dùng ổ > 200GB (loại 250 GB hiện nay cũng đang bán rất chạy). - Tốc độ đọc/ghi: tính bằng MB/s, ngày nay khoảng trên 12MB/s. Trang 19
  20. Bảng 2. Ví dụ các thông số cơ bản của HDD Các chuẩn giao tiếp đĩa cứng thông dụng: ♦ Intergrated Drive Electronics (IDE): giao diện bộ điều khiển ổ cứng kết hợp với bộ điều khiển điện tử trên board của ổ cứng. Giao tiếp EIDE là một phát triển gần nhất của IDE. ♦ Small Computer System Interface (SCSI): Là một loại chuẩn giao tiếp thường được dùng để kết nối PC đến thiết bị khác như là ổ cứng, máy in, scanner và CD- ROM. ♦ Serial ATA (SATA) : là một bước phát triển của giao diện lưu trữ vật lý song song ATA, thay thế cáp chuẩn 40 sợi và đầu kết nối IDE thành cáp 7 sợi và đầu kết nối SATA. HDD SATA có tốc độ truyền dữ liệu rất cao (hiện nay là 150 Mbyte/s và còn sẽ được nâng lên cao hơn nữa) và có giá cũng tương đương với HDD IDE. 4.Ổ CD và DVD Tương tự như đĩa từ, đĩa quang là môi trường lưu trữ dữ liệu ngay cả khi mất nguồn điện. Điểm khác nhau giữa đĩa quang và đĩa từ nằm ở phương pháp lưu trữ vật lý. Trang 20
  21. Thông tin dược lưu trữ trên đĩa quang dưới dạng thay đổi tính chất quang trên bề mặt đĩa. Tính chất này được phát hiện qua chất lượng phản xạ một tia sáng của bề mặt đĩa. Tia sáng này thường là một tia LASER với bước sóng cố định (790nm đến 850nm). Bề mặt đĩa được thay đổi khi ghi để có thể phản xạ tia laser tốt hoặc kém. Tia laser được hội tụ vào một điểm rất nhỏ trên mặt đĩa, vì thế đĩa quang có dung tích lưu trữ lớn hơn nhiều lần so với đĩa từ. Hai nhược điểm chính của đĩa quang là: ♦ Chỉ ghi được một lần (nay đã được khắc phục với đĩa CD-WR), ♦ Tốc độ đọc chậm hơn đĩa từ. Đĩa quang được chia ra thành bốn loại chính: ♦ CD-ROM (compact disk read only memory): thông tin được lưu trữ ngay khi sản xuất đĩa. Dữ liệu tồn tại dưới dạng mặt phẳng (land) và lỗ (pit). Người sản xuất dùng khuôn để đúc ra nhiều phiên bản CD-ROM. ♦ CD-R (RECORDABLE COMPACT DISK): được đọc từ ổ đĩa CD-ROM bình thường. Đĩa này có đặc điểm là ghi được. Đĩa trống được phủ một lớp chất nhạy màu. Dưới tác dụng của tia laser, lớp này đổi màu và dùng đặc điểm đó để lưu trữu dữ liệu. Loại đĩa này còn có tên là WORM (write once read many). ♦ CD-WR (writeable/readable compact disk): cũng dùng laser để đọc và ghi dữ liệu. Điểm khác nhau cơ bản là bề mặt đĩa được phủ một lớp kim loại mỏng. Trạng thái lớp kim loại được thay đổi dưới tác dụng tia laser. ♦ DVD (Digital Versatile Disc hay Digital Video Disc): cũng giống như CD nhưng có mật độ ghi cao hơn rất nhiều do đó lưu trữ được nhiều thông tin hơn. Đặc biệt là ở một số định dạng có khả năng ghi được nhiều lớp và dùng được cả hai mặt. DVD cũng có nhiều loại như DVD-ROM, DVD-R (Digital Versatile Disc - Recordable), DVD-RAM (Digital Versatile Disc - Random Access Memory), DVD-RW, Laser dùng để đọc và ghi đĩa quang là laser bán dẫn. Năng lượng của tia laser rất thấp, khoảng 5 mw. Với năng lượng này, tia laser không nguy hiểm đến mắt. Mặc dù vậy cần tránh nhìn trực tiếp vào tia laser khi sửa chữa và bảo trì ổ đĩa CD-ROM. Trang 21
  22. Nguồn laser luôn được tắt khi đưa đĩa vào ổ, vì thế ổ đĩa laser rất an toàn cho người sử dụng. Để đọc được thông tin phản xạ từ tia laser, Ổ đĩa quang còn được trang bị điốt cảm quang: 1. Điốt kiểm tra cường độ tia laser. Điốt này đo cường độ laser để hiệu chỉnh nếu công suất phát sáng giảm theo thời gian. 2. Điốt đọc dùng để hiện tín hiệu quang thành tín hiệu điện để xử lý tiếp. Đĩa quang áp dụng nguyên tắc mã hoá tương tự như đĩa từ. Mã hay dùng nhất là mã RLL vì nó tiết kiệm điện tích và tự định thời. Điểm khác nhau duy nhất giữa đĩa quang và đĩa từ là đĩa quang cần kiểm tra và sửa lỗi nhiều hơn. Thông tin rất dễ bị nhiễu chẳng hạn khi một hạt bụi nằm giữa nguồn laser và nơi cần đọc trên đĩa. Đĩa quang vì thế cần nhiều thông tin CRC hơn đĩa từ. Lỗi đọc phải được phát hiện và sửa lại dùng mã CRC đi kèm theo dữ liệu. Một đặc tính quan trọng của các ổ đĩa quang mà khi mua đĩa cần biết là tốc độ đọc/ghi. Các tốc độ đọc ghi dữ liệu thông dụng ngày nay là 24X, 32X, 48X, 52X. 5. Bộ nhớ RAM và ROM 5.1. Các khái niệm về bộ nhớ ♦ Các tế bào nhớ (storage cell): Bộ nhớ lưu giữ thông tin dưới dạng một dãy các con số nhị phân 1 và 0, trong đó 1 là đại diện cho sự có mặt của điện áp tín hiệu, và 0 đại diện cho sự vắng mặt. Vì mỗi bit được đại diện bởi một mức điện áp, nên điện áp đó phải được duy trì trong mạch điện tử nhớ, gọi là tế bào nhớ. Nội dung lưu giữ trong tế bào nhớ có thể được sao chép ra bus hoặc các linh kiện chờ khác, gọi là đọc ra (reading). Một số tế bào nhớ cũng cho phép sao chép vào bản thân mình những mức tín hiệu mới lấy từ bus ngoài, gọi là ghi vào (writing). Bằng cách sắp xếp liên kết tế bào nhớ thành các hàng và cột (ma trận), người ta có thể xây dựng nên các mạch nhớ nhiều triệu bit. Các ma trận tế bào nhớ được chế tạo trên một chip silic nhỏ giống như các mạch tích hợp. ♦ RAM slot (hình 12) Dùng để cắm RAM vào main mà ta có thể nhận dạng ở đầu khe cắm RAM luôn có cần gạt ở 2 đầu. Tùy loại RAM (SDRAM, DDRAM, RDRAM) mà giao diện khe cắm khác nhau => Mua RAM cho máy thì phải biết máy có slot cho loại nào. Trang 22
  23. Hình 12. Slot để cắm RAM ♦ Interface: là cấu trúc bên ngoài của memory. Khi mua RAM chúng ta cần phải xem nó có phù hợp với (ăn khớp) RAM slot của máy mình không. Hình 13 là hình dạng của một vài loại RAM. Hình 13. Hình dáng bên ngoài một số loại RAM ♦ RAM và ROM: Có hai dòng bộ nhớ phổ biến có tên gọi tắt là RAM và ROM. Mạch nhớ truy cập ngẫu nhiên (random - access memory - RAM) là bộ nhớ chính (main memory) bên trong máy tính, nơi lưu trữ tạm thời các dữ liệu và lệnh chương trình để Bộ xử lý (BXL) có thể truy cập nhanh chóng. Thuật ngữ "truy cập ngẫu nhiên" có ý nhấn mạnh một tính chất kỹ thuật quan trọng: mỗi vị trí lưu trữ trong RAM đều có thể truy cập trực tiếp. Nhờ đó các thao tác truy tìm và cất trữ có thể thực hiện nhanh hơn nhiều so với các thiết bị lưu trữ tuần tự như ổ điã hay ổ băng từ. Nội dung lưu giữ trong RAM là không cố định - có nghĩa phải luôn có nguồn nuôi để duy trì nội dung nhớ đó, mất điện là mất thông tin. Kích thước của RAM thường đo bằng đơn vị megabyte (MB). Bao nhiêu RAM thì đủ? Đây là câu hỏi chắc chắn ta sẽ đặt ra khi mua sắm hay nâng cấp máy tính. Windows XP SP2 chỉ chạy với 128MB RAM, nhưng đạt được hiệu năng tốt nhất với 256MB RAM trở đi. Dòng thứ hai là bộ nhớ chỉ đọc ra (read-only memory - ROM). Nội dung trong ROM chỉ có thể được đọc ra trong quá trình hoạt động bình thường của máy tính. Bộ nhớ ROM là loại cố định (nonvolatile), nên nó vẫn duy trì nội dung nhớ khi không có điện. Nhờ tính năng này, người ta dùng ROM để lưu giữ các chương trình BIOS không thay đổi. Trang 23
