Ảnh hưởng của những “doanh nghiệp sống thực vật” tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giai đoạn “thập kỷ mất mát”
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của những “doanh nghiệp sống thực vật” tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giai đoạn “thập kỷ mất mát”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- anh_huong_cua_nhung_doanh_nghiep_song_thuc_vat_toi_tang_truo.pdf
Nội dung text: Ảnh hưởng của những “doanh nghiệp sống thực vật” tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giai đoạn “thập kỷ mất mát”
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG “DOANH NGHIỆP SỐNG THỰC VẬT” TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở NHẬT BẢN TRONG GIAI ĐOẠN “THẬP KỶ MẤT MÁT” Nguyễn Thị Tường Anh* Vũ Thị Thanh Xuân Nguyễn Thị Kim Hồng Tĩm tắt Dựa trên định nghĩa về doanh nghiệp sống thực vật của Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap (2004), nhĩm tác giả đã nghiên cứu nền kinh tế Nhật Bản nhằm phân tích những tác động của doanh nghiệp sống thực vật tới tăng trưởng kinh tế. Cĩ thể kết luận rằng, bên cạnh tác động tích cực là giảm tỷ lệ thất nghiệp, các doanh nghiệp sống thực vật gây ra hàng loạt tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế như giảm năng suất lao động, bĩp méo hoạt động của thị trường khi tác động vào tỷ lệ việc làm mới được tạo thêm, giảm hiệu quả của việc phân phối các nguồn lực trong nền kinh tế, lãng phí nguồn lực, ngăn chặn các doanh nghiệp mới gia nhập vào thị trường . Từ khĩa: Doanh nghiệp sống thực vật, tín dụng ưu đãi, tính hiệu quả. Mã số: 198.071115. Ngày nhận bài: 07/11/2015. Ngày hồn thành biên tập: 31/12/2015. Ngày duyệt đăng: 31/12/2015. Abstract Based on definition of zombie firms by Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap (2004), the author studies Japanese economy to analyze the impact of zombie firms on economic growth. It can be concluded that beside only one positive effect to reduce unemployment rate, zombie firms can cause series of negative effect on growth of economy like decline productivity and average yield of the economy, distort the market by affecting the ratio of new job is created, cause serious impact to the operation of the normal business, reduce the level of effectiveness of the reallocation of resources, waste of resources, prevent new firms entering the market. Key words: Zombie firms, favorable credit, effectiveness. Paper No. 198.071115. Date of receipt: 07/11/2015. Date of revision: 31/12/2015. Date of approval: 31/12/2015. 1. Bối cảnh kinh tế thống ngân hàng, các quy định về tài chính Vào những năm 1990, Nhật Bản đã phải được nới lỏng cùng với sản lượng xuất khẩu hứng chịu một trong những cuộc khủng hoảng vượt trội đã tạo ra tư tưởng tự tin thái quá của kinh tế tồi tệ và hậu quả của nĩ kéo dài trong các doanh nghiệp và ngân hàng Nhật Bản. những thập kỷ tiếp theo tạo ra thời kỳ Thập kỷ Sự tự tin quá mức cùng với chính sách tiền mất mát. Trái ngược với thời kỳ này, những tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhật Bản đã làm năm 1980 là thời kỳ cực thịnh của nền kinh bùng nổ các thương vụ đầu cơ vào thị trường tế Nhật Bản. Tính thanh khoản cao trong hệ chứng khốn và thị trường bất động sản nội * TS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: tuonganh@ftu.edu.vn TS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: thanhxuan@ftu.edu.vn Số 79 (01/2016) Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 13
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP địa, khiến giá các tài sản này bị đẩy lên mức nợ xấu, và khuyến khích các ngân hàng nhân “trên trời”. Từ năm 1985 - 1989, chỉ số Nikkei nhượng hoặc xĩa nợ cho các doanh nghiệp. Và tăng gấp ba lần lên mức 39.000, chiếm hơn 1/3 đây chính là nguyên nhân sản sinh ra một số mức vốn hĩa qua thị trường chứng khốn thế lượng khơng nhỏ các doanh nghiệp sống thực giới. Giá nhà đất tại các khu cao cấp tại Tokyo vật trong nền kinh tế Nhật Bản thời bấy giờ. tăng lên mức đắt hơn 350 lần so với giá nhà Đây là những cơng ty cần các cuộc cứu trợ đất cùng loại tại Manhattan, New York. liên tục từ chính phủ và ngân hàng để cĩ thể Năm 1989, quan chức Nhật Bản bắt đầu tiếp tục hoạt động, hoặc các cơng ty mắc nợ lo ngại trước sự phát triển của bong bĩng tài mà chỉ cĩ khả năng trả được lãi chứ khơng cĩ sản, và Ngân hàng trung ương Nhật Bản quyết khả năng trả cả khoản nợ đã vay. Mãi cho tới định thắt chặt chính sách tiền tệ. Sự kiện này tháng 3/1998, Chính phủ Nhật Bản mới chính đã kích nổ bong bĩng chứng khốn và bong thức cơng bố rộng rãi vấn đề nợ xấu cũng như bĩng bất động sản, khủng hoảng tài chính bắt đưa ra quy định thống nhất định nghĩa nợ xấu. đầu từ đây. Tính đến năm 2004, chỉ số Nikkei Theo như Sắc lệnh Tái cấu trúc Tài chính năm sụt giảm 75% giá trị của nĩ so với thời kỳ cực 1998 (Financial Reconstruction Act - FRA), thịnh. Giá bất động sản tụt giảm trong 15 năm nợ xấu bao gồm các khoản tín dụng cho các liên tiếp. Giá đất trên thị trường giảm 50% doanh nghiệp thất bại trên thị trường, khoản sau 10 năm kể từ khi đạt đỉnh năm 1992. Đến cho vay đã quá hạn trả 3 tháng, và các khoản năm 2004, giá nhà đất tại Tokyo chỉ cịn 10% tín dụng ưu đãi. của mức giá năm 1980, cịn khu vực đắt đỏ Đơn vị tính: trăm triệu yên nhất Tokyo - Ginza - giá nhà đất chỉ cịn 1% mức giá năm 1989 (Jesse Colombo, 2012). Hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng nợ xấu trầm trọng. Mức nợ cơng đã vượt qua mức GDP. Nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng giảm phát, tốc độ tăng trưởng chậm lại. Nếu như trong những năm 1980, tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản trung bình khoảng 3,8% thì chỉ sau đĩ một thập kỷ - đến những năm 1990, tốc độ tăng trưởng trung bình chỉ cịn Đồ thị 1: Nợ xấu trong nền kinh tế Nhật Bản 1,3%, nền kinh tế trở nên trì trệ (Takeo Hoshi, (3/1999 - 3/2009) Anil Kashyap, 2011). Chính phủ đã phản ứng Nguồn: Financial Services Agency, bảng 1, 2010. trước cuộc khủng hoảng bằng việc hạ lãi suất, Trên đây là đồ thị thể hiện mức nợ xấu qua thực chính sách kích thích tài khĩa. Lãi suất các năm, được tính tốn dựa trên định nghĩa được giữ ở mức thấp và gần ở mức 0% (Takeo nợ xấu trong FRA. Từ năm 1999-2005, nợ xấu Hoshi, Anil Kashyap, 2011). trong nền kinh tế luơn ở mức cao, và những nỗ Chính phủ đã bơm 1.8 nghìn tỷ yên vào hệ lực xử lý nợ xấu gần như khơng cĩ tác dụng, thống ngân hàng chính nhằm vực dậy hệ thống đỉnh điểm là năm 2002 với nợ xấu ở mức này. Từ năm 1990, Chính phủ gần như che 43.207 tỷ Yên. Từ năm 1992-2005, ngân hàng giấu vấn đề thực sự của hệ thống ngân hàng - đã xử lý 96 nghìn tỷ yên rủi ro tín dụng, xấp xỉ 14 Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Số 79 (01/2016)