  24. 5.2. Các loại bộ nhớ ♦ RAM tĩnh (static RAM - SRAM) lưu giữ các bit trong những tế bào của mình dưới dạng chuyển mạch điện tử. Tế bào SRAM mở mạch điện (logic 1) hoặc tắt mạch (logic 0) để phản ánh trạng thái của tế bào. Thực tế đó là các mạch flip-flop trong tình trạng set hoặc reset. Mạch flip-flop sẽ giữ nguyên mẫu trạng thái cho đến khi được thay đổi bởi thao tác ghi tiếp theo hoặc ngắt điện. Tuy nhiên SRAM có kích thước lớn và tốn điện, hiện nay thường được chế tạo sẵn trong giới hạn 512K. Mặc dù có tốc độ nhanh, nhưng phức tạp và đắt tiền, SRAM chỉ được sử dụng trong các bộ phận cần tốc độ như bộ nhớ cache chẳng hạn. ♦ RAM động (dynamic RAM - DRAM) lưu giữ các bit dưới dạng điện tích chứa trong các tụ điện cực nhỏ, đó là các điện dung của bản thân transistor MOS đóng vai trò chuyển mạch hoặc phần tử điều khiển. Có hoặc không có điện tích trong tụ điện này tương ứng với logic 1 hoặc logic 0. Do tụ điện nhỏ nên điện tích được nạp và phóng rất nhanh, cỡ chục nanô giây. Bởi kích thước nhỏ và hầu như không tiêu thụ điện nên DRAM có mật độ lưu trữ khá cao và giá rẻ. Nhược điểm duy nhất của DRAM là không giữ được thông tin lâu quá vài miligiây, nên phải thường xuyên nạp lại năng lượng cho nó gọi là làm tươi hay hồi phục (refresh), thực chất là làm đầy lại điện tích cho các tụ điện nhớ tí hon. ♦ DDR SDRAM (Double Data Rate SDRAM) SDRAM là tên gọi chung của một dòng bộ nhớ máy tính, nó được phân ra SDR (Single Data Rate) và DDR (Double Data Rate). Do đó nếu gọi một cách chính xác, chúng ta sẽ có hai loại RAM chính là SDR SDRAM và DDR SDRAM. Cấu trúc của hai loại RAM này tương đối giống nhau, nhưng DDR có khả năng truyền dữ liệu ở cả hai điểm lên và xuống của tín hiệu nên tốc độ nhanh gấp đôi. Trong thời gian gần đây xuất hiện chuẩn RAM mới dựa trên nền tảng DDR là DDR-II, DDR- III có tốc độ cao hơn nhờ cải tiến thiết kế. ♦ Bộ nhớ ROM thực chất là một tổ chức ghép nối sẵn các mạch điện để thể hiện các trạng thái có nối (logic 0) hoặc không nối (logic 1). Cách bố trí các trạng thái 1 và 0 như thế nào là tùy yêu cầu, và được chế tạo sẵn trong ROM khi sản xuất. Khi vi mạch ROM được chế tạo xong thì nội dung của nó không thể thay đổi nữa. ROM dùng trong hệ BIOS cũ thuộc loại này cho nên khi bật máy tính là các chương trình Trang 24
  25. chứa sẵn trong đó được lấy ra để chạy khởi động máy (bao gồm các bước kiểm tra chẩn đoán, hỗ trợ phần mềm cơ sở và hợp nhất các bộ phận trong hệ thống máy). Ta không muốn và cũng không thể thay đổi bất cứ điều gì đối với các chương trình cốt tử này. Tuy nhiên khi phát hiện có một lỗi trong ROM hoặc cần đưa vào một thông số BIOS mới để phù hợp với thiết bị ngoại vi mới thì thật là tai họa. Gần đây có một giải pháp là dùng flash BIOS, nó thay một phần ROM bằng loại EEPROM, đó là vi mạch ROM có thể lập trình và xóa bằng điện (Electrically Erasable Programmable ROM). Phương pháp này cho phép chỉ xóa ở một số địa chỉ, không phải toàn bộ trong khi vi mạch vẫn giữ nguyên trên board. ♦ SIMM (single in-line memory module). Đây là loại mô đun nhớ một hàng chân ra để dễ cắm vào các ổ cắm thích hợp trên board mẹ. SIMM gồm nhiều vi mạch nhỏ DRAM được gắn trên một tấm mạch in nhỏ, để tổ chức thành các loại môđun từ 1MB đến 16MB hoặc hơn. SIMM loại cũ có 30 chân, phổ biến hiện nay là 72 chân nên các nhà thiết kế có nhiều phương án cấu hình hơn. Đây là loại thuận lợi nhất cho việc nâng cấp bộ nhớ của ta. Cần lưu ý là có rất nhều loại RAM khác nhau, do đó khi mua RAM thì phải biết loại nào có thể dùng được cho máy của mình và tốc độ BUS tối đa cho RAM mà mainboard hỗ trợ là bao nhiêu thì chỉ nên lựa loại RAM có tốc độ đó là đủ. 5.3. Thời gian truy cập Một bộ nhớ lý tưởng phải đưa dữ liệu được chọn ngay tức khắc lên các đường dữ liệu của vi mạch nhớ đó. Tuy nhiên trong thực tế luôn tồn tại một thời gian trễ giữa thời điểm tín hiệu địa chỉ lối vào có hiệu lực và thời điểm dữ liệu có mặt trên các đường dữ liệu, gọi là thời gian truy cập (access time). Mặc dù thời gian này được tính bằng nanô giây nhưng cũng làm chậm tốc độ hoạt động chung của toàn hệ thống, nên bộ xử lý phải đợi, có khi đến 4 hoặc 5 xung nhịp. Các máy PC loại cũ có thể sử dụng các chip DRAM có thời gian truy cập trong vòng 60-80 nanôgiây. Các máy tính hiện nay dùng loại nhanh hơn 60 nanôgiây. Thời gian truy cập càng nhanh thì DRAM càng đắt. 6. Bàn phím (keyboard) Thành phần cơ bản của bàn phím là phím ấn. Phím ấn có tác dụng như một cảm biến lực và được dùng để chuyển lực ấn thành một đại lượng điện. Đại lượng điện Trang 25
  26. này sẽ được xử lý tiếp thành một tín hiệu số để truyền đến máy vi tính cá nhân. Vì vậy phím ấn được phân loại tùy theo nguyên tắc cảm biến như sau: ♦ Phím cảm biến điện trở (thay đổi về điện trở), ♦ Phím cảm biến điện dung (thay đổi về điện dung), ♦ Phím cảm biến điện từ (thay đổi về dòng điện theo hiệu ứng Hall), Bàn phím thông dụng nhất cho các loại máy vi tính cá nhân tương thích IBM là loại MF101 hay MF102. Số 101 và 102 chỉ ra số phím trên bàn, số phím này thường giao động trong khoảng 90-104. tuy nhiên cũng có những bàn phím trên 130 nút. Bàn phím hiện đại ngày nay cho ngôn ngữ tiếng Anh lại theo một loại mới gọi là WERTY, được lấy từ 6 ký tự đầu tiên trên bàn phím. 7. Chuột (mouse) Chuột đóng một vài trò và tầm ảnh hưởng rất lớn trong công việc hằng ngày của những ai sử dụng máy tính. Con chuột đầu tiên được Douglas Engelbart phát minh vào năm 1964. Cùng với sự phát triển của các công nghệ vi mạch, vi xử lý, công nghệ lưu trữ, công nghệ chế tạo chuột cũng đã trải qua nhiều thời kỳ với rất nhiều cải tiến cả về kiểu dáng lẫn công nghệ cảm ứng. Chuột ngày nay có độ nhạy và nhiều tính năng tốt hơn rất nhiều so với một vài năm trước đây. Thiết bị nhận dữ liệu vào dưới dạng vị trí điểm tương đối được gọi là con chuột (mouse). Ta gọi cách xác định toạ độ của con chuột là tương đối vì chuột là một thiết bị đo vận tốc di chuyển con trỏ .Từ giá trị vận tốc tương đối này, hàm ngắt của hệ điều hành sẽ tính ra vị trí mới của con trỏ (cursor) trên màn hình. Nguyên tắc này hoàn toàn khác phương pháp xác định vị trí tuyệt đối của bút quang hay một điểm vẽ trong bảng vẽ vectơ. Mỗi chuột có từ hai đến năm phím nhấn để đưa tín hiệu chọn vị trí hiện hành. Có hai cách phân loại chuột: ♦ Theo nguyên tắc đo vận tốc chuyển động hay cơ chế cảm ứng. ♦ Theo giao diện với máy tính. Theo loại giao diện chuột ta có: ♦ Chuột song song (nối với máy vi tính qua cổng song song LPT1 hoặc LPT2), ♦ Chuột nối tiếp (nối hữu tuyến với cổng COM1 hoặc COM2, nối vô tuyến với cổng tia hồng ngoại hay nối qua vi điều khiển 8042 như chuột PS/2). Trang 26
  27. 8. Card màn hình (VGA Card) Số điểm ảnh và số màu trong chế độ này rất lớn và đòi hỏi được truy nhập nhanh. Nếu không có trợ giúp từ bên ngoài, bộ vi xử lý sẽ phải dùng phần lớn tài nguyên của nó để điều hợp hiển thị đồ họa. Bảng 3 cho thấy lịch sử phát triển của các chuẩn thẻ điều hợp hiển thị. Để giải quyết vấn đề này, nhiều nhà sản xuất cho ra thị trường thẻ điều hợp hiển thị có tên là bộ gia tốc (accelerator). Những thẻ này có bộ vi điều khiển của nó, các phép tính liên quan đến điều hợp hiển thị được tiến hành trên thẻ, giảm gánh nặng cho bộ vi xử lý. Thay vì phải tính toàn bộ các điểm ảnh cần hiển thị, bộ vi xử lý chỉ cần gửi một lệnh ngắn về thẻ điều hợp hiển thị, phần còn lại được bộ vi xử lý đồ họa GPU(Graphics Processing Unit) của thẻ thực hiện. Vi xử lý của thẻ điều hợp hiển thị được thiết kế đặc biệt cho nhiệm vụ này nên làm việc hiệu quả hơn nhiều bộ vi xử lý. Bảng 3. Quá trình phát triển thẻ điều hợp hiển thị Bộ nhớ video (VRAM) chứa nội dung hình ảnh được hiển thị và các thông tin liên quan đến nó. Chỉ riêng các điểm ảnh một màn hình 1600x1200 màu thực đã cần đến 8MB bộ nhớ (xem bảng 3). Nhu cầu về bộ nhớ hiển thị khiến phải cắm thêm bộ nhớ video dành riêng cho mục đích này. Bộ nhớ video còn được gọi là bộ đệm khung (frame buffer). Một số máy vi tính có vi mạch Chipset trên bản mạch chính và dùng một phần bộ nhớ chính làm bộ nhớ video, phương pháp này làm giảm đáng kể khả năng hiển thị nhưng rẻ hơn thẻ cắm Trang 27
  28. đồ họa.Từ thế hệ Pentium, bộ vi xử lý có cổng gia tốc đồ họa AGP (accelerated graphics port). Cổng này cho phép bộ vi xử lý đồ họa truy nhập trực tiếp bộ nhớ hệ thống cho các phép tính đồ họa nhưng vẫn có bộ nhớ video riêng để lưu trữ nội dung các điểm ảnh màn hình. Phương pháp này cho phép sử dụng bộ nhớ hệ thống mềm dẻo hơn mà không làm ảnh hưởng đến tốc độ máy tính. Cổng AGP ngày nay trở thành chuẩn trong các máy vi tính hiện đại. Bảng 4. Dung lượng bộ nhớ video và khả năng hiển thị màn hình Ngoài ra công nghệ sản xuất bộ nhớ video khác nhau cũng sẽ cho các đặc tính của bộ nhớ khác nhau. Bảng 5 cho ta thấy một số khác biệt giữa các bộ nhớ video. Bảng 5. So sánh các loại bộ nhớ dành cho bộ nhớ video Trang 28
  29. Bộ chuyển đổi từ tín hiệu số sang tín hiệu tương tự (DAC - Digital to Analog Converter). Bộ chuyển đổi này còn được gọi là RAMDAC, có nhiệm vụ biến đổi hình ảnh thành tín hiệu analog để màn hình có thể hiển thị. Một vài card đồ họa có nhiều hơn một bộ RAMDAC, do đó tăng tốc độ xử lý và hỗ trợ hiển thị nhiều màn hình. 9. Màn hình (Monitor) Cùng với bàn phím và chuột, màn hình là một thiết bị không thể thiếu được trong máy vi tính. Công nghệ chế tạo và ứng dụng của màn hình rất đa dạng. Chương trình này chỉ đề cập kỹ đến các loại màn hình thông dụng: ♦ Màn hình tia âm cực (CRT- cathode ray tube), ♦ Màn hình tinh thể lỏng (LCD - liquid crystal display), ♦ Màn hình plasma (plasma display). 10. Card mạng (Network adapter) và Modem Card mạng: Thiết bị đầu tiên cần để xây dựng mạng là card mạng (Network Interface - Card NIC). Mỗi máy tính trong mạng cần một NIC. NIC cùng với driver thực hiện 2 chức năng chính: truyền và nhậ thông tin ở dạng data frame. Trên NIC phải có một đầu nối với cáp mạng, thông dụng nhất là loại BNC (viết tắt của bayoner connector) dùng cho cáp đồng trục và RJ45, dùng cho cáp dạng dây đên thoại. NIC còn phụ thuộc vào loại mạng dùng mà thông dụng nhất ngày nay là loại Ethernet (10Mbit/s), Fast Ethernet (100Mbit/s) và Gigabit Ethernet (1000Mbit/s). Modem: Cùng với đà sử dụng máy tính trong những năm qua, việc máy tính này cần giao tiếp với máy tính khác là chuyện hiển nhiên xảy ra. Modem ra đời với việc ứng dụng mạng lưới điện thoại có sẵn để kết nối các máy tính đặt xa nhau. Ví dụ, kết nối một máy tính cá nhân tại nhà với máy tính đặt tại nơi làm việc, với hệ thống ngân hàng trong nước, hoặc với bảng thông báo điện tử, mà phổ biến nhất ngày nay là truy cập Internet. Trang 29
  30. Những modem hiện đại truyền dữ liệu với tốc độ từ 28800 bit/s đến 57600 bit/s, tốc độ này hiện nay được coi là hơi chậm, do vậy mới ra đời modem với công nghệ ADSL. Phần 2: Bảo trì và nâng cấp máy tính I. Bảo trì máy tính Trong quá trình vận hành và sử dụng máy tính cũng như các loại máy móc nói chung và các thiết bị điện – điện tử nói riêng cần được bảo trì để có được trạng thái làm việc tốt nhất có thể. Việc bảo trì máy tính là quá trình kiểm tra lại các linh kiện điện, điện tử, cơ học cấu thành hệ thống máy tính và các phần mềm ứng dụng (bao gồm cả hệ điều hành) được cài đặt trên máy tính. 1. Bảo trì phần cứng. 1.1. Các dụng cụ cần thiết Tua – nơ – vit. Kìm mỏ dài. Nhíp. Mỏ hàn, thiếc hàn và nhựa thông. Đồng hồ vạn năng. Chổi lông mềm. Bóng thổi hơi. Quạt thổi bụi. Vòng đeo tay bằng kim loại có dây nối đất. Khăn mềm. Dung dịch tẩy rửa: cồn 90º, dung dịch RP7 Cục tẩy bút chì. Bìa cứng. Tăm bông. Dầu bôi trơn. Keo tản nhiệt. Trang 30
  31. 1.2. Các bước bảo trì Trước khi bắt tay vào thực hiện bảo trì máy tính việc đầu tiên cần làm là ngắt nguồn điện vào hệ thống máy tính. Khi tháo thùng máy và tháo các linh kiện trong đó cần phải đeo vòng đeo tay bằng kim loại và đầu dây nối đất phải được tiếp đất, mục đích để tránh việc sốc tĩnh điện cho các linh kiện trong thùng case. 1.3. Bảo trì màn hình Màn hình hiển thị là một bộ phận rất quan trọng với một hệ thống máy tính, trong quá trình sử dụng và do điều kiện môi trường màn hình máy tính có thể bị bụi, dính bẩn lên màn hiển thị. Việc bảo trì là cần thiết để màn hình luôn làm việc trong điều kiện tốt nhất, sau đây là các bước bảo trì màn hình: Bước 1: tháo dây cấp nguồn cho màn hình. Bước 2: tháo cáp nối VGA ra khỏi màn hình. Bước 3: dùng chổi lông mềm và quạt thổi bụi cọ sạch bụi ở các khe thoát nhiệt sau màn hình. Bước 4: vệ sinh màn hình hiển thị với dung dịch tẩy rửa và khăn mềm. Bước 5: vệ sinh chân cắm cấp nguồn bằng dung dịch RP7 hoặc cồn 90º. Tẩm cồn vào đầu chiếc tăm bông lau vào các chân tiếp xúc nguồn điện. Bước 6: vệ sinh chân cắm VGA bằng chổi lông mềm. 1.4. Bảo trì thùng máy Trang 31
  32. Thùng máy là vỏ bọc bảo vệ, giá đỡ, cung cấp các giắc cắm âm thanh, usb mở rộng và có chức năng tản nhiệt cho các linh kiện được lắp ráp bên trong. Thùng máy cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ bụi bẩn của môi trường hoạt động. Sau đây là các bước bảo trì thùng máy: Bước 1: Sử dụng dụng cụ tháo rời các linh kiện trong thùng máy đặt ra ngoài. Trong quá trình tháo các linh kiện cần phải nhẹ tay để tránh làm hỏng các linh kiện. Nếu gặp phải trường hợp gặp phải những chiếc ốc bị rỉ có thể sử dụng dung dịch RP7 xịt vào chân ốc đó để có thể dễ dàng vặn hơn. Bước 2: dùng quạt thổi bụi, chổi lông mềm, khăn mềm vệ sinh sạch bụi bên trong và bên ngoài thùng máy. Bước 3: kiểm tra các dây cắm panel của thùng máy có bị đứt hay không, nối lại hoặc thay thế nếu có dây dẫn bị đứt. Bước 4: kiểm tra và vệ sinh các cổng USB, audio nằm trên thùng máy bằng dung dịch cồn 90º. Bước 5: kiểm tra các bóng đèn báo power LED, hdd LED. Nếu bóng bị hỏng (vỡ hoặc cháy) có thể sử dụng mỏ hàn, thiếc, nhựa thông để thay thế bóng đèn mới phù hợp. Bước 6: kiểm tra các công tắc power, reset. Thay thế các công tắc này nếu gặp phải trường hợp bị kẹt cứng, hỏng 1.5. Vệ sinh ổ đĩa quang (ổ đĩa CD/DVD) Trong quá trình hoạt động ổ đĩa có thể bị kẹt do bám bụi, hoặc vết bẩn vô tình khiến cho mắt đọc làm việc không tốt. Sau đây là các bước bảo trì ổ đĩa quang: Bước 1: Dùng khăn mềm và chổi lông lau sạch bụi bám bên ngoài ổ đĩa. Bước 2: vệ sinh mắt đọc của ổ đĩa bằng cách tháo nắp bảo vệ của ổ đĩa, sử dụng dung dịch lau màn hình LCD tẩm vào đầu tăm bông gòn mềm để làm sạch mắt đọc. Trang 32
  33. Bước 3: bôi trơn thanh chuyển động của ổ đĩa bằng dầu bôi trơn nếu bị bó cứng. Bước 4: đóng nắp bảo vệ ổ đĩa quang. Bước 5: Làm sạch các chân cấp nguồn, chân cắm IDE của ổ đĩa bằng chổi lông, dung dịch cồn 90º được tẩm vào đầu chiếc tăm bông. 1.6. Bảo trì HDD Dùng chổi lông, vải mềm, dung dịch cồn và tăm bông vệ sinh bên ngoài ổ, các chân nối nguồn điện, chân cắm IDE. Trong quá trình vệ sinh vần phải hết sức nhẹ tay để tránh làm hỏng ổ do va đập. 1.7. Bảo trì RAM RAM là một bộ phận rất quan trọng trong máy tính, do phải liên tục hoạt động trong quá trình vận hành máy tính dẫn tới hiện tượng nóng lên của RAM, bụi bẩn từ môi trường bám vào làm cho khả năng tỏa nhiệt ra ngoài môi trường kém đi, khả năng tiếp xúc giữa chân RAM với khe cắm trên mainboard cũng bị ảnh hưởng bởi bụi bẩn làm cho tiếp xúc giữa chúng kém đi dẫn tới hiện tượng lỏng RAM. Do đó việc vệ sinh sạch bụi cho RAM là cần thiết. Sau đây là các bước bảo trì RAM: Bước 1: dùng ngón tay gạt đẩy 2 lẫy giữ và rút thanh RAM ra khỏi vị trí khe cắm. Trang 33