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP 19% GDP hàng năm. Đến năm 2006, nợ xấu • Phí vay (loan spreads: mức chênh lệch mới trở lại tầm kiểm sốt. giữa lãi suất tiết kiệm mà ngân hàng thương Chính phủ Nhật Bản đã cĩ nhiều hành động mại đưa ra đối với người gửi tiền so với lãi nhằm hạn chế cuộc khủng hoảng đi xuống bao suất cho vay mà ngân hàng đĩ đề nghị với gồm thành lập các Cơng ty quản lý tài sản người đi vay) tại Nhật Bản thấp so với Đức, (AMC - Asset Management Company), bơm Mỹ, Anh vào những năm 1990. vốn vào các ngân hàng, hạ lãi suất tín dụng, • Người Nhật Bản đi vay phải trả phí thấp thậm chí huy động vốn tư nhân để xử lý nợ hơn, với các điều khoản vay đa dạng hơn so xấu. Đến năm 2002, kế hoạch Takenaka được với người nước ngồi. thực thi với các động thái như buộc các ngân • Lãi suất cho vay hoặc rất cao (từ những hàng chính phải thực hiện kiểm tốn khách kẻ cho vay nặng lãi phi pháp) hoặc rất thấp quan sử dụng giá thị trường của các khoản nợ (đối với phần lớn các hãng) mà khơng cĩ mức xấu, thừa nhận nợ xấu, dùng 2 nghìn tỷ yên để trung bình. quốc hữu hĩa các ngân hàng lớn, cho phép các • Lượng vay với lãi suất cao hơn 3% giảm ngân hàng yếu kém phá sản hoặc sát nhập với mạnh giai đoạn 1999-2004. các ngân hàng lớn. Việc thực hiện kế hoạch Takenaka đã gĩp phần khơng nhỏ giúp nền • Phí vay năm 2004 thấp hơn năm 2003. kinh tế Nhật Bản phục hồi. Ngân hàng cũng cĩ nhiều lý do để đảo nợ, tái Giống như nhiều nước khác trên thế giới, cấu trúc nợ cho các doanh nghiệp nợ nhiều. Một nguyên nhân của hiện tượng các doanh nghiệp mặt, ngân hàng phải tuân theo quy chuẩn quốc sống thực vật tồn tại trong thời gian dài trong tế về mức an tồn vốn tối thiểu. Xác nhận và nền kinh tế Nhật Bản cũng bắt nguồn từ sự xử lý nợ xấu - đặc biệt là những khoản nợ lớn - nhân nhượng của Chính phủ và các ngân hàng đồng nghĩa với việc ngân hàng cĩ nguy cơ bị lỗ cho vay. Cuộc khủng hoảng bắt đầu năm 1989, lớn, khơng chỉ ảnh hưởng đến khả năng duy trì nhưng phải mãi cho đến năm 1998, Chính phủ tỷ lệ an tồn vốn tối thiểu mà cịn cĩ thể khiến mới thừa nhận mức độ trầm trọng của khủng ngân hàng đĩ phá sản. Mặt khác, ngân hàng luơn hoảng và cơng bố mức nợ xấu của nền kinh tế. phải đối diện với những chỉ trích của dư luận khi Trong suốt 9 năm, Chính phủ đã phủ nhận tính ngân hàng thu hồi nợ từ doanh nghiệp khiến các nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng. Chính doanh nghiệp này phá sản, hoặc khi ngân hàng sách, nền chính trị của Nhật Bản che giấu các từ chối cho các doanh nghiệp vay mới làm cuộc vấn đề của nền kinh tế. Thêm vào đĩ, Chính phủ khủng hoảng càng thêm trầm trọng. đưa ra các gĩi cứu trợ, hoặc khuyến khích ngân Tĩm lại, mức lãi suất thấp được duy trì trên hàng đưa ra các khoản tín dụng ưu đãi cho các thị trường cùng với các khoản tín dụng ưu đãi doanh nghiệp nợ cao, đặc biệt là những doanh của ngân hàng, các gĩi cứu trợ của Chính phủ nghiệp quá lớn (too big to fail) trong giai đoạn đã tạo ra những doanh nghiệp trong tình trạng khủng hoảng. Ưu đãi tín dụng tồn tại dưới nhiều “dở sống dở chết”: những cơng ty nợ đầm đìa hình thức: lãi suất ưu đãi, hốn đổi nợ thành cổ do đã đổ quá nhiều vốn đầu tư vào bong bĩng phần (debt-for-equity swaps), cho phép trì hỗn bất động sản và chứng khốn trước kia, nay trả lãi vay hay nợ gốc, và xĩa nợ hồn tồn. nhờ những yếu tố thuận lợi từ bên ngồi mà Nhiều bằng chứng đã cho thấy cĩ sự tồn tại của chưa bị buộc phải phá sản nhưng cũng khơng tín dụng ưu đãi tại thời kỳ đĩ như: đủ nguồn lực để phát triển hơn, là tiền đề cho Số 79 (01/2016) Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 15