  34. Bước 2: dùng chổi bông quét sạch bụi bẩn bám trên thanh RAM. Bước 3: dùng cục tẩy cọ các chân tiếp xúc, có thể dùng dung dịch cồn 90º tẩm vào đầu tăm bông để cọ những vết bẩn bám chặt. 1.8. Bảo trì mainboard Trang 34
  35. Bước 1: Tháo toàn bộ các dây cắm, card mở rộng, RAM, CPU ra khỏi mainboart. Vặn các vít cố định mainboard với thùng máy ra, sau đó nhấc ra khỏi thùng máy. Bước 2: Dùng chổi lông quét đồng thời sử dụng bóng hơi để làm sạch bụi bẩn bám trên mainboard. Trang 35
  36. Bước 3: Dùng giấy cứng gấp lại, chổi lông làm sạch khe cắm RAM, khe cắm card mở rộng. Bước 4: Sử dụng chổi lông, dung dịch cồn 90º tẩm vào đầu tăm bông vệ sinh những chân kết nối của main (chân cắm VGA, USB ). Bước 5: Dùng chổi lông vệ sinh slot CPU. Trong quá trình vệ sinh phải hết sức nhẹ tay để tránh làm cong, vênh những chân tiếp xúc có trong slot. Bước 6: dùng tăm bông tẩm dung dịch cồn 90º để vệ sinh các chân cắm nguồn, các chân cắm panel, USB, Audio có trên mainboard. 1.9. Bảo trì CPU, cánh tản nhiệt và quạt tản nhiệt CPU là linh kiện tỏa nhiệt nhiều nhất trong máy tính nên việc bảo trì hệ thống tản nhiệt cho CPU là rất cần thiết để có thể hoạt động ổn định và an toàn nhất. Sau đây là các bước bảo trì: Bước 1: Dùng tay xoay hoặc cạy lẫy giữ quạt và cánh tản nhiệt CPU ra khổi mainboard, lấy “cụm” cánh tản nhiệt cùng với quạt ra ngoài. Bước 2: dùng ngón tay gạt lẫy giữ CPU sau đó lấy CPU ra ngoài. Trang 36
  37. Bước 3: Dùng chổi lông cùng với bóng hơi làm sạch quạt và cánh tản nhiệt. Bước 4: thêm dầu bôi trơn cho quạt. Bước 5: lắp CPU vào slot CPU trên mainboard (chú ý lắp đúng chiều). Bước 6: để tăng khả năng tiếp xúc để giải nhiệt giữa CPU với cánh tản nhiệt cần thêm keo tản nhiệt cho CPU. Bước 7: lắp cánh tản nhiệt và quạt gió vào vị trí. Trang 37
  38. Bước 8: dùng tay xoay hoặc gạt lẫy để cố định cụm cánh tản nhiệt và quạt tản nhiệt vào vị trí. 1.10. Bảo trì card đồ họa (Card VGA) Bước 1: Tháo ốc cố định cố dịnh card đồ họa ra khỏi thùng máy. Bước 2: Dùng ngón tay gạt lẫy giữ card đồ họa đồng thời nhấc card đồ họa ra khỏi mainboard. Bước 3: Dùng chổi lông quét sạch bụi bám trên card quạt gió và đế tản nhiệt. Bước 4: Dùng tẩy bút chì làm sạch các chân tiếp xúc của card với khe cắm PCI. Bước 5: Bôi keo tản nhiệt cho GPU. Trang 38
  39. 2. Bảo trì phần mềm. 2.1. Cấu trúc vật lý, logic của đĩa cứng. 2.1.1. Cấu trúc vật lý Ổ đĩa cứng bao gồm các thành phần, bộ phận có thể liệt kê cơ bản như sau: Trang 39
  40. Đĩa từ: Thường được cấu tạo bằng nhôm hoặc thủy tinh, trên bề mặt được phủ một lớp vật liệu từ tính là nơi chữa dữ liệu. Tùy theo hãng sản xuất mà các đĩa này được sử dụng một hoặc cả hay mặt trên và dưới. Số lượng đĩa có thể nhiều hơn một, phụ thuộc vào dung lượng và công nghệ của mỗi hãng sản xuất khác nhau. Mỗi đĩa từ có thể sử dụng hai mặt, đĩa cứng có thể có nhiều đĩa từ, chúng gắn song song, quay đồng trục, cùng tốc độ với nhau. Trục quay: Trục quay là trục để gắn các đĩa từ lên nó, chúng được nối trực tiếp với động cơ quay đĩa cứng. Trục quay có nhiệm vụ truyền chuyển động quay từ động cơ đến các đĩa từ. Trục quay thường chế tạo bằng các vật liệu nhẹ (như hợp kim nhôm) và được chế tạo tuyệt đối chính xác để đảm bảo trọng tâm của chúng không được sai lệch – bởi chỉ một sự sai lệch nhỏ có thể gây ra sự rung lắc của toàn bộ đĩa cứng khi làm việc ở tốc độ cao, dẫn đến quá trình đọc ghi không chính xác. Động cơ: Là một động cơ điện có tốc độ cao được gắn đồng trục với trục quay và các đĩa để tạo ra chuyển độc của các đĩa từ. Trang 40
  41. Cụm đầu đọc: Đầu đọc (head): đầu đọc đơn giản được cẫu tạo gồm lõi frerit (trước đây là lõi sắt) và cuộn dây (giống như nam châm điện). Gần đây các cộng nghệ mới hơn giúp cho ổ đĩa cứng hoạt động với mật độ dày đặc hơn như: chuyển các hạt từ sắp xếp theo phương vuông góc với bề mặt đĩa nên các đầu đọc được thiết kế nhỏ gọn và phát triển theo ứng dụng công nghệ mới. Đầu đọc đĩa chúng có công dụng đọc dữ liệu dưới dạng từ hóa trên bề mặt đĩa từ hoặc từ hóa lên các mặt đĩa khi ghi dữ liệu. Số đầu đọc ghi luôn bằng số mặt hoạt động được của các đĩa cứng, có nghĩa là chúng nhỏ hơn hoặc bằng hai lần số đĩa (nhỏ hơn với trường hợp ví dụ hai đĩa chỉ sử dụng 3 mặt). Cần di chuyển đầu đọc/ghi : cần di chuyển đầu đọc/ghi là các thiết bị mà đầu đọc/ghi gắn vào nó. Cần có nhiệm vụ di chuyển theo phương song song với các đĩa từ ở một khoảng cách nhất định, dịch chuyển và định vị chính xác đầu đọc tại các vị trí từ mép đĩa đến vùng phía trong của đĩa (phía trục quay). Các cần di chuyển đầu đọc di chuyển đồng thời với nhau do chúng gắn trên một trục quay (đồng trục), có nghĩa rằng khii đọc/ghi dữ liệu trên bề mặt (trên và dưới nếu là loại hai mặt) ở một vị trí nào thì chúng cũng hoạt động cùng một vị trí tương ứng ở các bề mặt đĩa còn lại. Sự di chuyển có thể thực hiện theo hai phương thức: . Sử dụng động cơ bước để chuyển động. . Sử dụng cuộn cảm để di chuyển bằng lực từ. Bo mạch của ổ đĩa: toàn bộ cơ chế đọc/ghi dữ liệu chỉ được thực hiện khi có yêu cầu truy xuất dữ liệu hoặc cần ghi dữ liệu vào ổ cứng. Toàn bộ việc thực hiện giao tiếp với máy tính do bo mạch của ổ đĩa cứng đảm nhiệm. Track (rãnh) : Có thể coi mỗi mặt đĩa cứng là một trường hai chiều: cao và rộng. Theo kiểu hình học này thì dữ liệu được ghi vào các vòng tròn đồng tâm, phân bố từ trục quay ra tới rìa đĩa. Mỗi vòng trong đồng tâm trên đĩa gọi là track. Thông thường,mỗi đĩa có từ 312 đến 2048 rãnh. Track là một tập hợp bao gồm một số sector nhất định nhưng dung lượng từng track khác nhau có độ lớn từ trong ra ngoài (Track 0>track 1 >track 2 > >track N>track N+1). Sector (cung từ): Mỗi track là một vòng tròn dữ liệu có tâm là tâm của trục quay đĩa từ. Một track chia thành rất nhiều cung, người ta gọi các cung này là sector (cung từ). Sector là vùng vật lý chứa dữ liệu nhỏ nhất trong ổ cứng kể cả khi đọc và ghi. Thông thường thì 1 sector chứa được 512 byte dữ liệu (US Windows). Mỗi track đều chia thành một lượng sector nhất định. Tuy nhiên, vì các track bên ngoài bao Trang 41
  42. giờ cũng lớn hơn các track phía trong (gần trục) cho nên càng vào sâu các track phía trong thì dung lượng mà 1 sector có thể chứa được càng thấp. Cấu trúc của sector : Sector header (thông tin cơ bản) : lưu trữ các thông tin về vị trí đầu đọc , cylinder, và số thứ tự vật lý của sector. Nó cũng đảm nhận luôn nhiệm vụ xác định sector có sử dụng được hay không hoặc sector nào sẽ lưu dữ liệu thay cho sector này. Thông tin cuối cùng mà sector header cung cấp chính là giá trị của việc kiểm tra lỗi dữ liệu tuần hoàn (hay còn gọi là lỗi chẵn lẽ CRC), giá trị này giúp cho các chương trình xác định được sector header có chính xác hay không. Góc rỗng (GAP) : đối với một sector sự có mặt của góc rỗng là rất cần thiết. Góc rỗng cung cấp cho đầu đọc/ghi một khoảng thời gian nhất định để nó có thể chuyển từ việc đọc dữ liệu trên sector sang ghi dữ liệu. Khi đọc dữ liệu, đầu từ sẽ bỏ qua góc rỗng. Dữ liệu: Thông thường khi ta format đĩa cứng duới nền Windows hoặc DOS thì một sector có thể chứa được 512 byte dữ liệu. Phần cuối cùng của vùng dữ liệu này chứa thông tin về mã sửa lỗi (ECCs), dùng cho việc phát hiện và sửa lỗi. Góc rỗng mở rộng (Inter-GAP): Góc rỗng cung cấp cho đầu từ một khoảng thời gian nhất định đễ đầu từ chuyển đổi từ việc “đọc dữ liệu ” sang “ghi dữ liệu” trên cùng 1 sector. Còn góc rỗng mở rộng thì cung cấp cho đầu đọc 1 khoản thời gian nhất định để đầu đọc có thể chuyển từ việc “ghi trên 1 sector này” sang “đọc sang sector kết tiếp”. Tương tự như Góc rỗng, khi đọc dữ liệu đầu đọc bỏ qua Góc rỗng mở rộng. Cylinder bao gồm những track có chung một tâm và đồng trục nằm trên những mặt đĩa từ. Số sector trên một track: khi sản xuất ra đĩa cứng nhà sản xuất luôn ghi rõ ràng những thông số liên quan đến ổ cứng trong đó có phần số sector trên một track (sector per track). Những ổ cứng hiện đại ngày nay sử dụng rất nhiều kích cỡ khác nhau trên từng track. Ổ cứng ghi và đọc theo nguyên tắc từ ngoài vào trong trên mặt đĩa từ. Các track nằm ngoài cùng thì bao giờ cũng có nhiều không gian cho sector hơn là các track nằm sâu ở bên trong (gần tâm đĩa từ). Do đó những phần dữ liệu nằm trên sector và track đầu tiên của ổ cứng bao giờ cũng được truy xuất nhanh nhất. 2.1.2 Cấu trúc logic: Trang 42
  43. Cấu trúc của đĩa cứng bao gồm: Master boot record (MBR), Boot sector, bảng FAT, Root directory. Master boot record (MBR): là sector đầu tiên của ổ cứng, nó chứa các thông tin về partition như số thứ tự, tên ổ đĩa logic, kích thước gọi là các điểm vào. Mỗi MBR có thể quản lý 4 điểm vào, mỗi điểm vào có kích thước 16 bytes vì vậy cần 64 bytes để lưu trữ các điểm vào này gọi là bảng partition. Không gian còn lại của sector này dùng để chứa chương trình bootrap của đĩa khởi động. Để khắc phục vấn đề chỉ chứa được 4 điểm vào có nghĩa là mỗi ổ cứng chỉ chứa đwọc 4 phân vùng ngường ta dùng sector đầu tiên của partition thứ 4 để quản lý các phân chia tiếp theo như là 1 MBR thực thụ. Boot sector: là phần chứa các đoạn chương trình khởi động cho ổ đĩa. Bảng FAT: là nơi lưu trú các thông tin liên quan đến cluster trên đĩa. Mỗi phân vùng tương ứng với một giá trị khác nhau bao gồm head, track, cluster. Bảng FAT là sự ánh xạ của toàn bộ các cluster trên ổ cứng mà không lưu dữ liệu. Bảng FAT thường được phân chia thành 2 bảng FAT1 và FAT2. Boot directory: là bảng chứa thông tin thư mục như tên thư mục, dung lương, ngày thành lập, ngày cập nhật, cluster đầu tiên - Phân biệt giữa FAT16, FAT32, NTFS: FAT16: với hệ điều hành MS-DOS, hệ thống tập tin FAT (FAT16 – để phân biệt với FAT32) đwọc công bố vào năm 1982 đưa ra một cách thức mới về việc tổ chức và quản lý tập tin trên đĩa cứng, đĩa mềm. Tuy nhiên, khi dung lượng đĩa cứng ngày càng tăngnhanh, FAT16 dã bộ lộ nhiều hạn chế. Với một partition, gây ra sự lãng phí dung lượng đáng để (đến 50% dung lượng đối với những ổ đĩa cứng trên 2GB). Với lựa chọn FAT thì ổ đãi sẽ được đánh đại chỉ bởi 16 bit nhị phân và như vậy bảng FAT này sẽ quản lý được 2 16 địa chỉ cluster tương đương với ổ đĩa hay phân vùng có dung lượng tối đa là 2GB. FAT32: được giới thiệu trong phiên bản Windows 95 Service Pack 2 (OSR 2), được xem là phiên bản mở rộng của FAT16. Do sử dụng không gian địa chỉ 32 bit nên FAT 32 hỗ trợ nhiều cluster trên một partition hơn, do vậy không gian đĩa cứng được tận dụng nhiều hơn. Ngoài ra với khả năng hỗ trợ kích thước của phân vùng từ 2GB lên 2TB và chiều dài tối da của tên tệp tin mở rộng 255 ký tự dã làm cho FAT16 nhanh chóng bị lãng quên. Tuy nhiên, nhược điểm của FAT32 là tính bảo mật và khả năng chịu lỗi (Fault Tolerance) không cao. 2.2. Chống phân mảnh ổ cứng Trang 43
  44. Bước 1: Chọn vào ổ đĩa cần chống phân mảnh, nháy chuột phải chọn Properties Bước 2: Chọn vào Tool. Bước 3: Chọn vào Optimize. Trang 44
  45. Bước 4: Chọn phân vùng cần chống phân mảnh. Bước 5: Chọn vào Optimize. 2.3. Tìm và sửa lỗi bad sector trên ổ cứng Bước 1: Boot bằng đĩa Hiren’s Boot -> Chọn Boot CD khi menu boot hiện ra. Trang 45
  46. Bước 2: Tiến vào menu chính của Hiren's Boot -> chọn dòng Hard Disk Tools. Bước 3: Tiếp tục chọn HDD Regenerator để mở chương trình, cứ để chương trình tự load vào. Trang 46
  47. Bước 4: Lúc này màn hình chính của chương trình sẽ hiện ra, Nếu có từ 2 ổ cứng trở lên thì bấm phím số để chọn ổ cứng tương ứng. Bước 5: Nếu chỉ có một ổ cứng duy nhất thì bấm 1 phím bất kỳ để tiếp tục và Esc để thoát ra. Tại đây chương trình sẽ lựa chọn cách thức hoạt động của chương trình (ở đây có 3 lựa chọn): 1. Scan and repair (quét toàn bộ ổ cứng và tự sửa chữa lỗi). 2. Scan but not repair (quét đĩa cứng và hiển thị vị trí lỗi nhưng không sửa chữa). 3. Regenerate all sector in a range (Phục hồi tất cả sector trong vùng được chọn phục hồi ngay cả khi không có lỗi). Trang 47
  48. Nếu chỉ quét và sửa chữa thông thường, các bạn chọn 1 => sau đó Enter để tiếp tục. Bước 6: Vào đến màn hình tiếp theo, chương trình sẽ hỏi bạn scan từ đâu. Theo mặc định thì chương trình scan từ sector đầu tiên của ổ cứng, mặc định giá trị là 0. Nhấn enter để tiếp tục. Bước 7: Chương trình bắt đầu scan và sửa lỗi HDD. Trang 48
  49. Bước 8: Sau khi quét và sửa lỗi xong, chương trình sẽ hiển thị 1 bảng liệt kê kết quả. II. Nâng cấp máy tính. Tổng quan về nâng cấp máy tính. 1.1. Nâng cấp máy tính là gì? Nâng cấp máy tính là quá trình thay thế hoặc tinh chỉnh ở mức can thiệp vào hệ thống máy tính về cả phần cứng lẫn phần mềm với mục đích tăng tốc độ hoạt động, hiệu năng của máy tính, thêm các tính năng mới để phục vụ tốt hơn cho quá trình vận hành, sử dụng dựa trên cấu hình hệ thống máy tính đã có. Tại sao phải nâng cấp máy tính? Do các yêu cầu của công việc cần có một cấu hình máy tính có tốc độ sử lý tốt hơn để phục vụ cho các nhu cầu về công việc như xử lý đồ họa, các ứng dụng thiết kế, biên tập phim hay để phục vụ cho nhu cầu giải trí này càng cao về giải trí như chơi game 3D, xem phim HD (phim có độ nét cao) cần có một hệ thống máy tính có bộ vi xử lý nhanh, card đồ họa có thể xử lý được để tạo ra hình ảnh có độ nét cao, dung lượng lưu trữ lớn. Việc nâng cấp máy tính không chỉ là cải thiện về phần cứng mà còn bao gồm việc nâng cấp về phần mềm nhằm nâng cao tính bảo mật, cung cấp cho người sử dụng môi trường làm việc tốt hơn. Trang 49
  50. 2. Các thiết bị có thể nâng cấp. 2.1. Bộ vi xử lý (CPU). Vấn đề chính ở việc chọn CPU là làm sao chọn được loại chip cho hiệu năng sử dụng cao hơn con chip hiện tại nhưng vẫn phải đảm bảo tương thích với các linh kiện không thay thế khác đồng thời giá thành cũng phải xứng đáng với tốc độ mà nó có. Đối với chip của Intel thì vào thời điểm hiện tại có 4 loại Socket khá phổ biến và vẫn đang được bán đó là LGA775, LGA1366, LGA1155, LGA1156 nhưng loại này sẽ sớm bị thay thế bởi dòng LGA1155 mới. Đồng thời dòng chip máy tính sử dụng Socket 775 cũng đã ra đời từ rất lâu tuy vẫn còn một số dòng chip mới ra hỗ trợ nhưng thực sự hiệu năng của nó sẽ không cao bằng những dòng chip mới chạy trên những bo mạch chủ LGA1366 và LGA1155. Thậm chí là giá tiền để nâng cấp riêng chip LGA775 sẽ gần bằng hoặc hơn một con chip đời mới có nhiều nhân hơn và tốc độ cũng nhanh hơn gấp nhiều lần. Đối với những người đang sử dụng các dòng chip của AMD thì cõ lẽ sẽ dễ dàng hơn đôi chút bởi một số con chip đời mới của AMD sử dụng Socket mới hơn vẫn có thể cắm và hoạt động trên các dòng main đời cũ với Socket cũ. Ví dụ như những mainboard sử dụng Socket AM2/AM2+ đời cũ vẫn có thể cắm được một số chip AM3 đời mới, tuy nhiên cái giá phải trả là băng thông giao tiếp của chip sẽ không được sử dụng tối đa bởi bo mạch chủ không đủ khả năng đáp ứng băng thông của chip. Đối với dòng chip Bulldozer 8 nhân mới nhất của AMD sẽ sử dụng một dạng Socket hoàn toàn mới và hoàn toàn không tương thích với các Socket có trên mainboard đời cũ. Ngoài vấn đề tương thích giữa main cũ và chip mới thì giá thành cho chip mới cũng rất đáng quan tâm. Một điều cần lưu ý khi chọn chip đó là không phải những con chip có giá cao hơn thì sẽ tốt hơn. Vì thế giới công nghệ luôn luôn phát triển và các dòng chip thế hệ mới sẽ liên tục được phát hành thậm chí chỉ trong 1 năm phải có tới 2 đến 3 dòng chip mới được ra mắt, những dòng chip mới hơn thường sẽ có kiến trúc tốt hơn và Trang 50
  51. công nghệ cao hơn nhờ đó mà điện năng tiêu thụ, nhiệt lượng tỏa ra và cả giá thành đều giảm xuống. Nhưng một chiếc PC của những người dùng thông thường sẽ không có tốc độ phát triển nhanh như vậy. Mặt khác những loại chip cũ được các nhà phân phối và bán lẻ nhập về từ thời điểm chúng mới được ra mắt với giá khá cao nên khi dòng chip mới được tung ra những dòng chip cũ sẽ không được nhiều người quan tâm tới và nhà phân phối cũng không muốn giảm giá những món hàng phải nhập với giá khá cao này nên họ vẫn niêm yết giá đúng như thời điểm họ nhập vào. Chính vì thế mà giá những sản phẩm cũ tốc độ không cao vẫn không hề kém những sản phẩm có chất lượng cao hơn rất nhiều. 2.2. Card đồ họa (Video card). Để chọn cho mình một chiếc card đồ họa ưng ý, phù hợp với túi tiền nhưng vẫn đảm bảo không quá chênh lệch với các phần cứng khác trong máy (điều này dễ dẫn tới hiện tượng nghẽn cổ chai) thì bạn cần quan tâm tới tốc độ của các thành phần khác của máy tính như CPU và RAM. Nếu chọn một card đồ họa quá mạnh thì thời gian hoàn thành các công việc của GPU sẽ diễn ra rất nhanh, nhưng do CPU vẫn chưa được nâng cấp nên sẽ không theo kịp tốc độ xử lý của GPU khiến cho GPU phải dừng lại để đợi CPU hoàn thành phần việc của nó. Ngược lại, nếu chọn 1 chiếc card quá yếu thì GPU sẽ không theo kịp tốc độ của CPU và CPU lại phải chờ. Vì vậy không phải nâng cấp máy tính là chỉ việc chọn những thứ mạnh nhất đã là tốt nhất. Các thiết bị phần cứng cơ bản này phải có tốc độ tương đương nhau thì bạn mới sử dụng hết công suất của chúng được. Trên card đồ họa có 2 thành phần quan trọng nhất là nhân xử lý đồ họa (core) và thành phần thứ 2 là RAM dùng cho card đồ họa. Phần nhân xử lý đồ họa giống như CPU cũng là bộ não của card đồ họa, to nhất nằm bên dưới bộ phận tản nhiệt hầm hố của chiếc card, còn RAM của card đồ họa cũng giống như RAM của máy tính, là những chip nhớ nhỏ nhằm trải dài xung quanh core và với các loại card tầm trung thì những chip chớ này không có tản nhiệt. Trang 51
  52. Tốc độ xử lý của một chiếc card đồ họa phụ thuộc vào khả năng xử lý của core và khả năng truyền dữ liệu của RAM. Nếu bạn chỉ chú ý đến việc lựa chọn loại chíp đồ họa nào có khả năng xử lý cực tốt, nhưng khả năng truyền dữ liệu qua lại giữa RAM của card đồ họa tới chip xử lý lại không đáp ứng kịp lượng dữ liệu mà chip xử lý được thì hiện tượng nghẽn cổ chai có thể xảy ra ngay chính trên chiếc card đồ họa chứ không cần so sánh với những phần cứng khác. Tốc độ truyền tải của RAM trên card đồ họa (hay VRAM) phụ thuộc vào loại RAM và băng thông của RAM. Hiện nay trên thị trường card đồ họa có khá nhiều loại RAM nhưng chủ yếu vẫn là 3 loại GDDR2, GDDR3 và GDDR5. Các loại card trung cấp thường sử dụng 2 loại 2 và 3, còn loại 5 thì thường được dùng cho các loại card cao cấp. Do tốc độ truyền tải không chỉ phụ thuộc vào loại RAM nên không phải cứ chiếc card nào sử dụng GDDR5 là sẽ cho tốc độ tốt hơn GDDR3. Bởi nếu loại RAM tốt cho tốc độ xử lý cao nhưng băng thông dành cho card đồ họa lại thấp thì lượng dữ liệu truyền tải cũng không cao (băng thông ở đây chính là các chỉ số 64-bit, 128-bit hay 256-bit trên card đồ họa). Trang 52
  53. Một thành viên của diễn đàn VOZ cũng đã đưa ra 1 phép so sánh khá hài hước nhưng khá đúng. Đó là nếu coi loại RAM là loại xe mà bạn chạy thì băng thông chính là đường dành cho xe đi. Nếu sử dụng RAM có tốc độ cao mà cho chạy trên băng thông hẹp thì cũng giống như mang siêu xe chạy trên đường làng. Và ngược lại nếu mang RAM có tốc độ chậm như GDDR2 chạy trên một card có băng thông tới 256 bit thì cũng không khác mang xe đạp để chạy trên đường quốc lộ. Vấn đề tốc tối ưu của card đồ họa vẫn còn liên quan đến 1 thiết bị nữa đó là Mainboard. Nếu cổng PCI-express trên main có tốc độ không đủ đáp ứng tốc độ xử lý của card đồ họa thì card đó có tốc độ cao tới đâu cũng vẫn không thể vượt qua giới hạn về tốc độ của khe cắm PCI-express. Nhưng cũng thật may mắn là hiện nay hầu hết các mainboard đời mới đều đã sử dụng chuẩn PCI-express 2.0 cho tốc độ truyền tải dữ liệu lên tới 5Gb/s, đồng thời các khe cắm này vẫn sử dụng chung 1 loại cổng vật lý với khe PCI-express 1.1 cũ nên các loại card hỗ trợ PCI-express đời cũ vẫn có thể sử dụng trên các mainboard mới bình thường. Khi nâng cấp card đồ họa lên dòng cao cấp hơn cũng sẽ dẫn đến việc lượng điện tiêu thụ của máy tăng lên đặc biệt là khi bạn nâng từ card đồ họa tích hợp lên card đồ họa rời. Lượng điện tiêu thụ trên các card đồ họa rời thường rất cao so với các Trang 53
  54. thiết bị khác trên máy tính và thậm chí có 1 số dòng card tầm trung tiêu thụ điện bằng gần như tất cả các thiết bị còn lại trên máy tính cộng lại. Vì vậy nếu như muốn chọn được 1 card đồ họa tốt nhất cho dàn máy của mình thì bạn cần đảm bảo công suất của bộ nguồn hiện tại đang ở mức thừa thãi. Đối với những dòng card tầm trung như các dòng HD 4800, HD5800 hay thậm chí là cả dòng HD6800 trở xuống thì chỉ cần 1 chiếc nguồn công suất thực cỡ 500 W là đủ (các card đời cao càng tiết kiệm điện hơn). Còn với các dạng card 2 nhân đồ họa thì bạn sẽ cần loại nguồn cao cấp hơn nữa nếu muốn sử dụng hết công suất của chúng. 2.3. Bộ nhớ trong (RAM). Lỗi lớn nhất mà những người dùng không có kinh nghiệm hoặc kiến thức thường mắc phải khi nâng cấp RAM là mua nhầm loại. Điều này sẽ dẫn đến sự không tương thích giữa RAM cũ và RAM mới, thậm chí là giữa RAM mới và bo mạch chủ, dẫn đến những hỏng hóc không thể lường trước. Hiện nay, để dễ phân biệt, các hãng sản xuất RAM thường có các ký hiệu in trên bao bì. Do đó hãy bỏ chút thời gian để đọc các thông số này, đặc biệt là tốc độ bus (được biểu thị bằng đơn vị MHz). Mỗi loại RAM khác nhau về số chân cắm, dung lượng và thông số kỹ thuật, tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là tốc độ bus. Lý tưởng nhất là bạn nên chọn RAM có tốc độ bus và dung lượng bộ nhớ giống hệt như thanh RAM cũ (ví dụ DDR3 1333 MHz, 2 GB). Tuy nhiên nếu không thể, hãy chọn thanh RAM mới có tốc độ bus tương đương để đảm bảo mainboard có thể nhận được RAM cũng như 2 thanh RAM sẽ chạy được với nhau (ví dụ DDR3 1333 MHz 2 GB và DDR3 1333 MHz 4 GB ). Ngược lại, nếu máy tính đang dùng thanh RAM DDR3 1066 MHz thì không nên chọn RAM có tốc độ bus cao hơn, ví như DDR3 1333 MHz. Trang 54