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP sự ra đời của các “doanh nghiệp sống thực nghiệp sống thực vật” (Shin-ichi Fukuda, Jun- vật” trong nền kinh tế Nhật Bản. ichi Nakamura, 2010). 2. Tình trạng các “doanh nghiệp sống 2.2. Thực trạng các “doanh nghiệp sống thực vật” trong nền kinh tế thực vật” trong nền kinh tế Nhật Bản 2.1. Cách xác định “doanh nghiệp sống Đơn vị: % thực vật” Khơng cĩ một số liệu chính thức nào về số lượng các doanh nghiệp sống thực vật trong nền kinh tế Nhật Bản được Chính phủ cơng bố, tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã dựa trên lý thuyết để đưa ra các tiêu chí cơ bản khi phân biệt giữa doanh nghiệp sống thực vật và doanh nghiệp bình thường. Để xác định mức tín dụng ưu đãi, họ đã so sánh mức lãi vay thực trả với mức phải trả tối thiểu giả định Đồ thị 2: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực mà những cơng ty bình thường sẽ trả (chỉ số vật (tính theo số hãng) R). Ngồi ra, nếu doanh nghiệp cĩ lợi nhuận Nguồn: Takeo Hoshi, 2006. trước thuế và lãi (earnings before interest and taxes - EBIT) nhỏ hơn mức lãi vay R, tổng nợ Đồ thị trên biểu diễn tỷ lệ các doanh nghiệp doanh nghiệp lớn hơn một nửa tổng tài sản sống thực vật trong nền kinh tế Nhật Bản. Tỷ kỳ trước và doanh nghiệp tiếp tục vay mới thì lệ doanh nghiệp sống thực vật dao động từ doanh nghiệp đĩ sẽ được xác định là “doanh 5-15% trước năm 1990, sau đĩ tăng đột biến Đơn vị: % Đồ thị 3: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực vật trong từng ngành (tính theo trị giá tài sản) Nguồn: Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008. 16 Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Số 79 (01/2016)
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP từ giữa những năm 1990, và luơn ở mức trên 2.3. Ảnh hưởng của các doanh nghiệp 25% từ sau năm 1994. Những năm 2000, tỷ lệ sống thực vật tới nền kinh tế Nhật Bản này dao động trong khoảng từ 30-40%. 2.3.1. Ảnh hưởng tích cực: Từ nhĩm đồ thị trên, ta cĩ thể thấy doanh Cĩ lẽ lợi ích duy nhất mà Chính phủ cĩ nghiệp sống thực vật tồn tại nhiều ở ngành phi được khi duy trì sự tồn tại của các doanh sản xuất so với ngành sản xuất. Tính theo trị nghiệp sống thực vật là việc gia tăng tỷ lệ thất giá tài sản, tỷ lệ doanh nghiệp sống thực vật ở nghiệp được hạn chế. Trong suốt giai đoạn tất cả các ngành trung bình ở mức 4,72% giai 1980 - 1989, tỷ lệ thất nghiệp trung bình là đoạn 1981 - 1993, tăng lên ở mức trung bình 2,5%. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra và trong suốt giai đoạn Thập kỷ mất mát (1990 14,51% giai đoạn 1996 - 2002. Trong ngành - 1999), tỷ lệ thất nghiệp bình quân cũng chỉ sản xuất, tỷ lệ doanh nghiệp sống thực vật chỉ tăng lên đến 3,09%. Trong giai đoạn tiếp sau tăng từ 3,63% (trung bình giai đoạn 1981 - đĩ (2000 - 2009), tỷ lệ này ở mức 4,65%. Nếu 1993) lên 10,10% (trung bình giai đoạn 1996 các doanh nghiệp sống thực vật khơng nhận - 2002). Trong ngành cơng nghiệp xây dựng, được cứu trợ và bị phá sản hàng loạt, tỷ lệ cá biệt tỷ lệ này tăng từ 4,47% (trung bình giai thất nghiệp chắc chắn sẽ tăng vọt bởi một số đoạn 1981 - 1993) lên 20,34% (trung bình lượng lớn người lao động làm việc trong các giai đoạn 1996 - 2002). Nhĩm ngành bán cơng ty này bị mất việc làm. Chính phủ đã ít buơn, bán lẻ, dịch vụ và bất động sản cũng cĩ nhiều thành cơng trong việc kìm hãm tỷ lệ thất mức tăng khá lớn. nghiệp khơng tăng cao. Đvt: % Đồ thị 4: Tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản Nguồn: World Bank (số liệu do Nhật Bản cung cấp) Qua đồ thị, ta cĩ thể thấy nếu so sánh với năm 2007 lên tới 9,6% năm 2010. Tương tự, các nước Mỹ và Anh, tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật tỷ lệ thất nghiệp tại Anh tăng từ 5,3% năm Bản luơn ở mức thấp. Sau cuộc khủng hoảng 2008 lên 7,9% năm 2012. Trong khi đĩ, trong năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng từ 4,6% thời kỳ khủng hoảng những năm 1990, tỷ lệ Số 79 (01/2016) Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 17
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP thất nghiệp tại Nhật Bản chỉ tăng từ 2,1% năm hoảng, các doanh nghiệp mới sẽ cĩ e ngại khi 1990 lên cao nhất là 5,4% năm 2002 - một tỷ cân nhắc việc gia nhập một ngành cĩ nhiều lệ thấp hơn nhiều so với tỷ lệ này ở các nước doanh nghiệp nhận được ưu đãi và hỗ trợ từ Anh, Mỹ giai đoạn khủng hoảng. ngân hàng, Chính phủ như các doanh nghiệp 2.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực sống thực vật. Tĩm lại, một ngành cĩ nhiều doanh nghiệp sống thực vật làm giảm động Mặc dù việc cứu trợ các doanh nghiệp sống lực gia nhập ngành của các doanh nghiệp mới. thực vật giúp kiềm chế tỷ lệ thất nghiệp, nhưng Bên cạnh đĩ, số lượng các doanh nghiệp chi phí của những tác động xấu mà các doanh sống thực vật tăng cĩ mối liên hệ với việc nghiệp sống thực vật tạo ra cịn lớn hơn lợi ích giảm mức độ tái cấu trúc trong ngành, với mà các doanh nghiệp này mang lại. việc số lượng cơng việc mới được tạo ra Ảnh hưởng đầu tiên phải kể đến là việc đặc biệt thấp tại các phân khúc tập trung ngăn cản hãng mới gia nhập thị trường. nhiều doanh nghiệp sống thực vật. Trong Các doanh nghiệp sống thực vật làm méo mĩ một nghiên cứu, Ricardo J. Caballero & Takeo thị trường bằng việc làm giảm giá sản phẩm, Hoshi & Anil K. Kashyap (2008) đã chỉ ra tăng mức lương trung bình trong ngành qua việc các doanh nghiệp sống thực vật đã làm việc giữ lao động - những người cĩ năng suất méo mĩ thị trường qua việc ảnh hưởng đến đang giảm dần. Điều này làm giảm lợi nhuận tỷ lệ cơng việc mới được tạo ra và tỷ lệ việc tiềm tàng trong ngành, qua đĩ làm giảm động làm mất đi. Tỷ lệ các cơng việc mới được tạo lực gia nhập thị trường của các hãng mới. Bên ra tính bằng số lượng nhân viên tăng lên trong cạnh đĩ, việc cĩ quá nhiều doanh nghiệp cạnh suốt năm chia cho tổng số nhân viên tại thời tranh trong một ngành, đặc biệt là các doanh điểm đầu năm. Tương tự, tỷ lệ việc làm mất nghiệp sống thực vật cũng làm giảm mức độ đi được tính bằng số lượng nhân viên giảm hấp dẫn của thị trường đối với các hãng mới. xuống trong suốt năm chia cho tổng số nhân Trong điều kiện kinh tế khĩ khăn sau khủng viên tại thời điểm đầu năm. Nhĩm tác giả đã Đơn vị: % Đồ thị 5: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực vật và tỷ lệ việc làm mới được tạo ra Nguồn: Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008. 18 Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Số 79 (01/2016)
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP so sánh các tỷ lệ trung bình giai đoạn 1981 - như khơng thay đổi từ nửa đầu đến nửa cuối 1993 và giai đoạn 1996 - 2002 và rút ra kết những năm 1990. Trái lại, trong ngành dịch vụ, luận là ngành sản xuất ít chịu ảnh hưởng bởi số lượng các doanh nghiệp sống thực vật tăng các doanh nghiệp sống thực vật hơn so với 14% làm giảm số lượng việc làm mới được tạo các ngành phi sản xuất. Từ nửa đầu đến nửa ra khoảng 2%. Trong ngành bán buơn bán lẻ, tỷ cuối những năm 1990, tỷ lệ tăng các doanh lệ tương ứng là khoảng 3,5%; và khoảng 4,5% nghiệp sống thực vật trong ngành sản xuất chỉ trong ngành xây dựng. Như vậy, số lượng các khoảng 6% trong khi tỷ lệ này ở ngành xây doanh nghiệp sống thực vật tăng làm giảm số dựng và dịch vụ là 16%, ngành bán buơn bán lượng việc làm mới được tạo ra. Bên cạnh đĩ, lẻ là khoảng 14%. Trong ngành sản xuất, khi ngành xây dựng chịu ảnh hưởng nặng nề từ các doanh nghiệp sống thực vật tăng 6% thì các doanh nghiệp sống thực vật hơn các ngành số việc làm bị mất đi tăng khoảng 3%. Trong khác. Điều này cĩ thể được giải thích bởi ngành khi đĩ, tỷ lệ tương ứng trong ngành xây dựng xây dựng đã được hưởng lợi lớn hơn các ngành chỉ là 2%, ngành dịch vụ và bán buơn bán lẻ khác khi bong bĩng bất động sản phình to, và khoảng 1%. Như vậy, số các doanh nghiệp ngành này cũng chịu tác động nhiều hơn khi vỡ sống thực vật tăng làm tăng số lượng việc làm bong bĩng bất động sản. bị mất đi. Ngồi việc làm tăng số việc làm bị mất đi Mức độ ảnh hưởng của các doanh nghiệp và giảm số lượng việc làm mới được tạo ra, sống thực vật đến số lượng việc làm mới được các doanh nghiệp sống thực vật cịn gây tạo ra trong ngành sản xuất gần như là khơng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của cĩ, số lượng việc làm mới được tạo ra hầu các doanh nghiệp bình thường. Ricardo J. Đvt: % Đồ thị 6: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực vật và tốc độ tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) Nguồn: Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008. Số 79 (01/2016) Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 19
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap Trong đồ thị trên, ta cĩ thể thấy đường (2008) trong nghiên cứu của mình chỉ ra rằng hồi quy giữa tỷ lệ các doanh nghiệp sống doanh nghiệp sống thực vật làm giảm tỷ lệ đầu thực vật và tốc độ tăng trưởng năng suất các tư và tăng tỷ lệ thất nghiệp của các doanh nghiệp nhân tố tổng hợp cho thấy khi số lượng các bình thường trong cùng một ngành. Thêm vào doanh nghiệp sống thực vật tăng lên thì tốc độ đĩ, các doanh nghiệp sống thực vật gia tăng số tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp lượng lao động nhiều hơn doanh nghiệp bình cĩ khuynh hướng giảm dần. Như vậy, sự tồn thường, nhưng tỷ lệ số việc làm mất đi là như tại của các doanh nghiệp sống thực vật cĩ tác nhau (Takeo Hoshi, 2006). Các doanh nghiệp động tiêu cực tới năng suất trung bình của nền sống thực vật khiến các doanh nghiệp bình kinh tế. thường trong ngành phải chịu tác động nặng nề Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil hơn từ cuộc khủng hoảng kinh tế, đồng thời gặp K. Kashyap (2008) cũng chỉ ra rằng khoảng khĩ khăn trong việc vay vốn hơn. cách năng suất giữa doanh nghiệp bình thường Một tác động quan trọng hơn của các và doanh nghiệp sống thực vật tăng lên khi doanh nghiệp sống thực vật, đĩ là việc làm mật độ tập trung các doanh nghiệp sống thực giảm năng suất trung bình của nền kinh tế. vật trong ngành tăng. Đvt: % Đồ thị 7: Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của Nhật Bản theo ngành (1995 = 100) Nguồn: EU KLEMS, 2003 Qua đồ thị, ta cĩ thể thấy rằng tốc độ tăng biệt trong giai đoạn phục hồi trở nên rõ ràng trưởng năng suất trong các ngành phi sản xuất khi quá trình hủy diệt sáng tạo cần thiết bị cản thấp hơn so với ngành sản xuất. Trong giai trở bởi sự tồn tại của các doanh nghiệp sống đoạn 1991 - 2000, năng suất tăng chậm trong thực vật: năng suất gia tăng trong giai đoạn cả ngành phi sản xuất và sản xuất. Sự khác phục hồi những năm 1990 yếu hơn nhiều so 20 Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Số 79 (01/2016)