  55. Một sai lầm nữa của người dùng là thường không để ý đến giới hạn RAM mà máy tính có thể nhận được. Dung lượng RAM tối đa mà máy có thể nhận được phụ thuộc vào mainboard (bo mạch chủ) và hệ điều hành. 2.4.Ổ đĩa quang. Sẽ là thiếu thốn nếu máy tính không đọc được đĩa DVD, đặc biệt nếu bạn thỉnh thoảng xem phim chất lượng cao. Với ổ đĩa DVD-RW, bạn có thể tự tạo cho mình những đĩa DVD hoặc CD âm nhạc yêu thích, sao lưu những dữ liệu quan trọng. Vì vậy nâng cấp ổ đĩa cũng khá thiết thực và phù hợp với khả năng của mỗi người. 2.5.Ổ đĩa cứng. Xét về dung lượng và chi phí thì ổ cứng truyền thống (HDD) vẫn là lựa chọn hàng đầu trong khi ổ cứng thể rắn (SSD) có ưu thế vượt trội về tốc độ truy xuất (đọc/ghi) dữ liệu, khả năng chống sốc tốt hơn, êm và mát hơn khi hoạt động vì không có bộ phận chuyển động, dữ liệu của bạn sẽ an toàn hơn rất nhiều khi máy tính bị rơi hay va đập. Trở ngại lớn nhất của SSD hiện nay vẫn là tỷ lệ giá vẫn còn rất cao so với HDD. Bên cạnh đó giải pháp lưu trữ kết hợp giữa HDD và SSD ứng dụng công nghệ SRT (Smart Response Technology) mới của Intel tích hợp trên các BMC chipset Z68 Express xuất hiện trên thị trường gần đây cũng là một lựa chọn đáng giá. Trang 55
  56. Lưu ý là SSD có dung lượng khá thấp so với HDD và tuổi thọ của mỗi ô nhớ được tính bằng số lần ghi giới hạn. Với những dữ liệu mang tính lưu trữ, bạn nên sao lưu vào các thiết bị lưu trữ khác như ổ cứng gắn ngoài, CD/DVD, Ngoài ra, để kéo dài thời gian sử dụng của SSD, ngoài việc hạn chế những thao tác ghi chép dữ liệu không cần thiết, bạn cũng cần nên lưu ý là có vài thiết lập của hệ điều hành và các tác vụ thông thường được thiết kế cho ổ đĩa cứng HDD không nên dùng với ổ SSD. 2.6. Card âm thanh (Sound card). Về card âm thanh, hầu hết máy tính hiện tại được tích hợp card âm thanh loại bình dân, cho nhu cầu nghe nhạc bình thường. Nếu là người thích âm nhạc thì đầu tiên cần nâng cấp loa, sau đó mới là card âm thanh. Nói chung nâng cấp card không quá quan trọng. 2.7. Màn hình. Đầu tư màn hình mới và to hơn có khi còn tốt hơn cả việc mua máy tính mới. Nếu máy tính cũ dùng màn hình CRT 14 – 15 inch, nâng cấp lên 17 inch, 19 inch hoặc màn hình LCD sẽ tạo ra sự khác biệt, nhất là nếu bạn cả ngày phải nhìn chằm chằm vào các bảng tính và văn bản. Với công việc văn phòng, màn hình LCD sáng và rõ hơn màn hình CRT. Diện tích thực của màn hình LCD thường rộng hơn 1 inch so với màn hình CRT ở cùng kích cỡ. Màn hình vẫn có thể dùng tiếp khi mua máy tính mới. 2.8. Bộ nguồn (Power supply). Công suất danh định: Đây là thông số cần quan tâm đầu tiên khi chọn mua nguồn. Công suất danh định (còn gọi là công suất thực hay công suất định mức) là giá trị lớn nhất mà nguồn còn có thể hoạt động được khi cấp điện cho mạch ngoài. Quá giá trị này, dòng điện chạy trong nguồn làm tỏa nhiệt mạnh đến mức khả năng tản nhiệt của các phần tử trong nguồn (cuộn dây, điện trở, chip ) không đáp ứng nổi, dẫn đến cháy hoặc hoạt động hỗn loạn. Quá tải do công suất “đuối” là một trong những của PSU. Hãy cảnh giác với cách đặt tên của nhà sản xuất! Ví dụ điển hình là bộ nguồn AcBel Trang 56
  57. E2 470 có công suất thực chỉ 420 W (không thể quy kết NSX lừa đảo vì tên bộ nguồn không có chữ W). Thông thường, 500 -> 600 W công suất thực là đủ cho hệ thống Intel Core-i mới và card đồ họa yêu cầu 2 nguồn phụ 6 pin. Hiệu suất & Hệ số công suất: Hai chỉ số này thể hiện mức độ sử dụng điện năng hiệu quả của bộ nguồn và đều có giá trị nhỏ hơn 1. Không bao giờ có chuyện hiệu suất đạt 100% do một phần năng lượng bị tiêu tốn dưới dạng nhiệt. Cũng khó có thể bắt gặp một bộ nguồn có hệ số công suất đạt 1 do các linh kiện như điện kháng (cuộn cảm) và điện dung (tụ điện) không phải luôn duy trì giá trị cố định (cái này phụ thuộc cả vào điện áp và tần số của điện lưới). Ví dụ nếu hệ thống của bạn tiêu thụ 500 W, bộ nguồn có hiệu suất 80% và hệ số công suất 0,9 thì hóa đơn tiền điện phải trả sẽ là: 500 / (0,8 x 0,9) = 694 W. Để tiết kiệm điện, hãy cố gắng tìm kiếm bộ nguồn có hiệu suất và hệ số công suất càng cao càng tốt. Nhầm lẫn thường gặp: (công suất thực) = (công suất danh định in trên sản phẩm) x (hiệu suất) Phần 3: Một số lỗi thường gặp I. Chuẩn đoán một số lỗi của máy tính: 1. Kiểm tra bộ nguồn Bộ nguồn có tác dụng như một trái tim của máy tính, có chức năng cung cấp nguồn điện cho các linh kiện của máy tính hoạt động. Để kiểm tra bộ nguồn ta làm như sau: Trang 57
  58. Bước 1: Cấp điện cho bộ nguồn. Bước 2: Dấu dây PS_ON (màu xanh lá cây) vào Mass (đấu với một dây màu đen bất kì). Quan sát nếu thấy quạt chạy là nguồn vẫn còn hoạt động. Trường hợp nguồn vẫn chạy nhưng máy tính vẫn không khởi động được có thể do các nguyên nhân sau: - Mainboard đã bị hỏng. - Nguồn điện do nguồn cung cấp không đủ điện áp hoặc có 1 trong số những pin có vấn đề, lúc này cần phải thay thế một nguồn khác (còn hoạt động tốt) vào để kiểm tra, trước khi có ý định kiểm tra mainboard. - 2. Chuẩn đoán lỗi của máy tính thông qua tiếng bíp Trang 58
  59. 2.1. Mô tả mã lỗi chẩn đoán POST của BIOS AMI - 1 tiếng bíp ngắn: Một tiếng bíp ngắn là test hệ thống đạt yêu cầu, do là khi bạn thấy mọi dòng test hiển thị trên màn hình. Nếu không thấy gì trên màn hình thì phải kiểm tra lại monitor và card video trước tiên, xem đã cắm đúng chưa. Nếu không thì một số chip trên bo mạch chủ của có vấn đề. Xem lại RAM và khởi động lại. Nếu vẫn gặp vấn đề thì có khả năng bo mạch chủ đã bị lỗi. Nên thay bo mạch. - 2 tiếng bíp ngắn: Lỗi RAM. Tuy nhiên, trước tiên hãy kiểm tra card màn hình. Nếu nó hoạt động tốt thì bạn hãy xem có thông báo lỗi trên màn hình không. Nếu không có thì bộ nhớ của bạn có lỗi chẵn lẻ (parity error). Cắm lại RAM và khởi động lại. Nếu vẫn có lỗi thì đảo khe cắm RAM. - 3 tiếng bíp ngắn: Về cơ bản thì tương tự như phần 2 tiếng bíp ngắn. - 4 tiếng: Về cơ bản thì tương tự như phần 2 tiếng bíp ngắn. Tuy nhiên cũng có thể là do bộ đặt giờ của bo mạch bị hỏng. - 5 tiếng bíp ngắn: Cắm lại RAM. Nếu không thì có thể phải thay bo mạch chủ. - 6 tiếng bíp ngắn: Chip trên bo mạch chủ điều khiển bàn phím không hoạt động. Tuy nhiên trước tiên vẫn phải cắm lại keyboard hoặc thử dùng keyboard khác. Nếu tình trạng không cải thiện thì tới lúc phải thay bo mạch chủ khác. - 7 tiếng bíp ngắn: CPU bị hỏng. Thay CPU khác. - 8 tiếng bíp ngắn: Card màn hình không hoạt động. Cắm lại card. Nếu vẫn kêu bíp thì nguyên nhân là do card hỏng hoặc chip nhớ trên card bị lỗi. Thay card màn hình. - 9 tiếng bíp ngắn: BIOS của bị lỗi. Thay BIOS khác. - 10 tiếng bíp ngắn: Vấn đề của bạn chính là ở CMOS. Tốt nhất là thay bo mạch chủ khác. - 11 tiếng bíp ngắn: Chip bộ nhớ đệm trên bo mạch chủ bị hỏng. Thay bo mạch khác. - 1 bíp dài, 3 bíp ngắn: Lỗi RAM. Thử cắm lại RAM, nếu không thì phải thay RAM khác. - 1 bíp dài, 8 bíp ngắn: Không test được video. Cắm lại card màn hình. - 2.2. Bios Phoenix Trang 59
  60. Tiếng bíp của BIOS Phoenix chi tiết hơn BIOS AMI. BIOS này phát ra 3 loạt tiếng bíp một. Chẳng hạn, 1 bíp dừng-3 bíp dừng. Mỗi loại được tách ra nhờ một khoảng dừng ngắn. Hãy lắng nghe tiếng bíp, đếm số lần bíp. Mô tả mã lỗi chẩn đoán POST của BIOS PHOENIX - 1-1-3: Máy tính của bạn không thể đọc được thông tin cấu hình lưu trong CMOS. - 1-1-4: BIOS cần phải thay. - 1-2-1: Chip đồng hồ trên mainboard bị hỏng. - 1-2-2: Bo mạch chủ có vấn đề. - 1-2-3: Bo mạch chủ có vấn đề. - 1-3-1: Bạn cần phải thay bo mạch chủ. - 1-3-3: Bạn cần phải thay bo mạch chủ. - 1-3-4: Bo mạch chủ có vấn đề. - 1-4-1: Bo mạch chủ có vấn đề. - 1-4-2: Xem lại RAM. - 3-2-4: Chip kiểm tra bàn phím bị hỏng. - 3-3-4: Máy tính của bạn không tìm thấy card màn hình. Thử cắm lại card màn hình hoặc thử với card khác. - 3-4-_: Card màn hình của bạn không hoạt động. - 4-2-1: Một chip trên mainboard bị hỏng. - 4-2-2: Trước tiên kiểm tra xem bàn phím có vấn đề gì không. Nếu không thì mainboard có vấn đề. - 4-2-3: Tương tự như 4-2-2. - 4-2-4: Một trong những card bổ sung cắm trên bo mạch chủ bị hỏng. Rút từng cái ra để xác định “thủ phạm”. Nếu không tìm thấy được card bị hỏng thì giải pháp cuối cùng là phải thay mainboard mới. - 4-3-1: Lỗi bo mạch chủ. - 4-3-4: Đồng hồ trên bo mạch bị hỏng. Thử vào Setup CMOS và kiểm tra ngày giờ. Nếu đồng hồ không làm việc thì phải thay pin CMOS. - 4-4-1: Có vấn đề với cổng nối tiếp. Cắm lại cổng này vào bo mạch chủ xem có được không. Nếu không, tìm jumper để vô hiệu hoá cổng nối tiếp này. - 4-4-2: Xem 4-4-1 nhưng lần này là cổng song song. Trang 60
  61. - 4-4-3: Bộ đồng xử lý số có vấn đề. Nếu vấn đề nghiêm trọng thì tốt nhất nên thay. - 1-1-2: Mainboard có vấn đề. - 1-1-3: Có vấn đề với RAM CMOS, kiểm tra lại pin CMOS và mainboard. 3. Những lỗi thường gặp trong hệ thống file NTFS. Tên tập tinh dành riêng: Mặc dù hệ thống tập tin hỗ trợ đường dẫn lên đến khoảng 32.767 ký tự Unicode với mỗi thành phần đường dẫn (thư mục hoặc tên tập tin) có tới 255 ký tự chiều dài, như vậy sẽ có tên nào đó không sử dụng được, vì NTFS lưu siêu dữ liệu của mình trong các tập tin bình thường (mặc dù ẩn và cho hầu hết các phần không có); theo đó các tập tin người dùng không thể sử dụng các tên này. Những tập tin này tất cả đều có trong thư mục gốc của một ổ đĩa (và chỉ dành riêng cho thư mục đó). Các tên: $MFT, $MFTMirr, $LogFile, $Volume, $AttrDef, . (dấu chấm), $Bitmap, $Boot, $BadClus, $Secure, $Upcase, và $Extend; . (dấu chấm) và $Extend đều lưu trong cả các thư mục và các tập tin khác. Kích thước ổ đĩa tối đa: Theo lý thuyết, ổ đĩa NTFS tối đa có 2 64−1 cluster. Tuy nhiên, kích thước ổ đĩa NTFS tối đa trên Windows XP Professional là 2 32−1 cluster. Ví dụ, bằng cách sử dụng 64 KiB cluster, kích thước ổ đĩa NTFS tối đa sẽ là 256 TiB trừ 64 KiB. Sử dụng kích thước cluster mặc định là 4 KiB, kích thước ổ đĩa NTFS tối đa là 16 TiB trừ 4 KiB (cả hai lớn hơn nhiều so với giới hạn 128 GiB tăng thêm trong Windows XP SP1). Bởi vì các bản phân vùng trên ổ đĩa bản ghi khởi động chủ (MBR) chỉ hỗ trợc kích thước phân vùng lên tới 2 TiB, ổ đĩa GPT hay động có thể sử dụng để tạo ra các ổ đĩa NTFS khởi động trên 2 TiB. Kích thước tập tin tối đa: Theo lý thuyết là 16 EiB trừ 1 KiB (264 − 210 hay 18.446.744.073.709.550.592 bytes). Thực tế: 16 TiB trừ 64 KiB (244 − 216 hay 17.592.185.978.880 bytes). Các dòng dữ liệu luân phiên: các lệnh hệ thống Windows có thể xử lý các dòng dữ liệu luân phiên. Tùy thuộc vào hệ điều hành, tiện ích và hệ thống tập tin xa, một chuyển giao tập tin có thể âm thầm tách các dòng dữ liệu. Một cách an toàn của các tập tin di chuyển hay sao chép là sử dụng các lệnh hệ thống BackupRead và BackupWrite, cho phép các chương trình đếm dòng, để xác minh xem từng dòng nên được khi vào ổ đĩa đích hay chủ định bỏ qua các dòng vi phạm. Trang 61
  62. Miền thời gian: NTFS sử dụng cách tính thời gian như trong Windows NT: nhãn giờ 64 bit với phạm vi từ 1 tháng 1 năm 1601 đến 28 tháng 5 năm 60056 với độ chính xác 10 triệu tích tắc (107) trong một giây (tức là 100 nano giây cho mỗi tích tắc). Tuy nhiên trong thực tế, đồng hồ hệ thống không cung cấp độ chính xác như vậy, và chỉ có độ chính xác nhất được giữ (thường là 10 giây mà không hỗ trợ phần cứng thêm vào cho đồng hồ hệ thống tốt hơn). Ngoài ra, không phải tất cả các nhãn giờ có độ chính xác này: trong các thuộc tính tiêu chuẩn (tương thích với các ứng dụng DOS và Windows 95/98/ME), độ chính xác thấp hơn nhiều, và ngày truy cập cuối (nếu nó chưa được vô hiệu hóa trong các thiết lập đăng ký hệ thống) không phải luôn luôn được báo cáo ngay lập tức cho hệ thống tập tin và được làm tròn trong khoảng lớn hơn. Thiếu độ dư thừa: NTFS không giữ bản sao dự phòng của tập tin MFT có chứa các tham chiếu đến tập tin nào được lưu trữ trên phân vùng đó. Nếu MFT bị hư hại, mọi dữ liệu sẽ không thể khôi phục lại được. Kể từ khi chỉ sao lưu dữ liệu này, ảnh MFT, không chứa tất cả các mục của MFT, nó có thể không thể sử dụng bản thân nó để phục hồi dữ liệu quan trọng. Bị lỗi bảng phân quyền (Permission) truy cập với các thư mục hoặc tệp tin dẫn tới không thể truy cập vào thư mục hoặc tệp tin đó. 4. Những nguy cơ đe dọa đến dữ liệu trong máy tính và cách phòng chống. Thất lạc, mất mát dữ liệu trong quá trình sử dụng do xóa nhầm Bị phá hoại bở sự tấn công của virut. Bị mất hoàn toàn do các lỗi phát sinh từ phần cứng: bị bỏng do cháy ổ đĩa, bị hỏng do ảnh hưởng từ môi trường như va đập, mài mòn, nhiệt độ, độ ẩm Bị đánh cắp bởi các chương trình gián điệp. Bị hỏng do các lỗi về cấu trúc ổ đĩa như: bị phân mảnh file, các lỗi phát sinh do bad sector của ổ cứng. Điều nên làm để tránh khỏi trương hợp nêu trên là backup dữ liệu định kì bằng những phần mềm hỗ trợ như: Norton Ghost, Acronis True Images để phục vụ sao lưu toàn bộ dữ liệu trên một phân vùng hoặc trên toàn bộ một đĩa sang một bộ phận lưu trữ khác đảm bảo an toàn về tính toàn vẹn và bảo mật cho dữ liệu sao lưu. Đối với những File có dung lượng lớn cần phải sao chép tới một phân vùng thứ cấp, một ổ đĩa khác hoặc sử dụng những công cụ chuyên dụng để tạo bản sao lưu. Trang 62
  63. Đối với trường hợp bị làm hỏng hoặc đánh cắp bởi virut máy tính, các chương trình gián điệp giải pháp thông dụng nhất mà đa số người dùng hiện nay lựa chọn là cài đặt chương trình chống virut máy tính. Nhưng đó vẫn là chưa đủ bởi vì virut máy tính ngày càng phát triển rất nhanh và tinh vi trong khi đó thì khả năng “tìm – diệt” của các chương trình chỉ có hạn không thể khống chế được tất cả các loại virut máy tính hay phần mềm gián điệp, do đó rất cần đến một sự chủ động tự bảo vệ “tài sản số” của mình bằng cách mã hóa các tệp tin, đặt mật khẩu truy cập cho những dữ liệu quan trọng và nhạy cảm. Trang 63
  64. Kết luận Qua quá trình thực hiện đề tài “nâng cấp và bảo trì hệ thống máy tính” em đã có được các kiến thức về phần cứng máy tính, cách tháp lắp, bảo trì, nâng cấp máy tính, cơ chế quản lý quản lý tập tin trong hệ điều hànhWindows NT, bảng phân vùng NTFS và mức độ quan trọng của việc bảo vệ dữ liệu được lưu trữ trong máy tính. Qua quá trình đi thực tế em đã học hỏi được các kĩ năng tháo lắp máy tính, thiết lập một hệ thống máy tính hoạt động. Trang 64
  65. Hướng phát triển của đề tài: Bảo trì và nâng cấp hệ thống máy chủ. Bảo mật hệ thống lưu trữ NTFS. Bảo vệ và phục hồi dữ liệu lưu trữ trên ổ cứng. Trang 65
  66. Tài liệu tham khảo Website: 1. B%A9ng 2. 3. 4. 5. Tài liệu: 1. Hướng dẫn kỹ thuật: lắp ráp – cài đặt nâng cấp & bảo trì máy tính đời mới. Tác giả: Nguyễn Thu Thiên. NXB: Thống kê. Trang 66