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP với những năm 1980. Bên cạnh đĩ, ta thấy cĩ được. Nếu khơng cĩ các doanh nghiệp sống sự thay đổi rõ rệt về khoảng cách năng suất thực vật, năng suất trung bình của nền kinh giữa ngành phi sản xuất và sản xuất. Từ khi tế cĩ thể đã tăng thêm 1,6% trong suốt những kết thúc cuộc khủng hoảng năm 1982 đến khi năm 1990, chủ yếu là nhờ tái phân bổ nguồn bắt đầu cuộc khủng hoảng mới năm 1991, sự nhân lực hiệu quả hơn. khác biệt về năng suất giữa ngành phi sản xuất Tĩm lại, sự tồn tại của các doanh nghiệp và sản xuất chỉ là 1,5%/năm. Sự khác biệt sống thực vật cĩ thể tạo ra những tác động tích này trở nên lớn hơn trong những năm 1990, cực đến tăng trưởng của một nền kinh tế nĩi ngành sản xuất cĩ năng suất cao hơn ngành chung và của nền kinh tế Nhật Bản nĩi riêng. phi sản xuất trung bình 3,8%/năm trong suốt Tuy nhiên, những tác động tiêu cực mà các thời kỳ 1993 - 1997 và 1999 - 2000, trùng với doanh nghiệp này tạo ra sẽ lớn hơn nhiều lần. thời gian mật độ tập trung các doanh nghiệp Do đĩ, việc xử lý các doanh nghiệp sống thực sống thực vật trong nền kinh tế cao. Ngành vật trong nền kinh tế là một cơng việc mang phi sản xuất cĩ mật độ tập trung các doanh tính cấp bách và thời sự. Những kinh nghiệm nghiệp sống thực vật cao hơn ngành sản xuất, xử lý “doanh nghiệp sống thực vật” của Nhật và khoảng cách năng suất giữa hai ngành này Bản trong “Thập kỷ mất mát” này cĩ giá trị thì ngày càng gia tăng trong nửa đầu và nửa rất lớn với các quốc gia đang phải đối mặt với cuối những năm 1990. khủng hoảng kinh tế như nền kinh tế Việt Nam Các doanh nghiệp sống thực vật cịn làm giai đoạn trong và sau khủng hoảng kinh tế giảm mức độ hiệu quả của việc tái phân bổ tồn cầu 2008 - 2009. Khơng những thế, nếu nguồn lực, làm lãng phí nguồn lực. Phân bổ như tại Nhật, việc cứu trợ các doanh nghiệp nguồn lực kém hiệu quả kéo theo giảm năng sống thực vật giúp hạn chế số lượng người lao suất trung bình của nền kinh tế. Thơng thường, động mất việc thì tại Việt Nam, một số lượng nguồn lực thường di chuyển từ phân khúc cĩ lớn người lao động vẫn mất việc làm khi tiến năng suất cận biên cao đến phân khúc cĩ năng hành tái cấu trúc các doanh nghiệp quốc doanh suất cận biên thấp. Tuy nhiên, nhĩm tác giả sống thực vật, hay nĩi cách khác, lợi ích mà Hyeog Ug Kwon, Futoshi Narita, và Machiko các doanh nghiệp sống thực vật mang lại tại Narita (2010) đã chỉ ra xu hướng tái phân bổ Việt Nam là khơng cĩ. Bên cạnh đĩ, các doanh ngược lại của nguồn lực những năm 1990. Kết nghiệp sống thực vật tại Việt Nam làm phân quả nghiên cứu cịn thể hiện rằng tái phân bổ bổ nguồn lực khơng hiệu quả, làm giảm nguồn nguồn lực cĩ tác động tiêu cực tới tốc độ tăng lực cung cấp cho các doanh nghiệp cĩ năng trưởng năng suất bình quân, chủ yếu là do sự suất cao hơn. Thời gian tồn tại của các doanh tái phân bổ nguồn nhân lực khơng hiệu quả nghiệp sống thực vật càng lâu, ảnh hưởng tiêu trong giai đoạn những năm 1990. Tái phân cực tới năng suất bình quân của nền kinh tế bổ nguồn nhân lực cuối những năm 1980 tạo càng lớn. Chính vì vậy, những kinh nghiệm ra tăng trưởng dương, nhưng vào những năm trong xử lý các doanh nghiệp sống thực vật 1990, mức tăng trưởng này là âm. Việc cho của Nhật Bản sẽ là những bài học quý giá cho các doanh nghiệp sống thực vật vay vốn làm Việt Nam trong việc kiểm sốt những tác động giảm hiệu quả của tái phân bổ nguồn nhân lực tiêu cực của các doanh nghiệp này đối với tăng 37% trên tổng mức hiệu ứng tiêu cực quan sát trưởng của nền kinh tế.q Số 79 (01/2016) Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 21
- KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP Tài liệu tham khảo 1. Alan G. Ahearne and Naoki Shinada, 2004, Macro/Financial Issues and International Economic Relations: Policy Options for Japan and the United States, In: Ann Arbor, Zombie Firms and Economic Stagnation in Japan, CGP Program Part (2) conference, Japan, 22 - 23/10/2004. 2. Association of Business Recovery Professionals R3, The “insolvency lag”: risks for 2010, 2010. London: Association of Business Recovery Professionals R3. 3. Felix Choo, 2009, Big Bang, Bailouts and Bank Failures - A Study of Japanese Government Intervention During the 1990’s Banking Crisis and Parallels with the 2007-09 US Subprime Mortgage Crisis, Lund University, Master’s Programme in Asian Studies. 4. Foster, L., J. Haltiwanger and C. J. Krizan (1998) “Aggregate Productivity Growth: Lessons from Microeconomic Evidence”, NBER Working Paper 6803. 5. Hoshi, Takeo & Kashyap, Anil K, 2010. Will the U.S. bank recapitalization succeed? Eight lessons from Japan, Journal of Financial Economics, Elsevier, No 97(3), page 398 - 417. 6. Hyeog Ug Kwon, Futoshi Narita, Machiko Narita, 2010, Resource Reallo cation and Zombie Lending in Japan’s 1990s, RIETI (Research Institute of Economy, Trade and Industry) research project “Productivity of Industry and Firm and Economic Growth of Japan”. 7. Jesse Colombo, 2012, Japan’s Bubble Economy of the 1980s, The Buble Buble, [online] ngày 4 tháng 6, truy cập tại: [Truy cập ngày 7/1/2015]. 8. Mitsuru Misawa, 2006, Case Note: The Long Term Credit Bank of Japan Litigation, Asian Law, No 8, page 104 - 119. Access at: 9. New Generation Research, Inc, 2014. 2014 Corporate Bankruptcy Annual Report. [online]. Access at: www.bankruptcydata.com 10. Project on Productivity in the European Union, A Comparative Industry Approach, EU KLEMS2003. Access at: ( 11. Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2004, Zombie Lending and Depressed Restructuring in Japan, draft. 12. Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008, Zombie Lending and Depressed Restructuring in Japan, American Economic Review, American Economic Association, No 98(5), page 1943-77. 13. Richard Disney, Wenchao Jin and Helen Miller, 2013, The productivity puzzles, The IFS Green Budget 2013, page 53 - 90. 14. Shin-ichi Fukuda, Jun-ichi Nakamura, 2010. Why Did “Zombie” Firms Recover in Japan? CIRJE Discussion Papers, CIRJE-F-751. 15. Takeo Hoshi, 2006, Economics of the living dead, The Japanese Economic Review, No 57, page 30 - 49. 16. Takeo Hoshi, Anil Kashyap, 2011. Why did Japan stop growing?, NIRA report. or.jp/pdf/1002english_report.pdf 17. The Institute for Fiscal Studies, 2013, The IFS Green Budget, London: The Institute for Fiscal Studies, page 53 - 89. 18. The United Kingdom Statistics Authority, Insolvency Statistics - October to December 2014 (Q4 2014), 2015. (Ins15/Coms/011). London: Insolvency Service and Companies House. 19. Tom Papworth, 2013, The Trading Dead - The zombie fims plaguing Britain’s economy, and what to do about them, The Adam Smith Institute. 22 Tạp chí KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Số 79 (01/2016)